Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

Vì sao Tuổi trẻ xóa những thông tin liên quan việc xử lý trên hai cửa khẩu Lào Cai và Móng Cái

--anhbasam:Để góp phần đánh giá rõ thêm thực chất đảng, nhà nước VN này muốn gì trước hành động xâm lấn trắng trợn của TQ, nhưng luôn lảm nhảm “có đảng, nhà nước lo” để quyết dập tắt bất cứ ý muốn thắc mắc của dân, muốn tự được lên tiếng chống lại lũ được gọi là “bạn vàng” kia, xin được tóm lược lại một số thông tin liên quan trong 9 ngày qua và nhận xét sơ bộ.

Một đoàn khách du lịch Trung Quốc sau khi làm thủ tục nhập cảnh vào VN tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai chiều 23-11 - Ảnh: Hồng Thảo
Trước hết là phản ứng hoàn toàn bị động có chủ đích rất đáng ngờ của người phát ngôn BNG, khi chỉ trả lời câu hỏi của nhà báo chứ không ra tuyên bố (22/11), khi bức công hàm “phản đối” được “bí mật” trao, tự bao giờ, ở đâu không ai biết.
Rồi màn nhí nhá vài thông tin qua báo Tuổi trẻ (24/11) về xử lý 111 trường hợp “hộ chiếu lưỡi bò” nhập cảnh cửa khẩu Lào Cai, không rõ trong khoảng thời gian nào. Thế nhưng, một điều đáng ngờ thêm là tới sáng nay, tìm lại bài viết này, giật mình thấy Tuổi trẻ đã lặng lẽ xóa đi tất cả những thông tin hiếm hoi liên quan việc xử lý đó trên hai cửa khẩu Lào Cai và Móng Cái, trong tiểu mục “Đóng dấu ‘hủy’ vào hộ chiếu có đường lưỡi bò, mà tất cả các báo khác sau đó đã phải lấy lại từ đây, dẫn đến rất nhiều bình luận khen, chê, thắc mắc về cách ứng xử của chính quyền VN. Những thông tin này còn bị xóa đi cả trên phiên bản dùng cho điện thoại di động. Thật may, bằng chứng vẫn còn nhiều trên mạng, trên cả trang web của một trường trung học.

Đóng dấu “hủy” vào hộ chiếu có đường lưỡi bò
Trong số gần 200 khách du lịch Trung Quốc làm thủ tục nhập cảnh vào VN ngày 23-11 tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai, cơ quan chức năng phía VN đã đóng dấu hủy bốn hộ chiếu có in chìm hình đường lưỡi bò, đồng thời bộ đội biên phòng làm nhiệm vụ tại cửa khẩu này đã đóng dấu thị thực vào giấy thông hành rời cho người nhập cảnh.

Trung tá Trần Việt Huynh - đồn trưởng đồn biên phòng cửa khẩu Lào Cai - cho biết đến nay lực lượng chức năng tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai đã đóng dấu hủy vào 111 hộ chiếu của công dân Trung Quốc có in hình đường lưỡi bò khi nhập cảnh vào VN.
Trong khi đó, theo đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Móng Cái, Quảng Ninh (đồn biên phòng số 7), sau khi phát hiện hình bản đồ đường chín đoạn (hay còn gọi là đường lưỡi bò) được in lên một số trang trong hộ chiếu phổ thông điện tử của người Trung Quốc, đồn biên phòng áp dụng biện pháp chỉ cấp thị thực rời cho người Trung Quốc.
“Biên phòng Móng Cái đã áp dụng biện pháp chỉ cấp thị thực rời cho người Trung Quốc nhập cảnh vào VN sử dụng cuốn hộ chiếu phổ thông điện tử có in bản đồ đường lưỡi bò ở một số trang. Khi cấp thị thực rời, các cơ quan chức năng sẽ không phải đóng dấu chứng thực vào hộ chiếu và qua đó khẳng định không công nhận bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc dưới bất cứ hình thức nào”, đại diện đồn biên phòng số 7 khẳng định.
Theo đồn biên phòng số 7, ban đầu người Trung Quốc chưa có phản ứng gì về biện pháp mới này từ phía VN. Tuy nhiên, “về lâu dài người Trung Quốc sẽ thấy bất tiện khi nhập cảnh bằng thị thực rời và họ sẽ phản ứng với loại hộ chiếu này để các cơ quan chức năng phía Trung Quốc thay đổi”, đại diện đồn biên phòng số 7 nói.
THÂN HOÀNG - HỒNG THẢO
Giữa không khí hừng hực căm hờn của dân chúng VN, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã bằng thái độ ráo hoảnh của trò “diễn biến hòa bình” với kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, đổ thêm dầu vào lửa khi bắn tiếng thề nguyền trung thành với nguyên tắc “16 chữ vàng”, “4 tốt” trước đám sĩ quan lau nhau của một trường quân sự TQ sang thăm.
Ngay hôm sau, chỉ sau có nửa ngày, như thể một trò lừa đảo kẻ tung người hứng, báo chí TQ đã công bố “quy định mới cho phép cảnh sát biên phòng quyền ‘lên tàu, tịch thu giữ và trục xuất các tàu ngoại quốc xâm phạm trái phép vùng biển’” mà trong đó bao gồm cả lãnh hải của VN. Người phát ngôn BNGVN chắc sẽ … “bỏ qua”.
Hé lộ của báo An ninh Thủ đô về thực tế hoàn toàn bị động của cả Bộ Ngoại giao lẫn Công an, phải để cho lực lượng Bộ đội biên phòng ở một hai cửa khẩu thúc vào lưng như lũ lừa mà vẫn như đờ đẫn, đã càng chứng tỏ một chiến lược … “quy hàng”.
Cuối cùng, không thể im lặng mãi trước một vấn đề có tính tồn vong của đất nước, trong khi bao nhiêu chuyện cỏn con mà phải đích thân Thủ tướng ra mệnh lệnh, chiều hôm kia, ông Chủ nhiệm VPCP đã phải lên tiếng, hoàn toàn miễn cưỡng và rất có dấu hiệu giàn dựng, dưới dạng “trả lời câu hỏi” của một tờ báo mạng không phải thuộc chính phủ. Tệ hại hơn nữa, thông tin ỡm ờ rằng “chính phủ đã chỉ đạo” mà không cho biết ông móc từ đâu ra cái “chỉ đạo” này, văn bản nào, từ cuộc họp nào v.v..  rồi biện pháp xử lý thì rất yếu ớt, càng lộ hơn dấu hiệu về những chiêu thức lòe bịp dư luận. Bởi vì, nếu không dứt khoát xử lý, được chứng tỏ ở cấp nhà nước, để làm sao có thể lưu lại được những dấu tích thể hiện hành động bác bỏ của VN trên các tấm “hộ chiếu lưỡi bò”, ví như lập biên bản tạm giữ, đóng dấu không công nhận lên đó, … thì không thể tránh được khả năng vẫn sẽ có nhiều tấm hộ chiếu bị “lọt lưới”, tức là được đóng dấu visa, dấu nhập xuất cảnh của VN lên, tạo lợi thế bằng chứng pháp lý giúp TQ sau này.
Không mạnh mẽ tranh đấu trong hội nghị các nước ASEAN, trái ngược hẳn với Philippines cùng cảnh ngộ. Không một biểu hiện mang tính trả đũa ngoại giao trước những hành động xâm lấn ngày càng trắng trợn, mà mới chiều qua là thông tin cắt cáp tàu Bình Minh lần nữa, thậm chí còn vui vẻ, mà lặng lẽ, cử đoàn sang tham gia “liên hoan văn hóa nghệ thuật” nữa.
Rõ ràng dường như người ta đang cố tình chứng tỏ với các “bạn vàng” TQ là đảng, chính phủ VN, dù xảy ra bất cứ hành động xâm lấn, xâm lược nào từ phương Bắc, thì ở đây vẫn bày tỏ lòng trung thành nhất mực (theo một cam kết bí mật nào đó?), qua việc không có một động thái phản ứng nào để có thể được sử dụng trong tương lai tại một Tòa án Quốc tế nhằm chống lại tuyên bố chủ quyền phi lý của TQ trên Biển Đông. Ngày qua ngày, “nội công ngoại kích”, phía TQ liên tục, trắng trợn, có bài bản xâm lấn Biển Đông, còn phía (chính quyền) VN thì cũng rất tinh vi, kiên nhẫn tích cóp cho “bạn vàng” tất cả những bằng chứng về việc VN đã công nhận ở cấp nhà nước những cuộc xâm lấn đó; những động thái gọi là “phản đối” một cách yếu ớt sẽ không đủ yếu tố pháp lý để chống lại TQ trong một tòa án quốc tế vốn dĩ đã rất thiếu tính cưỡng hành rồi.
- Hãy xem Du khách Trung Quốc sử dụng hộ chiếu qua cửa khẩu Móng Cái tăng mạnh để đặt thêm dấu hỏi (LĐ). Trong 10 tháng đầu năm có “92.000 khách – tăng khoảng 46% so với cùng kỳ năm ngoái”, giữa tình trạng tranh giành khách lộn xộn thì không biết có bao nhiêu tấm “hộ chiếu lưỡi bò” bị lọt lưới?
- Thế nhưng, cũng có những thái độ hồ hởi như trong bài này: Biển Đông và báo chí: một bước leo thang (RFA). Khốn nỗi, cái “phát hiện” đó lại bao gồm cả những thông tin mà Tuổi trẻ đã phải lặng lẽ cắt bỏ như nói ở trên: “Sau phản ứng chính thức từ Hà Nội, đến ngày 24/11 hầu hết các báo điện tử đều đưa tin Cửa khẩu Lào Cai không đóng dấu thị thực nhập cảnh hơn 100 hộ chiếu có in hình lưỡi bò của du khách Trung Quốc.” Và, khác với BBC hôm qua, với nhận xét nghi ngại:“… VNExpress không nói Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo bằng văn bản hay qua các cuộc họp và những chỉ đạo này được đưa ra từ khi nào”, đài RFA này còn không nhận ra vấn đề khác thường từ trả lời của ông Chủ nhiệm VPCP.


Khai thác cảng Cam Ranh theo hướng kết hợp kinh tế với quốc phòng
Sài gòn Giải Phóng
Thực hiện chương trình công tác năm 2012, sáng 30-11, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa, cho ý kiến về Đề án phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020. Phát biểu kết luận buổi làm việc, Tổng Bí ...
Khánh Hòa phấn đấu đến năm 2020 là thành phố trực thuộc TWĐài Tiếng Nói Việt Nam
Bộ Chính trị làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh HòaNhân Dân


LÀM THẾ NÀO ĐỂ MỸ DUY TRÌ LẬP TRƯỜNG TRUNG LẬP TRONG VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG


BA SÀM

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Năm, ngày 29/11/2012

LÀM TH NÀO Đ MỸ DUY TRÌ LẬP TRƯỜNG TRUNG LẬP TRONG VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

(Tạp chí Quan hệ Quốc tế Hiện đại – s 8/2012 – Trung Quốc)
Điều then chốt của vấn đề Biển Đông hiện nay là “một đối phó với hai”, tức là Trung Quốc đồng thời phải đối mặt với mâu thuẫn chủ quyền với các nước như Việt Nam, Philíppin… và mâu thuẫn về quyền lợi biển với Mỹ. Hai mâu thuẫn này tuy tính chất không giống nhau nhưng thường đan quyện vào nhau, không tách rời ra được, tạo nên sự bị động chiến lược của Trung Quốc.
Muốn giải quyết tình hình khó khăn này, cần phải phân rõ mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu, tách rời hai mâu thuẫn này ra. Do tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philíppin đã “nóng lên”, liên quan đến lợi ích cốt lõi và tinh thần dân tộc của các nước, khiến không gian thỏa hiệp của hai bên bị thu hẹp lại, do đó mâu thuẫn này trước mắt được coi là mâu thuẫn chủ yếu cần phải tập trung tài nguyên chiến lược và trí tuệ chiến lược để đối phó, trong một thời gian nhất định khó giải quyết triệt để, cần phải kiên trì bên bỉ. Trong khi đó, việc tranh chấp quyền lợi biển giữa Trung Quốc và Mỹ cho dù có thể ảnh hưởng một cách toàn diện đến môi trường xung quanh và an ninh quốc gia của Trung Quốc, nhưng hai bên vẫn có không gian thỏa hiệp, vì thế trong giai đoạn hiện nay mâu thuẫn này được coi là mâu thuẫn thứ yếu (đương nhiên, mâu thuẫn chủ yếu hay mâu thuẫn thứ yếu đều có thể thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của điều kiện không gian và thời gian). Từ ý nghĩa này mà nói, việc hiện nay cần phải đột phá tình hình khó khăn về an ninh trong vấn đề Biển Đông, khiến Mỹ duy trì lập trường trung lập đã trở thành nhu cầu tất yếu chiến lược, và điều này không còn là ảo tưởng chiến lược theo mong muốn chủ quan.
 Trước tiên, Mỹ không có đòi hỏi về chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, giữa Trung Quốc và Mỹ không tồn tại mâu thuẫn chủ quyền, đây là tiền đề quan trọng có thể khiến Mỹ duy trì lập trường trung lập. Đương nhiên, cho dù Mỹ không có nhu cầu đòi hỏi chủ quyền, nhưng lại có chủ trương về quyền lợi biển, và hy vọng duy trì địa vị chủ đạo trên biển thậm chí toàn bộ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, để đạt được mục tiêu này Mỹ sẽ ra sức lợi dụng các mâu thuẫn để kiềm chế Trung Quốc, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự trỗi dậy của Trung Quốc và việc mở rộng lợi ích trên biển do sự trỗi dậy đưa tới. Nhưng nhà cầm quyền Mỹ đã nhiều lần nhấn mạnh, Mỹ hoan nghênh sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc với tư cách là nước lớn châu Á-Thái Bình Dương thậm chí nước lớn thế giới; lãnh đạo Trung Quốc cũng nhiều lần bày tỏ, Trung Quốc hy vọng Mỹ phát huy vai trò mang tính xây dựng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nói cách khác, lãnh đạo hai nước đã mở ra không gian rất lớn trong việc chung sống hoà bình giữa hai nước Trung-Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, “Thái Bình Dương đủ rộng, hoàn toàn có tiếp nhận cả hai nước Trung Quốc và Mỹ”. Việc thông qua các cơ chế như đối thoại cấp cao, tham vấn về công việc của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và sự hợp tác có hiệu quả trong một số vấn đề cụ thể, tìm ra con đường chung sống tốt đẹp giữa hai nước tại khu vực châu Á-Thái Binh Dương chính là đáp án mà hai bên Trung-Mỹ cần cố gắng tìm kiếm.
Thứ hai, chủ trương chính sách của Mỹ về vấn đề biển Đông tuy có mặt mâu thuẫn xung đột với Trung Quốc, nhưng cũng không thiếu không gian thỏa hiệp thậm chí là hợp tác. Nhìn vào một loạt những phát biểu gần đây của các quan chức cấp cao chính phủ Mỹ như cố vấn An ninh Quốc gia Thomas Donilon, Ngoại trưởng Hillary Clinton, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta… và của phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mỹ cho thấy chủ trương chính sách của Mỹ về vấn đề Biển Đông có thể khái quát thành những điểm dưới đây: không có đòi hỏi về chủ quyền; trong vấn đề tranh chấp chủ quyền không giữ lập trường cũng không đứng về bên nào; ủng hộ việc đàm phán đa phương để giải quyết tranh chấp; phản đối việc lựa chọn biện pháp quân sự hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp; thúc giục các bên tôn trọng luật pháp quốc tế bao gồm “Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển”; tự do hàng hải; lợi ích thương mại không bị ảnh hưởng; đưa ra sự bảo hộ an ninh cần thiết cho các nước đồng minh; duy trì trật tự an ninh và thương mại trên biển ở khuvực châu Á-Thái Bình Dương v.v…
Chủ trương chính sách nêu trên của Mỹ tồn tại xung đột hiện thực hoặc tiềm tàng với Trung Quốc írên ba mặt sau:
-                     Về vấn đề “tự do hàng hải”, Mỹ nhấn mạnh, dựa vào những quy định có liên quan của luật pháp quốc tế và cách làm nhất quán của Mỹ tại các khu vực biển khác trên thế giới, Mỹ có thể triển khai các hoạt động bao gồm việc trinh sát quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc giống như tại vùng biển quốc tế, theo đuổi cái gọi là “tự do tuyệt đối”. Trung Quốc tuy cũng ủng hộ “tự do hàng hải”, nhưng phản đối Mỹ triển khai các hoạt động quân sự như “tiếp cận do thám” mang tính thù địch rõ rệt.
Về vấn đề “phương thức giải quyết”, Mỹ chủ trương Trung Quốc cùng với các nước đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông vận dụng phương thức đối thoại đa phương để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền, và thúc giục Trung Quốc ký kết “Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông”, Trung Quốc thì lại nhấn mạnh giải quyết song phương, không chỉ bởi kinh nghiệm thành công trước đây mà còn bởi tranh chấp với các nước liên quan không hoàn toàn giống nhau, vì vậy giải quyết song phương phù hợp với thực tế hơn.
-                     Về vấn đề “can thiệp quân sự”, “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ- Philíppin” ký kết năm 1951 đã cung cấp cơ sở pháp lý cho việc Mỹ can thiệp quân sự vào việc tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Philíppin; một khi Trung Quốc và Philíppin xảy ra xung đột quân sự, Mỹ có can thiệp hay không, can thiệp khi nào, can thiệp như thế nào… đã trở thành vấn đề cần phải đối phó giữa Trung Quốc và Mỹ.
Trong ba mâu thuẫn lớn này, phương thức “giải quyết đa phương” vốn chỉ là một sáng kiến trong chính sách của Mỹ, nhưng gần đây thái độ của Mỹ tỏ ra cứng rắn, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mv Nuland tuyên bố “Những nỗ lực tìm cách chia để trị, cuối cùng đã đưa tới cục diện tranh giành giữa các bên đòi hỏi chủ quyền, sẽ không mang lại kết quả mà chúng tôi mong muốn”, công khai phê phán chủ trương “giải quyết song phương” .của Trung Quốc, điều này làm tăng thêm trở ngại và biến số trong việc thông qua đàm phán để giải quyết tranh chấp. Nhưng về tổng thể mà nói, sáng kiến “giải quyết đa phương” của Mỹ không mang ý nghĩa thực chất, cũng không có tính ép buộc, có thể thông qua các kênh ngoại giao để hóa giải, điều cần xem xét nhiều hơn là thiện chí đàm phán giữa Trung Quốc và các nước liên quan. Trong ba mâu thuẫn lớn nêu trên, vấn đề can thiệp quân sự của Mỹ là nguy hiểm nhất. Quan hệ đồng minh Mỹ-Philíppin và sức ép chính trị trong nước Mỹ khiến cho việc can thiệp quân sự của Mỹ vào tranh chấp chủ quyền như đối với bãi đá ngầm Scarborough có thể sẽ xảy ra, nhưng nhìn vào thái độ hiện nay của Mỹ, thì việc cố gắng tránh bị lôi cuốn vào tranh chấp quân sự vẫn là sự lựa chọn hàng đầu trong chính sách của Mỹ. Cho dù nhìn về lâu dài, việc trực tiếp đối kháng quân sự trên biển với Trung Quốc cũng không phù hợp với lợi ích chiến lược của Mỹ. Do đó, tuy đây là vấn đề nghiêm trọng, nhưng điều cần xem xét nhiều hơn là ở khả năng dự phòng và quản lý khủng hoảng của Trung-Mỹ, cũng như việc nâng cao thực lực quân sự của Trung Quốc.
Mâu thuẫn chủ chốt chính là vấn đề “tự do hàng hải”. Những năm gần đây, va chạm hoặc xung đột trong vấn đề Biển Đông giữa Mỹ và Trung Quốc như “sự kiện máy bay va nhau” (năm 2001), “sự kiện tàu USNS Impeccable” (năm 2009).,. đều liên quan đến vấn đề này. Sự thực, giữa Trung Quốc và Mỹ trong vấn đề này cũng không hoàn toàn đối lập nhau. Quân đội Trung Quốc coi hoại động “tiếp cận do thám” của Mỹ ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc là một trong ba trở ngại lớn của việc giao lưu quân sự song phương. Mỹ thì lại cho rằng đây là quyền lợi mà luật pháp quốc tế thừa nhận. Trên thực tế, Trung Quốc không phản đối “tự do hàng hải”, thậm chí đối với một số hoạt động mạng tính chất quân sự không phải lúc nào cũng phản đối, điều mà Trung Quốc phản đối là việc do thám quân sự với tần suất cao và ở nhiều cấp độ của Mỹ và thái độ thù địch trong chiến lược đối với Trung Quốc được thể hiện đằng sau những sự việc này. Phía Mỹ đã đưa ra sự biện hộ rằng Mỹ hoan nghênh tàu chiến Trung Quốc đến vùng đặc quyền kinh tế Mỹ, và nói rằng sớm muộn cũng có ngày tàu chiến Trung Quốc sẽ đi ra thế giới, sẽ đối mặt với vấn đề giống như vấn đề của Mỹ tại vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, do đó hy vọng Trung Quốc nhìn xa trông rộng, linh hoạt thiết thực, “dành cho mình một con đường sau này”. Những quan điểm này xem ra rất có lý, nhưng có một sự thực dễ thấy là, nó coi thường quyết tâm của Trung Quốc kiên trì đi theo con đường phát triển hòa bình và truyền thống cơ bản của ngoại giao Trung Quốc. Dù cho hải quân Trung Quốc sau này sẽ đi ra bên ngoài, nhưng cũng không đến vùng đặc quyền kinh tế của nước khác tiến hành do thám quân sự một cách liên tục và có ý đồ như vậy. Do đó, phương hướng tiếp theo mà hai nước Trung-Mỹ cần cùng nhau cố gắng đó là dưới tiền đề lớn ủng hộ nguyên tắc “tự do hàng hải”, triển khai trao đổi và thảo luận một cách chân thành về nội hàm cụ thể và cách lý giải của mồi bên về “tự do hàng hải” và có thể bàn về những phương thức mang tính xây dựng như tập trận chung… để tạo ra sự giao lưu trao đổi một cách lành mạnh.
Cuối cùng, lãnh đạo hai nước Trung-Mỹ nhất trí đồng ý cùng xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới. Mối quan hệ kiểu mới giữa quân đội hai nước và mối quan hệ kiểu mới ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là nằm trong mối quan hệ nước lớn kiểu mới này. Trước mắt, chiến lược quay trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương mà Mỹ đang theo đuổi phù hợp với sự “tái cân bằng” chiến lược ở các cấp độ khác nhau trong mục tiêu chung của cục diện châu Á-Thái Bình Dương do Mỹ chủ đạo, và tập trung vào việc tái bố cục” chiến lược châu Á-Thái Bình Dương kéo dài từ Tây Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương. Trung Quốc là trọng điểm quan tâm của Mỹ, nhưng không phải toàn bộ, điều này có sự khác biệt tương đối lớn so với việc kiềm chế Liên Xô và đối kháng Mỹ-Xô theo kiểu Chiến tranh Lạnh. Cũng như vậy, chiến lược châu Á-Thái Bình Dương mà Trung Quốc theo đuổi cũng không phải là bài xích “Chủ nghĩa Monroe kiểu châu Á” của thế lực Mỹ, mà là theo đuổi một thể cộng đồng châu Á-Thái Bình Dương chung sống hoà bình giữa các nước bao gồm cả Mỹ. Trung Quốc và Mỹ cần phải tăng cường tư duy mới cùng nhau xây dựng và cùng nhau phát triển, lấy việc giao lưu trao đổi lành mạnh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương làm điều kiện để xây dựng mối quan hệ nước lớn kiểu mới Trung-Mỹ. Từ ý nghĩa này mà nói, việc Mỹ liệu có thể duy trì lập trường trung lập chiến lược trong vấn đề Biển Đông hay không chính là hòn đá thử vàng để thử nghiệm việc Mỹ có muốn cùng Trung Quốc và các nước khác xây dựng trật tự mới ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương hay không./.

VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG: TRANH CHẤP, NGUY CƠ VÀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO



BA SÀM

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ năm, ngày 29/11/2012

VN ĐỀ BIỂN ĐÔNG: TRANH CHẤP, NGUY  VÀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO

TTXVN (Luân Đôn 27/11)
Cui tháng10 vừa qua, Chatham House (Viện Nghiên cứu Hoàng gia về các vn đ quc tế) đã t chức buổi trao đổi với chủ đề: Biển Nam Trung Hoa (Bin Đông): Tranh chấp, nguy cơ và chính sách ngoại giao.
Tại bui trao đi này, Lord Michael Williams, Quyền chủ nhiệm Chương trình Châu Á của Chatham House và ông Christian Le Miere, chuyên gia nghiên cứu về an ninh hàng hải và các lực lượng hải quân của Viện Nghiên cứu Chiếnlược Quốc tế (IISS) đã có những phân tích đánh giá về những nội dung trên. Dưới đây là bài phát biu của hai chuyên gia ở hai viện nghiên cứu có uy tín đặt trụ sở tại Luân Đôn:
Phần trình bày của ông Lord Williams, quyền chủ nhiệm Chương trình châu Á của Chatham House:
 Về chủ đề này, tôi tập trung vào một số ý như sau: có nhiều tranh chấp và chủ yếu là tranh chấp giữa những nước có tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa và một số ít ở Hoàng Sa, những tranh chấp này liên quan đến Trung Quốc, Đài Loan và 4 nước trong khối ASEAN là Việt Nam, Brunây, Philíppin và Malaixia. Tôi tin rằng có nhiều mối nguy hiểm và những nguy cơ này ngày càng gia tăng, Đây là nơi đã diễn ra nhiều cuộc đụng độ trong quá khứ, chủ yếu là giữa Việt Nam và Trung Quốc, gần đây có thêm sự xung đột giữa Philíppin và Trung Quốc. Đây cũng là nơi mà hai cường quốc chính là Mỹ và Trung Quốc đang tăng cường sự hiện diện. Trung Quốc có những lý do rõ ràng, còn Mỹ, dù nước này chưa bao giờ quay lưng lại với châu Á-Thái Bình Dương nhưng nay đang thể hiện quyết tâm trở lại châu Á mạnh mẽ hơn. Cuối cùng là các giai pháp ngoại giao, đây là điểm mấu chốt của vấn đề bởi theo tôi hình như chưa có nhiều giải pháp ngoại giao.
Nói về các tranh chấp, phải nói đây là những tranh chấp đã có từ lâu đời. Chúng là những nguyên nhân gây xích mích giữa Trung Quốc và 4 nước ASEAN, những nước cùng tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa, đặc biệt là xích mích giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Trong những ngày tháng cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc đã nhân cơ hội này chiếm quần đảo Hoàng Sa từ chính quyền miền Nam năm 1974. Sau đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam lại xảy ra một cuộc chiến lớn vào năm 1979 nhưng không có sự can dự của hải quân trong cuộc chiến này. Gần một thập kỷ sau đó, lại có một cuộc đụng độ gay gắt nổ ra giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra vào năm 1988, kết quả là phía Việt Nam có 70 người thiệt mạng.
Nhưng tại sao những vấn đề này lại trở nên nóng bỏng và quyết liệt trong thời gian gần đây? Tôi nghĩ có một số nguyên nhân. Nguyên nhân đầu tiên là kinh tế, Tất cả các bên tuyên bố chủ quyền đều tin rằng khu vực Biển Đông này có nhiều trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và tất cả họ đều muốn tiến hành khai thác các nguồn tài nguyên này. Một nguyên nhân kinh tế nừa là vùng ven biển ở nhiều nước đã bị việc đánh bắt hải sản làm cho kiệt quệ và các tàu cá phải ra khơi xa hơn. Đặc biệt Trung Quốc là nước đang phải đương đầu với vấn đề này, nước này có dân số quá lớn, khó đáp ứng đủ nhu cầu cung cấp lương thực và thực phẩm.
Những tranh chấp trên lại càng quyết liệt do căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt khi Mỹ tuyên bố chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á-Thái Bình Dương.
Ngay cả trước khi Mỹ chuyển hướng sang châu Á-Thái Bình Dương, quan hệ của hai nước này cũng đã căng thẳng trong những năm gần đây về nhiều vấn đề như kinh tế, sứ quán Trung Quốc ở Bêôgrát bị ném bom năm 1998, và vụ máy bay do thám Mỹ va chạm với máy bay chiến đấu Trung Quốc năm 2001. Mối quan hệ Mỹ-Trung là mối quan hệ phức tạp và ngày càng khó khăn hơn trong tương lai.
Một sự việc gây ấn tượng mạnh là thất bại của hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN diễn ra tại Phnôm Pênh, Campuchia vào tháng 7/2012. Sau khi hội nghị kết thúc, một điều bất thường xảy ra trong lịch sử 45 năm của ASEAN là không đưa ra được thông cáo chung hoặc bất cứ sự đồng thuận nào. Không có được thông cáo chung là do họ không có được sự nhấí trí về vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, mặc dù hầu hết các thành viên, bao gồm cả những nước không có tuyên bố chủ quyền như Inđônêxia cũng đồng cảm với các nước có tuyên bố chủ quyền. Việc không đạt được sự đồng thuận này là kết quả của sự can thiệp trực tiếp của Trung Quốc thông qua một nước ASEAN – Campuchia – hiện trong thời điểm này là nước thân cận nhất với Trung Quốc can dự vào. Điều đó đã làm mất đi sự đồng thuận và làm cho khối này khó có được một vị thế chung. Sự gây hấn của Trung Quốc thông qua Campuchia, tại hội nghị ở Phnôm Pênh hoàn toàn là một bước phát triển rất đáng chú ý và điều này đã được nói đến nhiều trong khu vực.
Tất cả các nước ASEAN đều có người Hoa sinh sống và có một nhân tố trong những tranh chấp là thái độ chống người Trung Quốc thể hiện ở nhiều cuộc biểu tình tại các thủ đô của các nước Đông Nam Á.
Lấy Inđônêxia làm ví dụ. Là nước lớn nhất trong ASEAN và không có bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào với Trung Quốc nhưng Inđônêxia vẫn e ngại khi nhìn thấy sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông và khi điểm cực nam trong tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc đã đến rất gần vùng lãnh hải của Inđônêxia. Trong lịch sử Inđônêxia cũng là nước gặp nhiều vấn đề về quan hệ với Trung Quốc. Hai nước này đã không có quan hệ ngoại giao trong 1/4 thế kỷ, từ năm 1965 đến 1990 và gần đây vào năm 1998, nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã diễn ra ở Inđônêxia…
Một trong những điều đáng lo ngại là sự Hiện đại hóa vũ khí đặc biệt là tàu ngầm của nhiều nước ASEAN. Có sự tranh đua giữa các nước ASEAN trong việc mua tàu ngầm của Hàn Quốc, Pháp, Đức và Thụy Điển.
Tôi thấy không có nhiều giải pháp ngoại giao. Điều này sẽ còn gặp nhiều trở ngại hơn nữa trong ASEAN trong việc tạo ra một vị thế chung, tiếp theo sau hội nghị ở Phnôm Pênh.
Inđônêxia được cho là có đóng một vai trò điều phối trong vấn đề này nhưng vị thế của họ chưa đạt được như vậy và họ đồng cảm với các thành viên của ASEAN. Nhóm Khủng hoảng Quốc tế trong một báo cáo gần đây về khu vực có gợi ý về một mô hình nhóm các bộ trưởng của ASEAN nhưng tôi thấy mô hình này cũng không khả quan. Còn Michael Wesley, trước đây là chuyên gia của Viện Lowy ở Xítni, cho rằng Ôxtrâylia có thể đóng vai trò làm cầu nối đưa ra một giải pháp cho tình hình sẽ ngày càng căng thẳng hơn này. Tuy nhiên, vì Ôxtrâylia là đồng minh thân cận với Mỹ nên chắc chắc Trung Quốc sẽ không coi Ôxtrâylia là một trung gian trung lập.
Ngoài ra, không có nhiều khả năng khác. Có một hướng mà tôi đưa ra được gọi trong Hiến chương của Liên hợp quốc là “những thẩm quyền” của tổng thư ký. Ví. dụ như trước đây, dưới thời Tống thư ký Perez de Cúella, Liên hợp quốc đã đóng vai trò hỗ trợ Liên bang Xôviết rút quân khỏi Ápganixtan trong năm 1989. Tôi cho ràng các nước ASEAN sẽ đồng ý với giải pháp có vai trò của Liên hợp quốc, nhưng đối với Trung Quốc sẽ khó thuyết phục về phương án này. Thời gian trôi đi, tôi tin rằng Trung Quốc sẽ thấy không dễ chịu nểu quan hệ có vấn đề với các nước ASEAN, các nước châu Á láng giềng và hy vọng lúc đó có thể tìm đến các giải pháp ngoại giao.
Phân tích đánh giá của ông Christian Le Miere, chuyên gia nghiên cứu về an ninh hàng hải và các lực lượng hải quân của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS):
Trong khi ông Lord Williams tập trung vào giải pháp ngoại giao và tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo thì tôi lại phân tích nhiều hơn về việc mua sắm thiết bị quân sự, động thái của các lực lượng bán quân sự và điều đó có ý nghĩa gì đối với giải pháp ngoại giao cũng như là tình hình ở Biển Đông.
Trước hết phải nói là có một quá trình mua sắm vũ khí quân sự chưa từng thấy đang diễn ra ở Đông Á nói chung, và ở một phạm vi nào đó ở Đông Nam Á. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, việc mua sắm vũ khí đã được thực hiện nhiều ở Đông Nam Á, sau đó bị thu hẹp lại do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Lúc đó đã có nhiều thảo luận đề cập đến một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Đông Nam Á và có những phản ứng trái chiều về vấn đề này. Và hiện nay, lại đang diễn ra thảo luận về một cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Á. Tôi cho rằng đó chủ yểu xuất phát từ động cơ hành động phản ứng mà chúng ta chứng kiến trong một số vụ mua sắm trang thiết bị quân sự trong khu vực. Ông Lord Williams đã đề cập đến việc mua tàu ngầm. Tàu ngầm là loại thiết bị rất hữu hiệu. Hiện Việt Nam đang mua một số tàu ngầm vì không thể cạnh tranh được với những đội tàu trên biển hiện đại hơn nhiều của Trung Quốc. Do vậy có bằng chứng cho thấy có những động cơ hành động phản ứng và do đó theo lý thuyết là có một cuộc chạy đua vũ trang.
Nhưng cũng có trường hợp mua tàu ngầm lại không nhất thiết vì lý do đó hoặc không phải do sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ví dụ như Malaixia, đã mua 2 tàu ngầm trong những năm gần đây, không hẳn vì Trung Quốc mà có lẽ là vì Xinhgapo, nước đối thủ trong khu vực trong nhiều thập kỷ qua. Mặc dù điều này không được công khai thừa nhận nhưng có thể đó là động cơ chính khiến Malaixia mua tàu ngầm.
Philíppin thì lại bắt đầu trang bị vũ khí cho mình qua việc xem xét những tàu do Mỹ tài trợ. Nhưng đây là một vấn đề vô cùng phức tạp và chồng chéo, do đó về bản chất khó mà coi đây là một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực.
Tuy nhiên, đã có nhiều vụ việc thường liên quan đến tàu bán quân sự hàng hải cho thấy có sự quyết đoán hơn của Trung Quốc và tình trạng căng thẳng hơn ở khu vực này nói chung. Thuật ngữ “sự quyết đoán” là một trong những tranh ỉuận mang tính học thuật lớn khi nói đến những hoạt động của Trung Quốc gần đây. Trung Quốc không cho rằng họ hiếu chiến, mà họ chỉ phản ứng lại trước những khiêu khích khác. Tôi có một chút đồng cảm với tuyên bố này. Những vụ xô xát của các lực lượng bán quân sự xảy ra trên biển liên quan đến việc cắt cáp thăm dò, hoặc các tàu tuần tra, ở Việt Nam trong năm 2011 một phần liên quan đến thực tế rằng Việt Nam và Philíppin sẽ có nhiều hoạt động thăm dò dầu khí trong thời gian tới, và bắt đầu thay đổi hiện trạng trong một phạm vi nào đó. Chưa rõ liệu Trung Quốc có quyết đoán hay không, nhưng một điều chắc chắn là nước này đã tự tin hơn trong việc sử dụng các lực lượng bán quân sự hàng hải và chính sách ngoại giao nói chung của mình.
Việc sử dụng lực lượng bán quân sự trên biển này còn gọi là “ngoại giao hàng hải cưỡng chế”, hay còn gọi là “ngoại giao bán pháo hạm”, nghĩa là dùng lực lượng cưỡng chế để bắt ép hoặc cản trở các đối thủ thông qua sử dụng các đội tàu không có vũ trang. Và đây chính là hình thức của lực lượng tiềm ẩn đang được sử dụng tại đây.
Việc sử dụng các lực lượng bán quân sự trên biển chứ không phải pháo hạm là rất hiệu quả, đặc biệt đối với Trung Quốc do ba nguyên nhân chính sau:
Trước hết, vì là tàu không trang bị vũ khí nên tất nhiên phi quân sự hóa tình hình và không cho phép bất cứ khả năng nào làm leo thang quân sự.
Thứ hai, đây là cách thức rất hữu hiệu để Trung Quốc củng cố tuyên bố về chủ quyền của mình. Chúng đóng vai trò như là một tuyên bố chủ quyền trên thực tế và của chính họ, mặc dù họ không có tài liệu liên quan đến chủ quyền chính thức đối với các khu vực này. Việc huy động các đội tàu bán quân sự trên biển giống như đưa một xe cảnh sát đến một ngôi làng ở vùng biên giới có tranh chấp bằng việc có chiếc xe cảnh sát hiện hữu ở đó, nó chứng tỏ rằng bạn phải có quyền lãnh thổ ở khu vực đó. Nó không có cơ sở pháp lý nhưng đó là sự hiện diện thực tế để duy trì chủ quyền.
Cuối cùng, đặc biệt là theo quan điểm của Trung Quốc, sử dụng các hình thức bán quân sự hàng hải sẽ tránh bị lên án là thái độ đạo đức giả. Các lực lượng bán quân sự trên biển không có vũ trang không gặp trở ngại về pháp lý trong việc huy động và rất dễ dàng đóng vai vì những mục đích hòa bình hơn là cho bất cứ lý do hiếu chiến nào.
Người ta cho rằng có lo ngại về việc sử dụng các lực lượng bán quân sự hàng hải và điều đó có nghĩa là họ có thể làm giảm các rào cản dẫn đến bạo lực hoặc sử dụng bạo lực. Họ dễ dàng mua sắm trang bị và duy trì. Đó là những chiếc tàu hoàn toàn rẻ tiền nếu so với những đội tàu rất đắt tiền hiện đang được sản xuất. Họ có khả năng lớn hơn trong việc có những hành động gây hấn…
Do đó tôi cho rằng có thể tiếp tục có sự đối đầu của các lực lượng bán quân sự hàng hải không có vũ trang. Những nguyên nhân khác nhau này làm cho các nước trong khu vực theo đuổi những hình thức ngoại giao cưỡng bức đặc biệt.
Nhưng cũng có thực tế rằng việc sử dụng các lực lượng bán quân sự cho thấy không có nước nào thực sự tìm kiếm một giải pháp dựa trên xung đột. Đúng là những hoạt động này thường được hỗ trợ bởi các mối đe dọa tiềm tàng của lực lượng quân sự. Lấy ví dụ ở Biển Hoa Đông, việc triển khai gần đây các tàu bán quân sự của Trung Quốc đã được hỗ trợ bởi một cuộc diễn tập quân sự, diễn tập bắn đạn thật, nơi họ đã bắn 40 tên lửa ở vùng Biển Hoa Đông như là một minh chứng và nhắc nhở về sự có mặt của lực lượng quân sự Trung Quốc và chúng có thể được sử dụng và huy động nếu cần thiết.
Tuy nhiên, xung đột dường như không thế xảy ra trong khu vực tại thời điểm này vì một loạt lý do khác nhau. Một trong những lý do đó là hậu quả tiềm tàng của xung đột, cả về con người và tài chính. Còn nguyên nhân khác thì tôi không chắc chắn liệu hoạt động quân sự sẽ diễn ra như thế nào ở Biển Đông hiện nay. Ông Lord Williams đã đề cập đến sự kiện năm 1974 và chiếm quần đảo Hoàng Sa; năm 1988 là năm đầu tiên Trung Quốc tiến vào quần đảo Trường Sa và đã xây dựng nhiều công sự ở đó, Nhưng bây giờ đối với Trung Quốc, việc tiến hành bất cứ hoạt động nào đối với các bên có tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa sẽ ngày càng phức tạp…
Cuối cùng là sự hiện diện của Mỹ và chiến lược chuyển hướng sang châu Á của nước này.
Tôi cho rằng việc sử dụng các lực lượng hàng hải bán quân sự là một tín hiệu ngầm của Trung Quốc và các nước khác rằng nhiều con đường ngoại giao vẫn còn để ngỏ và chúng ta không thể tránh khỏi hướng tới một số loại xung đột giữa những quốc gia khác nhau, ngay cả khi họ trạng bị cho mình chính sách bảo hiểm có vũ khí. Quan điểm này hơi trái ngược với những gì ông Lord Williams đã nói.
Nhưng vẫn còn nhiều lĩnh vực khác nhau mà tiến bộ về ngoại giao có thể đạt được thông qua việc làm rõ các tuyên bố hợp tác ở Biển Đông—những lĩnh vực này vẫn còn rất không rõ ràng, đặc biệt về đường đứt khúc chín đoạn của Trung Quốc, nhưng không có quốc gia nào không liên quan ở đây. Việt Nam không xác định những đảo nào thực sự thuộc quần đảo Trường Sa. Philíppin có nhóm đảo Kalayaan nhưng lại chưa rõ ràng liệu đó có phải là một tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế hay không. Việc làm rõ liệu những chi tiết là đảo hay bãi đá theo qui định của luật hàng hải sẽ rất hữu ích. Thảo luận về chủ quyền hàng hải một cách hợp tác hoặc thực hiện nguồn tài nguyên chung sẽ là một cách tốt để thực hiện điều này. Đã có nhiều thảo luận ở hậu trường về Bộ Quy tắc ứng xử sẽ là công cụ ràng buộc pháp lý và xây dựng dựa trên Tuyên bố về cách ứng xử các bên ở Biển Đông năm 2002. Vì vậy, việc hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử sẽ tiếp tục cho thấy các quốc gia đang tìm kiểm một hướng đi hòa bình, để nếu không giải quyết được, thì ít nhất cũng gác lại những tranh chấp này trong thời điểm hiện nay.
Đây là một quan điểm mà không nhất thiết phải phù hợp với những gì báo chí nói về Biển Đông, hoặc ở một chừng nào đó ở Biển Hoa Đông, vào thời điểm hiện nay, nhưng tôi cho rằng đó là điều sẽ hình thành nên khuôn khổ ngoại giao ít nhất là trong vài năm tới./.
-Về bài viết « Giá trị pháp lý của bản đồ » đăng trên báo Pháp Luật và Quĩ Nghiên cứu Biển Đông

Về bài viết « Giá trị pháp lý của bản đồ » đăng trên báo Pháp Luật và Quĩ Nghiên cứu Biển Đông
Trong bài này, tác giả Tiến Sĩ, Luật Sư Lê Minh Phiếu cho rằng : « Trong các tranh chấp lãnh thổ theo luật quốc tế, bản đồ thường đóng vai trò quan trọng và đôi lúc quyết định đến sự thắng - thua của các bên trong tranh chấp. »
Để chứng minh, Tiến Sĩ, Luật Sư Lê Minh Phiếu dẫn các vụ án của các tòa án quốc tế phân xử các vụ tranh chấp lãnh thổ và biên giới, gồm có : 1/ Tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, 2/ Vụ xét xử giữa Eritrea và Yemen, 3/ Tranh chấp đền Preah Vihear, 4/ Tranh chấp biên giới giữa Burkina Faso và Mali và 5/ Tranh chấp giữa Indonesia và Malaysia.
Sau khi tham khảo hồ sơ các vụ án này, tôi nhận thấy kết luận của Tiến Sĩ, Luật Sư Lê Minh Phiếu là hoàn toàn không phù hợp với nội dung của các vụ án. Trong năm vụ án dẫn ra, không có vụ án nào mà Tòa sử dụng các bản đồ được như là một bằng chứng, chứ đừng nói tới việc « bản đồ thường đóng vai trò quan trọng và đôi lúc quyết định đến sự thắng - thua của các bên trong tranh chấp » như nhận định của tác giả.
Tôi tóm lược sơ lược diễn biến và kết quả các vụ án trình bày lại sau đây để mọi người tường lãm. Theo ý kiến của tôi, vấn đề tranh chấp HS và TS rất là quan trọng cho VN và tôi luôn nghĩ rằng VN sẽ thắng kiện TQ nếu vấn đề được đưa ra một tòa án quốc tế. Nhưng từ mặt trận truyền thông đã thế này thì làm sao có khả năng thắng trên mặt trận pháp lý ?

1/ Tranh chấp Ấn Độ và Pakistan tại vùng « Rann Of Kutch »
Ấn Độ và Pakistan được xứ bảo hộ Anh trả độc lập qua Hiệp ước « L’Indian Independence Act » ngày 18-7-1947. Lãnh thổ hai bên được xác định : Ấn Độ gồm các vùng đất trước kia thuộc Hoàng gia Anh, ngoại trừ vùng lãnh thổ được gọi là Pakistan. Pakistan được xác định bằng một số đơn vị hành chánh (tỉnh) nhứt định, trong đó có tỉnh mang tên Sind. Một số khu vực khác, gọi là tiểu quốc « Native States », như Kutch, Suigam, Wav, Jodhpur… thuộc Anh, thì gia nhập vào Ấn Độ. Tiểu quốc Kutch nhập vào Ấn Độ qua kết ước ký ngày 4-5-1948.
Tiểu quốc Kutch giáp ranh với tỉnh Sind. Biên giới hai nước Ấn Độ và Pakistan khu vực này trùng hợp với biên giới giữa tỉnh Sind và tiểu quốc Kutch. Tháng 5 năm 1947, tiểu vương Kutch có yêu cầu bang Sind cắm mốc đánh dấu biên giới hai lãnh thổ. Ngày 14 tháng 7 năm 1948, Cao ủy Pakistan tại Ấn Độ trả lời rằng việc cắm mốc giới không thể thực hiện vì biên giới trong vùng có nơi tranh chấp chưa giải quyết. Nhiều văn thư được trao đổi giữa hai bên về vấn đề này nhưng không đi đến đâu, trong lúc nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra. Cho đến 30-6-1965, hai bên Ấn Độ và Pakistan ký kết một thỏa thuận về giải quyết tranh chấp biên giới. Hai bên đồng ý việc tranh chấp sẽ được giải quyết bằng thương lượng cấp bộ trưởng hay bằng một trọng tài.
Khác biệt về quan điểm của hai bên được ghi nhận ở điều 3 của thỏa ước :
Quan điểm của Ấn Độ : Nước này cho rằng không có vấn đề tranh chấp biên giới. Ở khu vực đã hiện hữu rõ rệt một đường biên giới chạy dọc theo bờ phía bắc đầm lầy Rann (Rann Of Kutch), như đã thể hiện trên những tấm bản đồ vẽ trước khi phân chia năm 1947. Đường biên giới này chỉ cần xác định bằng các cột mốc trên thực địa.
Quan điểm của Pakistan : biên giới hai nước đi qua đầm lầy Rann, theo gần đường vĩ tuyến 24° như đã thể hiện theo nhiều tài liệu trước và sau khi phân chia năm 1947. Khác biệt lãnh thổ lên đến 9.000 cây số vuông.
Bản đồ tiểu bang Kutch (nguồn Wikipedia).
Vùng tranh chấp như vậy là vùng đầm lầy Rann (Rann Of Kutch).
Tiểu quốc Kutch hoàn toàn bao bọc bởi vùng địa lý có tên Rann (phía bắc là Rann lớn, phía nam là Rann nhỏ). Vào mùa mưa, vùng Rann bị nước phủ do mưa và lưu lượng nước từ các con sông đổ vào, do đó mực nước cao hơn mực nước biển, tạo thành một vùng đầm lầy rộng khoảng 9.000 cây số vuông. Trong đầm rải rác có một số cù lao (gọi là bet). Những cù lao này hoàn hoàn cỏ hoang mọc, không có người ở. Cuối mùa mưa, nước rút đi, tạo ra một vùng bùn lầy, trong đó sa mạc muối bao phủ phần lớn. Giá trị kinh tế của muối vì thế là động lực của tranh chấp.
Tranh chấp được hai bên đưa ra tòa Trọng Tài (PCA) giải quyết ngày 19-2-1968. Hồ sơ hai bên đệ lên Tòa lên tới trên 10.000 trang tài liệu. Tranh tụng và phán quyết của Tòa cũng dài đến 150 trang, chưa kể các ý kiến tranh tụng ngoài luồng.
Hồ sơ của Ấn Độ : Giữ nguyên ý kiến theo thỏa thuận ký với Pakistan ngày 30-6-1965, theo đó không hề có tranh chấp biên giới vì biên giới trong khu vực đã được xác định bằng bờ phía bắc của đầm lầy Rann như thể hiện trên các bản đồ vẽ trước năm 1947. Biên giới này chỉ cần cắm mốc trên thực địa.
Phía Ấn Độ cho rằng, từ tiền bán thế kỷ 18, lãnh thổ của tiểu vương Kutch vượt quá đầm lầy Rann (lớn), qua đến lãnh thổ Sind, do đó đầm lầy Rann (lớn) phải thuộc về Ấn Độ. Mặc dầu nhiều lần quân của Sind vượt qua Rann để tấn công Kutch, tiểu vương Kutch mất đi vùng lãnh thổ đã lấy của Sind trước kia nhưng vùng Rann vẫn thuộc về Kutch. Thời thuộc Anh, trong vòng 75 năm, tiểu vương Kutch mỗi năm xác định trong báo cáo gởi lên mẫu quốc là vùng Rann thuộc về Kutch. Chưa bao giờ nhà cầm quyền ở Bombay, chính phủ Ấn hay Bộ ngoại giao Anh phản đối việc này. Mặt khác, giấy tờ hành chánh hoàng gia Anh, tài liệu thống kê, báo cáo hành chánh địa phương, báo chí, ghi chú… thường xuyên nghi nhận rằng Rann thuộc về Kutch. Thêm nữa, từ năm 1871, các tấm bản đồ do Sở địa hình của nhà nước Ấn thành lập, luôn vẽ biên giới giữa hai vùng Sind và Kutch là bờ bắc của đầm lầy Rann.
Theo nhà nước Ấn, một dữ kiện có ý nghĩa quyết định là nghị quyết của nhà nước Bombay năm 1914, nhìn nhận một thỏa thuận về biên giới năm 1913 ký kết giữa lãnh đạo hai vùng Sind và Kutch. Nội dung nghị quyết cho thấy nhà nước Bombay nhìn nhận biên giới giữa hai vùng Sind và Kutch là đường vẽ chấm màu xanh lá cây, bắt đầu từ cửa vịnh Sir cho đến đầu trên của vịnh này, sau đó nhập vào đường vẽ chấm màu xanh. Đường biên giới theo đường thẳng vẽ bằng chấm màu xanh đi về hướng tây, cho tới khi gặp đường biên giới màu đỏ theo như sơ đồ kèm theo dưới đây :
indo-pakistan Rann de Kutch 2
Hình trên: Đồ tuyến đường biên giới theo thỏa thuận giữa lãnh đạo hai vùng Sind và Kutch năm 1913, được Nhà nước Bombay nhìn nhận theo nghị quyết năm 1914.
Nghị quyết này thể hiện sự đồng thuận về biên giới giữa hai bên tranh chấp năm 1913. Theo đó Tiểu vương Kutch đòi toàn vùng từ cửa vịnh Sir theo như đường xanh lá cây trên bản đồ. Phía Sind thì cho rằng đường biên giới phải từ cửa vịnh Khori, theo đường đỏ cho tới giao điểm 3 biên giới (hai vùng Taluka và Rann), như vẽ trong bản đồ. Kết quả đồng thuận hai bên, đường biên giới là đường chấm màu xanh, phân chia vùng tranh chấp ra làm hai, mỗi bên một phần.
Phía Ấn Độ cũng cho rằng, nghị quyết xác định giao điểm giữa đường xanh lá cây (đề nghị của bên Kutch) với đường đỏ (đề nghị của bên Sind), mà đường đỏ trên bản đồ ghi chú “biên giới vùng Sind”. Đường này đi tiếp về phía tây, dựa bên bờ phía bắc của đầm lầy Rann, cho đến giao điểm của các biên giới các tiểu bang Sind, Kutch và Jodhpur.
Sự việc này cho thấy đường biên giới đã được xác định. Một phần biên giới theo đường đỏ, từ giao điểm biên giới (hai vùng Taluka (1 và 2) và Rann) cho đến giao điểm giữa đường đỏ với đường chấm màu xanh, vào năm 1924, theo yêu cầu của tiểu vương Kutch và do chi phí của hai bên (Sind và Kutch), đã được đóng cột mốc. Phần còn lại của đường đỏ thì chưa bao giờ được cắm mốc. 
Phía Ấn Độ cũng đưa ra sự việc, theo họ là đặc biệt quan trọng, năm 1935, tỉnh Sind được tách ra theo hiệp ước “Government of India Act”. Chiếu theo nội dung hiệp ước, Ủy viên Anh tại Sind soạn thảo và đệ trình lên Nhà nước Bombay tình trạng tỉnh Sind, theo đó biên giới tỉnh này được mô tả là bờ phía bắc của đầm lầy Rann. Việc này được nhà nước Bombay chấp thuận. Nhưng cuối cùng thì nhà nước Bombay lại không đưa vào văn bản chính thức những mô tả về tỉnh Sind (theo đó biên giới là bờ phía bắc đầm lầy Rann). Theo Ấn Độ, việc này không làm mất đi tính pháp lý của đường biên giới ở vùng này.
Theo nước này thì việc tranh chấp lãnh thổ là có thực, liên hệ đến một vùng đất có diện tích khoảng 9.000 cây số vuông. Đường biên giới tại đây là đường khá tương đồng với đường vĩ tuyến 24°, phù hợp với với nhiều tài liệu trước cũng như sau việc phân chia lãnh thổ.
Các lập luận chính của phía Pakistan như sau: Nước này nhấn mạnh ở việc lãnh thổ Kutch thường xuyên bị quân Sind xâm nhập. Điều này chứng tỏ rằng lãnh đạo Sind đã có hành vi kiểm soát thực hữu đối với vùng đầm lầy Rann.
Trong khi các đồn lũy do phía Kutch thành lập trên lãnh thổ Sind chỉ mang tính chất tạm thời, nhiều lắm là 20 năm. 
Phía Pakistan cũng vịn vào thái độ của các quan chức người Anh, hay các viên chức hành chánh địa phương, theo đó Rann là vùng biên giới, hoặc là đường biên giới ở khoảng giữa đầm lầy Rann.
Nước này cũng nhấn mạnh ở sự việc đầm lầy Rann phải được xem như là một vùng thuộc về biển (marine feature), hoặc là một đơn vị phân chia được (dividing entity), hay là một vành đai biên giới (belt of boundary) mà ở đó các quốc gia kế cận có thể thiết lập chủ quyền trên các cù lao.
Vì đó là một vùng thuộc về biển, Pakistan cho rằng phải áp dụng nguyên tắc  phân chia theo đường trung tuyến, hoặc phải áp dụng nguyên tắc cận bờ, bằng không phải theo nguyên tắc phân chia công bằng (équitable). Phía Pakistan nghĩ rằng các nguyên tắc này đã được Nhà nước Anh áp dụng để xác định chủ quyền các cù lao cho các tiểu quốc chung quanh vùng Rann (nhỏ) hoặc ở vùng đông bắc Rann (lớn).
Về các bằng chứng cho thấy biên giới giữa hai vùng Sind và Kutch chưa bao giờ được giải quyết, phía Pakistan dẫn ra các sự việc xảy ra từ các năm 1875, 1885, 1905 và năm 1938. Pakistan cho rằng các sự việc này chứng tỏ Nhà nước Anh không muốn lấy một quyết định dứt khoát về vấn đề biên giới ở đầm lầy Rann.
Cuối cùng, Pakistan cũng đưa ra rất nhiều bằng chứng cho thấy quan chức địa phương hay thẩm quyền Anh ở vùng Sind đã hành sử quyền tài phán của họ trên một phần đầm lầy Rann. Đặc biệt các bằng chứng là các sinh hoạt về trồng trọt, đánh cá, thả gia súc ra các đồng cỏ… đặc biệt tại các vùng Chhad Bet, Dhara Banni và Pirol Valo Kun. Phía Pakistan cho rằng các sinh hoạt đó được sự bảo vệ và ủng hộ của chính quyền Anh, và các sinh hoạt đó có tầm quan trọng sống còn cho dân chúng Sind sống ở quanh bờ đầm lầy Rann. Pakistan cho rằng, đối diện với các hành vi pháp lý của chính quyền Sind trên vùng phía bắc đầm lầy Rann, là sự thiếu vắng hoàn toàn chính quyền Kutch, nhất là thời kỳ trước năm 1926, ở vùng phía bắc đầm lầy Rann. Sự kiện thẩm quyền Kutch muốn đặt quyền tài phán tại đây năm 1926 đã thất bại.
Phán quyết của tòa án.
Về giá trị của các bản đồ, tương tự như các vụ án sẽ nói bên dưới, Tòa cho rằng tự nó, các bản đồ không có một trọng lượng đặc biệt. Chúng chỉ có thể có một giá trị khi được dựa vào các yếu tố ngoại tại, như được sự phê chuẩn hay được sự chuẩn duyệt chính thức của các viên chức ở cấp cao, đồng ý cho bản đồ có một giá trị cao hơn. Trong trường hợp tranh chấp này, do hệ quả của việc nhiều lần in ấn các bản đồ chính thức, cùng phối hợp với các hành vi khác hay sự thiếu sót của nhà cầm quyền Anh, Tòa cho rằng các tấm bản đồ có thể được chú ý nhiều hơn.
Trường hợp thứ nhứt, ý kiến của Tòa là không có tấm bản đồ nào, kể cả tấm bản đồ đính kèm nghị quyết năm 1914 do Ấn Độ dẫn ra, đều không có một trọng lượng đặc biệt.
Tòa cho rằng, không hề có một đường biên giới lịch sử đã được nhìn nhận, cũng như không hề hiện hữu một đường biên giới được thiết lập một cách rõ rệt ở trong vùng tranh chấp
Phán quyết của Tòa không hề dựa lên bất kỳ tấm bản đồ nào, mà dựa lên các sự việc hành sử quyền chủ quyền (droit de souveraineté) như thuế má, anh ninh, cảnh sát… của các bên trong vùng tranh chấp. Phía Pakistan chứng minh được các hành vi hành sử quyền chủ quyền (effectivité) của Sind trên các vùng Dhara Banni và Chhad Bet, các vùng này thuộc về nước này.
Bản đồ dưới đây là đường biên giới theo phán quyết của Tòa, theo đó Ấn Độ được 90% diện tích, Pakistan 10% diện tích vùng lãnh thổ tranh chấp. 
indo-pakistan Rann de Kutch 1

2/ Tranh chấp Yemen-Erythrée
Tranh chấp Erythré và Yemen về chủ quyền các đảo ở Hồng hải, được Tòa Trọng tài xử ngày 9-10-1998. Đây là một trường hợp cần được nghiên cứu sâu xa. Ở đây chỉ lướt qua những nét chính.
Hai bên đều cho rằng mình có danh nghĩa chủ quyền lịch sử ở các đảo tranh chấp. Erythrée vịn vào lý do trước kia chủ quyền các đảo thuộc về Ý, sau đó chuyển sang cho Ethiopie sau Thế chiến thứ II (Erythrée thuộc Liên bang Ethiopie từ năm 1962, đến năm 1993 thì tuyên bố độc lập). Tức là Erythrée dựa vào thuyết « liên tục quốc gia ». Trong khi Yemen vịn vào thuyết « reconversion », theo đó Yemen đã có danh nghĩa chủ quyền từ thời trung cổ, danh nghĩa này vẫn còn tồn tại trong thời bị lệ thuộc đế quốc Ottoman, cuối cùng Yemen lấy lại do công ước Lausane.
Tòa bác bỏ lý lẽ của Erythrée, vì cho rằng Erythrée không thể kế thừa cái mà nhà nước tiền nhiệm đã từ bỏ. Thật vậy, Ý đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền các đảo từ năm 1947.
Tòa bác Tòa cũng bác lý lẽ của Yemen, bởi vì, theo Tòa, thuyết « Reconversion » mà Yemen nại ra thì không được luật quốc tế nhìn nhận.
Một số bản đồ cũng được đệ trình trước tòa. Về việc này ý kiến của Tòa : “cần phải hết sức thận trọng về việc sử dụng những tấm bản đồ này như là bằng chứng”. Ta thấy, sau khi tham khảo hồ sơ vụ án, các tấm bản đồ chỉ giúp cho Tòa ở việc xác định đảo thuộc khu vực hành chánh nào, Châu Phi hay Ả Rập, chứ không phải là một bằng chứng để chứng minh đảo này thuộc phía này hay thuộc phía kia.
Kết quả phân xử, mỗi đảo Tòa đưa ra một lý lẽ khác nhau, một nguyên tắc luật học khác nhau :
-      đảo Mohabbakah, Yemen vịn vào danh nghĩa lịch sử để đòi hỏi, thì được Tòa phán giao cho Erythrée với lý do đảo này nằm trong vùng lãnh hải 12 hải lý của nước này. Bởi vì, theo công ước Lausane, được ký kết giữa các bên liên quan (hay nhà nước tiền nhiệm của các bên), thừa nhận rằng các đảo nào nằm trong vùng lãnh hải của nước nào thì đảo đó thuộc về nước đó. Thời kỳ đó lãnh hải chỉ có 3 hải lý. Tòa đã dựa lên nguyên tắc về tính « thời hiệu -contemporanéité » để lấy quyết định này.
-      Về đảo Haycock, Tòa cho rằng đảo này ngày trước thuộc thẩm quyền Ottoman và thuộc vùng hành chánh Châu Phi. Đến thời thuộc địa, đảo này thuộc kiểm soát của Ý. Tòa phán rằng đảo Haycock thuộc về Erythrée vì nó ở gần bờ nước này. Tòa ra quyết định như thế là dựa lên nguyên tắc « cận bên - proximité géographique », bởi vì phía Yemen không đưa ra được một dữ kiện nào cho thấy nước này có một danh nghĩa bất kỳ, cao hơn lý thuyết đã dẫn (như danh nghĩa lịch sử, danh nghĩa pháp lý, danh nghĩa do « effectivité », danh nghĩa do hành sử quyền chủ quyền…).
-      Về hai đảo Hanish và Zukar, Tòa bác bỏ lý lẽ của Yemen (thuyết reconvertion) cũng như bác bỏ lý lẽ về “kế thừa” của Erythrée. Tòa cũng cho rằng dưới thời Ottoman thì hai đảo này không thuộc khu vực hành chánh của Châu Phi. Tức là Tòa không nhìn nhận lý lẽ về « chủ quyền lịch sử » của cả hai phía. Tòa ghi nhận rằng một số bản đồ ghi nhận hai đảo này thuộc Yemen. Mặt khác, tòa cũng ghi nhận việc xây dựng và bảo trì một số đèn pha trên hai đảo này chúng tỏ sự « có mặt » của  Yemen trên các đảo này. Đặc biệt về đảo Zukar, cả hai bên đều không chứng minh được danh nghĩa lịch sử cũng như hành vi nhà nước chiếm hữu hòa bình và liên tục ở đây. Tòa dựa lên nguyên tắc « effectivité » để xét và thấy rằng trong nhiều thập niên Yemen đã có một số hành vi có thể xem là thể hiện thẩm quyền quốc gia. Vì thế Tòa phán đảo Zukar thuộc về Yemen. Về đảo Hanish, Tòa cho rằng trong thời kỳ Ottoman, đảo này thuộc khu vực hành chính Ả Rập. Mặt khác, Yemen cũng chứng minh được một số hành vi được xem là thể hiện thẩm quyền quốc gia. Vì vậy đảo này tòa cũng phán rằng nó thuộc về Yemen.
-      Cuối cùng, hai đảo Jabal al-Tayr et Zubayr đều được Tòa phán cho Yemen. Lý do, Yemen đã thể hiện một số hành vi « efectivité » như xây dựng và bảo trì các đèn pha, điều này chứng minh sự hiện hữu của Yemen tại các đảo này. Mặt khác, những hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong khu vực đã được Yemen thực hiện mà không có sự phản đối nào từ phía Erythrée (cũng như Ethiopie). Như vậy quyết định của Tòa ở đây là dựa lên nguyên tắc  « effectivité » và lý thuyết « acquiescement ».
Yemen-Erythre 001

3/ Tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear:
Tranh chấp Thái Lan và Kampuchia về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear, nguyên nhân do từ một tấm bản đồ 1908, kết quả công trình phân giới theo công ước Pháp và Thái 1904. Theo văn bản 1904 thì ngôi đền thuộc lãnh thổ Thái nhưng theo bản đồ 1908 thì ngôi đền nằm trên lãnh thổ của Miên. Tranh chấp đưa ra Tòa CIJ phân xử ngày 15-6-1962. Quyết định của Tòa không hề dựa lên tấm bản đồ 1908 mà dựa lên thái độ của Thái trong một thời gian dài đã không phản đối tấm bản đồ (vẽ sai) này. Tòa dựa lên nguyên tắc « estoppel » phán rằng, vì Thái đã không phản đối tấm bản đồ này cũng như đã hưởng những lợi ích đến từ công ước 1904 trong một thời gian dài, trước không khiếu nại thì bây giờ không có lý do gì Thái lại khiếu nại.  Kampuchia có chủ quyền ở ngôi đền.
Nội dung tóm tắt từ bài viết trước đây như sau :

Ngôi đền Preah Vihear :
Ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên mỏm núi cao 625 mét, nhìn xuống bình nguyên Kampuchia, thuộc rặng núi Dang Rek (là biên giới giữa hai nước Thái-Miên đã được phân định theo các hiệp ước Pháp-Thái 1904 và 1907 về phân định biên giới, sẽ nói bên dưới), tọa độ kinh độ 14°23’ 18° đông, vĩ độ 104°41’ 02° bắc, cách Nam Vang khoảng 400 km về hướng bắc và cách đền Angkor Vat khoảng 140 km về hướng đông-bắc. Khu vực đền Preah Vihear tập hợp nhiều kiến trúc, có diện tích khoảng 20 héc-ta, xây dựng theo chiều dài như hình 1a và 1b. Theo các nhà khảo cổ, ngôi đền được xây dựng, sau đó được tu bổ và sửa chữa, khoảng từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12. Những ghi chú (bằng chữ Phạn và chữ Khmer) trên các tấm bia ở trong đền cho thấy các triều đại có đóng góp vào việc xây dựng và trùng tu là các triều đại Yacovaraman (889-910), Suryavarman I (1002-1049) và Suryavarman II (1112-1162). Đây là một di dản văn hóa lớn của nhân loại, được UNESCO công nhận từ năm 2008. Ngôi đền có kiến trúc đặc sắc văn minh Ấn Độ, thờ thần Shiva (Ấn Độ Giáo) sau trở thành chùa Phật giáo. Kiểu mẫu kiến trúc đền này được xem như là tiền thân của các kiến trúc được xây dựng hàng thế kỷ sau như ở Angkor Vat, là những thể hiện sự huy hoàng của nền văn minh Khmer. Hiện nay đền được gọi qua hai tên : tên Khmer là Preah Vihear, tên Thái là Khao Phra Viharn, cùng có nghĩa là « đền thờ thánh ». Đền thuộc tỉnh Preah Vihear (Kampuchia), tiếp giáp với tỉnh Sisaket (Thái Lan) phía đông bắc.
Từ phía Kampuchia, địa hình mỏm núi rất cheo leo, vách đá hình thẳng đứng, từ đây lên đền thiêng rất khó khăn, vì đường đi là một con đường hẹp, chênh vênh đẻo vào núi đá thành từng bậc thang, rất nguy hiểm. Về phía Thái Lan thì địa hình thoai thoải theo dốc lài, do đó từ phía Thái Lan lên đền thiêng rất dễ dàng. Từ 2008, sau khi ngôi đền được UNESCO công nhận là di sản văn hóa và lịch sử của nhân loại thì từ phía Kampuchia, một con đường làm bằng những bậc thang gỗ từ đồng bằng lên đến đền. Xem hình 2.
Preah Vihear 1
Hình 1a : Quần thể đền Preah Vihear.
Preah Vihear 1c
Hình 1b : quần thể Preah Vihear nhìn từ một góc khác.
Preah Vihear 1d
Hình 2 : đường dẫn bằng cầu thang gỗ, mới làm sau năm 2008, từ phía Kampuchia lên đền.
Sau khi độc lập năm 1953, nhận thấy phía Thái Lan vẫn còn chiếm đóng khu vực ngôi đền Preah Vihear, mặc dầu theo các cuộc phân định Pháp-Thái trong quá khứ đã để khu vực ngôi đền thuộc về Kampuchia, ông hoàng Sihanouk lên tiếng qua các văn kiện ngoại giao yêu cầu Thái trả lại chủ quyền ngôi đền cho Cambodge (là tên nước Miên lúc đó, sau này đổi lại là Kampuchia). Trước đó, năm 1949, nước Pháp nhân danh là nước bảo hộ, cũng đã hai lần lên tiếng yêu cầu Thái trả lại ngôi đền nhưng không có kết quả. Do đó Sihanouk đưa vấn đề tranh chấp, trước hết ra ONU, nhưng tại đây tuyên bố không nhận phân giải những tranh chấp về chủ quyền, biên giới ; do đó phải đưa qua Tòa Án Quốc Tế CIJ (Cour Internationale de Justice – La Haye). Nội vụ tranh chấp được phân xử, theo phán quyết CIJ ngày 15-6-1962, ngôi đền thuộc về Kampuchia, đúng theo đường biên giới vẽ trên bản đồ đính kèm các công ước về biên giới Pháp-Thái  23-3-1907.
Đường biên giới qui ước :
Biên giới hai bên Thái Miên đã được chính phủ bảo hộ Pháp phân định cùng với nhà nước Thái qua hai thời kỳ 1904 và 1907. Điều 1 của Hiệp ước 1904 qui định hướng đi đường biên giới, nội dung được tạm dịch như sau : 
Khoản 1 : Biên giới giữa Đông Dương thuộc Pháp và Xiêm bắt đầu từ một điểm ngoài biển, đối diện với điểm cao nhất của đảo Koh Kut. Từ điểm này (đường biên giới) theo hướng đông bắc đến đỉnh Phnom Kravanh. (Hai bên) xác quyết rằng trong mọi trường hợp, triền phía đông của những ngọn núi, bao gồm toàn bộ lưu vực Klong Kopo, thuộc về Đông Dương thuộc Pháp.
Đường biên giới qua các đỉnh của rặng núi Phnom Kravanh theo hướng bắc đến Phnom Thom, (là điểm) nằm trên đường phân thủy chính của các con sông chảy vào vịnh Thái Lan và những con sông chảy Biển Hồ. Từ Phnom Thom đường biên giới thoạt tiên theo hướng đông bắc, sau đó chuyển qua phía bắc, ranh giới hiện tại giữa các tỉnh Battambang một bên, và của tỉnh Chantaboun và tỉnh Krat một bên, cho đến điểm mà tại đó đường biên giới này cắt dòng sông mang tên là Nam Sai. Sau đó đường biên giới theo con sông này cho đến hợp lưu của nó với sông Sisophon, theo sông này cho đến điểm cách tỉnh Aranh 10 km về phía hạ lưu. Cuối cùng từ điểm chót này, đường biên giới theo một đường thẳng đến một điểm trên rặng Dang-Rek, khoảng giữa hai cửa ải gọi là Chong-Ta- Koh và Chong-Sa-Met. Việc này được hiểu là đường (biên giới theo đường) thẳng vừa nói để lại con đường trực tiếp nối Aranh và Chong-Koh-Ta thuộc về đất Xiêm.
Từ điểm ghi trên, ở trên đỉnh của rặng núi Dang Rek, đường biên giới theo đường phân thủy  giữa lưu vực Biển Hồ và sông Mekong một mặt, với lưu vực sông Nam Meun mặt khác, và dẫn đến sông Mekong ở hạ lưu của Pak-Moun, ở cửa sông Huei-Done, theo đúng như đồ tuyến đã được chấp nhận của ủy ban phân định ngày 16 tháng giêng năm 1907.
Một sơ đồ đường biên giới được mô tả ở trên được đính kèm theo đây (hình 3 và hình 3a).
Preah Vihear 3
Hình 3 : Bản đồ phân định đính kèm hiệp ước 16 tháng giêng năm 1907 do hai ủy ban  « Bernard »  và « Monguers » thực hiện từ 1903 đến 1907.
Preah Vihear 3a
Hình 3a : Khu vực ngôi đền Preah Vihear và đường biên giới trong khu vực được họa theo bản đồ đính kèm công ước.
Như thế phần lớn đường biên giới Thái-Miên, kể cả vùng cận đền Preah Vihear, được xác định bằng rặng núi Dang Rek, theo đoạn có gạch dưới của văn bản phân định biên giới : đường  biên giới theo đường phân thủy, tức đường sống núi, chạy qua các đỉnh cao nhất của rặng núi Dang Rek.
Nguyên văn vụ xử ngôi đền Preah Vihear ngày 15 tháng 6 năm 1962 được ghi lại, những đoạn quan trọng, như sau (nguồn : CIJ) :
a) Với 9 phiếu trên 3, Tòa phán rằng ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của Cambodge. Vì vậy Thái Lan phải cho rút đi các lực lượng quân sự hay cảnh sát, hay những người canh gác đã được bố trí tại ngôi đền, hay ở các khu vực chung quanh, thuộc lãnh thổ Cambodge.
b) Với 7 phiếu trên 5, Tòa phán rằng Thái Lan phải trả lại cho Cambodge những bức tượng, các bia đá, những bộ phận rời thuộc về ngôi đền, những kiểu mẫu bằng sa thạch và đồ gốm cổ, đã có thể bị phía nhà chức trách Thái lấy ra khỏi đền, hay khu vực đền, trong lúc ngôi đền bị Thái chiếm đóng từ năm 1954.
CIJ đã lý luận như sau :
Ngôi đền cổ Preah Vihear ở trong tình trạng hoang phế, tọa lạc trên một mỏm núi thuộc rặng Dangrek mà rặng núi này là biên giới giữa hai nước Thái Lan và Cambodge. Mối tranh chấp có nguyên nhân từ việc phân định biên giới bắt đầu từ năm 1904 đến năm 1908 giữa nước Pháp, đại diện Đông Dương, và nước Xiêm. Việc phân định này chiếu theo công ước ngày 13 tháng 2 năm 1904. Công ước này đã thiết lập một cách tổng quát một đường biên giới, đường này sẽ được xác định chính xác bởi một ủy ban phân định hỗn hợp Pháp-Thái.
Ở khu vực có ngôi đền Preah Vihear, đường biên giới phải theo đường phân thủy. Theo thỏa thuận từ buổi họp ngày 2 tháng 12 năm 1906, để xác định đường phân thủy, ủy ban hỗn hợp phải tìm hiểu trên thực địa, qua một cuộc hành trình đi dọc theo đường sống núi của rặng Dangrek. Một trắc địa viên người Pháp cùng tháp tùng để ghi nhận địa hình toàn vùng phía đông của rặng núi. Điều không nghi ngờ là các vị chủ tịch của các ủy ban Pháp và Xiêm đã làm cuộc hành trình này và những người này cũng đã có thể thăm viếng ngôi đền. Vào các tháng giêng – tháng hai năm 1907, ủy ban Pháp đã báo cáo lên chính phủ của họ rằng đường biên giới đã hoàn toàn được phân định. Như thế đường biên giới đã được xác định, cho dầu không tìm thấy dấu vết nào về một quyết định, hay một ghi nhận bất kỳ liên quan rặng núi Dangrek trong các biên bản được thành lập sau ngày 2 tháng 12 năm 1906. Lúc ủy ban nhóm họp để kết thúc công trình phân giới, mọi người đã chỉ tập trung vào kết luận về một hiệp ước khác, liên quan biên giới Pháp-Xiêm, tức hiệp ước ngày 23 tháng 3 năm 1907.
Việc cuối cùng của công trình phân định là việc làm bản đồ. Nhà nước Xiêm, vì không có phương tiện lỷ thuật, đã yêu cầu nhân sự phía Pháp để thành lập các bản đồ vùng biên giới. Các bản đồ đã được một ê kíp người Pháp hoàn tất vào xuân năm 1907, trong đó có nhiều người thuộc ủy ban hỗn hợp. Ê kíp này đã thường xuyên quan hệ với nhà nước Xiêm trong năm 1908. Một tấm bản đồ của ê kíp này (sau khi thiết lập) đã giao cho nhà nước Xiêm, theo đó đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ Khmer. Tấm bản đồ này cũng tài liệu I (hình 3 và hình 3a) đính kèm hồ sơ, đã được phía Cambodge làm căn bản để đòi hỏi chủ quyền ngôi đền. Ở điểm này phía Thái phản biện, vì bản đồ không do ủy ban hỗn hợp thiết lập, do đó nó không có giá trị bắt buộc ; tấm bản đồ vẽ đường biên giới không phù hợp với đường phân thủy, mà đáng lẽ đường (phân thủy) này để dành ngôi đền về phía Thái ; tấm bản đồ này cũng chưa hề được phía Thái công nhận, hoặc giả nếu có, là do phía Thái Lan tưởng rằng đường biên giới đã vẽ đúng theo đường phân thủy.
Tấm bản đồ I  kèm theo chưa bao giờ được công nhận bởi ủy ban hỗn hợp. Ủy ban này đã ngừng hoạt động từ nhiều tháng trước khi tấm bản đồ I được thiết lập. Người ta có thể hoài nghi việc tấm bản đồ này đã được những trắc địa viên sử dụng làm căn bản trong khu vực núi Dangrek và Tòa cho rằng, nguyên thủy, tấm bản đồ này không có tính bắt buộc. Nhưng mọi người đã thấy, trong hồ sơ phân định, bộ bản đồ đã chuyển lên chính phủ Thái như là kết quả của công trình phân định biên giới. Nhà cầm quyền Thái đã không có phản ứng nào (về các tấm bản đồ này) từ thời kỳ đó, cũng không có phản ứng nào trong nhiều năm sau. Người ta phải kết luận rằng nó đã được sự chấp nhận chính phủ Thái. Nếu phía Thái đã chấp nhận tấm bản đồ đính kèm I mà không làm các cuộc nghiên cứu, thì bây giờ họ không thể vịn vào lỗi lầm này để làm vô hiệu điều mà họ đã chấp thuận.
Nhà nước Xiêm, sau đó là Thái Lan, đã chưa bao giờ đặt vấn đề về bản đồ đính kèm I trước năm 1958, là lúc hai bên Thái và Cambodge đã mở những cuộc thuơng thảo về chủ quyền ngôi đền. Trong khi đó, vào các năm 1934-1934, một cuộc trắc địa đã cho thấy có sự khác biệt giữa đường phân thủy trên thực tế và đồ tuyến biên giới trên bản đồ I. Một số bản đồ khác đã được thiết lập, trong đó đặt ngôi đền thuộc lãnh thổ Thái Lan. Nhưng phía Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng, thậm chí in ra, những tấm bản đồ theo đó ngôi đền Preah Vihear thuộc về phía Cambodge. Mặt khác, trong khoảng thời gian thuơng thuyết về hiệp ước Pháp-Xiêm 1925 và 1937, mà các hiệp ước này khẳng định hiệu lực của đường biên giới, hoặc là vào năm 1947, trước ủy ban hòa giải Pháp-Xiêm tại Washington, đáng lẽ phía Thái đã đặt lại vấn đề này, thì họ đã không làm gì cả. Kết luận lại, như thế Thái Lan đã chấp nhận đường biên giới như đã vẽ trong bản đồ I, cho dầu nó có phù hợp hay không phù hợp với đường phân thủy của rặng Dangrek. Phía Thái Lan đã tuyên bố rằng, trong mọi thời kỳ tranh chấp, vì đã chiếm hữu trên thực tế ngôi đền, do đó Thái không cần phải đặt lại vấn đề này. Việc chiếm hữu và hành sử chủ quyền trên thực tế là những bằng chứng rằng phía Thái Lan chưa bao giờ chấp nhận đường biên giới theo như bản đồ I. Nhưng Tòa cho rằng, sẽ khó chấp thuận các hành động này, đến từ các chính quyền địa phương, vì nó phủ nhận thái độ của chính quyền trung ương. Hơn nữa, vào năm 1930, lúc hoàng thân Damrong (bộ trưởng bộ Nội Vụ Thái), lúc thăm viếng ngôi đền, đã được sự tiếp đón chính thức của giới chức Pháp phụ trách địa phương của Cambodge, dịp này Thái Lan đã không có thái độ nào.
Vì vậy Tòa cho rằng phía Thái Lan đã thực sự nhìn nhận tấm bản đồ I. Cho dầu còn hiện hữu một hoài nghi về việc này, nhưng bây giờ Thái Lan không thể phủ nhận cái mà họ đã ký nhận trước đó, bởi vì Pháp và Cambodge đã tin cậy vào nó, cũng như phía Thái Lan đã hưởng được những lợi ích mà công ước 1904 dành cho nước này trong vòng 50 năm. Mặt khác, sự ký nhận này bao hàm luôn tấm bản đồ I, như những điều ước khác. Vào thời kỳ đó hai bên có thỏa thuận về cách diễn đạt ý nghĩa của các điều ước, theo đó đường biên giới vẽ trên bản đồ sẽ mạnh hơn ý nghĩa diễn tả trong công ước. Trong khi đó, không có gì cho thấy rằng hai bên ký kết có sự chú ý đặc biệt đến đường phân thủy, cho dầu bản thân đường này thể hiện một sự quan trọng cực kỳ cho hai bên trong việc xác định đường biên giới. Tòa cho rằng ý nghĩa của nó hôm nay vẫn không thể khác.
Vì vậy, Tòa cho rằng, trong vùng tranh chấp, đường biên giới là đường xác định trên bản đồ I và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy hay không.
Vì những lý lẽ này Tòa phán quyết thắng kiện cho bên Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear.
Preah Vihear 6
Hình 5 : Bản đồ khu vực Preah Vihear được UNESCO ghi vào « di sản văn hóa của nhân loại ». Vùng màu vàng thuộc về khu vực đền. Vùng màu xanh là vùng mở rộng.
Preah Vihear 4
Hình 6 : Bản đồ khu vực ngôi đền Preah Vihear cho Thái Lan đưa lên UNESCO nhân đại hội tại Christchurch, Tân Tây Lan năm 2007. Theo đó Thái Lan cho rằng vùng màu vàng thuộc về Thái Lan.

4/ Tranh chấp Burkina-Faso – Mali :
Vụ tranh chấp được đưa ra Tòa CIJ ngày 22-12-1986. Tòa áp dụng nguyên tắc « uti possidetis » để phân xử tranh chấp biên giới giữa hai nước Burkina-Faso và Mali. Ý nghĩa của nguyên tắc này là « vì (trước đây) anh đã sở hữu nó thì (bây giờ) anh tiếp tục sở hữu nó ». Đây là nguyên tắc phổ biến được áp dụng để xác định biên giới của các nước cựu thuộc địa sau khi dành được độc lập.
Về giá trị các tấm bản đồ, ý kiến của Tòa nguyên văn tạm dịch như sau : « Trong vấn đề phân định biên giới hay tranh chấp lãnh thổ quốc tế, các tấm bản đồ chỉ đơn giản là các dữ kiện, với ít nhiều chính xác tùy theo trường hợp. Chúng không bao giờ, chỉ qua chúng và bằng sự hiện hữu của chúng, mà tạo ra một danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ, tức là một tài liệu theo đó Công pháp quốc tế ban cho một giá trị pháp lý tự tại nhằm để thiết lập những quyền hạn về lãnh thổ ».
Tức là bản đồ chỉ có giá trị như những « dữ kiện » mà mức độ chính xác của nó cần kiểm chứng lại. Bản đồ, tự nó, không thể tạo ra một « danh nghĩa » pháp lý về chủ quyền lãnh thổ.
Kết quả của Tòa, theo bản đồ sau đây, cho thấy Tòa không hề dựa lên bản đồ của bất kỳ bên nào. Đường biên giới do Tòa phán quyền không hề trùng hợp với hai đường biên giới do hai phía đề nghị. Quyết định của Tòa là dựa lên nguyên tắc « uti possidetis », tức tôn trọng đường biên giới được thành lập do nhà nước bảo hộ. Nhưng đường biên giới này đã không hoàn toàn phù hợp với thực địa. Nhiều địa danh ghi trên các bản đồ phân định thì không đúng, hay không phù hợp với vị trí trên thực tế. Mặt khác, tranh chấp hai bên là tranh chấp về các « nguồn nước », thực ra là các ao hồ được thành hình trong mùa mưa, đến mùa nắng đôi khi khô cạn. Vị trí các ao hồ, do các nhân viên hành chánh thuộc địa ghi chú, do kỹ thuật hầu hết đã ghi nhận sai. Do đó Tòa đã áp dụng nguyên tắc « effectivité », thay vì nguyên tắc phân chia theo lối « équité – công bằng ».
differend territoriale Burkina Faso - Mali 002
Tọa độ các điểm gốc cấu thành đường biên giới pháp lý trên bản đồ:
A: 1° 59' 01" ouest et 14° 24' 40" nord
B : 1° 58' 49" ouest et 14° 28' 30" nord
C : 1° 54' 24" ouest et 14° 29' 20" nord
D : 1° 46' 38" ouest et 14° 28' 54"
E : 1° 40' 40" ouest et 14° 30' 03'' nord
F : 1° 19' 05" ouest et 14" 43' 45" nord
G : 1° 5' 34" ouest et 14" 47' 04" nord
H : 0° 43' 29" ouest et 15° 05' 00" nord
I : 0° 26' 35" ouest et 15° 05' 00" nord
J, K sẽ được xác định sau theo điều 4 của bản kết ước thỏa thuận.
L : 0° 14'44" ouest et 15° 04' 42" nord
M : 0° 14' 39" est et 14° 54' 48" nord
5/ Tranh chấp Nam Dương (Indonésie) và Mã Lai về các đảo Ligitan et Sipadan. phán quyết của Tòa ngày 7-12-2002. Tòa cho rằng các đảo này thuộc về Mã Lai, theo nguyên tắc « effectivité ». Nước này đã có một số hoạt động ở các đảo tranh chấp mà không gặp sự phản đối nào của phía Indonésie. Không có bản đồ nào ảnh hưởng lên quyết định của Tòa.

Kế hoạch khám xét tàu thuyền của Trung Quốc sẽ làm tăng căng thẳng (ANTĐ). - Cảnh sát Trung Quốc truy đuổi tàu nước ngoài (VnMedia).- “Trung Quốc đang gây hấn ở Biển Đông” (VnMedia). - Không quân chiến thuật Trung Quốc: Lượng nhiều, chất ít (ANTĐ).
Trung Quốc mong Phi-li-pin chấm dứt những lời nói và hành động làm phức tạp hoá vấn đề Nam Hải(CRI).
Nhật Bản âm thầm đổi chiến lược quân sự (ĐV). – Đảng đối lập Nhật Bản kêu gọi tăng cường tàu chiến bảo vệ đảo tranh chấp (Japan Times/ Sống Mới). - Nhật – Đài Loan thảo luận về đánh bắt trên biển (TN).
- ThS Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Đại học Sư phạm Hà Nội: Mạc Kính Vũ trong quan hệ với Trung Quốc thế kỷ XVII(NewVietArt).
Nước mắt mà là thứ còn lại duy nhất – thì đất nước chúng ta chẳng còn gì (FB Ly Thuy Nguyên). “Trước khi chú hỏi tại sao trẻ con khóc vì bọn nào lạ hoắc/ Sao chú không hỏi nền giáo dục nào khiến trẻ con phát điên/… Chú Quân này, ai cũng có những nỗi buồn thế hệ/ Thế hệ chúng tôi là cái thế hệ chẳng-còn-gì/ Cái nhục của quốc gia này, nếu mà đổ lỗi/ Cũng đừng đến lượt lũ trẻ con…” . – Thư của Fan Kpop gửi nhà thơ Đỗ Trung Quân (linkhay.com).  Mời xem lại: Đỗ Trung Quân – Hãy tiết kiệm thứ còn lại duy nhất (FB ĐTQ/ Dân Luận).  - Bút chiến về ‘nước mắt K-pop‘ (ĐV).


Kế hoạch của Trung Quốc chặn xét tàu trên Biển Đông gây lo ngại cho khu vực (RFI).  – Asean cảnh báo kế hoạch khám tàu của TQ (BBC). - Lãnh đạo ASEAN lo ngại Bắc Kinh gây căng thẳng tại Biển Đông (VOA).   – Thế giới phản ứng sau tin Trung Quốc sẽ lục soát tàu nước ngoài ở Biển Đông (VOA). - Trung Quốc “lục soát tàu thuyền” là bước ngoặt nguy hiểm (NLĐ).

Trung Quốc sẽ bị chất vấn thông tin ‘lục soát tàu bè’ Biển Đông (TP). – Mỹ sẽ chất vấn Trung Quốc về thông tin kiểm soát tàu bè ở Biển Đông (RFI). – Mỹ, Philippines chất vấn Trung Quốc thông tin lục soát tàu bè ở Biển Đông (DT).
- Trong khi Trung Quốc tự cho quyền chặn bắt và trục xuất tàu nước khác ở Biển Đông, chính  TQ lại nói, TQ ‘coi trọng’ tự do đi lại ở Biển Đông (BBC). - Việt Nam mất – Biển Đông hết giá trị (DLB).  “Căn cứ theo báo Đại Đoàn Kết đã loan tải (21/06/2011), chính thức công bố của đảng Cộng Sản VN. Việt Nam đã mất 11 đảo lớn nhất trong ba nhóm đảo Cam Tuyền, An Vĩnh và Trăng Khuyết có tầm vóc chiến lược và những rạn san hô, cồn đá, 8 bãi cát cạn và 16 bãi cát ngầm, một ngư trường khổng lồ ở biển Đông nay mất trắng”.
- Song Chi: Khi lòng tự hào, tự tôn dân tộc đang mất dần… (RFA’s blog). – Toàn vẹn lãnh thổ là trách nhiệm của toàn dân. Tại sao Đảng cứ tìm cách ém nhẹm? (BVN).
Thái thú – Tượng đái Phành Quang Thung (DLB).--Những bài thơ của một thời (3): Người anh hùng họ Ngụy (Nguyễn Thông).
ĐẠI TƯỚNG PHÙNG QUANG THANH ĐÃ TIẾP HIỆU PHÓ ĐẠI HỌC QUỐC PHÒNG TRUNG QUỐC NHƯ THẾ NÀO ? (TSYG).
Tự mê hoặc mình bởi khẩu hiệu của đối phương (RFA). Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: “… khi Trung Quốc từ năm 1979 đem 60 vạn quân đánh chúng ta giết hại đồng bào chúng ta thì tôi cho rằng đã hết tình nghĩa rồi, cái đó đã trả nợ Trung Quốc và không còn gì nữa. Tôi cho rằng ai mà nói biết ơn này khác thì đó là không phù hợp, không biết đau khổ do sự chết chóc họ mang đến cho đồng bào mình”.
Hộ chiếu có bản đồ: hành động “rất có hệ thống” của Trung Quốc (RFA).- TRUNG QUỐC TIẾP TỤC LỪA ĐẢO: CHỈ TÌM QUYỀN LỰC TRÊN BIỂN CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ BÁ CHỦ ĐẠI DƯƠNG !? (TSYG). - Góp một phân tích xung quanh sự kiện Hộ chiếu lưỡi bò TQ (DLB). – Thái độ dứt khoát trước “hộ chiếu lưỡi bò” (SK&ĐS). – “Đường lưỡi bò” trên hộ chiếu vấp phải phản ứng dữ dội (Hải Quan). - Indonesia: Hộ chiếu lưỡi bò ‘phản tác dụng’, Philippines yêu cầu TQ hủy bỏ (VOA). -NHẬN DIỆN “GÓC KHUẤT” PHÍA SAU ĐƯỜNG LƯỠI BÒ (Bùi Văn Bồng).  – Nguyễn Tấn Cứ: Cái lưỡi bò của con bò (Huỳnh Ngọc Chênh).
Nguyễn Ngọc Già – “Hộ chiếu lưỡi bò” là cơ hội tốt? (Dân Luận). “
- Hà Sĩ Phu: Tiến lên trong đa dạng (BoxitVN). - Không đóng bất kỳ dấu nào vào lưỡi bò, có nghĩa là không đóng dấu hủy trên đó: nên buồn chứ không nên vui.


Sức khỏe của ông Putin ‘không được tốt’ (VOA). - Nga sắp triển khai hệ thống do thám toàn cầu mới (TTXVN). - Tổng thống Nga V.Putin đề nghị sửa đổi Hiến pháp (TTXVN). - Sức khỏe Putin rất xấu: Tin đồn thất thiệt (VnMedia). . Sức khỏe của ông Putin 'không được tốt'
VOA Tiếng Việt
Có tin cho hay Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda đã hoãn lại cuộc họp với Tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng tới vì tình trạng sức khỏe của nhà lãnh đạo Nga không được tốt. Hãng thông tấn Kyodo và nhật báo Jiji ở Nhật hôm nay cho biết viên thị ...
Ông Peskov nói Thủ tướng Nhật Bản không am hiểuTiếng nói nước Nga
Nhật Bản thông qua kế hoạch kích thích kinh tế 8,5 tỷ euroRFI
Nhật thêm gói kích thích kinh tế trước bầu cửBBC Tiếng Việt
Dân Trí -VNMedia -Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online
Trộm táo tợn đột nhập tàu hải quân Australia “nẫng” vũ khí (DT).

Tàu hải quân Úc bị đột nhập, cướp súng
Nguoi Viet Online
Kẻ lạ mặt đã lên trên một tàu tuần của hải quân Úc, khống chế nhân viên trực rồi sau đó cướp kho súng mang đi, theo nguồn tin Bộ Quốc Phòng Úc hôm Thứ Sáu.



Tổng số lượt xem trang