Thứ Hai, 7 tháng 1, 2013

Đảng lãnh đạo nhưng 'không đứng ngoài pháp luật’

-'Không ngoài luật'
Báo VN nói Đảng lãnh đạo nhưng 'không đứng ngoài pháp luật’


Dự thảo Hiến pháp nói Đảng CS đại diện cho nhân dân lao động Việt Nam

Trong đợt bài nhân dịch thảo luận về hiến pháp mới, báo Quân đội Nhân dân tiếp tục lên tiếng bảo vệ cho điều 4 Hiến pháp vốn quy định quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.


Dưới tiêu đề ‘Cần hiểu đúng nội dung về Đảng lãnh đạo trong dự thảo Hiến pháp’, cơ quan ngôn luận của Bộ Quốc phòng, đã đăng xã luận hôm 6/1 để bảo vệ điều 4 trước quan điểm của ‘nhiều trang mạng ở hải ngoại và các phần tử phản động’.

Các bài liên quan

Điều 4 Hiến pháp ‘hoàn toàn chính đáng’
Hiến pháp hay hợp đồng điện nước?
Hiến pháp tăng quyền Chủ tịch nước?


Bài xã luận được đưa ra chỉ vài ngày sau khi bắt đầu đợt tham khảo ý dân về Hiến pháp chính thức bắt đầu cho đến hết tháng 3 năm nay.

Hai lập luận chủ yếu mà cây bút Thiện Văn trên báo Quân đội nhân dân đưa ra để bảo vệ điều 4 là đây là điều ‘tất yếu, phù hợp với lịch sử’ và dù Đảng lãnh đạo nhưng ‘không đứng ngoài Hiến pháp và pháp luật’.
Không có luật về Đảng

Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện Việt Nam là ‘hợp với lịch sử’ là vì, theo bài xã luận, sau khi đất nước thống nhất, ‘cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội’ nên phải cần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng lần đầu tiên trong Hiến pháp 1980.

Còn trước thời gian đó, cũng theo bài xã luận này, Đảng chưa áp đặt sự lãnh đạo của mình vào Hiến pháp là do hoàn cảnh Đảng còn phải đang đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù và chưa thật sự nắm quyền trên cả nước.

"Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội... là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn,” bài xã luận viết.

Điều 4 Dự thảo Hiến pháp VN


1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Ông Phan Trung Lý, trưởng Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, trong cuộc phỏng vấn với BBC hôm 3/1 cũng nói vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước ‘đã được lịch sử chứng minh’ và trên thực tế ‘Đảng cũng đang lãnh đạo’.

Ông Lý cũng khẳng định cái mới của điều 4 lần này là bên cạnh khẳng định vai trò lãnh đạo còn ‘nhấn mạnh đến trách nhiệm của Đảng’ trước đất nước, trước nhân dân.

Đây cũng là lập luận mà báo Quân đội nhân dân đưa ra trong bài xã luận.

“Khẳng định vai trò cầm quyền của mình đối với Nhà nước và xã hội, nhưng trách nhiệm của Đảng trước đất nước, trước nhân dân ngày càng được đề cao, nhấn mạnh rõ ràng, cụ thể hơn trong mỗi bản Hiến pháp,” bài xã luận viết.

Khoản 2 của điều 4 trong dự thảo sửa đổi viết: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”

Đây là khoản bổ sung so với điều 4 của năm 1992.

Tuy nhiên, khoản 2 này lại không nói rõ là dân sẽ giám sát Đảng như thế nào và Đảng chịu trách nhiệm như thế nào trước dân.

Còn khoản 3 của điều 4 quy định ‘các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật’.

Đây là điều mà theo báo Quân đội nhân dân sẽ giúp Đảng tránh khỏi sự ‘chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ’ do chỉ có Đảng độc tôn lãnh đạo.

Việc Đảng đặt mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là ‘đã tự nguyện’, theo bài xã luận.



"Dù không có một đạo luật cụ thể về Đảng, nhưng Đảng đã tự nguyện, tự giác đưa mọi hoạt động của mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."


Báo Quân đội nhân dân

“Phải khẳng định rằng, dù không có một đạo luật cụ thể về Đảng, nhưng Đảng đã tự nguyện, tự giác đưa mọi hoạt động của mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật,” tác giả Thiện Văn lập luận.

Cũng theo tác giả này, bản thân các luật lệ nội bộ của Đảng cũng đã có tác dụng điều chỉnh hành vi của Đảng và các đảng viên.
‘Tự nghiêm khắc với mình’

“Đảng ta luôn tự nghiêm khắc với chính mình thông qua việc ban hành các chỉ thị, quy định nhằm giáo dục, rèn luyện, đưa mọi hoạt động của các tổ chức Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên vào khuôn khổ ý thức tổ chức, kỷ luật,” bài xã luận viết.

Tác giả bài xã luận cũng cho rằng việc quy định hoạt động của Đảng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là ‘giải pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống, ngăn ngừa mọi nguy cơ thoái hóa, biến chất có thể xảy ra trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta’.

Mặc dù Hiến pháp 1992 cũng quy định y hệt như vậy nhưng tình hình suy thoái đạo đức trong Đảng diễn ra ngày càng trầm trọng theo như các lãnh đạo Đảng đã thừa nhận.

Bài xã luận kết luận rằng do là ‘lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác’ nên Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng cầm quyền đối với dân tộc và nhân dân Việt Nam.

Tuy nhiên, tác giả lại không hề đề cập đến những thất bại của Đảng đã đưa Việt Nam đến tình cảnh khó khăn hiện nay như là ‘minh chứng thực tiễn sinh động’ cho sự lãnh đạo của Đảng.




Chống diễn biến hoà bình:Cần hiểu đúng nội dung về Đảng lãnh đạo trong Dự thảo Hiến pháp (QĐND 6-1-13)

QĐND - Ngay sau khi các phương tiện thông tin đại chúng của nước ta đồng loạt đăng tải toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để lấy ý kiến toàn dân vào văn kiện đặc biệt quan trọng này, nhiều trang mạng ở hải ngoại và các phần tử phản động lại tiếp tục xuyên tạc nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp.

Một quy định tất yếu, phù hợp với yêu cầu lịch sử

Để “tấn công” vào Điều 4, một số ý kiến lập luận rằng, Hiến pháp các năm 1946 và 1959 không có điều nào quy định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng “vẫn lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân đế quốc xâm lược và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thì cũng không nhất thiết phải xác nhận lại vai trò lãnh đạo của Đảng như trong Hiến pháp hiện tại”(!).

Lập luận này là lập lờ, thiếu toàn diện, không có quan điểm lịch sử cụ thể. Sở dĩ Hiến pháp năm 1946 không có quy định vai trò lãnh đạo của Đảng, vì trước đó ngày 11-11-1945, do tình thế đặc biệt của cách mạng, Đảng ta đã ra tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút lui vào hoạt động bí mật, giữ vững vai trò lãnh đạo. Trong thập niên 50 của thế kỷ XX, đế quốc Mỹ nhảy vào can thiệp miền Nam, đất nước ta bị chia cắt, Đảng bộ miền Nam cũng chưa ra hoạt động công khai vì bộ luật 10-59 của ngụy quyền Sài Gòn nhằm “tiêu diệt cộng sản” cực kỳ hà khắc, man rợ. Vì vậy, Hiến pháp 1959 cũng chưa đề cập đến vai trò lãnh đạo của Đảng. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội, dân tộc ta có chung một bản Hiến pháp mới, trong đó khẳng định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều này là tất yếu, phù hợp với yêu cầu lịch sử, nhiệm vụ cách mạng mới, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và thực hiện đúng cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.

Điều 4 Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lê-nin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.(1)

Kế thừa tinh thần đó, Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.(2)

Trên cơ sở Điều 4 Hiến pháp năm 1992, Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xác định: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.           

Đảng không “đứng ngoài” Hiến pháp và pháp luật

Với mưu đồ xuyên tạc Điều 4 Hiến pháp, một số luận điệu thường nhấn mạnh một vế là: Nếu chỉ có một Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội sẽ dẫn tới chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ. Thế nhưng, họ cố tình không nhắc tới hay “phớt lờ” một điểm then chốt được khẳng định trong Điều 4 là: Các tổ chức của Đảng đều hoạt động trong khuổn khổ Hiến pháp - với tư cách là đạo luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Khẳng định vai trò cầm quyền của mình đối với Nhà nước và xã hội, nhưng trách nhiệm của Đảng trước đất nước, trước nhân dân ngày càng được đề cao, nhấn mạnh rõ ràng, cụ thể hơn trong mỗi bản Hiến pháp. Nếu như Điều 4 Hiến pháp năm 1980 xác định “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”, thì Điều 4 Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Tiếp tục tinh thần đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn quy định thêm về việc tuân thủ, thi thành Hiến pháp và pháp luật đối với mọi đảng viên.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức và kiểm tra; mà phần cốt yếu là thông qua đội ngũ tiền phong của mình là những cán bộ, đảng viên tiêu biểu về bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất và năng lực. Vì vậy, việc Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của mình, đồng thời là giải pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống, ngăn ngừa mọi nguy cơ thoái hóa, biến chất có thể xảy ra trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Mặt khác, việc xác định trách nhiệm của các đảng viên trong việc tự giác, gương mẫu thực hiện, chấp hành Hiến pháp và pháp luật cũng không ngoài mục đích làm cho “đội ngũ tiên phong của Đảng” phải thường xuyên nêu cao ý thức, thái độ, trách nhiệm cả về suy nghĩ và việc làm, tư tưởng và hành động trong việc sống, làm theo Hiến pháp và pháp luật, làm gương cho nhân dân noi theo.

Có ý kiến băn khoăn: Liệu có phải “luật hóa” vai trò cầm quyền của Đảng không? Phải khẳng định rằng, dù không có một đạo luật cụ thể về Đảng, nhưng Đảng đã tự nguyện, tự giác đưa mọi hoạt động của mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, không chỉ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, Đảng hoạt động còn dựa trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, Quy chế làm việc của Đảng và các chỉ thị liên quan đến việc điều chỉnh các vấn đề trong nội bộ Đảng cũng như điều chỉnh các mối quan hệ của Đảng với Nhà nước, xã hội và nhân dân. Thực tế trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị thể hiện trách nhiệm của Đảng trước đất nước và nhân dân như: Quy định 76-QĐ/TW ngày 15-6-2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về việc đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp thường xuyên giữ vững mối quan hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ nơi cư trú”; Quy định 115-QĐ/TW ngày 7-12-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về những điều đảng viên không được làm và gần đây được thay thế bằng một văn bản có tính pháp lý cao hơn là Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư (khóa XI) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, v.v.. Chứng tỏ rằng, Đảng ta luôn tự nghiêm khắc với chính mình thông qua việc ban hành các chỉ thị, quy định nhằm giáo dục, rèn luyện, đưa mọi hoạt động của các tổ chức Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên vào khuôn khổ ý thức tổ chức, kỷ luật, qua đó bảo đảm cho Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên không trượt ra khỏi “đường ray” Hiến pháp và pháp luật.

Đảng không “đứng trên” nhân dân

Muốn hiểu được bản chất của một đảng cầm quyền, phải nhận thức rõ mục đích hoạt động của đảng đó là vì ai, mang lại lợi ích cho ai. Đảng Cộng sản Việt Nam, như Bác Hồ đã khẳng định “Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Vì vậy, Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.

Việc nhiều lần Đảng ta tiến hành tự chỉnh đốn, mà gần đây nhất là đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” bước đầu mang lại nhiều hiệu ứng tích cực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương công khai thừa nhận và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng và về những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Điều đó đã thể hiện tinh thần cầu thị nghiêm túc của Đảng, đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm đẩy lùi những khuyết điểm, yếu kém để Đảng không ngừng nâng cao sức chiến đấu, phẩm chất, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, ngày càng ngang tầm với trọng trách được giao.

Đối với nhân dân Việt Nam, nói đến Đảng là nói đến tình cảm tự nhiên, thiêng liêng, là thể hiện niềm tin và tình yêu son sắt nhân dân dành cho Đảng. Có một sự thật mà hầu như mọi người Việt Nam ai cũng biết đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời; 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược giành thắng lợi vẻ vang, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 26 năm đổi mới vừa là minh chứng thực tiễn sinh động, vừa là cơ sở khoa học thực tiễn để khẳng định về vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với dân tộc và nhân dân Việt Nam.
----------
(1), (2): Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb CTQG, HN,
1995, trang 76 và 137, 138

THIỆN VĂN

anhbasam : - Làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình: Cần hiểu đúng nội dung về Đảng lãnh đạo trong Dự thảo Hiến pháp (QĐND).  “Sở dĩ Hiến pháp năm 1946 không có quy định vai trò lãnh đạo của Đảng, vì trước đó ngày 11-11-1945, do tình thế đặc biệt của cách mạng, Đảng ta đã ra tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút lui vào hoạt động bí mật, giữ vững vai trò lãnh đạo”.Tác giả Thiện Văn đã nhắc lại sự kiện bị các đảng phái khác cho là ĐCSVN đã gian dối. Theo như các tài liệu lịch sử, do các lãnh tụ quốc gia thuộc các đảng phái khác phản đối sự thỏa hiệp giữa phe quốc gia và phe CS, vì bị áp lực nên ngày 11-11-1946 ĐCSVN đã tuyên bố tự giải tán. Hồ Chí Minh và các bên đã tổ chức tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, thành lập Chính phủ Liên hiệp nhiều thành phần gồm các đảng phái khác tham gia và một quốc hội do dân bầu ra. Ngày 2-3-1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thay thế bằng Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, và chính phủ mới này gồm có các đảng phái khác nhau: Việt Minh, Đảng Dân chủ, VN Cách mạng Đồng minh Hội, VN Quốc Dân Đảng, những người không đảng phái… để rồi sau đó Việt Minh sẵn sàng loại bỏ hết tất cả các lãnh tụ khác không phải Việt Minh ra khỏi chính phủ.- Đảng CSVN phiên bản của tình báo TQ (Kỳ 1) - (DLB). Một “tiết lộ” động trời! Có một trong 3 giả thiết về tài liệu này: 1- Đúng sự thực hoàn toàn. Giả thiết này hầu như không thể có, hoặc có một phần không đáng kể. Bài viết-tài liệu còn ít nhiều “ăn theo” một cuốn sách được viết công phu, xuất bản ở Đài Loan mấy năm trước nói về gốc gác HCM.2- Do một lực lượng chính trị đối lập muốn tranh đoạt ảnh hưởng với ĐCSVN ngụy tạo nên, dựa trên một số sự thực lịch sử.3- Do phía Trung Quốc ngụy tạo, với tính toán, chuẩn bị rất công phu từ lâu, chọn thời điểm thích hợp để tung ra, nhằm đưa toàn bộ ban lãnh đạo CSVN trở thành con tin chính trị. Lâu nay, có thể chúng đã đem ra sử dụng một phần, với một số cá nhân trong giới lãnh đạo VN để gây sức ép trong một số đòi hỏi nhất thời. Nay thấy đã đến lúc cần mở chiến dịch tổng lực, đặt ban lãnh đạo ĐCSVN vào tình thế cực kỳ khó ăn khó nói.Dù thế nào thì vụ này cũng càng chứng tỏ giới lãnh đạo CSVN phải sớm bạch hóa dần mọi sự thực lịch sử bị che đậy bao nhiêu năm qua, mới vô hiệu hóa được mọi thủ đoạn thâm hiểm của kẻ thù, như trong vụ “tiết lộ” tài liệu trên. Nếu không, sẽ càng gây ra thêm, dồn nén tới khi bùng nổ, những nghi ngờ trong nhân dân, cán bộ, đảng viên khi thấy liên tiếp có những động thái nhân nhượng chưa từng thấy, không rõ ràng với TQ, rất dễ bị giải thích rằng do ban lãnh đạo ĐCSVN đã trở thành con tin của TQ.Ngoài ra, các báo nhà nước cũng cần (được phép) có những bài phân tích chi tiết những bịa đặt, sai trái (nếu có) của những loạt tài liệu nguy hiểm như trên; không nên phản bác chung chung, kiểu những bài trên Quân đội ND mấy năm nay, rất thiếu sức thuyết phục, càng gây thêm nghi ngờ.Trong những năm trước, phía TQ đã lần lượt cho rò rỉ dần một số thông tin cực kỳ nhạy cảm đối với ĐCSVN, như về đời tư HCM (ít nhất 2 lần), về bức Công hàm Phạm Văn Đồng. Thời điểm rò rỉ thông tin dường như đều liên quan tới những vấn đề hệ trọng trong quan hệ hai nước vào lúc gay cấn.








-Hoàng Lại Giang
Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn.
Dấu ấn của những cuộc “Bạo lực cánh mạng”
Nếu phải chọn một trong hai hình thái trên, tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là bước đường cùng để nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của mình đập tan một thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào con đường cùng. Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng thì vẫn gây ra những tấn thảm kịch cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong.

Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của nhân loại về quyền của con người và quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799. Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn: “…Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”“Nguyên tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “Bạo lực cách mạng” trên đã tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà bình”. Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng, thì đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí,  Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực
“Diễn biến hoà bình” thực chất là sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời đại và hợp lòng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia như Việt Nam lại không muốn thay đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai giành được nước thì sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối thì ngày nay theo nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét hình thức. Trên thực tế chính sách mị dân thuở ban sơ ấy đã mất lòng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần cơ bản”, thì quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và vì vậy họ rất sợ “Diễn biến hoà bình”. Những lý giải sai lệch “Diễn biến hoà bình” của họ hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hãy đọc lại lịch sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà bình” là tất yếu của sự tiến hoá loài người, không có gì phải lo sợ.
Lịch sử Đại Việt còn ghi rõ ở triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước dòng họ, đã đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung lòng chống kẻ thù tuyền kiếp của Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đình thần triều Đinh đã xoay chuyển tình thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần tiền Lê đã sáng suốt tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc về nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nhìn của trăm năm, nghìn năm, cấp tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lý là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại cuối thời tiền Lê, xã hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau vì quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm đãng … mới thấy Lý Thái tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư tưởng chính thống của Đại Việt là có lý do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy, tầm nhìn ấy đã không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lý Thái Tổ đã tự mình làm gương, bắt các thái tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm Thành, Chân Lạp đều lo sợ không còn đất sống, phải triều cống Đại Việt để “bảo toàn đất nước và sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.
Vua tôi đồng lòng, đấy là thời kỳ giữa vua và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “Diễn biến hoà bình” là cần thiết cho một xã hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường hoà bình sang một xã hội tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp lòng dân hơn mà ít tốn xương máu, thì ai lại nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu.
“Quân sư” cho “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà Lý cho chắc vương triều Trần vô cùng dã man thì đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lý đang suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”, nếu cho phép “giá như” thì tôi “giá như” không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà bình” này, thì Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài cho tới hôm nay vẫn còn là những vì sao chói sáng trên bầu trời nhân loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà bình” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau, cuộc “Diễn biến hoà bình”của các đại thần còn chút lòng yêu nước thương nòi đã lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rõ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đã khai sáng triều đại mình.
Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước nghìn năm văn hiến của mình. Nhưng cái gốc của nghìn năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời Lý với việc định đô ra Thăng Long của Lý Thái tổ, với việc lập Văn Miếu của Lý Thánh Tông… Nét Văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng, tìm sự đồng lòng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, nghìn lần, là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời hiện đại nhiều nhà lãnh đạo của chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ về hai chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ý thức hệ đã đẩy chủ nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến nghìn năm đậm nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, tư tưởng “Tâm công sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trãi là Lê Thánh tông. Đây là một vị vua để lại sau mình nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lớn nhất trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội” nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại cho hậu thế những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.” Với 24 điều dạy của vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá cốt lõi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là nô bộc của dân, ý dân là ý Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương vực lãnh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại trình báo chi tiết từ nơi mình ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đình để lập địa đồ cho nước được chính xác. Ngài còn căn dặn các tướng sĩ:
“Ta phải gìn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”
Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử lược”: “… Xem những công việc của vua Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ có vua Thánh Tông thì văn hoá nước ta mới thịnh.”
“Diễn biến hoà bình” không phải như những gì người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta thì “Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc, còn hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ việc phế – lập mà ngày nay gọi là “Diễn biến hoà bình”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ cơ sở nào mà có người lại định nghĩa:“’Diễn biến hoà bình’ là một trong những chiến lược có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, được hình thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50, hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của Đảng CSVN).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đã bám rễ sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm các làng xã trên 50 năm ở các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ý chí chủ quan của nhiều nhà lãnh đạo các nước XHCN. Chính họ đã bất chấp quy luật tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2 thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lãnh đạo ở nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản hoạt động. Vì vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ý chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “Diễn biến hoà bình” gần đây nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc xuống đường của nhân dân đã buộc những nhà lãnh đạo cao nhất, từng có thâm niên trị vì nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân, người đó hãy noi gương Gaddafi ở chiếc cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “Diễn biến hoà bình” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đã được tự do ra khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đã được tháo “vòng kim cô” định hướng, khống chế và kiểm duyệt. Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu tình, … như những gì mà Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. Còn Miến Điện thì …coi đó là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ trị vì dân chúng, và vì vậy trường hợp vị tổng thống đương nhiệm Thein Sein là một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà lãnh đạo một số nước đang còn mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù nhân của chính mình dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, vì dân!
Việt Nam thời hiện đại vẫn còn đó những tấm gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu thì nhờ đồng lân, đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấy rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). Còn Nguyễn Ái Quốc thì theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con đường cứu nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng không đồng nhất giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ thời xưa tới nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội”.
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã thành công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự tích luỹ bao kinh nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện thì về nước. Cuộc “Diễn biến hoà bình” cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến hoà bình” lại trở thành “Bạo lực cách mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà hôm nay chưa dễ có sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước. Nhưng nhìn vào thực tế thì ai cũng thấy Quốc tế 3 thất bại vàQuốc tế 2 thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lãnh tụ của Quốc tế 2 là Enghen. Những năm cuối đời, Enghen nhìn thấy sai lầm của chủ nghĩa L.A. Blanqui (lãnh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1): Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xã hội không có áp bức và bóc lột! “…Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lý”. Ở đây không có kẻ thù địch và “Diễn biến hoà bình” nào cả!
Cái giá của “Bạo lực cách mạng” và nền văn hiến Đai Việt thời hiện đại
Tôi nghĩ giá như – lại giá như – chúng ta đứng trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc như hầu hết các nước ở Đông Nam Á thì biết đâu chúng ta tránh được cuộc “Bạo lực cách mạng” kéo dài suốt 30 năm cùng với những cuộc cách mạng gọi là “dân chủ” gây ra cho dân tộc chúng ta bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, hàng bao nhiêu triệu gia đình tan nát, mẹ mất con, vợ mất chồng, anh mất em, những cuộc ly tán mất nhà mất cửa mất cả quê hương. Một thứ văn hoá phi văn hoá làm đảo lộn văn hoá trong sáng của người Việt được giữ gìn trong trường kỳ lịch sử, qua các cuộc giảm tô, cải cách ruộng đất, cải tao tư sản. Con người Việt thời cách mạng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù … Con tố cha, vợ tố chồng, anh tố em. Cho đến tận hôm nay kẻ thù lại mai danh ẩn tích trong “Diễn biến hoà bình”, còn chính kẻ thù đã và đang cướp biển đảo của ta thì gọi là đồng chí vàng, bạc! Thế hệ chúng tôi lớn lên trong cách mạng, số còn sống hôm nay vẫn không hiểu đây là thứ văn hoá gì? Cho đến hôm nay tôi vẫn nhớ như in lời dạy của vua Trần Nhân tông lúc tôi còn là sinh viên: “Các người chớ quên ,chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họạ lâu đời của ta là họạ Trung Hoa…”(Di chúc của Trần Nhân tông).
Cốt lõi của một dân tộc là văn hoá chứ không phải là đất rộng hay hẹp, nhiều tài nguyên hay ít tài nguyên, không phải người đông hay thưa. Tất cả chỉ là chất xúc tác để tạo ra bản sắc văn hoá của một dân tộc. Bản sắc văn hoá ấy nông hay sâu, dày hay mỏng, rộng hay hẹp, đa tầng hay ít tầng… sẽ quyết định tâm thức của dân tộc ấy. Tâm thức văn hoá quyết định sức mạnh của một dân tộc, quyết định cả sự tồn vong của dân tộc.
Chúng ta tự hào nghìn năm văn hiến là dựa trên cái cốt lõi của một nền văn hoá được vun xới, bồi đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và mở cõi của tiền nhân, tạo thành nhân cách của một dân tộc. Nhân cách ấy là bầu ơi thương lấy bí cùngtuy là khác giống nhưng chung một dàn, là lá lành đùm lá rách, là anh em như thể tay chân, là người trong một nước phải thương nhau cùng – trong ca dao, tục ngữ. Là lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, là việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi. Là quyền biến, lúc bình thì khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc – Trần Hưng Đạo.
Giá trị của văn hoá là giá trị tiềm ẩn, mang đậm dấu ấn riêng của một dân tộc. Theo UNESCO thì “Văn hoá là hệ thống tổng thể những giá trị biểu trưng quy định cách ứng xử, thái độ giao tiếp của một cộng đồng và làm cho cộng đồng đó có đặc thù riêng”.
Tóm lại “Diễn biến hoà bình” xuất hiện tự thời cổ đại thường được gọi là phế – lập, khi xã hội loài người có vương quyền (có kẻ cai trị và người bị trị). Nó là sự vận động khách quan của các mối quan hệ giữa người và người, giữa kẻ thống trị và người bị trị, hoàn toàn không phải là khái niệm của “kẻ thù gần đây”. Sự vận động ấy hướng tới một định chế hợp xu thế thời đại, hợp lòng dân hơn và vì vậy nó là sản phẩm của sự tiến bộ. Nó đồng thời cũng cảnh cáo mọi sự bảo thủ, hám quyền và chuyên quyền! Bước tiếp theo của chuyên quyền là độc quyền. Từ độc quyền đến độc đoán, độc tài, quân phiệt, … là một bước ngắn. Một học giả phương Tây đã khái quát những xã hội chuyên chế rằng: “Một đất nước kỳ lạ khi nó nhìn mọi sự thay đổi như một sự tấn công, mỗi biến chuyển như là một sự giật lùi và mọi sự thích nghi như những cuộc đầu hàng” (theo báo Gilles Delafon trích trong cuốn Hello Earth).
Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài. Chuyên chế và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng nói: “Không có dân thì đất đai không thể còn ,chủ quyền không thể lập ;nhân dân còn thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân dân còn mất thế nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế nào?”
Bình tâm nhìn lại, hôm nay người dân còn được quyền gì? Nhân dân có trăm tai nghìn mắt, không nhà cầm quyền nào đánh tráo được giữa sự bạo ngược và lòng nhân ái. Hồ Chí Minh đã từng lo sợ về một nhà nước mà ông là người sáng lập, đất nước ấy, dân chủ là kẻ thù của nền chuyên chính vô sản: “Các chú diễn giải hai tiếng dân chủ sao mà rắc rối, dài dòng thế?Dân chủ thực ra có nghĩa là: Để cho dân được mở miệng. Dân chủ là đừng bịt miệng dân.” Đúng, trong trường hợp này Hồ Chí Minh là một thiên tài. Ông tiên đoán chính xác sự bất bình thường của “đứa con” mà mình “mang nặng đẻ đau”.
Và vì vậy hôm nay nếu có “Diễn biến hoà bình” thì đấy chính là sự chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái vô tổ chức, trên nói dưới không nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu phục hồi, tham nhũng, mua quan bán chức,… từ hiện tượng đang trở thành bản chất của chế độ, lòng tin của dân với đảng cầm quyền suy giảm đến mức báo động, thì sự chuyển biến ấy chính là đại phúc cho nhân dân, chứ có gì mà phải … sợ? Và dẫu anh có sợ cũng không được. Hãy gia cố con đê trước khi nước tràn! Khi nước đã tràn thì có Thánh cũng chịu!
Ổn định và trì trệ
Cái dễ của nhà cầm quyền là vui vẻ, là hài lòng trước quyền lực của mình ngày hôm nay, và mong xã hội ổn định mãi như ngày hôm nay để tiếp tục giữ quyền lực.
Cái khó của nhà cầm quyền là dám nghe những phản biện và tự vượt lên chính mình ngày hôm nay để theo kịp sự chuyển hoá khách quan của xã hội – sự chuyển hoá cần thiết cho sự tồn tại và phát triển đất nước trong đó có mình và dòng họ mình. Điều ấy lý giải vì sao ngay cả thời phong kiến nhà vua vẫn phải chấp nhận “Giám sát ngự sử” bên cạnh mình. Thực tế chứng minh vương triều nào can đảm lắng nghe lời can gián, những lời “nghịch nhĩ” điều chỉnh phương pháp trị dân của mình thì xã hội lành mạnh hơn. Đấy mới là sự ổn định thực thông qua “Diễn biến hoà bình” chính tư duy của mình. Không ít nhà lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam chưa nhận thức đúng học thuyết Marx về ổn định đồng nghĩa với trì trệ. “Thực chất cách mạng của phép biện chứng duy vật không dung hoà với bất cứ sự trì trệ và bất động nào, làm cho phép duy vật trở thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp tính toán một cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát trển xã hội, tình trạng những hình thức cũ không phù hợp với nội dung mới, sự cần thiết phải chuyển đến những hình thức cao thúc đẩy sự tiến bộ của loài người…” (Từ điển triết học – nxb VH TT 2002, tr 84).
Hãy nhìn sự ổn định của xã hội VN và các nước theo chúng ta là không ổn định như Thái Lan, Nhật Bản,… thì ai cũng dễ đồng tình xã hội của họ vẫn phát triển vượt xa chúng ta nhiều, nhiều lắm.
Chúng ta đánh đổ phong kiến, chúng ta đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đâu phải để xây dựng một xã hội ổn định theo kiểu không có phản biện hay phản biện giả. ( Phản biện giả là phản biện có sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.) Có ai đó chê Hoàng đế Quang Trung là độc tài quân phiệt, nhưng tôi chưa thấy tài liệu nào nói Ông bắt giam, bỏ tù một ai mắc tội vu khoát. (Trong Chiếu cầu lời nói thẳng Quang Trung mong nhận được những lời nói thẳng, nói thực, không bắt tội vu khoát một ai).
Vậy mà hôm nay chính tôi lại nhìn thấy bao nhiêu người yêu nước bị bắt, bị giam cầm chỉ vì yêu nước mà không chịu yêu CNXH, chỉ vì có chính kiến khác với chính thống. Trong thực tế Marx chưa bao giờ đồng nhất yêu nước và yêu CNXH! Và với CNCS, Marx cũng chỉ dám dự đoán thôi.
Những nhà lãnh đạo hôm nay nên dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế để thấy phong kiến và đế quốc thối nát thực, nhưng chúng nó vẫn cho những người yêu nước, những người cộng sản ra báo tư nhân, lập nhà xuất bản tư nhân, dân được lập hội và biểu tình phản đối chúng nó. Năm 1925 Phan Chu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, và sau đó không lâu ông tổ chức diễn thuyết lên án chính quyền. Năm 1925 cụ Phan có ít nhất 2 lần diễn thuyết ở Sài Gòn. Và ngày 26 tháng 3 năm 1926, khi ông qua đời, gần một nửa dân Sài Gòn đi dự đám tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh mà không ai bị bắt bớ, tù đày. 96 năm sau ngày cụ Phan ra đi vĩnh viễn, bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm giữa thềm nhà hát Lớn Sài Gòn lên án Trung Quốc xâm chiếm biển đảo thuộc chủ quyền VN thì bị công an xua đuổi cùng nhiều trí thức tên tuổi như nguyên Viện trưởng Viện xã hội học Tương Lai, kiến trúc sư Trọng Huấn. Hai thể chế đối lập ấy, người dân thường cũng biết đối chiếu so sánh dễ dàng huống chi là những trí thức tầm cỡ như GS Hoàng Tuỵ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, GS Phan Đình Diệu, GS Ngô Bảo Châu, nhà văn Nguyên Ngọc, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Tương Lai, BS Huỳnh Tấn Mẫm, … để từ đấy lãnh đạo nhà nước hôm nay nên coi “Diễn biến hoà bình” hoàn toàn không phải là kẻ thù địch nào cả mà sự trì trệ trong chính những nhà lãnh đạo của Đảng CS, là phương sách chuyển hoá tư duy chính mình và chuyển đổi xã hội phù hợp quy luật khách quan thì tự khắc lòng dân lại thuận.
Một thời chúng ta đã từng quy kết và dùng nhục hình dã man với bao nhiêu người có công với cách mạng, những dân oan vô tội, tôi mong những người nắm quyền lực hôm nay đừng đẩy những người yêu nước vào cái gọi là bọn thù địch “Diễn biến hoà bình” mà rơi vào những sai lầm đã khắc vào lịch sử trong quá khứ chưa xa những tội lỗi trời không dung đất không tha!( cụm từ của Nguyễn Trãi).
Thay lời kết
Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin. Nhưng tôi không nói chuyện đúng sai ở đây. Ở đây tôi chỉ mong với tư cách một người lãnh đạo Đảng, anh cố gắng giữ cho xã hội dưới thời anh trên dưới đồng lòng, coi dân làm trọng, xoá cách biệt giữa dân với Đảng, hết sức tránh dùng cường quyền và bạo lực đối với những người yêu nước khác chính kiến. Muốn vậy chính anh và những đồng chí của anh phải tự mình chuyển hoá tư duy hoặc là chấp nhận “Diễn biến hoà bình” (Không phải Diễn biến hoà bình theo định nghĩa của báo Điện tử ĐCS, mà theo truyền thống, hợp xu thế). Đấy là hai con đường ôn hoà nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và hợp quy luật khách quan .
Tôi tin anh làm được bởi trước anh đã có Trường Chinh một thời thiên tả, cứng nhắc, rồi đã tự phủ định mình hôm qua. Thời ấy kinh tế thị trường là cụm từ cấm kỵ, đồng nghĩa với xét lại. Ai dính vào cái “mũ” này thì coi như cuộc đời chấm dứt. Nói như thế để thấy vai trò vô cùng quan trọng của cụ Trường Chinh. Tôi mong anh học tập cố TBT Trường Chinh và mới đây là Thein Sein – người vừa được báo Straits Times Singapore tôn vinh nhân vật của châu Á năm 2012.
Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ. Xã hội hôm nay dưới quyền anh làm tôi nhớ lại thời Nhân văn Giai phẩm ở trong nước thời hiện đại, và thời cổ đại Trung Hoa tôi lại nhớ thời Tống Thần tông, Vương An Thạch làm tể tướng. Vương là một người học rộng tài cao, một nhà thơ uyên thâm. Vậy mà dưới thời Vương An Thạch kẻ sĩ bị bắt, bị đi đày nhiều nhất. Một thi nhân như Tô Đông Pha chỉ vì không đồng chính kiến với Vương An Thạch mà gần suốt cuộc đời phải chịu đi đày, có lúc đói quá phải “hớp nắng” để đỡ đói trên đảo Hải Nam. Trên cái nền này tôi có viết cuốn “Thăng trầm Tô Đông Pha” (Nhà XB Văn nghệ TP HCM năm 2000) với hy vọng những nhà lãnh đạo VN hôm nay lấy đó làm bài học. Nhưng dường như người ta nghĩ nhiều về quyền lực và quyền lợi mà nhẹ về văn hoá – văn hoá đời Lê lấy chí nhân thay cường bạo, văn hoá đời Trần lấy khoan dung làm trọng.
Tôi nay đã ngoài 70, không hề biết sợ chết, chỉ sợ trước khi chết mà vẫn phải nhìn đất nước như thời Vương An Thạch!
Chắc anh thừa biết lịch sử không quên công lao một ai và lịch sử cũng không bỏ sót tội lỗi một ai.
H.L.G.
*****
Nguồn:



Tổng số lượt xem trang