Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Hòa đàm Paris 1968: “Hãy đừng bị lừa dối”

- Hòa đàm Paris 1968: “Hãy đừng bị lừa dối” (TVN).Harriman "tin rằng việc Tổng thống không dừng ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 là một bi kịch lịch sử với những hậu quả có thể rất rộng lớn".
Vào cuối tháng 8, Harriman viết cho Hubert Humphrey: "tôi thực sự quan tâm việc ông sẽ trở thành Tổng thống tiếp theo của chúng tôi, và mong muốn làm bất cứ những gì có thể để ủng hộ mục tiêu đó. Hơn nữa, tôi thất kinh với tai họa cho đất nước chúng ta nếu Richard Nixon được bầu chọn. Ngoài sự thụt lùi của đất nước chúng ta vì các chính sách phản động của ông ta và những người thuộc cánh hữu của đảng Cộng hòa mà ông ta đại diện, không may là trên khắp thế giới này ông ta đã khuấy động một sự bất tín cá nhân".

Tuy nhiên, Lyndon Johnson lại thấy thoải mái với viển cảnh đảng Dân chủ sẽ thất bại trong cuộc bầu cử tháng 11. Các nỗ lực của Hubert Humphrey nhằm xoa dịu cánh tự do trong Đảng Dân chủ đã chọc giận Tổng thống, và ông dường như không quan tâm liệu gã người Minnesota này có kế vị mình hay không. Có lần, Johnson lập luận rằng phe Cộng hòa "đã giúp ích cho chúng ta nhiều hơn (về Việt Nam) so với phe Dân chủ trong vài tháng cuối cùng". Cảm nghĩ này không phải là điều tốt cho các triển vọng của Humphrey, cũng chẳng tốt cho hòa bình.

Suốt tháng 7 đó có một sự lắng dịu tạm thời về cường độ chiến tranh ở Nam Việt Nam. Harriman giải thích đây là "một kiểu dấu hiệu kiềm chế mà Tổng thống đã yêu cầu trong thông điệp ngày 31 tháng 3 của mình" và hăng hái tận dụng ưu thế ngoại giao bằng cách yêu cầu quân đội Mỹ phản ánh trung thực sự giảm bớt các hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Ngày 29/7, Harriman viết cho Dean Rusk rằng "bên cạnh việc thúc đẩy đàm phán thì dừng ném bom trong tương lai gần có thể cứu mạng được nhiều binh sĩ Mỹ, những người có thể sẽ chết khi trong cuộc chiến với Bắc Việt Nam". Harriman hy vọng một lý do cơ bản như vậy có thể sẽ thuyết phục được Ngoại trưởng.
Vô tình phối hợp với đề nghị của Harriman, tờ Thời báo New York đã đăng xã luận ủng hộ dừng ném bom vào đúng ngày hôm đó và phó Tổng thống cũng "chuẩn bị một bức thư về lập trường của chính ông, bao gồm việc ngừng ném bom". Gần như chắc chắn nhận được đề cử của Đảng Dân chủ tiếp sau vụ ám sát Bobby Kennedy ở Los Angeles, Humphrey hết lòng ủng hộ các nỗ lực của Harriman, và muốn Tổng thống cho phép ông được linh động đàm phán hơn nữa như mong muốn.
Bà Nguyễn Thị Bình tại Hòa đàm Paris. Ảnh tư liệu.
Sự kết hợp cố vấn này có thể đã không tồi tệ hơn từ góc nhìn của Harriman. Johnson xem thường New York Times và tin rằng Humphrey đang thể hiện một sự phản bội mà đã đặt ông lên trên giới hạn cho phép. Johnson  "rất giận dữ" khi ông nghe tin Humphrey tán thành đề xuất ngừng ném bom của Harriman. Tổng thống dứt khoát không lùi bước và chiến dịch ném bom của Mỹ tiếp tục như trước. Dean Rusk bồi cho một phát súng kết liễu vào ngày 31/7 khi đưa ra những gì mà Averell Harriman mô tả một cách cay đắng là "một cuộc họp báo không khoan nhượng xóa sạch mọi công việc mà Vance và tôi đã làm ở Paris kể từ đầu tháng 5".
Trong một lá thư gửi Harriman, Rusk viết: Chúng tôi có lý do để tin rằng Hà Nội, Moscow và các bên khác đang cố gắng leo thang một chiến dịch phối hợp để buộc chúng ta dừng mọi hoạt động ném bom mà không có bất kỳ hành động tương ứng nào từ phía Hà Nội. Đó có thể là họ đang hy vọng vào hội nghị và thời kỳ bầu cử để đạt được sự kết thúc này. Họ phải được làm cho tỉnh ngộ khỏi ý tưởng này nếu muốn có hòa bình". Lyndon Johnson mô tả bức điện của Harriman như "cháo bột mì" và than phiền cay đắng rằng "kẻ thù đang dùng chính người của tôi như những kẻ bị lừa bịp".

Ngày 22/8, một Harriman cương quyết viết rằng "Tôi tin rằng việc Tổng thống không dừng ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 (như chúng tôi đề nghị) là một bi kịch lịch sử với những hậu quả có thể rất rộng lớn". Vào thời điểm này, cựu cố vấn an ninh quốc gia McGeorge Bundy và Clark Clifford cũng lên án Johnson thiếu thiện ý trong việc hạn chế quân sự để tạo điều kiện cho một đột phá đàm phán ở Paris. Clifford cảm thấy không giúp ích nhiều nếu chỉ hạn chế một phần quân đội để giúp Harriman làm công việc của mình. Nếu Tổng thống thực sự muốn tìm kiếm hòa bình, Clifford cho rằng ông phải tìm kiếm một cách đúng đắn: Gần như là không thể đàm phán một cách chân thành với một đối tác mà họng của họ bị anh bóp nghẹt. Bất đồng gay gắt với lập luận của Clifford, Rostow thông báo với Bộ Quốc phòng rằng ông "rất phiền lòng với một số bình luận về việc ném bom [. . .]
Sự thúc ép chủ yếu nhằm vào Hà Nội là các lực lượng và đồng minh ở miền nam. Một trong những áp lực khác đã và vẫn là ném bom xuống miền bắc". Niềm tin của Clifford rằng Hà Nội có thể đơn giản di chuyển người và quân nhu theo ý muốn - rằng chiến dịch ném bom của Mỹ dứt khoát không thể ngăn cản miền bắc - là không đúng. Rostow thông báo một cách kẻ cả với Clifford rằng "cuộc sống và chiến tranh không đơn giản như thế".

Hướng sang sự phản đối của McGeorge Bundy, Rostow đã soạn ra một lá thư dài mà Tổng thống đã gửi cho viên cựu cố vấn an ninh quốc gia của ông. "Tôi biết thật khó để tin kẻ ngoài", Tổng thống nhấn mạnh trong lá thư, "nhưng thực tế đơn giản là bên kia vẫn chưa sẵn sàng cho một thỏa thuận. Tôi không hết hy vọng rằng một lúc nào đó họ có thể sẵn sàng trong những tuần và tháng tới đây - mặc dầu tôi không trông mong điều này". Tìm sự an ủi trong sự ủng hộ kiên định của Rostow và Rusk, Tổng thống thẳng thừng từ chối thuận theo những người chỉ trích ông bằng cách rút ngắn chiến dịch ném bom.
Trong một bài phát biểu hiếu chiến trước "Các cựu chiến binh tham chiến ở nước ngoài', Johnson tuyên bố: "Hãy đừng để bị lừa dối. Hãy đừng để bị làm mê muội. Tóm lại, nhân dân của chúng ta và nhân dân của họ phải hiểu rõ một điều: Chúng ta sẽ không dừng ném bom chỉ để cho họ có cơ hội đẩy mạnh cuộc tắm máu của mình". Tuy nhiên, khó mà không xem sự dứt khoát của Tổng thống là do tức giận vì nghĩ Humphrey và Harriman phản bội - một trạng thái tâm lý o bế mà các cố vấn diều hâu của ông đã tích cực duy trì.
Suốt tháng 8/1968, Phó Tổng thống có một số bước thăm dò để tự thoát ra khỏi quan điểm của chính quyền Johnson về hòa đàm với Bắc Việt Nam.
Trong một cảnh báo bằng lời rất rõ ràng tới Richard Nixon rằng đừng có chính trị hóa các cuộc đàm phán ở Paris trong chiến dịch bầu cử sắp tới, Humphrey nói thêm: "Tôi tin rằng các ứng viên được chọn bởi các chính đảng nợ người dân Mỹ và nợ những người lính trên chiến trường ở Việt Nam việc phải tuyên bố rõ như ban ngày với Hà Nội rằng họ sẽ không có được một thỏa thuận tốt hơn".
Tại Đại hội Đảng Dân chủ ở Chicago, Humphrey miễn cưỡng đồng ý ủng hộ cương lĩnh cứng rắn của Tổng thống về Việt Nam - một quyết định đã gây chia rẽ trong đảng và khiến cho Humphrey bị bêu riếu là con chó cảnh của Tổng thống. Cảm thấy nhục nhã trước sự chỉ trích này, Humphrey bắt đầu nhận ra rằng muốn đánh bại Nixon thì ông phải chọn một lập trường mà đặt ông gần hơn với ứng viên Tổng thống cùng quê Minnesota, Eugene McCarthy.
Vào cuối tuần ngày 14-15/9, Harriman và Vance báo cáo một số tin tức tích cực từ Paris. Họ đã tổ chức một cuộc đối thoại riêng quan trọng với hai nhà đàm phán chủ chốt của Bắc Việt Nam là Lê Đức Thọ và Xuân Thủy, những người đã thể hiện thiện ý muốn bắt đầu các cuộc đàm phám nghiêm túc ngay khi chiến dịch ném bom kết thúc. Hà Nội cũng tỏ dấu hiệu, thông qua các cuộc thảo luận riêng rẽ diễn ra với trung gian Na Uy ở Oslo, rằng họ sẵn sàng chấp nhận một sự hiện diện của Nam Việt Nam tại các cuộc hòa đàm chính thức ở Paris.
Không hề ấn tượng trước những gì trên thực tế là một bước đột phá quan trọng, Rostow đã viết một cách suy diễn cho Tổng thống rằng "nếu ngài xét thấy ngoại giao đã thất bại", ngài có thể xem xét "ném bom Campuchia [. . .], ném bom Hà Nội - Hải Phòng, phá hoại Hải Phòng [. . .] và [tiến hành] các cuộc tấn công trên bộ ở phía bắc DMZ". Thậm chí, ở giai đoạn cuối này, Rostow vẫn hy vọng Tổng thống có thể đồng ý với các kế hoạch xâm lược của ông ta. Khi đưa ra những gợi ý đó, Rostow thể hiện một chút khí sắc thời đại và kiểu cách mà trong đó những nhận thức chung về Cuộc chiến Việt Nam đã thay đổi.
Rostow tiếp tục bày tỏ lo ngại rằng Harriman đang vượt quá quyền hạn cho phép, và muốn Tổng thống nói rõ rằng ông sẽ không theo đuổi hòa bình bằng bất cứ giá nào. Trong một cuộc gặp ngày 17/9 với Harriman, với sự có mặt của Rostow, Johnson tuyên bố rõ: "vì Đại sứ Harriman sắp rời nhiệm", nên "Tôi sẽ mong đợi ông, Averell, dẫn dắt Đảng và Chính phủ trong việc yêu cầu nối lại chiến dịch ném bom nếu họ vi phạm những hiểu biết này".
Tình hình có vẻ khó lay chuyển cho Harriman và Phó Tổng thống - người đang tụt lại sau Nixon trong các cuộc thăm dò dư luận. "Đừng tin những gì ông nghe thấy rằng chiến dịch của Humphrey rất dở", Harriman viết cho Vance một cách thất vọng, "bởi vì nó còn dở hơn ông tưởng nhiều".
David Milne
(Sam Nguyễn dịch)
Tác giả David Milne là một giảng viên cao cấp về Lịch sử Chính trị Mỹ tại Đại học Đông Anglia. Ông là một thành viên Fox International tại Đại học Yale năm 2003, một thành viên cấp cao của Viện Gilder-Lehrman về Lịch sử Mỹ, New York City, năm 2005, và ông có tư cách hội viên tại Hiệp hội Triết học Mỹ, Philadelphia, năm 2008. Chuyên khảo đầu tiên của ông, "Rusputin của Mỹ: Walt Rostow và Cuộc chiến Việt Nam" đã được Hill and Wang xuất bản năm 2008. Hiện nay ông đang viết cuốn sách thứ 2, tựa đề tạm thời là Thuyết duy lý trí trong Ngoại giao Mỹ (Intellectualism in American Diplomacy), cho Farrar Straus and Giroux. Tác phẩm của ông đã xuất hiện trên Tạp chí Lịch sử Quân sự, International Affair, TheNation, và the Los Angeles Times.

Choisy Le Roi, điểm đến lịch sử
Nhân Dân
NDĐT - Chính quyền và người dân thành phố Choisy Le Roi (Pháp) tổ chức buổi lễ hữu nghị và đoàn kết với Việt Nam trong không khí hồ hởi đón chào năm mới với những kế hoạch phát triển đầy hứa hẹn. Tình cảm với Việt Nam tiếp tục được các bạn Pháp ...
Đàm phán Paris – nền móng phát triển của ngoại giao Việt NamĐài Tiếng Nói Việt Nam
Hiệp định Paris: Yếu tố góp phần tạo nên chiến thắngVietnam Plus
-Hòa đàm Paris giữa cuộc đối đầu của các cố vấn
Liên quan đến hòa đàm Paris, những ngày cuối của nhiệm kì Tổng thống, Johnson xoay đổi hướng giữa hiếu chiến và kiềm chế, phản ánh những chia rẽ trong các cố vấn chính sách của ông và cả nước Mỹ.
Kissinger bắt tay các ông Xuân Thủy, Lê Đức Thọ tại Hòa đàm Paris. Ảnh tư liệu
Các cuộc đàm phán không chính thức với đoàn đại biểu Bắc Việt Nam bắt đầu ở Paris ngày 10/5. Tóm tắt của Harriman là tương đối thẳng thắn: Ông sẽ thiết lập liên hệ với các đại diện Bắc Việt Nam, thuyết phục họ cùng bắt tay xuống thang chiến tranh, và nhất trí ủng hộ các cuộc bầu cử tự do ở Nam Việt Nam, trong đó Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sẽ hạ vũ khí và tham gia bầu cử như một chính đảng hòa bình.
Harriman tuyên bố trong lúc ông rời khỏi Washington rằng "Chúng tôi sẽ tham gia trong tinh thần ngay thật và thiện chí. Nếu tinh thần đó phù hợp với phía bên kia, tiến bộ có thể được tạo ra hướng tới mục đích của chúng ta là một thỏa thuận hòa bình."
Tuy nhiên, Rostow không mất nhiều thời gian để phát hiện ra các vấn đề và một lần nữa biện luận thiên về một sự leo thang quân sự nhanh chóng nhằm cản trở nhà đàm phán trưởng của Mỹ. Làm như thế, Rostow va chạm với Harriman và Clark Cliford.
Về sự phản đối của Bộ trưởng Quốc phòng đối với các kế hoạch ném thêm bom, Rostow viết: "Những gì phân tích của Clark không đề cập đến là những gì chính sách mà chúng ta nên theo đuổi nếu không có đột phá trong các cuộc đàm phán ở Paris và nếu họ tiếp tục "đọc danh bạ điện thoại" cho chúng ta nghe mỗi khi chúng ta gặp nhau. Tôi không tin chúng ta có thể ngồi vô hạn định trong những hoàn cảnh như vậy".
Nếu phe Dân chủ chọn Thượng nghị sĩ New York Robert Kennedy tại Đại hội toàn quốc của đảng ở Chicago hay không và nếu người dân Mỹ có bầu ông vào tháng 11, Rostow sợ rằng Bắc Việt Nam đơn giản là chần chừ cho đến khi Tổng thống Kennedy đưa ra một giải pháp thiện chí hơn. Để ngăn chặn điều này xảy ra, Rostow đề nghị Tổng thống đánh phá "các cảng biển Bắc Việt Nam và/hoặc cử một số quân của chúng ta bắc tiến qua DMZ". Xâm lược Việt Nam, Rostow lập luận, sẽ tạo cho Tổng thống Robert F. Kennedy một triển vọng không chắc thành công.
Thất vọng trước sự hiếu chiến của Rostow, Harriman viết ngày 4/6 rằng "sẽ là một sai lầm lớn khi dọa đánh bom các khu đô thị ở Bắc Việt Nam một khi họ tiếp tục tiến công vào Sài Gòn [. . .]  Đánh bom Hà Nội hoặc Hải Phòng trong những hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi tin, sẽ khiến Hà Nội đoạn tuyệt với hòa đàm và có những phản ứng bất lợi khác".
Phản hồi trước những lo ngại của Harriman, Rostow gửi một lá thư bi quan tới tổng thống. "Tôi miễn cưỡng đi đến kết luận", Rostow cảnh báo, "Rằng nếu chúng ta tiếp tục duy trì các cuộc đàm phán ở Paris, chúng ta sẽ phải đón nhận nguy cơ giải tán chúng [. . .] Tôi tin rằng họ đang cười vào mặt chúng ta và coi chúng ta như những gã khờ trên mặt trận quân  sự - ngoại giao".
Rostow khuyên Tổng thống rằng ông hãy "yêu cầu Averell bảo Bắc Việt Nam rằng chúng tôi sẽ phải đáp trả cho mỗi quả tên lửa vào Sài Gòn bằng ít nhất một quả bom nhằm vào Hà Nội". Rostow đồng tình với "quan điểm của Clark Clifford rằng điều này có thể là một đòn giáng chí tử vào vị thế chính trị của Phó Tổng thống".
Tuy nhiên, "Clark đã sai lầm khi tin rằng chúng ta - hoặc Phó Tổng thống - có thể tiếp tục sống chung với vị thế phi nhân cách và nhục nhã khi mà [. . .] họ từ chối đàm phán nghiêm túc ở Paris."
Quan ngại trước sự thiếu nền tảng của Bộ trưởng Quốc phòng, Rostow thậm chí đã cố tách Lầu Năm Góc khỏi vành đai thông tin, từ chối chuyển các báo cáo từ hòa đàm Paris cho Cliford.  Thư ký của Bộ Ngoại giao Benjamin Read đã rất choáng với sự khiếm nhã thô thiển này và đã lập ra một "dịch vụ sứ giả tư nhân" nhằm phá vỡ sự cấm vận thông tin của Rostow.
Có một chút băn khoăn là Harriman, đồng minh thân cận nhất của Clifford, lại chịu mô tả Walt Rostow như một "Rasputin" của Mỹ vì những ảnh hưởng vô vị mà ông này chèn vào việc ra quyết định của Tổng thống.
Các triển vọng về một sự đột phá ngày càng hứa hẹn về phía Bắc Việt Nam và ngày 4/6, Thủ tướng Liên xô Alexei Kosygin viết cho tổng thống nói rằng "Tôi và các cộng sự của tôi tin tưởng" rằng Bắc Việt Nam sẵn sàng đàm phán một thỏa thuận, miễn là Mỹ dừng chiến dịch ném bom."
Là một chuyên gia có tiếng về USSR, Harriman không hiểu "một lãnh đạo Xô Viết lại đưa ra một lập trường trực tiếp như thế". Hài lòng với triển vọng về một sự đột phá như vậy, Clifford cùng ông kêu gọi một sự ngừng ném bom. Một Dean Rusk vốn kín đáo ít nói nhưng tỏ rõ sự ủng hộ đối với một phản ứng tích cực trước yêu cầu của Kossygin. Mỹ có thể luôn nối lại chiến dịch ném bom nếu như không có gì tiến triển.
Tuy nhiên, trong một cuộc gặp với Tổng thống ngày tiếp sau đó, Rusk thay đổi chiến thuật và "phá hỏng đề xuất của Clifford, giữ quan điểm rằng tất nhiên chúng ta không thể chấp nhận những gì Kosygin nói một cách nghiêm túc. Không hay biết sự trở mặt của Ngoại trưởng, Clifford và Harriman giữ vững lập trường nhưng không đi đến đâu.
Như Harriman hồi tưởng: "Tác động thực sự của điều này là cực kỳ mạnh mẽ, gạt bỏ Kosygin, và Clifford và tôi đều nghĩ chúng tôi đã để mất một cơ hội đưa chính phủ Liên Xô vào cùng gánh vác trách nhiệm, theo một cách có giá trị nhất, cho tương lai hòa đàm".
Thất vọng bởi cách hành xử của Rusk, Harriman nhớ lại rằng "Tôi chưa bao giờ tham gia vào bất kỳ một cuộc thảo luận nào ở Nhà Trắng, nơi có một nỗ lực quá rõ ràng được thực hiện về phía một thành viên trong Nội các của Tổng thống với mục đích phá hoại vị thế của người khác trước khi người ta có cơ hội thể hiện nó".
Trở lại Foggy Bottom cùng nhau, Rusk nói với Harriman rằng "vấn đề với Clark là ông đã đánh mất dũng khí kể từ khi tiếp quản Lầu Năm Góc". Tức giận bởi sự gièm pha này, Harriman nói với sếp của mình rằng ông không đồng ý về cơ bản với cách giải thích của ông này về các động cơ của Clifford. Sau đó, ông ghi lại: "Tôi cảm thấy Dean chắc chắn đã sử dụng đòn tấn công này vào tính cách của Clark với Tổng thống. Đối với tôi, kiểu tấn công như thế nhằm vào một đồng nghiệp là đê tiện".
Harriman và Clifford đã có một cuộc trò chuyện qua điện thoại thẳng thắn vào ngày 21/6, trong đó họ thảo luận về vấn đề cốt lõi đang phải đối mặt: cụ thể, họ tỏ ra là hai nhân sự cấp cao duy nhất của chính quyền Johnson quan tâm đến việc đạt được hòa bình ở Việt Nam.
Đối với Clifford, vấn đề chính là Tổng thống chịu ảnh hưởng của các cố vấn "bi quan", những người đưa ra một phản ứng xa lánh với Bắc Việt Nam. Clifford nói với Harriman rằng Tổng thống "được báo cáo rằng khó có thể chịu nổi về thái độ của chúng ta với Nam Việt Nam, binh lính của chính chúng ta và thậm chí cả vị thế của chúng ta trên thế giới nếu chúng ta để mặc cho Sài Gòn bị nã pháo trong khi Hà Nội không bị đụng đến. Ông ấy bắt đầu khó bảo.
Gắn với cách tiếp cận này, tôi nghĩ, là một nỗ lực từ phía ai đó muốn tỏ dấu hiệu rằng có lẽ sẽ không có kết quả gì từ Paris". Clifford tin rằng có một cách duy nhất để làm dịu bất mãn của "chính những người đàn ông rất quân phiệt" (ý ông là Rusk và Rostow), những người muốn leo thang một cuộc chiến trên không, và để nhấn mạnh một thực tế rằng các cuộc hội đàm ở Paris đang tạo ra "những chỉ hướng" đầy hy vọng, ngay cả khi điều này không khớp với thực tế. Nếu báo chí Mỹ đưa tin Harriman đang đạt tiến bộ nào đó ở Paris, thì sẽ khó hơn cho Tổng thống khi phê chuẩn kiểu chiến dịch ném bom mà Rostow đề nghc hòa đàm Paris, Johnson báo hiệu cho vị Phó Tổng thống của mình rằng ông này phải hạ gục Richard Nixon mà không có ai giúp đỡ.

Harriman và Vance muốn Tổng thống phấn chấn lên và áp đặt kiềm chế hơn nữa lên quân đội, nhưng Johnson không muốn tạo cú huých cần thiết này cho các cuộc hòa đàm Paris. Các nhà đàm phán của Tổng thống muốn hòa bình vì lợi ích của chính nó nhưng cũng lo ngại các cuộc hòa đàm bị kéo dài, mà không thấy hồi kết đâu, có thể mở hé một cánh cửa cho chiến thắng bầu cử của phe Cộng hòa. Và cả hai người đều xem Tổng thống Richard Nixon là một triển vọng kinh hoàng.

David Milne

(Sam Nguyễn dịch)

-Nghệ thuật ngoại giao Việt Nam với cuộc đàm phán ParisĐài Tiếng Nói Việt Nam
(VOV) - Cuốn sách của tác giả Nguyễn Khắc Huỳnh đề cập tới nhiều vấn đề ít người biết về đàm phán Hiệp định Paris. Hiệp định Paris 
· 40 năm Hiệp ...
Hòa đàm Paris giữa cuộc đối đầu của các cố vấnXãLuận.com tin tức việt nam 24h cập nhật
Hiệp định Paris: Yếu tố góp phần tạo nên chiến thắngVietnam Plus



Hòa đàm Paris và 'kẻ xúi bẩy' đằng sau JohnsonVietNamNet

- Hai ông cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kissinger (Lê Mai). Bốn mươi năm Hiệp định Pari về VN
***
Sau cuộc ném bom Giáng sinh, hai ông cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kissinger lại gặp nhau tại cuộc hòa đàm Pari – nay đang đi vào giai đoạn cuối cùng. Cũng như nhiều trận đánh lớn khác, Bắc VN và Hoa Kỳ đều cho rằng mình là người chiến thắng trong chiến dịch B52 ném bom Hanoi. Phía Hoa Kỳ thừa nhận mất 15 máy bay B52, trong khi số liệu của Bắc VN là 34 chiếc. Trong cuốn Ai chi phối chiến trường tương lai, Trương Lợi Hoa – Trường Đại học Quốc phòng TQ cho rằng, trong 12 ngày đêm ấy, Bắc VN đã phóng 1.000 tên lửa SAM – 2 lên bầu trời Hanoi.
Khi Bắc VN chấp nhận nối lại cuộc hòa đàm Pari, Nixon coi đây là “sự đầu hàng tuyệt vời của địch theo các điều kiện của chúng ta”. Trong khi đó, ngày 6.1.1973, Lê Đức Thọ đến Pari và Bắc VN mô tả là nếu như lần đầu, năm 1968 ông Thọ đến Pari trong vòng nguyệt quế của “chiến thắng Mậu Thân” thì nay ông ta đến Pari trong hào quang của “trận Điện Biên Phủ trên không”.
Hai ông cố vấn đặc biệt đều nổi danh không chỉ tại Pari. Kể từ cuộc gặp đầu tiên giữa hai ông cố vấn đặc biệt vào ngày 21.2.1970, đã ba năm trôi qua. Có một điều thú vị là Trưởng đoàn đàm phán của hai bên trong cuộc hòa đàm Pari không có quyền hành bằng cố vấn đặc biệt. Kissinger “khen” Xuân Thủy – Trưởng đoàn VNDCCH giỏi ra những tuyên bố mập mờ. Có khi, ông ta lại nói, tôi thấy Bộ trưởng Xuân Thủy ít việc quá.
Hai ông cố vấn đặc biệt đấu khẩu nhau kịch liệt trên bàn đàm phán, tranh cãi nhau từng luận điểm, từng câu, từng chữ, vì nó liên quan đến kết quả cuộc chiến. Ông cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ thì bao giờ cũng như một giáo sư, chuyên giảng bài về lịch sử VN, làm ông cố vấn đặc biệt Kissinger rất ngán ngẩm. Ông ta lại càng ngán ngẩm vì sự khó tính của đối phương. Ông ta nói, chúng tôi bất ngờ gặp các ông là đối phương, chứ nếu được lựa chọn, chúng tôi sẽ lựa chọn đối phương dễ tính hơn !
Không khí cuộc đàm phán nói chung là căng thẳng. Yêu cầu lớn nhất của Hoa Kỳ là rút ra khỏi VN, lấy được tù binh về song vẫn giữ được VNCH. Còn đối với Bắc VN, quan trọng nhất là quân Mỹ phải ra đi, còn quân Bắc VN thì ở lại (miền Nam). Mục đích – như Tổng thống Thiệu nhận định, là để Mỹ đi về, còn thằng miền Nam VN ta sẽ làm thịt nó”.
Ông Lê Đức Thọ được coi là nhà lãnh đạo mưu lược và quyết đoán của Bắc VN. Ông nắm rất vững chiến lược đàm phán nhưng cũng vận dụng rất linh hoạt sách lược trong đàm phán. Có lần vào giai đoạn đầu, Hanoi chỉ thị cho Đoàn đàm phán Pari muốn có hội nghị bốn bên, Mỹ phải nói chuyện với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam VN và chính quyền Saigon phải thay đổi chính sách. Nhận được chỉ thị, Lê Đức Thọ suy nghĩ rất nhiều, đi đi lại lại trong phòng. Ông và Đoàn đàm phán cho rằng yêu cầu đó là quá cao, không thể thực hiện được ngay và nếu đòi hỏi nó bây giờ sẽ có nguy cơ gây tan vỡ hội nghị. Rõ ràng, Hanoi nhận được thông tin chưa đầy đủ. Và ông quyết định, phải về Hanoi ngay. Thế là ông cấp tốc rời Pari, tới Bắc Kinh, đã có một chuyên cơ chờ sẵn để đưa ông về Hanoi. Đó là chuyến đi nhanh nhất của Lê Đức Thọ từ Pari về Hanoi trong suốt thời gian đàm phán – chỉ mất có hơn hai ngày.
Liên tục những ngày sau đó, Bộ Chính trị Bắc VN đã họp để nghe Lê Đức Thọ báo cáo và bàn bạc về tình hình đàm phán. Và chỉ thị cho Đoàn đàm phán có thay đổi: “Vấn đề đòi Mỹ nói chuyện với Mặt trận và đòi Saigon thay đổi chính sách không phải là điều kiện bắt buộc Mỹ phải chấp nhận trước”.
Còn ông cố vấn đặc biệt Kissinger, là một nhà ngoại giao nổi tiếng thế giới, cũng đã đôi lần ca ngợi ông cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ. Ở chỗ riêng tư, các cộng sự của ông ta kinh ngạc vì sự hắt hủi cả Bắc và Nam VN của ông ta. Ông ta nói, vấn đề chính của chúng ta là cả Bắc và Nam VN đều nghĩ rằng mình đang chiến thắng và sự khoan nhượng không phải là tính cách của họ. Kissinger đánh giá cả Thiệu và Lê Đức Thọ đều “rất Việt Nam” trong suy nghĩ và thái độ và đó là một căn bệnh ghê tởm của họ. Rồi ông ta nhận xét: “Lê Đức Thọ là một kẻ cuồng tín không hề có cảm nhận về một tiêu chuẩn đối nội để hướng vào đó mà hành động”. Đây có thể là một sự hiểu biết sâu sắc nhất của Kissinger về nhà lãnh đạo Bắc VN. Ông ta cũng cho rằng, dân tộc VN là một dân tộc “khó tính, ngang bướng và hay đa nghi”. Chính vì vậy, Kissinger nói, Bắc VN sợ nhất là bị lừa. Hoa Kỳ không tìm cách đánh lừa các ngài, các ngài còn nghi kỵ nhiều, đó là thảm kịch – ông ta nói.
Ông cố vấn đặc biệt Kissinger có phong cách làm việc đơn độc nhưng siêng năng để ngay cả những ai phản đối cũng có thiện cảm với ông ta. Ông ta nhạy bén trong việc sử dụng lời lẽ lịch thiệp và hoa mỹ đến mức trí tuệ. Trong đàm phán, ông hay kể những câu chuyện hoặc các câu nói hài hước làm Lê Đức Thọ vốn là người nghiêm trang cũng nhiều khi không nhịn được cười.
Tất nhiên, Kissinger không chỉ đàm phán với Bắc VN mà còn phải giải quyết rất nhiều vấn đề quan trọng khác ở tầm mức thế giới với vai trò ngoại giao con thoi. Đúng hai năm sau ngày Kissinger gặp Lê Đức Thọ lần đầu tiên, ngày 21.2.1972, ông ta tháp tùng Tổng thống Nixon đến nơi ở của Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh. Mao nói với Kissinger, với chuyến đi TQ, tiếng tăm của ngài trên thế giới đã nổi như cồn. Nixon: “Ông ta là người duy nhất đến Pari 12 lần, đến Bắc Kinh một lần trong điều kiện bị giam lỏng. Ngoài 12 cô gái xinh đẹp, chẳng ai biết chuyện gì về ông ta”. Khi Kissinger thanh minh, các cô gái ấy không biết gì đâu, tôi đã sử dụng họ để che chắn thì Nixon nói, người biết sử dụng các cô gái xinh đẹp để giấu mình, trong bất cứ lúc nào cũng là nhà ngoại giao vĩ đại.
Trở lại hiệp đấu cuối cùng của hai ông cố vấn đặc biệt sau cuộc ném bom Giáng sinh. Khác với những lần trước, đoàn VN không ra đón Kissinger ngoài cổng và khi vào phòng họp, ông ta nhận được cái chào lịch sự nhưng lạnh nhạt của các đồng sự VN. Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ nổ phát súng đầu tiên, phê phán Mỹ lật lọng, lên án cuộc ném bom 12 ngày đêm, đòi Mỹ chấm dứt thương lượng trên thế mạnh. Kissinger: “Tôi có nghe những tính từ, tôi đề nghị không dùng những tính từ đó”. “ Tôi dùng những tính từ đó đã là kiềm chế lắm rồi” – Lê Đức Thọ. Ngày 27.1.1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN đã được bốn bên ký kết tại Pari. Hai ông cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kissinger sau đó đã được giải thưởng Nobel hoà bình. Ông Thọ không nhận và hòa bình vẫn chưa tới trên hai miền đất nước VN.
Tháng 3.1975, sau trận Buôn Ma Thuột, Lê Đức Thọ xin Lê Duẩn vào Nam và được ông Duẩn đồng ý. Lê Duẩn dặn Lê Đức Thọ, lần này vào phải giải phóng miền Nam xong mới trở về. Lê Đức Thọ viết trong bài thơ Lời Anh dặn:
Anh dặn: ra đi thắng mới về,
Phút giây cảm động nói năng chi,
Lời Anh là cả lời non nước,
Ngàn dặm Trường Sơn há ngại gì.
Lời Anh là cả lời non nước” – tất nhiên chỉ lời Lê Duẩn. Ta lại nhớ đến lời thơ Tố Hữu về Hồ Chí Minh :
Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau…
Ấy thế mà thời gian sau này, thật không thể tưởng tượng nổi, “trong một phiên họp Bộ Chính trị, ông Lê Duẩn nói với Lê Đức Thọ: “Anh đừng họp Bộ Chính trị nữa”. Một thời gian sau, Lê Đức Thọ đi họp lại, Lê Duẩn lại nói: “Tôi đã bảo anh không họp nữa mà. Lê Đức Thọ phải ra về”. (Bên Thắng Cuộc – Huy Đức).

- Hòa đàm Paris và ‘kẻ xúi bẩy’ đằng sau Johnson
Việc chọn Harriman đứng dầu đàm phán bị Rostow nhìn nhận với thái độ thù địch. Ngày 3/4, Rostow tham gia phe của cựu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, Tướng Maxwell Taylor, bày tỏ những nghi ngờ lớn rằng liệu Harriman có phù hợp với chức vụ.
"Với tất cả sự tôn trọng đối với Thống đốc Harriman", Rostow và Taylor viết với rất ít sự tôn trọng: "chúng tôi không tin ông ấy là người thích hợp thực hiện cuộc đàm phán này - nếu nó diễn tiến vượt khỏi giai đoạn đầu tiên". Rostow và Taylor đưa ra hai lý do biện hộ cho phản đối của họ. Thứ nhất, "sức khỏe của ông ấy không được tốt", và thứ hai, "ông ấy thiếu - và luôn luôn thiếu - một sự hiểu biết cũng như đồng cảm với Nam Việt Nam".


Tuy Rostow và Taylor thừa nhận rằng "Averell đúng 100% rằng chúng ta không nên để cho Sài Gòn có quyền phủ quyết vị thế của chúng ta trong đàm phán", ông ấy không chắc liệu mình "có muốn đưa họ theo và cho họ niềm tin rằng sẽ là cần thiết nếu một giải pháp vững bền, vì lợi ích của Mỹ, sẽ xuất hiện".
Trước đó, Rostow ranh ma hơn Harriman về sự cần thiết phải ngưng ném bom và ông ta nghi ngờ rằng nhà ngoại giao cao niên này chủ yếu bị thúc đẩy bởi danh tiếng cá nhân và chính trị đảng phái - chứ không phải bởi bất cứ mong muốn nào cho Nam Việt Nam. Vị cố vấn an ninh quốc gia có thể đã đúng ở cả hai điểm.
Tuy nhiên, chiến dịch chống lại Harriman của Rostow đã thất bại. Johnson đã chọn một người mà có những đóng góp to lớn cho việc định hình các mối quan hệ quốc tế của thế kỷ 20. Averell Harriman sở hữu một kiểu danh tiếng ngoại giao mà Tổng thống chắc chắn không thể bỏ qua, và ông đã nắm giữ danh hiệu "Đại sứ vì Hòa bình", được trao tặng năm 1966.
Mặc dù vậy, Johnson cũng có một số lo ngại như Rostow về việc Harriman thiếu tính nhạy cảm về Nam Việt Nam và khát vọng đảm bảo hòa bình với một cái giá tiềm năng không chấp nhận được. Trong một lưu ý viết tay cho Rostow, Tổng thống nhất trí rằng "điểm về những nhượng bộ lẫn nhau cần phải được hiểu rõ trong nội bộ chính phủ Mỹ trong thời gian sớm nhất có thể. Nếu không, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã cho đi vị thế sức mạnh đàm phán hiện tại mà Hà Nội vừa trao cho chúng ta một cách quá hào phóng [thông qua thất bại chiến lược của Chiến dịch Tết (Mậu Thân)] - mà không nhận lại được gì".
Cần phải nhấn mạnh ở đây rằng Johnson đã chọn Harriman từ một vị thế yếu kém - ông không có sự yêu mến và sự tôn trọng như của John F. Kennedy dành cho nhà đàm phán đáng kính này. Tín nhiệm của Johnson là bị vấy bẩn sau Tết Mậu thân và ông cảm thấy mình có rất ít lựa chọn.
Khi các sự kiện vỡ lở, phát thanh viên CBS Walter Cronkite đã có câu hỏi nổi tiếng: "Điều gì đang diễn ra ở đây? Tôi đã nghĩ chúng ta đang thắng cuộc chiến này". Trong một môi trường trong nước thù địch như vậy, sẽ là đê tiện nếu phớt lờ sự tinh tường và hỗ trợ của Harriman.
Tuy nhiên, Tổng thống sẽ phải đảm bảo khá chắc rằng nhà ngoại giao hàng đầu của ông trung thành với tiêu chuẩn đàm phán khắt khe nào đó. Thứ trưởng Quốc phòng Cyrus Vance rốt cục đã được chọn đi cùng Harriman tới Paris, nhưng Johnson và Rostow vẫn lo rằng nhóm này có vẻ chủ hòa.
Với sự chấp thuận của Tổng thống, Rostow đưa một nhân vật diều hâu tin cẩn, thành viên Hội đồng An ninh quốc gia NSC William J. Jorden, vào đoàn để kiểm soát những gì sẽ diễn ra.
Như Jorden hồi tưởng, Rostow đã cử ông tới Paris để "theo dõi những kẻ đáng khinh đó [Harriman và Vance] và đảm bảo họ không mang đồ của nhà đi cho." Trong một cuộc điện đàm lịch sự thận trọng với Rostow ngày 4/4, Harriman lịch sự buộc phải nói rằng: "Ông sẽ giúp rất nhiều nếu [Jorden] có thể đi cùng". Rõ ràng Harriman không hay biết rằng vai trò chủ yếu của Jorden là một giám sát viên.
Khi những hoạt động chuẩn bị cho sứ mệnh của Harriman chính thức bắt đầu, Rostow bày tỏ lo ngại với Tổng thống rằng một trong "những mục tiêu đàm phán" của ông là giảm dần cuộc chiến trên không của Mỹ. "Mục tiêu của chúng ta không phải là chấm dứt ném bom", Rostow lập luận. "Mà là các cuộc hội đàm nhanh chóng và quan trọng hướng tới hòa bình".
Mặc dù Clark Clifford can thiệp kịp thời, Harriman vẫn được phép cho tiêu chuẩn đàm phán của ông không bị đụng đến. Phản ứng trước những gì ông cho là bới lông tìm vết vô nghĩa, Harriman than phiền rằng những phản đối của Rostow đối với lập trường của ông là "không thích hợp" và "rõ ràng sáng kiến của Clifford đã cứu được các chỉ dẫn [đàm phán] khỏi bị tổn thương".
Harriman viết rằng "Ngoại trưởng không có bất kỳ đóng góp nào". Việc người chịu trách nhiệm điều hành các chính sách ngoại giao của Mỹ tỏ ra không quan tâm mấy đến các nỗ lực của Harriman không phải là điềm tốt. Nó trở nên rõ ràng với Harriman rằng mục đích mới của Rusk và Rostow là cản trở các nỗ lực của ông trong việc đạt được một thỏa thuận nhanh chóng.
Nhà báo có ảnh hưởng của Washington Post Drew Pearson từ lâu đã lo ngại về sự xúi bẩy của Rostow với Tổng thống và lo ngại rằng thiện ý của Harriman đang bị nghi ngờ quá mức. Ngày 19/4, Pearson viết một cách thất vọng rằng Rostow "có thể làm cho các ý tưởng của mình về Đông Nam Á gắn chặt vào Lyndon Johnson [. . .] Không một ai biết về Rowtow nghi ngờ tính chính trực của ông. Nhưng họ đặt câu hỏi về đánh giá của ông.
Ngày 28/4, Rostow trình bày với Dean Rusk những gì ông mô tả là "một ý tưởng kỳ cục". Vì thỏa thuận về miền nam là tâm điểm của vấn đề, Rostow băn khoăn liệu có khả năng là không thể đối với "Thiệu khi chấp nhận sáng kiến và tích cực tìm kiếm các cuộc hòa đàm riêng với "một thành viên" của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam, dùng một người tin cậy". Đặt Thiệu vào "tâm điểm của mọi sự" sẽ có nghĩa là "sáng kiến nhằm định hướng số phận [của Nam Việt Nam] sẽ nằm trong tay đúng người. Điều này hay hơn là thiết lập hòa bình dựa trên "kết quả của các cuộc hội đàm Mỹ - Hà Nội, vân vân".
Lo ngại về "sự thiếu nhiệt tình của Harriman với Nam Việt Nam", Rostow muốn Tổng thống hãy truyền sức mạnh từ nhóm đàm phán của ông sang chính phủ Nam Việt Nam. Việc Hà Nội sẽ đồng ý đàm phán trực tiếp với Thiệu - lãnh đạo của nhà nước "bù nhìn" mà họ không công nhận - là phi hiện thực. Tuy nhiên, Rostow vẫn tin rằng Hà Nội sẽ đồng ý dàn xếp với Sài Gòn và đưa ra bằng chứng để chứng minh điều này.
"Ở các làng Việt Cộng', Rostow báo cáo với Johnson, "trẻ em đang được dạy hát những câu như sau: "Máu sẽ chảy vào tháng 5; sẽ có hòa bình vào tháng 6". Nếu họ khuấy động những kiểu hy vọng này, thì điều đó phải có nghĩa là, về mặt ngữ nghĩa, họ đang nghĩ đến một cuộc đàm phán nhanh chóng chứ không phải dai dẳng".
Than ôi, về mặt ngữ nghĩa, các khúc hát của trẻ con chẳng có có tý nghĩa nào như vậy... Rostow quá mê thích dùng kiểu của CIA theo những cách mang tính bè phái, thường là nhiều màu sắc, để minh họa cho Tổng thống.

Rostow có một yếu tố khác trong đầu khi tư vấn rằng Thiệu nên trở thành một thành phần then chốt trong các cuộc đàm phán: Tổng thống Nam Việt Nam sẽ dễ bảo trong việc dỡ bỏ các giới hạn áp đặt lên chiến dịch ném bom hơn so với Harriman. Ngày 10/5, Rostow bày tỏ hy vọng rằng Mỹ sẽ bắt đầu "ném bom giữa các vĩ tuyến 19 và 20 sớm". Còn hơn cả phá hủy hòa đàm, Rostow tin rằng nếu Mỹ không ném bom Bắc Việt Nam đủ mạnh thì Hà Nội có thể "đánh giá quá cao hiệu quả của áp lực đối với chúng ta về toàn bộ vấn đề ném bom". Giả định sai lầm về phía Hà Nội "có thể kéo dài giai đoạn hành động đàm phán qua lại để đổi lấy việc ngừng ném bom hoàn toàn".
"Ném bom để đổi lấy hòa bình" rõ ràng là thần chú của Rostow. Nhưng tất nhiên, những xúi bẩy quá khôn khéo này không chỉ toàn về hòa đàm. Rostow cũng cảm thấy "chúng ta có thể nhận thêm nhiều trao đổi trước khi họ tới được Nam Việt Nam nếu chúng ta bỏ bom tuyến đường nằm giữa vĩ tuyến 19 và 20". Có thể đoán trước được rằng Harriman đã phản dối các kế hoạch của Rostow, viết rằng "tái tổ chức chiến dịch ném bom giữa các vĩ tuyến 19 và 20 có thể "làm chậm [đàm phán]". Sau đó, Harriman bình luận về Rostow rằng "tôi không bao giờ muốn thấy một giác thư nào khác từ người đàn ông đó nữa".
Còn tiếp
David Milne
(Sam Nguyễn dịch)
-Về Lê Đức Thọ: Nhà ngoại giao xuất sắc (CAND 7-1-13) (Cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy  Đức (hình như là cuốn II) có nhiều thông tin ít người biết về nhân vật này!)
Sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tháng 1/1973, đồng chí Lê Đức Thọ đã được đề nghị nhận giải Nobel hòa bình năm 1973 cùng với Cố vấn An ninh Mỹ Henry Kissinger. Tuy nhiên, đồng chí đã từ chối vì ở thời điểm đó, một nền hòa bình hoàn toàn và trọn vẹn vẫn chưa tới với đất nước Việt Nam…
Khôn khéo, kiên trì
Là một nhà lãnh đạo lớn của Đảng ta, đồng chí Lê Đức Thọ đã có những cống hiến quan trọng cho sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình diễn ra cuộc đàm phán ở Paris, đồng chí càng tỏ rõ thêm những tài năng lớn của mình trong công tác ngoại giao.
Từ ngày 12/6/1968, đồng chí Lê Đức Thọ mới tham gia phiên họp công khai với danh nghĩa Cố vấn Đặc biệt của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và trong hơn năm năm liên tục, đồng chí đã phải đối mặt với những đại diện tinh túy nhất của nền ngoại giao Hoa Kỳ, đặc biệt là Cố vấn An ninh của Tổng thống Mỹ Henry Kissinger. Và đúng như nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên nhận xét, trong quá trình đàm phán phức tạp và bề bộn đó, đồng chí Lê Đức Thọ đã “thể hiện một đặc thù của nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam: vượt qua tất cả mọi khó khăn và trở ngại, hiệp đồng hiệp lực với những mặt trận và binh chủng khác, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…”.
Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris về Việt Nam, nhớ lại:
“Thông thường người ta hay nghĩ rằng, những nhà ngoại giao là những người có biệt tài, giống như những thuyết khách thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chỉ cần uốn ba tấc lưỡi là đảo ngược được tình thế, biến nguy thành an, biến bại thành thắng, giành lấy cái mà tưởng như mình không thể nào giành được. Cũng có người nghĩ rằng, làm ngoại giao thì phải có nhiều mưu mô và thủ đoạn, biết đánh lừa kẻ địch, tạo ra tình huống giả mà như thật, thật mà như giả để buộc đối phương phải chấp nhận những gì mà mình muốn. Lê Đức Thọ không bao giờ nghĩ như vậy. Anh biết rõ Hội nghị Paris là một trận chiến quyết liệt, như keo vật không dứt giữa những đối thủ kỳ phùng. Nắm vững tinh thần Nghị quyết 13 của Trung ương Đảng (khóa III) mở mặt trận ngoại giao để phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị trong nước, tạo sức mạnh tổng hợp nhằm chiến thắng kẻ thù. Anh cho rằng, trên bàn đàm phán, ta không thể giành lấy cái mà trên chiến trường ta không giành được. Kết quả đàm phán trước hết phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường. Tài trí ngoại giao không thể thay cho thực lực, nó chỉ góp một phần, thậm chí một phần quan trọng làm tăng thêm thực lực. Cùng với Xuân Thủy, Lê Đức Thọ thường xuyên trang bị những kiến thức cần thiết cho đội ngũ những nhà đàm phán của ta ở Paris. Hai anh giữ mối liên hệ chặt chẽ với Hà Nội, trực tiếp báo cáo tình hình cuộc đàm phán, nêu lên các sáng kiến và tiếp nhận các chỉ thị của Bộ Chính trị để tiến hành đàm phán. Những nhà lãnh đạo của ta thường nói: Ta đã biết mở đầu cuộc chiến tranh, thì ta cũng sẽ biết kết thúc cuộc chiến tranh. Tại bàn thương lượng, Lê Đức Thọ cùng các nhà đàm phán của ta kiên trì giữ vững mục tiêu chung của toàn bộ cuộc đàm phán cũng như mục tiêu cụ thể của từng bước đàm phán, sáng tạo tiến hành những biện pháp đấu tranh với đối phương trong từng phương án cụ thể để phối hợp với chiến trường, và khi điều kiện đã chín muồi thì đưa ra các kiến nghị về giải pháp…”.
Cũng theo nhận xét của bà Nguyễn Thị Bình, ở Paris là người lãnh đạo cao nhất của ta trong đàm phán, lại là người có bản lĩnh vững vàng, có tính quyết đoán cao, nhưng đồng chí Lê Đức Thọ không bao giờ tỏ ra võ đoán: “Làm việc gì, nhất là việc đưa ra những quyết định quan trọng, Anh đều bắt đầu từ sự phân tích tỉ mỉ tình hình, rút ra những kết luận cần thiết rồi xử lý một cách linh hoạt…”.
Cố Thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự nhận xét:
Trong cuộc đấu trí quyết liệt với Mỹ, đồng chí Lê Đức Thọ là người rất tôn trọng nguyên tắc, rất kiên nhẫn bảo vệ quan điểm của mình, thường coi trọng tin tình báo chiến lược, giúp anh thêm cơ sở để suy nghĩ, tính toán.  Anh đã ở chiến trường nhiều năm, rất nhớ địa danh các địa phương, hiểu đặc điểm một số đơn vị, thậm chí tính tình các vị chỉ huy…”.
Ông Lê Đức Thọ và ông Henry Kissinger tại Hội nghị Paris.

Quên mình vì việc nước
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Xuân, từng công tác trong bộ phận giúp việc cho đồng chí Lê Đức Thọ trong quá trình tiến hành Hội nghị Paris, đã không thể không khâm phục một năng lực lao động xuất chúng ở nhà lãnh đạo Lê Đức Thọ: “Cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán đã diễn ra rất gay go quyết liệt, có lúc rất căng thẳng. Có những phiên họp kéo dài từ sáng sớm đến tối. Đặc biệt có phiên kéo dài từ 9 giờ sáng hôm trước đến 2 giờ sáng hôm sau. Chẳng những tranh luận từng chương, từng điều của Hiệp định, mà có những lúc trao đi đổi lại từng câu, từng từ, có câu, từ tranh luận hàng tiếng đồng hồ vì câu, từ đó liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của Hiệp định; có câu từ phía Mỹ thỏa thuận hôm trước, phiên họp trước, nhưng hôm sau, phiên họp sau phía Mỹ lại đòi sửa đổi...
Trong thời gian đàm phán căng thẳng như vậy, anh em chúng tôi, những người phụ tá cho Anh, rất lo lắng về sức khỏe của Anh. Những phiên họp kéo dài, ngay chúng tôi cũng như thành viên đoàn Mỹ phụ tá cho ông Henry Kissinger cũng phải thỉnh thoảng thay phiên nhau ra ngoài hoặc dùng cà phê đậm, nhưng Anh thì vẫn tỉnh táo tranh luận với Henry Kissinger. Những lúc Anh nói về truyền thống chống ngoại xâm, về chính sách hòa hiếu của ông cha ta, với một giọng trầm ấm. Anh nói say sưa, đầy sức thuyết phục. Những lúc Anh lên án Mỹ ném bom, bắn phá hủy diệt thành cổ Quảng Trị, ở An Lộc… hay tội ác của Mỹ - ngụy đối với nhân dân miền Nam, giọng Anh sắc và đanh lại, như quan tòa đang vạch tội kẻ can phạm. Có lần, hình như không tự kiềm chế được, Anh vừa nói to, vừa cầm bút chì thỉnh thoảng chỉ vào Kissinger mà lên án. Còn Kissinger, hình như cũng để tự kiềm chế, đã ngậm cán bút chì ngang miệng, mở to đôi mắt mà nghe. Tôi còn nhớ, trước khi nghỉ ăn trưa tại chỗ hôm đó, Kissinger đã nói một câu: “Hiện  giờ ông Cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như mắng tôi, sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình rồi thì ông mắng ai?”. Anh Thọ cười rồi nghiêm nét mặt, đáp lại: “Xin ngài chớ quá nặng lời, lúc trình bày với ngài, tôi chỉ nói lên tiếng nói của nhân dân mà thôi”.
Có nhiều lần, nhất là sau khi Nixon đi Bắc Kinh và Moskva, Kissinger thường tỏ thái độ khiêu khích, mới vào họp đã hỏi ngay anh Lê Đức Thọ: “Ngài Cố vấn qua Bắc Kinh, Moskva, chắc đã được nghe bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này”. Không chần chừ, anh Thọ  trả lời: “Chúng tôi chiến đấu chống quân đội các ông trên chiến trường, cũng chính chúng tôi đàm phán với các ông trên bàn hội nghị. Bạn chúng tôi hết lòng ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay chúng tôi”.  Có lần Kissinger giở trò đe dọa là nếu phía ta không chịu sửa đổi một số điều trong dự thảo Hiệp định, thì Mỹ không thể tiếp tục chấm dứt ném bom miền Bắc và rút quân khỏi miền Nam được. Anh Thọ trả lời: “Đàm phán đạt kết quả phải do thiện chí của cả hai bên. Nay nếu các ông muốn tiếp tục chiến tranh, thì chúng tôi không có cách nào khác là sẽ tiếp tục chiến đấu đến cùng để giành thắng lợi”…
Thực sự là phong thái của đồng chí Lê Đức Thọ trên bàn đàm phán đã khiến cho ngay cả một nhân vật cứng cựa như Kissinger cũng phải vì nể. Trong hồi ký Những năm tháng trong Nhà Trắng, xuất bản năm 1979, Kissinger đã mô tả về con người đã là đối thủ chính của ông ta trong các cuộc đàm phán ở Paris như sau:

“Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán xám hoặc ma rông, đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông lúc nào cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết mình muốn gì và phục vụ lý tưởng một cách tận tụy và khéo léo. Lê Đức Thọ tiếp tôi với một sự lễ phép có khoảng cách của một con người mà ưu thế hiển nhiên đến mức không thể làm khác được bằng một kiểu lễ phép gần như sự hạ cố”.
Cũng theo lời nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Xuân, ở Paris, trong thời gian đàm phán khẩn trương và căng thẳng như vậy, đồng chí Lê Đức Thọ rất ít ngủ nhưng vẫn duy trì được khả năng làm việc gần như siêu phàm của mình:  “Anh đi nghỉ vào khoảng tám, chín giờ tối, nhưng đến một, hai giờ sáng, Anh đã dậy, phòng Anh sáng đèn. Anh đi đi lại lại rồi ngồi vào bàn làm việc. Thông cảm với giờ giấc của Anh, chúng tôi cũng tranh thủ ngủ sớm và sẵn sàng làm việc về khuya lúc Anh cần. Thường thì chúng tôi chuẩn bị điện báo cáo về nước về phiên họp vừa qua, dự kiến những điểm xin chỉ thị Bộ Chính trị, chuẩn bị nội dung và phương án cho các phiên họp tiếp theo. Sau đó chúng tôi vào phòng mật, trao đổi ý kiến lần cuối và chờ Anh. Những buổi làm việc trong phòng kín như vậy, Anh không ngồi được lâu (Anh không chịu được điều hòa không khí; độ nửa tiếng chúng tôi phải tắt điều hòa, mở cửa sổ để Anh dễ thở, sau đó mới đóng cửa, mở điều hòa và tiếp tục làm việc.
Những lúc chúng tôi tỏ vẻ nôn nóng khi đàm phán giậm chân tại chỗ, Anh thân mật bảo chúng tôi: “Các cậu phải nhớ lời Bác Hồ, phải đúng thời cơ như kỹ thuật nấu cơm, sớm quá thì cơm sống, muộn quá thì cơm cháy”. Anh cũng thường lấy lời Bác Hồ để nhắc nhở chúng tôi: “Các cậu vẽ ra bao nhiêu phương án cũng được, càng nhiều phương án càng tốt tốt nhưng phải nhớ lời Bác “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Cái bất biến là Mỹ phải rút quân, còn quân miền Bắc thì vẫn tiếp tục ở miền Nam”.
Nhà báo lão thành Hà Đăng, người cũng từng được công tác bên cạnh đồng chí Lê Đức Thọ ở Paris, nhớ lại:
“Khác với Bộ trưởng Xuân Thủy, nhà ngoại giao biệt tài, là người rất say mê đánh cờ tướng, Anh Lê Đức Thọ hay nói về đánh cờ, nhưng tôi ít thấy Anh cầm quân bao giờ. Nước cờ mà Anh nói đúng là nước cờ chính trị… Trong đời thường, anh Lê Đức Thọ thường có hai thái cực:  hay nổi nóng mà cũng hay cười nói xởi lởi. Trước khuyết điểm của bất cứ ai, Anh đều nói thẳng, phê phán gay gắt, không rào đón gì. Nhưng cần khen ai, Anh nói đúng mức nhưng cũng ngắn gọn…”

  Đinh Thế Cường


Hòa đàm Paris: Mỹ xếp Việt Nam Cộng hòa ở đâu? (TVN).
Trong khi Rostow cho rằng phải đẩy Thiệu lên tuyến đầu của đàm phán thì Harriman tin rằng Mỹ và Bắc Việt Nam là hai thành phần chính trong đàm phán. 
Ông Lê Đức Thọ và Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris. Ảnh tư liệu
Sau "Chiến dịch Tết Mậu thân" ngày 30/1/2968 (trong đó những người cộng sản Bắc Việt tấn công tất cả các thành phố và thị trấn lớn ở miền Nam), Lyndon Johnson, với việc tham khảo ý kiến Bộ trưởng Quốc phòng Clark Cliford, người mà ông tin cậy và mới bổ nhiệm - đã đi đến các kết luận về các triển vọng quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Tuy các cuộc tấn công của những người cộng sản bị quân Mỹ đẩy lùi, "tia sáng cuối đường hầm" đốt lên cuối năm 1967 hóa ra chỉ là ảo giác.
Chiến dịch này đặt ra một câu hỏi không hề dễ chịu cho chính quyền Johnson: Làm thế nào mà Mỹ có thể thắng cuộc chiến tại Việt Nam nếu như không bảo vệ được ngay cả trung tâm Sài Gòn?
Không thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng, Tổng thống Johnson, vào ngày 31/3/1968, thông báo hạn chế ném bom đơn phương, kêu gọi đàm phán hòa bình lâu dài, và cuối cùng nói thêm rằng ông sẽ không tranh cử nhiệm kỳ 2.
Từ đó, Johnson tuyên bố sẽ dành sinh lực của mình cho việc đạt được hòa bình với Bắc Việt Nam. Như Johnson nhớ lại trong hồi ký của ông: "Tôi chưa từng chắc chắn hơn thế về tính đúng đắn của quyết định của mình. Tôi đặt mọi thứ tôi có thể chỉ đạo và mọi thứ bản thân tôi có vào công cuộc tìm kiếm hòa bình [. . .]'. Tổng thống dường như thừa nhận rằng Miền Nam Việt Nam không thể tiếp tục là trách nhiệm của Mỹ một cách vô hạn định, và rằng ngoại giao là chiến lược tin cậy duy nhất còn lại mà ông có thể sử dụng.
Trong một cuộc thăm dò của Lou Harris được thực hiện ngày tiếp sau đó, tỷ lệ phản đối 57% dành cho Johnson đã quay 180 độ sang con số 57% ủng hộ. Nhưng đòn bẩy tín nhiệm ngắn hạn này không thể che khuất thực tế rằng cuộc chiến tại Việt Nam đã vắt kiệt phần lớn sinh khí chính trị của Tổng thống, thứ đã hun đúc ông thành một nhân vật cải tổ thành thạo và đầy sức thuyết phục suốt những năm đầu tiên ở Phòng Bầu Dục.
Về phần mình, Bắc Việt Nam vui mừng khi thấy Johnson quyết định lùi bước và tìm kiếm hòa bình. "Chúng tôi rất vui về quyết định của Tổng thống Johnson", Đại sứ Việt Nam tại Czechoslovakia nói "Tôi cho rằng điều này sẽ đưa cuộc chiến tới hồi kết. Các cuộc đàm phán giờ đây có thể bắt đầu và chúng có thể bắt đầu sớm".
Để chuẩn bị cho nhóm đàm phán của mình, Johnson chọn W. Averell Harriman, một nhà ngoại giao nổi tiếng và có ảnh hưởng.
Là đặc sứ của Franklin Roosevelt tại London và Moscow trong Thế chiến II, và Thống đốc Dân chủ của New York từ năm 1955 tới 1959, Harriman từ lâu đã tin rằng Chiến tranh Việt Nam chỉ gây hại cho vị thế của Mỹ trên thế giới. Ông cũng muốn đạt được một thỏa thuận mà sẽ mở rộng các triển vọng của phe Dân chủ trong cuộc bầu cử Tổng thống tháng 11/1968; khi Phó Tổng thống Hubert Humphrey có thể phải đối mặt với Richard Nixon, một nhân vật mà Harriman không ưa.
Đạt được sự trung lập hóa của Lào năm 1962, Harriman có một bề dày thành tích trong việc kiến tạo hòa binh ở Đông Nam Á. Lyndon Johnson hoàn toàn có lợi khi trao cho Harriman quyền hạn ngoại giao nhằm đạt được một thỏa thuận trước ngày bầu cử 5/11. Đảm bảo một nền hòa bình danh dự bề ngoài sẽ tăng thêm danh tiếng lịch sử của ông và cho người phó một cơ hội tốt hơn để bảo vệ di sản Xã hội Lớn.
Tiếp sau bài phát biểu ấn tượng của Lyndon Johnson ngày 31/3, các chủ thể chính sách ngoại giao then chốt của chính quyền đã khôn khéo giành ưu thế với hy vọng sự vững vàng của các cuộc đàm phán với Bắc Việt Nam sẽ theo sau. Johnson vẫn chưa thông báo rằng Averell Harriman sẽ dẫn đầu tiến trình tìm kiếm hòa bình, nhưng vị chính khách cao niên này nhận ra rằng mình có cơ hội tốt được bổ nhiệm và muốn đảm bảo rằng chiến dịch đánh bom của Mỹ nhằm vào Bắc Việt Nam sẽ không ngáng trở ông đạt được một thỏa thuận.
Ngày 31/3, Tổng thống tuyên bố ngừng một phần chiến dịch ném bom tại vĩ tuyến 20, nhưng các vi phạm của quân đội Mỹ ngày càng nhiều. Vào  ngày 2/4, Harriman viết cho Tổng thống chúc mừng về "thông báo của ông đêm Chủ nhật" song cảnh báo ông rằng sau đó các máy bay ném bom Mỹ đã phá hủy căn cứ không quân Thanh Hóa, và dường như sẽ xử như một trò chơi công bằng đối với bất kỳ một mục tiêu nào "cách Hà Nội 45 dặm và cách Hải Phòng 30 dặm".
Quan ngại các cuộc đàm phán với Bắc Việt Nam sẽ tan vỡ thậm chí trước khi chúng bắt đầu, Harriman viết: "Tôi mạnh mẽ kêu gọi ngài hành động để đảo ngược xu hướng tai hại này. Tôi đề nghị rằng, rõ ràng như ý định của ngài, ngài thông báo chiến dịch ném bom sẽ đặc biệt giới hạn ở phía nam Vinh, nơi rõ ràng là cực bắc của dải đất hẹp miền Bắc Việt Nam".
Sợ rằng thời khắc tài năng lãnh đạo được ngưỡng mộ rộng khắp của mình sẽ bị hủy hoại bởi những viên phi công Mỹ liều lĩnh, Johnson chỉ thị cho Chủ tịch hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Earle G. Wheeler phải giới hạn mọi hoạt động ném bom của Mỹ ở phía nam vĩ tuyến 19 - chứ không phải vĩ tuyến 20 như đã thông báo trước đó.
Đây có thể là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Tổng thống nghe theo lời khuyên của Harriman năm 1968. Tuy nhiên, hạn chế này vẫn không thay đổi, dù ít hay nhiều, trong khoảng thời gian cầm quyền còn lại của Tổng thống Johnson.
Cùng ngày Harrison yêu cầu sự rõ ràng về chiến dịch ném bom, Walt Rostow khuyên Tổng thống rằng "tôi vẫn tin mục tiêu then chốt là buộc Thiệu phải thực hiện trong khoảng thời gian 1 tháng, hoặc đại loại thế, một đề nghị tới Việt Cộng là để họ hoạt động như một đảng chính trị theo Hiến pháp".
Rostow nhận ra rằng, đề nghị này khó có thể nhận được hoan nghênh nồng nhiệt ở Sài Gòn nhưng vẫn tin rằng hành xử của Nam Việt Nam "có thể rất khác nếu họ biết rằng chúng ta muốn họ là thành phần chính trong đàm phán về một thỏa thuận".
Rostow muốn Tổng thống miền Nam Việt Nam Thiệu, không phải là một nhà ngoại giao Mỹ, đóng một vai trò then chốt trong bất kỳ một cuộc đàm phán nào với miền Bắc Việt Nam.
Ông lập luận: Thiệu sẽ chống cự một cách quyết liệt hơn nữa những lời kêu gọi kiềm chế quân đội Mỹ, và sẽ chỉ đồng thuận về một nền hòa bình dựa trên các điều khoản thuận lợi nhất cho đất nước ông ta.
"Nếu không từ bỏ toàn bộ quyền tự do hành động của chúng ta, hoặc cho Thiệu toàn quyền", Rostow thừa nhận, "chúng ta phải thuyết phục cả chính quyền Thiệu (cùng quân đội của ông ta) và người dân miền nam Việt Nam rằng chúng ta sẽ tham vấn chặt chẽ nhất có thể với chính phủ của họ". Cơ hội tốt nhất mà Rostow có được đảm bảo rằng cam kết liên tục của Mỹ dành cho Nam Việt Nam, là phải đẩy Thiệu lên tuyến đầu của đàm phán.
Chiến lược của Rostow nhằm đảm bảo "hòa bình" vì thế lại xung đột trực tiếp với những gì mà nhà đàm phán trưởng của Tổng thống hình dung. Harriman tin rằng Mỹ và Bắc Việt Nam là hai thành phần chính trong đàm phán. Ông hiểu rằng Tổng thống Thiệu sẽ rất căm ghét nỗ lực đạt được một nền hòa bình thỏa hiệp của ông, và thoải mái hơn với triển vọng đặt Nam Việt Nam vào một sự việc đã rồi dựa trên một sự hiểu biết song phương với Hà Nội.
Còn tiếp...
David Milne
(Sam Nguyễn dịch)
Tác giả David Milne là một giảng viên cao cấp về Lịch sử Chính trị Mỹ tại Đại học Đông Anglia. Ông là một thành viên Fox International tại Đại học Yale năm 2003, một thành viên cấp cao của Viện Gilder-Lehrman về Lịch sử Mỹ, New York City, năm 2005, và ông có tư cách hội viên tại Hiệp hội Triết học Mỹ, Philadelphia, năm 2008. Chuyên khảo đầu tiên của ông, "Rusputin của Mỹ: Walt Rostow và Cuộc chiến Việt Nam" đã được Hill and Wang xuất bản năm 2008. Hiện nay ông đang viết cuốn sách thứ 2, tựa đề tạm thời là Thuyết duy lý trí trong Ngoại giao Mỹ (Intellectualism in American Diplomacy), cho Farrar Straus and Giroux. Tác phẩm của ông đã xuất hiện trên Tạp chí Lịch sử Quân sự, International Affair, The Nation, và the Los Angeles Times.

->> Kỳ 1: Hòa đàm Paris 1968: Trò chơi hai cấp độ?


Nhìn lại Hòa đàm Paris, cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara cho rằng, "mức độ các cơ hội bị bỏ lỡ thực sự là không thể tin được."
LTS: 40 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta kết thúc đàm phán tại Hội nghị Paris, với việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Nhìn lại chặng đường đàm phán kéo dài và căng thẳng ấy, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam từng nêu câu hỏi, liệu đã bao giờ chúng ta bỏ lỡ cơ hội đàm phàn, kết thúc chiến tranh. Đến nay, nhiều tài liệu mật vẫn chưa được giải mã để có câu trả lời.
Từ phía Mỹ, đã có nhiều nỗ lực đi tìm lời giải cho chuyện, có hay không việc bỏ lỡ cơ hội này.  Nhân kỉ niệm 40 năm hòa đàm Paris, Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu một trong những nghiên cứu như vậy, như một góc nhìn tham khảo.
Phần 1:
Một khía cạnh quan trọng của sự chuyển đổi Robert S. McNamara quá cố từ một Hàn Chiến Binh (Cold Warrior) tự tin sang một người chỉ trích chính sách ngoại giao bành trướng của Mỹ là trong những năm 1990 ông mong muốn tìm hiểu thời đại Chiến tranh Việt Nam về "các cơ hội bị bỏ lỡ" vốn đã có thể đã ngăn Mỹ và Việt Nam khỏi cuộc xung đột tàn khốc.
Trong Tranh cãi không hồi kết (Argument Without End), vị cựu Bộ trưởng Quốc phòng cho rằng "Có [. . .] những cơ hội hoặc là đã tránh được chiến tranh trước khi nó bắt đầu, hoặc là đã dập tắt nó từ rất lâu trước khi nó diễn ra".
Theo đánh giá của McNamara, việc Mỹ và Bắc Việt không đạt được một thỏa thuận hòa bình có thể chấp nhận được nhau là một trong những thất bại lớn của các mối quan hệ quốc tế thời hậu chiến. Với một nhóm các nhà ngoại giao kỳ cựu, và các viện sĩ ở Mỹ, McNamara đã bàn đến một số sáng kiến hòa bình bên thứ ba với những người đồng nhiệm của Bắc Việt, trong đó có những vật có uy tín lớn như Tướng Võ Nguyên Giáp và Thứ trưởng Ngoại giao thứ nhất Trần Quang Cơ.
Trong 6 cuộc họp được tổ chức tại Hà Nội từ tháng 11/1995 đến tháng 2/1998, các bên tham dự đã thảo luận những gì trở nên sai lầm và tìm cách xác định liệu một nền hòa bình đáng tin cậy là có thể trong những năm Johnson. Ngạc nhiên trước mức tiếp thu mà Bắc Việt Nam khẳng định đối với các cuộc đàm phán, McNamara kết luận rằng "mức độ các cơ hội bị bỏ lỡ thực sự là không thể tin được [. . .] , có rất nhiều cơ hội tiến tới một thỏa thuận thông qua đàm phán về cuộc chiến tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 5/1965 đến tháng 10/1967 đã bị bỏ lỡ.'
Vì nhiệm kỳ của McNamara tại Lầu năm Góc kết thúc vào ngày 1/2/1968, Tranh cãi Không Hồi kết không phân tích các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Mỹ và Bắc Việt tại Paris từ tháng 5/1968. Đây là một sự bỏ sót đáng tiếc về các sáng kiến bên thứ ba - còn được biết đến bởi các mật danh MAYFLOWER (Tháng 4-5/1965), XYZ (5-9/1965), PINTA (Tháng 12/1965-tháng 1/1966), MARIGOLD (6-12/1966), SUNFLOWER (1-2/1967) và PENNSYLVANIA (6-10/1967) - căn cứ vào những hoạt động phía sau sân khấu và tất cả có rất ít cơ hội thành công.

Mỹ kí vào bản hòa ước tại HN Paris. Ảnh tư liệu.
Trái lại, các cuộc đàm phán song phương ở Paris từ tháng 5/1968 tới tháng 1/1969 mang lại cho Tổng thống Johnson một cơ hội chắc chắn để kết thúc cuộc chiến: Johnson đã tự loại mình khỏi cuộc chạy đua tổng thống, việc đảm bảo một nền hòa bình thỏa hiệp sẽ thúc đẩy các triển vọng bầu cử của đảng Dân chủ, và rất ít cố vấn cho chính quyền (cả bên trong và bên ngoài) vào thời điểm đó coi "chiến thắng" ở Việt Nam là một khả năng có ý nghĩa.
Nhiều sử gia quốc tế - chẳng hạn như George Herring, Lloyd Gardner và Robert Schulzinger - đã nghiên cứu quãng thời gian quan trọng này như một phần của các dự án sách rộng hơn. Nhưng chỉ có một bài báo hoặc một chương sách phân tích các cuộc đàm phán hòa bình Paris một cách trọn vẹn: Tiểu luận của Herbert Schandler mang tựa đề "Lầu Năm Góc và Các cuộc đàm phán Hòa bình sau ngày 31/3/1968".
Tuy nhiên, tác giả không tham khảo hai nguồn quan trọng đầu tiên: Tài liệu của Cố vấn an ninh quốc gia Walt Rostow tại Thư viện Lyndon Baines Johnson ở Austin, Texas và tài liệu của nhà Đàm phán trưởng W. Averell Harriman tại thư viện Quốc hội ở Washington DC. Hai nhân vật có ảnh hưởng này bất hòa với nhau trong giai đoạn đó, và sự sụp đổ của các nỗ lực của Harriman ở Paris có thể bị quy cho bầu không khí bất thuận lợi ở Washington mà các nhân vật diều hâu như Rostow đã cố hết sức để tạo ra.
Nhưng có nhiều hơn thế trong câu chuyện này, chứ không chỉ sự đấu đá nội bộ đã được phân tích bởi nhiều học giả, chẳng hạn như Graham Allison. Trong một cuộc hội thoại kín hồi tháng 9/1968, Harriman hỏi Bộ Trưởng Quốc phòng Clark Cliford "một cách thẳng thắn, liệu ông có cảm thấy Tổng thống ước được chứng kiến [Phó Tổng thống] Humphrey bị hạ gục [trong cuộc bầu cử Tổng thống] hay không". Sau khi ngừng một lát để dự liệu phản ứng của mình, Cliford trả lời rằng "Nếu ông nhất trí là chuyện này chỉ giữa ông và tôi thì tôi tin rằng ông đã đúng: Tổng thống muốn chứng kiến ông ấy bị đánh bại".
Bực bội bởi sự thiếu quan tâm của Tổng thống Johnson đối với các cuộc đàm phán ở Paris, cả hai người dự đoán rằng, trước tiên, Tổng thống muốn để lại việc kiến tạo hòa bình cho người kế nhiệm của mình, và thứ hai, Johnson tin rằng Richard Nixon sẽ bảo vệ sự độc lập của Nam Việt chắc chắn hơn so với vị Phó Tổng thống của ông, Hubert Humphrey.
Bài báo này phân tích tính logic của tuyên bố đó và kết luận rằng cáo buộc này mang trọng lượng đáng kể. Ngoại trưởng Dean Rusk, Walt Rostow và LBJ đều đành cam chịu trước một chiến thắng của phe Cộng hòa ngày 5/11/1968. Lựa chọn ưa thích của Johnson, trên thực tế, là muốn Nelson Rockefeller, một thành viên Cộng hòa ôn hòa dòng dõi, người ông rất cảm phục, đánh bại Richard Nixon giành sự đề cử ứng viên của Phe Cộng hòa và sau đó giành chiến thắng trong cuộc bầu cử trước đối thủ hoặc Humphrey hoặc Kennedy.
Tuy nhiên, những hy vọng này đã tan thành mây khói vào ngày 8/8 khi Nixon giành được sự ủng hộ của đảng mình. Tổng thống sau đó phải đối đầu với một lựa chọn phiền phức là ông sẽ ủng hộ ai về mặt cá nhân. Hubert Humprey chủ trương rút quân Mỹ khỏi cuộc chiến Việt Nam và tư tưởng chủ bại này là không thể chấp nhận đối với Tổng thống và các cố vấn diều hâu, những người đầu tư quá nhiều sức lực và tín nhiệm cá nhân vào cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản Việt Nam. Trong khi các chính sách bảo thủ trong nước của Nixon là lời nguyền cho những người cấp tiến như Rusk, Rostow, và Johnson, nền tảng địa chính trị của ông không bao giờ bị ngờ vực. Và vì vậy, triển vọng một chiến thắng của Nixon được Tổng thống ngầm chấp nhận - do bị kích động theo hướng này bởi các cố vấn diều hâu của ông - như một lựa chọn ít tồi tệ hơn cả cho vị thế thế giới của Mỹ.
Bốn nhân vật chính trong câu chuyện này được chia làm 2 phe: Một phe gồm Averell Harriman và Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford - tập trung vào đạt được một thỏa thuận thông qua đàm phán ở Paris mà ràng buộc nghiêm túc với cả Bắc Việt và Nam Việt, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (NLF). Một phe gồm Ngoại trưởng Dean Rusk và Walt Rostow - những người quả quyết rằng bất cứ một nền hòa bình thỏa hiệp nào trực tiếp bao gồm NLF trong một chính phủ liên hiệp Nam Việt Nam sẽ không thể có vào thời của họ. Lyndon Baines Johnson là trọng tài quyết định và ông chọn cách ủng hộ Rusk - Rostow. Cuối cùng, Richard Nixon là người hưởng lợi chính của việc Lyndon Johnson không quan tâm đặt một dấu chấm hết qua đàm phán cho Chiến tranh Việt Nam trong thời kỳ ông làm Tổng thống.
Như Harriman hồi tưởng một cách cay đắng vào tháng 12/1968: "Gần như chắc chắn rằng tính chất mà vấn đề Việt Nam được giải quyết, với lời khuyên của Rusk and Rostow, đã mang lại chiến thắng cho Nixon". Hậu quả u ám nhất của cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ ở Paris là thực tế rằng các điều khoản hòa bình cuối cùng được Henry Kissinger và trưởng đoàn đàm phán của Bắc Việt, Lê Đức Thọ, nhất trí vào tháng 1/1973 về căn bản không khác biệt lắm so với những gì Harriman và ông Thọ đã nhất trí ở Paris vào tháng 11/1968. Đã cống hiến quá nhiều thời gian và sức lực như vậy cho cuộc chiến Việt Nam nhưng Johnson không có mong muốn tách rời Nam Việt Nam và ngăn cảnh máu đổ trong những gì, vào lúc đó, là một chính nghĩa quân sự tuyệt vọng.

Chào mừng kí kết HN Paris. Ảnh tư liệu.
Lập luận này có những hàm ý quan trọng đối với "Giả thuyết Trò chơi Hai cấp độ" của Robert Putman. Trong bài viết có tựa đề "Ngoại giao và Chính trị trong nước: Logic của Trò chơi Hai Cấp độ", được International Organization xuất bản năm 1988, Putman cho rằng, các cuộc đàm phán quốc tế giữa các nước diễn ra ở cấp độ trong nước và ở cấp độ quốc tế.
Khi thúc đẩy đàm phán, các nhà lãnh đạo buộc phải đáp ứng các nhu cầu và mối quan tâm của các khu vực bầu cử trong nước bằng việc đưa ra các nhượng bộ và tạo dựng liên minh, trong khi đàm phán quốc tế được theo đuổi với sự suy tính chủ yếu trong đầu: bất cứ thỏa thuận nào cũng sẽ không gây thiệt hại nghiêm trọng cho các khu vực bầu cử trong nước. "Win-sets" xảy ra khi các quyền ưu tiên của các chủ thể ở cả hai cấp độ chồng lấn nhau và vì thế thỏa thuận quốc tế trở thành có thể.
Như Putham kết luận: "Diễn biến gở nhất trong lĩnh vực chính trị so sánh và các mối quan hệ quốc tế trong những năm gần đây là sự công nhận giữa các chủ thể trong  phạm vi của nhu cầu phải tính đến những rắc rối giữa hai [. . .] Nghiên cứu có ảnh hưởng sâu rộng này giờ đây được cần đến để phân tích và đào sâu hơn sự hiểu biết của chúng ta về cách thức những trò chơi như vậy được thực hiện. Thông qua triển khai phương pháp luận lịch sử thế giới, dựa chủ yếu vào các dữ liệu văn khố chưa được tận dụng, bài báo này hưởng ứng tuyên bố của Putnam. Bằng cách làm như vậy, tôi hy vọng sẽ thiết lập được một sự kết nối giữa lịch sử quốc tế và giả thuyết các mối quan hệ quốc tế; hai lĩnh vực mà không tương tác với nhau nhiều như lẽ ra nên thế.
Cuối cùng, thuyết trò chơi hai cấp độ của Putnam rất hữu ích trong việc giải thích lý do tại sao các cuộc đàm phán năm 1968 đã tiến triển như thế, mặc dù không hoàn toàn theo cách ông hình dung lúc đầu.
Do từ bỏ việc đảm bảo một thỏa thuận hòa bình năm 1968, Lyndon Johnson đã cố tình phớt lờ các nền tảng của Đảng Dân chủ - bỏ qua một khối cử tri then chốt - để nhường lại một lợi thế quan trọng cho phe Cộng hòa. Ông từ chối xây dựng một liên minh nội địa thân thiết trong đảng - như giả thuyết của Putnam - thay vào đó, lại chọn cách tặng cho Nixon một cú huých bầu cử quyết định: từ chối một nền hòa bình mà Johnson cho là không có giá trị, mà chính nó vốn gần như chắc chắn giúp cho Humphrey trở thành Tổng thống.
Trong các cuộc đàm phán trực tiếp với Hà Nội, Johnson đề cập đầu tiên và tối quan trọng đến việc đảm bảo cho khả năng Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại như một nhà nước - một mục tiêu cơ bản, trong rất nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, tự nhường bước cho một chiến thắng của Nixon - thực vậy, rất tích cực hỗ trợ cho chiến thắng đó bằng sự chây ì của bản thân - trước vị Phó Tổng thống của chính ông là cách có thể chắc chắn nhất để đạt được mục tiêu này.
Các cuộc đàm phán hòa bình Paris, vì thế, cấu thành một trò chơi hai cấp độ theo kiểu đặc biệt nhất. Mục tiêu lấn át của Tổng thống Johnson là bảo vệ sự độc lập của Nam Việt Nam đã đòi hỏi ông phải vứt bỏ logic chính trị của đảng, giao phó cho Humphrey và đảng Dân chủ một số phận u ám, và phớt lờ chiến thuật lá mặt lá trái (nói một cách chính xác là phản nghịch) của chiến dịch tranh cử Nixon là khuyến khích Tổng thống Thiệu của Nam Việt Nam đẩy lùi các nỗ lực về một nền hòa bình thỏa hiệp cho đến sau cuộc bầu cử Tổng thống và một khả năng chiến thắng của Nixon. Tính liên kết của ngoại giao và chính trị trong nước chưa từng rõ ràng hơn thế trong năm cuối cầm quyền của Lyndon Johnson.
Còn nữa
  • David Milne là một giảng viên cao cấp về Lịch sử Chính trị Mỹ tại Đại học Đông Anglia. Ông là một thành viên Fox International tại Đại học Yale năm 2003, một thành viên cấp cao của Viện Gilder-Lehrman về Lịch sử Mỹ, New York City, năm 2005, và ông có tư cách hội viên tại Hiệp hội Triết học Mỹ, Philadelphia, năm 2008. Chuyên khảo đầu tiên của ông, "Rusputin của Mỹ: Walt Rostow và Cuộc chiến Việt Nam" đã được Hill and Wang xuất bản năm 2008. Hiện nay ông đang viết cuốn sách thứ 2, tựa đề tạm thời là Thuyết duy lý trí trong Ngoại giao Mỹ (Intellectualism in American Diplomacy), cho Farrar Straus and Giroux. Tác phẩm của ông đã xuất hiện trên Tạp chí Lịch sử Quân sự, International Affair, The Nation, và the Los Angeles Time

Tổng số lượt xem trang