Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

Nhân đọc bên thắng cuộc (22) – Thắng mình trước đã!

Đồng Phụng Việt

Vừa có hai sự kiện, cùng liên quan đến cuốn “Bên thắng cuộc” làm mình chú ý: (1) Tờ Pháp luật TP.HCM đăng “Cái nhìn thiên kiến về lịch sử” của Nguyễn Đức Hiển. Và (2) Liên Ủy ban chống Cộng sản, tay sai và chống tuyên vận Cộng sản ở Mỹ gửi thư mời họp để bàn bạc về chuyện tổ chức biểu tình chống tờ Người Việt phát hành cuốn sách này.

Sự kiện (1) mình biết qua trang web Ba Sàm. Sự kiện (2) mình biết qua email của một người bạn, kèm câu hỏi: Ông nghĩ sao?..

Thay vì trả lời riêng bạn qua email, mình viết vài dòng trên facebook để có thể chia sẻ với cả bạn và các bạn khác vài điều mà mình nghĩ…



1.

Hồi nhỏ, ở nhà mình có vài cuốn album để cất ảnh. Mấy cuốn album này do trường Võ bị Quốc gia ở Đà Lạt dùng làm quà. Nếu mình nhớ không lầm thì cuốn nào trên góc trái, phía trên cùng, cũng in chìm hình một sinh viên sĩ quan, kèm dòng chữ “Tự thắng - Chỉ huy”. Lúc đó, xem – nhớ nhưng thật tình, mình không hiểu tại sao trường Võ bị Quốc gia (một nơi danh giá, đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho quân đội miền Nam Việt Nam trước tháng 4 năm 1975, vốn là chỗ không dễ vào, nếu vào và ra được thì vừa là sĩ quan, vừa có văn bằng cử nhân khoa học – một thời đã từng là mơ ước của mình), lại chọn “Tự thắng – Chỉ huy” làm slogan.

Lớn lên thì mình hiểu tại sao trường Võ bị Quốc gia lại chọn “Tự thắng – Chỉ huy” làm slogan. Không tự thắng chính mình thì làm người tử tế còn khó, nói gì đến chuyện chỉ huy!

2.

Khi sinh ra mình là công dân Việt Nam Cộng hòa nhưng lúc lớn lên, mình trở thành công dân Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng tại vậy mà mình có nhiều người thân, người quen bị gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Sau ngày “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phần lớn “ngụy quân, ngụy quyền” mất sạch mọi thứ: nhà cửa, tài sản, tương lai, một số người mất cả sinh mạng. Gia đình mình cũng thế.

Nếu ai hỏi mình: có oán Cộng sản không? Mình sẽ trả lời rằng: Có! Song đối tượng của sự oán hận đó đã khác nhiều so với trước.

Lúc đầu, mình ghét tất cả những người từ ngoài Bắc vào. Rồi oán hờn thu hẹp, mình chỉ còn căm giận cán bộ, đảng viên, bộ đội, công an. Sự căm giận này bây giờ không còn. Chính xác hơn, sự căm giận này vẫn còn nhưng nó hướng vào chủ nghĩa cộng sản và sự tồn tại của thể chế chính trị là con đẻ của nó trên xứ sở này.

Sở dĩ nhận thức của mình thay đổi liên tục như thế là nhờ sách vở, tài liệu và thực tế cuộc sống. Hồi đọc “Những thiên đường mù” của Dương Thu Hương, mình choáng váng vì hóa ra người dân miền Bắc còn khổ hơn người dân miền Nam. Mình dùng hai chữ “khổ hơn” vì ít ra, người dân miền Nam đã từng có lúc được sống “cho ra hồn người”, trước khi cùng khốn khổ, khốn nạn như nhau. Sau này, hỏi thăm một số người lớn tuổi đã từng sống ở miền Bắc trước tháng 4 năm 1975, họ bảo, thật ra, “Những thiên đường mù” chỉ khắc họa một phần sự thật, chưa lột tả được toàn bộ môi trường xã hội miền Bắc trước tháng 4 năm 1975... Tương tự, sự căm giận bộ đội giảm dần khi cuộc chiến ở Campuchia biến một mớ bạn bè mình thành bộ đội, thương binh, có đứa trở thành liệt sĩ. Còn một thực tế khác, chẳng riêng mình mà ai cũng thấy, đó là, đa số những người đóng góp tuổi trẻ, sức lực, máu xương, thân nhân cho việc tạo lập ra chính quyền này cũng chẳng sung sướng gì hơn. Đến giờ, đâu có ít gia đình liệt sĩ, thương binh, có công cũng đã mất sạch mọi thứ. Xét cho đến cùng, tất cả đều là nạn nhân. Ngay cả cán bộ, đảng viên cũng là nạn nhân, họ cắn răng chịu đựng đủ thứ bất toàn của hệ thống, ngửa tay nhận đồng lương chết đói và để tồn tại phải tìm đủ cách để “ăn”, vừa phải chuốc sự khinh bỉ của người bị “ăn”, vừa phải chấp nhận cho các đồng liêu khác “ăn” lại. Một kiểu “ăn lẫn nhau”, một thứ bi kịch kéo dài từ đời cha sang đời con và có thể còn tiếp tục kéo dài sang đời cháu. Họ có muốn như vậy không? Mình nghĩ là không nhưng họ chẳng có lựa chọn nào khác.

Lý do mình tóm tắt quá trình định hình và chuyển đổi nhận thức của mình, vì mình tin nó tương đồng với quá trình định hình và chuyển đổi nhận thức của nhiều người khác, trong số hàng chục triệu dân miền Nam Việt Nam trước và sau tháng 4 năm 1975. Mình chỉ là một trong hàng chục triệu số phận na ná như thế do thời cuộc tạo ra. Dù muốn hay không, hàng chục triệu số phận này đã và sẽ là một phần của lịch sử.

Bài “Cái nhìn thiên kiến về lịch sử” của Nguyễn Đức Hiển không những không đếm xỉa gì đến phần này của lịch sử mà còn bóp méo nó, nên có thể vì vậy mà bị nhiều người chửi.

Theo mình, nhìn, nghe, đọc, hỏi, nghĩ là điều cần thiết mà ai cũng nên làm. Mình tin, do đặc điểm nghề nghiệp, một nhà báo cần làm những điều này gấp nhiều lần những người bình thường, đặc biệt là khi máy tính, Internet đã trở thành phương tiện đại chúng. Tiếc là bạn Hiển ít nhìn, ít nghe, ít đọc, ít nghĩ, chỉ quen bông phèng, chớt nhả, nhận được vài lời khen, lại tưởng mình hơn người, thành ra làm điều quá phận.

Vì bạn Hiển bảo: “Bóp méo sự thật lịch sử dù với bất cứ lý do gì thì đều là tệ hại” nên mình cung cấp cho bạn hai chuyện mà bạn có thể xác minh ngay và sắp tới, mong bạn cho mình biết thêm suy nghĩ của bạn về bản chất cuộc chiến, mà bạn muốn biện minh rằng chính đáng:

- Chuyện thứ nhất là vụ ném lựu đạn vào buổi lửa trại, tổ chức cho các Hướng đạo sinh, thành viên Gia đình Phật tử và học sinh các trường trung học ở Quy Nhơn, tại sân vận động Quy Nhơn (nay là thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định), vào đêm 9 tháng 1 năm 1972, để giết tỉnh trưởng Nguyễn Văn Chức nhưng ông Chức không chết, chỉ có vài chục người là giáo viên, học sinh chết, bị thương. Người tổ chức vụ ném lựu đạn này là bà Huỳnh Thị Ngọc đã được Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang” hồi Quốc khánh năm 1995, báo Quân đội Nhân dân có bài ca ngợi (tựa là “Giả điên trong tù”, đưa lên Internet hôm 16 tháng 7 năm 2007). Sau khi đọc “Giả điên trong tù”, bạn có thể tìm gặp những người dân Quy Nhơn, nay trong độ tuổi khoảng 60, để hỏi thăm và nghe thêm về bản chất – kết quả thật sự của một “chiến công”, trong cuộc chiến được bảo là chính nghĩa đó.

- Chuyện thứ hai là vụ pháo kích vào Trường Tiểu học Cộng đồng ở thị trấn Cai Lậy, tỉnh Định Tường (nay là huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), ngày 9 tháng 3 năm 1974, khiến 32 học sinh chết tại chỗ và 55 học sinh khác bị thương. Những người dân Cai Lậy, Tiền Giang, nay trong độ tuổi khoảng 55, cũng có thể kể để bạn biết thêm về “chiến công” tệ hại này.

Những “chiến công” kiểu như vậy đã được lập trên xác rất nhiều thường dân, trong đó chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em ở miền Nam (mình muốn nhấn mạnh yếu tố này). Khi thân nhân của các nạn nhân vẫn còn, làm sao có thể bảo với họ rằng, cuộc chiến do miền Bắc khởi xướng, mục tiêu chính là thiết lập “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á” lại là cần thiết và chính đáng. Người ta chỉ mới thôi tự hào về sự tự nguyện đảm nhận vai trò “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á” chừng 20 năm nay thôi bạn Hiển à!

Bạn Hiển,

Làm báo ở Cộng hòa XHCN Việt Nam quả thật là rất khó nhưng nếu bạn không muốn, chẳng ai có thể bắt bạn làm bồi. Ngay cả khi chấp nhận làm bồi thì ít nhất cũng có hai loại bồi. Một loại hiểu và xấu hổ vì chuyện làm bồi nên chỉ dùng bút danh. Loại còn lại
vừa hám lợi, vừa chuộng hư danh tới mức mụ mẫm, nên sẵn sàng vỗ ngực, xưng tên. Nguyễn Đức Hiển, bạn thuộc loại nào vậy?

Nếu thật sự bạn vẫn muốn nuốt thêm một hoặc nhiều lần nữa những luận điệu cũ rích mà Đảng đã nhai đi, nhai lại, ụa ra, cho các loại bồi nuốt vào, rồi phun phe phè suốt mấy chục năm qua, muốn hãnh diện vì bạn vẫn còn thích làm gia súc, vẫn tự nguyện giữ bản năng tiêu hóa, “kiên quyết” không thèm tiến hóa như thế thì nó là quyền của bạn, song đừng mửa mớ luận điệu ấy ra, nó khiến nhiều người cảm thấy phiền bởi sự “kiên quyết” ấy!

3.

Giống nhiều người, mình cũng ráng kiếm một bản “Bên thắng cuộc” nhưng thú thật là mình chỉ mới lướt qua. Mình đọc chưa kỹ, do còn chờ phần sau.

Đọc chưa kỹ nhưng mình tin “Bên thắng cuộc” có khiếm khuyết, thiếu sót, thậm chí có cả những điểm chưa chính xác. Đó là điều đương nhiên, không thể tránh khỏi đối với những cuốn sách thuộc loại như “Bên thắng cuộc”. Do vậy, phân tích hay – dở, góp ý đúng – sai, đưa ra đề nghị này – khác, để cả tác giả lẫn người đọc cùng xem xét – ngẫm nghĩ thêm là điều cần thiết.

Với mình, dẫu cho còn khiếm khuyết, thiếu sót, thậm chí có cả những điểm chưa chính xác thì “Bên thắng cuộc” vẫn là một cuốn sách cần đọc, vì loại sách này giúp người đọc có một cái nhìn bao quát về chính trường – xã hội Việt Nam sau tháng 4 năm 1975. Khi đã có thể nhìn một cách bao quát, hiểu rõ hơn về những chuyện vốn chỉ nghe nói loáng thoáng, từng người có thể ngẫm nghĩ – tìm kiếm thêm thông tin để tự lý giải tại sao xã hội chúng ta đang sống lại như thế này? Mình tin “Bên thắng cuộc” còn có tác dụng như một gợi ý, kích thích những người khác, đặc biệt là những người trong “cung đình” kể lại, nói thêm về những chuyện họ biết cho mọi người cùng biết. Mình vẫn tin rằng, mọi thay đổi tích cực cho xứ sở và dân tộc này khởi đầu từ từng người. Trước hết là kể những điều mình biết, chia sẻ những điều mình nghĩ với mọi người quanh mình. Chỉ thế thôi. Không cần phải chỉ dẫn hay thuyết phục ai rằng họ nên nghĩ gì, làm gì. Khi đã có thông tin, từng cá nhân sẽ tự đối chiếu chúng với thực tế xã hội và hoàn cảnh, cũng như nhu cầu cá nhân của họ. Tự họ sẽ thấy họ nên làm gì, làm như thế nào. Có lẽ đó mới là giá trị thực của “Bên thắng cuộc” và là đóng góp đáng ghi nhận của Huy Đức.

Điều đáng ngạc nhiên là không chỉ Đảng cầm quyền thù ghét những thứ như “Bên thắng cuộc” mà ngay cả một số người chống Đảng này ở bên ngoài Việt Nam cũng tỏ ra thù ghét nó. Mình đã thử tìm hiểu tại sao và rất ngao ngán khi nhận ra rằng, có những người thù ghét Cộng sản nhưng lối suy nghĩ, cách hành xử của họ y hệt như Cộng sản.

Đọc những bài họ viết, xem những ý kiến họ bày tỏ, những video clip quay chuyện họ làm, nghe họ nói, mình thấy phẫn nộ khi họ nhân danh “chính nghĩa”. Miền Nam Việt Nam mà mình biết không có thứ “chính nghĩa” đó.

Nửa đầu thập niên 1970 là giai đoạn miền Nam Việt Nam đỏ máu và trắng khăn tang. Hết Hạ Lào tới An Lộc, Quảng Trị, Phước Long,… Trong bối cảnh ấy, dân miền Nam vừa nghe “Thề không phản bội quê hương” (của Cục Chính huấn Quân lực Việt Nam Công hòa) với những: “…Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến! Đánh cho cùng dù mình phải chết. Để mai này về sau con cháu ta sống còn…”, vừa hát “Kỷ vật cho em” (thơ Linh Phương, Phạm Duy phổ nhạc): “…Anh trở về trên đội nạng gỗ. Anh trở về bại tướng cụt chân…”, vừa ngâm “Ngày mai đi nhận xác chồng” (thơ Lê Thị Ý, Phạm Duy phổ nhạc thành “Tưởng như còn người yêu”): “…Dài hơi hát khúc thương ca. Thân côi khép kín trong tà áo đen. Chao ơi thèm nụ hôn quen. Ðêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau. Chiếc quan tài phủ cờ màu. Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng…”. Hay đọc “Chiều mệnh danh Tổ quốc” (thơ Nguyễn Tất Nhiên): “…Chiều quân đội nghĩa trang. Chiều mệnh danh tổ quốc. Có muôn ngàn câu kinh. Có muôn ngàn tiếng khóc. Có chuyến xe nhà binh. Đưa ‘Thiên Thần’ xuống đất…”.

Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết cũng có tham nhũng, hối lộ, phe phái và nhiều điều bất toàn khác nhưng đó là chỗ mà những “Thề không phản bội quê hương”,… có thể đứng chung cùng những “Kỷ vật cho em”, “Ngày mai đi nhận xác chồng”, “Chiều mệnh danh Tổ quốc”,… Nhiều “Thiên Thần” chấp nhận ra trận, rồi đi luôn vào lòng đất để những người còn lại được quyền làm những chuyện có vẻ như rất mâu thuẫn ấy. Đó là điều khiến miền Nam Việt Nam khác xa miền Bắc Việt Nam.

Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết, không có những kẻ “bảo vệ chính nghĩa quốc gia” bằng cách “đụ mẹ”, “đéo bà” người khác chỉ vì họ không nói, không làm điều những kẻ đó muốn nghe, muốn thấy. Cũng không có những kẻ, một tay giương cao quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa, tay còn lại tụt quần, chổng mông vào mặt người khác giữa nơi công cộng để khẳng định quyết tâm… chống Cộng sản.

Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết, tuy chống Cộng nhưng vẫn tiếp nhận “Tiếng gọi công dân” (tên nguyên thủy là “Thanh niên hành khúc”) của Lưu Hữu Phước – một cán bộ Cộng sản cao cấp - làm Quốc ca, sau khi kế thừa chính thể Cộng hòa Tự trị Nam kỳ. Mình nghĩ chỉ chi tiết này thôi có lẽ cũng đủ để biết tinh thần, quan niệm của miền Nam Việt Nam hồi đó ra sao.

Với những gì mới biết về những cá nhân, những nhóm cựu công dân miền Nam Việt Nam, bây giờ đang chống Cộng theo kiểu chống hết mọi thứ, bất kể tình – lý, chỉ để thiên hạ biết mình đang “bảo vệ chính nghĩa quốc gia”, mình tự hỏi, không biết bao giờ thì những ông, những bà này sẽ chống hát Quốc ca Việt Nam Cộng hòa, vì tác giả của bài hát này là một Việt cộng cao cấp? Có nên xem chuyện hát “Tiếng gọi công dân” đã và đang diễn ra ở những nơi có cựu công dân Việt Nam Cộng hòa là một hình thức tuyên vận của Cộng sản và rất cần chống ngay lập tức hay không? Mình tin sẽ không có ai trong số các ông, các bà đó dám cổ súy chuyện này. Nếu không dám và chắc là không dám thì “chính nghĩa” mà qúy vị tạo ra, nhảy múa để “bảo vệ” rõ ràng là chưa (không thể) ổn. Xin qúy vị hãy xem lại lối nghĩ, cách hành xử của qúy vị.



Tuy số lượng của những vị này chẳng đáng là bao trong khối người Việt đang phải sống bên ngoài Việt Nam nhưng mình không thể không nói. Kiểu chống hết mọi thứ chỉ để thiên hạ biết mình đang “bảo vệ chính nghĩa quốc gia” của những vị này, không chỉ làm hoen ố hình ảnh miền Nam Việt Nam ngày xưa. Chúng đang được Đảng CSVN khai thác triệt để nhằm chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên của họ. Đặc biệt là vào lúc này, khi hệ thống đã mục ruỗng, thông tin đa chiều đang làm cho nhận thức cán bộ, đảng viên thay đổi và nhiều người bắt đầu “muốn làm một cái gì đó” thì những bài viết, ý kiến, hành động cực đoan của những vị này trở thành một món quà quý. Chúng đã và đang được sử dụng để minh họa cho những lời răn đe, kêu gọi kiểu như: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”; “Còn Đảng, còn mình”; “Quân đội là của Đảng và phải bảo vệ Đảng”; “Bảo vệ chế độ XHCN là bảo vệ sổ hưu”.

-Nguồn: Đồng Phụng Việt


- Báo nhà nước bắt đầu tấn công ‘Bên Thắng Cuộc’ (Người Việt). - Nhân đọc bên thắng cuộc (20) – Suy ngẫm cuối năm 2012, hay, Trao đổi với tác giả của note “Đọc Bên Thắng Cuộc, nghĩ về bên thua cuộc” (NQ&TD). –Nguyễn Ngọc Già – Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã đọc “Bên Thắng Cuộc” chưa? (Dân Luận).
Nguyễn Ngọc Già
Tác giả gửi đến Dân Luận
I. Một chút về "Bên Thắng Cuộc":
Tôi đã chọn cách đọc "Bên Thắng Cuộc" [*] mà bản thân cảm thấy như một phát hiện thú vị từ cách sắp xếp rất sáng tạo của tác giả Huy Đức. Anh đã giúp cho người đọc một sự lựa chọn "mở" [**] - nghĩa là, có hai cách lựa chọn:
- Đọc xuyên suốt từ đầu đến cuối.
- Có thể theo đọc đầu mục của những chương (phần) chính và được phép lướt qua để đi vào chương (phần) khác mà không phải lo không hiểu phần chưa đọc hay đọc lướt qua.
Cách tác giả tạo cho người đọc như thế làm tôi thích thú bởi:
- Tôi có thể đi ngay vào các phần mà tôi quan tâm.
- Lướt qua các phần đã "đâu vào đó" rồi (ví dụ như: kinh tế mới, nạn kiều, xé rào, vượt biên v.v...)
Nói như thế, không có nghĩa các phần tôi lướt qua là vô giá trị, mà bởi những biến cố: "kinh tế mới", "đổi tiền", "đốt sách", cạo râu", "vượt biên", "gian thương", "Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở" v.v... tôi đã khá hiểu với tư cách sinh ra, lớn lên và chứng kiến những gì sau 1975 quanh tôi.
Nhờ có Huy Đức mà tôi càng khẳng định thêm rằng: Chính từ lịch sử đau buồn 30/4/1975, mà các giá trị truyền thống người miền Nam tích tụ như: đạo lý, văn hóa, thẩm mỹ v.v... sụp đổ hoàn toàn theo từng ngày đói kém, thiếu thốn, bị đày đọa với không khí khủng bố "nổi" hoặc "ngầm" bao trùm cùng với sự chụp mũ "phản động" rất sắt máu cho bất kỳ ai khi người CS thời bấy giờ ghét hay rắp tâm hãm hại, mà trước đây tôi có loạt bài "Nhân chuyện đổi tiền nghĩ về Sài Gòn một thuở"[1], dù chỉ được ghi lại bằng ký ức khắc sâu trong tâm khảm của những tháng ngày bi ai với tâm hồn lở lói một thời, trong một xã hội băng hoại, rữa nát một cách lặng lẽ, âm thầm và dai dẵng. Vì viết dưới góc độ ký ức (khó xóa nhòa) là chính, nên bài viết đã bị một số người nghi ngờ về tính chân thật [***].
Chính những ngày tháng mà người CS duy ý chí cộng với lòng hận thù, tham lam, u mê đã tàn phá toàn bộ miền Nam từ kinh tế cho đến pháp luật, từ luân lý cho đến đạo đức, từ lương tri cho đến trách nhiệm mà di họa kéo theo 37 năm qua, người Việt Nam không... ngóc đầu lên nổi!
Vì thế, như tôi đã viết:
"Chỉ khoảng 10 năm (1975 - 1985), người CSVN đã hoàn toàn "thành công" trong việc phá hoại Saigon và miền Nam nói chung trên mọi lãnh vực. Tinh thần cao thượng, vị tha, yêu gia đình, quê hương, đồng loại hoàn toàn sụp đổ. Huống chi (khi nghĩ về) Hà Nội và miền Bắc sao không bị phá tan hoang với thời gian bị CS cai trị dài gấp đôi Saigon và miền Nam".
Do đó, tác phẩm "Bên Thắng Cuộc" nên được đón đọc và chiêm nghiệm bằng tấm lòng hướng thiện, sám hối để hòa giải lòng người trong nước lẫn nhau cũng như giữa người trong nước và người Việt hải ngoại, kết hợp đặt trong bối cảnh Việt Nam nguy khốn hiện nay, hơn là nhận định hời hợt, hậm hực, dằn dỗi, so bì và có phần võ biền như ông Nguyễn Đức Hiển - báo Pháp Luật Tp.HCM [2].
Nhờ có Huy Đức mà tôi không còn phân vân để nói: chính sai lầm trầm trọng sau 30/4/1975 bằng cách điều khiển mọi hoạt động xã hội một cách tùy tiện, tùy nghi và tùy hứng của người CS, do họ cóc cần... PHÁP LUẬT, nên toàn bộ người dân từ Nam chí Bắc mới ra nông nổi ngày nay!!!
Cũng chính PHÁP LUẬT HOÀN TOÀN VẮNG BÓNG sau ngày miền Nam "sạch bóng quân thù" mà không quá để nói, nó chính là nguồn cội làm Việt Nam thụt lùi so với Singapore, Malaysia, Thái Lan cả trăm năm (!).
Cũng chính từ cái "nền tảng" vô pháp đó mà ông Võ Văn Kiệt - một trong những người được gọi là "lãnh đạo kiệt xuất" - đã nổi lên như "vị cứu tinh" bằng những hành động "anh hùng trượng nghĩa"(theo kiểu 108 anh hùng Lương Sơn Bạc) để "cứu" một số người Sài Gòn vào lúc bấy giờ cùng một số chính sách được gọi là "xé rào" hay "sáng tạo" nhưng thực chất là bí bách quá nên phải làm, vừa làm vừa dò dẫm mà thôi! Tiếc thay! Nó chỉ chứng tỏ được cốt cách lục lâm thảo khấu đầy khí khái hơn là một nhà kỹ trị đúng nghĩa!
Có vẻ điều này vô tình giúp ông Kiệt "lưu danh hậu thế" cho đến ngày nay. Viết đến đây, tôi nhớ phóng viên Minh Thu (nổi tiếng với phóng sự ca mổ Việt - Đức) khóc hết nước mắt và quay quắt trước cổng Dinh Độc Lập, không biết làm cách nào vào viếng tang ông Kiệt, bởi tang lễ được canh gác quá cẩn trọng lúc bấy giờ. Tang lễ ông Kiệt hầu như chỉ dân "tai to mặt lớn" mới được phép "léo hánh".
Trường hợp nhân vật Võ văn Kiệt đã được Huy Đức trình bày bằng giọng văn bình thản, khách quan khi dẫn chứng trong tác phẩm, dễ làm nhiều người hiểu lầm là "ưu ái" ông Kiệt. Do đó, không có gì lạ khi một số người chưa đọc kỹ cũng như không nắm rõ tình hình lúc bấy giờ, nên có những tình tiết không tỏ tường, đã vội trách Huy Đức vẻ như ca tụng ông Kiệt thái quá. Thử hỏi vào lúc "hổn mang", "trời đất tối tăm" như sau một cơn đại hồng thủy như thế, thì Võ Văn Kiệt trở thành hiện thân "bồ tát" cũng có vẻ như là một "may mắn" cần có lúc bấy giờ, cho ngay người dân đang vô cùng đói khát???
Hãy thử hình dung, người miền Nam bấy giờ tựa như bị giam hãm giữa những người ngoài hành tinh vừa xông vào chiếm đóng, bỗng thật "may mắn", trong đó có một "người" (ông Kiệt) cảm được những giọt nước mắt của "loài người" như "Maika - Cô bé từ trên trời rơi xuống" [****] đã lấy một ngón tay của mình quệt giọt nước mắt trên má một cô bé là người trái đất và:
Hỏi: "Cái này là cái gì?".
Trả lời: "Là nước mắt",
Hỏi: "Sao bạn có nước mắt mà tôi không có?",
Trả lời: "Khi con người buồn hay đau khổ thì có nước mắt. Bạn không phải là con người nên không thể có được",
có lẽ hình tượng này có thể giúp cho một số người cảm thông về những dòng Huy Đức viết về Võ Văn Kiệt!
Khái niệm "số đông" cũng nên được liên hệ để hiểu rằng, số dân miền Nam ở lại lúc bấy giờ chiếm hơn 80% so với số vượt biên (cả thoát và chết). Nhắc đến "số đông" trong tác phẩm "Bên Thắng Cuộc" để mọi người cùng chiêm nghiệm lại phạm trù "AI KHỔ HƠN AI" khi nhìn toàn dân miền Nam lúc bấy giờ? Viết điều này, tôi chỉ muốn nói đến những ai còn đang bâng khuâng, bận lòng, hoặc nhức nhối như "vết thương trở trời" khi đọc "Bên Thắng Cuộc", hãy hiểu rằng người miền Nam (và cả miền Bắc) còn đau khổ hơn rất nhiều lần khi cho đến nay người trong nước vẫn từng ngày cay đắng với trái ngang và oan khiên liên tục!
Tôi đã lướt qua những phần, có thể nói, như những khoanh "vảy nến" [3] loang khắp cơ thể mà may mắn, tôi đã trút bỏ căn bệnh tai quái này. Vì thế, nhắc lại chứng "vảy nến" dễ làm nhiều người bị bỏng rát, ngứa ngáy, căng thẳng vì giận dữ và gớm ghiếc nó!
Quyển sách còn làm nổi rõ giá trị ở chỗ: nêu được những sự việc mang chất điển hình của một thời oan trái đối với người miền Nam nói chung và dân Sài Gòn nói riêng bằng những tư liệu hiếm với những số liệu cùng các nhân vật điển hình và tên tuổi, đặc biệt đối với giới văn nghệ sĩ như Kim Cương v.v... cho đến Đoàn Thạch Hãn, Từ Kế Tường, Nhã Ca v.v...
Quyển 1, nếu có thiếu sót, theo tôi, chính là mảng "Tôn giáo". Tác giả đã đề cập quá ít với sự việc Nhà thờ Vinh Sơn chống lại người CS bằng súng ống vào bấy giờ. Các Tôn giáo khác, như Phật giáo, đã bị o ép như thế nào không thấy Huy Đức dõi theo, trong khi đó nhân vật nổi tiếng - Đức Tăng Thống Đệ Ngũ - Thích Quảng Độ (người nhiều lần được đề cử giải Nobel Hòa Bình) cho đến nay vẫn là một trong các nhân chứng sống thuyết phục cho "mảng" Tôn giáo bị đàn áp. Đó phải chăng là thiếu sót lớn trong quyển 1?
Tôi tin, "Bên Thắng Cuộc" phần 2 - Quyền Bính, sẽ là một phần rất hấp dẫn bạn đọc mà tôi cũng đang mong chờ, xem những gì xảy ra trong "cung vua và phủ chúa" qua các thời kỳ.
Tôi sẽ đọc kỹ lại những phần đọc lướt qua khi đạt được trạng thái "tâm bình như thủy", bởi lúc này "tâm (tôi) như bình thủy" :), nên tôi quyết định đi vào những phần mà di họa để lại hiển hiện để cảnh báo ngay cho ông Nguyễn Chí Vịnh.
II. Ông Nguyễn Chí Vịnh đọc "Bên Thắng Cuộc" chưa?:
Tôn trọng bản quyền, do đó, như là một "trailer", tôi chỉ muốn ông Vịnh hãy nghiền ngẫm các phần sau:
Chương V: Chiến tranh, gồm:
- Biên giới Tây Nam
- Pol Pot
- Đi dây
- Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ
- “Kẻ Thù Lịch Sử”
- Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)
- “Nhất Biên Đảo”
- “Áo lính lại khoác vào ngay”
vì nghe nói ông đã từng phục vụ tại chiến trường Campuchia, nhưng lúc bấy giờ ông "loanh quanh ở đâu" thì người dân như tôi không rõ?!
Nguyễn Chí Vịnh sinh năm 1957, nghĩa là vào lúc xảy ra chiến tranh với Campuchia, có lẽ ông ta đang ở tuổi đôi mươi cùng với cái mác con trai Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, biết đâu đóng quân ở một chỗ "mưa không tới mặt, nắng không tới đầu"? Nếu quả vậy, chắc ông Vịnh khó có cơ hội "nằm gai nếm mật" và càng khó biết được những tình tiết quan trọng lúc bấy giờ. Vì lẽ đó, với tư cách là "nhà quân sự" hay "nhà ngoại giao quân đội", ông nên tỏ tường và chiêm nghiệm từ sách của Huy Đức trước khi cao giọng nói: "Tôi đã từng chiến đấu, công tác gắn bó với Campuchia,[...] và sau đó là cuộc chiến tranh để cứu cả một dân tộc khỏi họa diệt chủng do Khmer Đỏ gây ra".
Tuy nhiên, tôi khuyên ông Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh cần đọc kỹ phần dưới đây, mà riêng tôi, tôi còn quá nhiều dấu hỏi chưa giải quyết được:
Phần II, Chương XI:
- Bị cô lập
- Phương Bắc
- Hội nghị Thành Đô
Những dòng chữ "Hội nghị Thành Đô" dễ làm cho nhiều người nhảy nhổm và giật thột hay một cảm giác gì đó tương tự như thế. Dù sao, ông Nguyễn Văn Linh đã chết, nên thiết nghĩ cũng cần dẫn ra một vài đoạn trong "Bên Thắng Cuộc" để nhiều người cùng suy xét:
...Ngày 7-10-1989, khi tiếp Tổng Bí thư Lào, ông Kayson Phomvihan, Đặng Tiểu Bình đã dùng sáu mươi phút trong toàn bộ bảy mươi phút nói chuyện để nói về Việt Nam. Trong khi phê phán nặng nề Lê Duẩn, Đặng đã ca ngợi Nguyễn Văn Linh là “người sáng suốt”. Một thông điệp bình thường hóa giữa Đặng Tiểu Bình và Nguyễn Văn Linh đã được truyền đi. Tuy nhiên, theo ông Trần Quang Cơ, Bắc Kinh vẫn tiếp tục lạnh lùng sau khi Nguyễn Văn Linh phản hồi tích cực.
Con đường đến với Bắc Kinh còn qua một kênh khác mà cả Tướng Lê Đức Anh lẫn Bộ Ngoại giao đều hoàn toàn không biết. Tháng 9-1989, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Phan Văn Khải sang Nhật gặp chủ tịch Đảng Tự do Dân chủ, ông Michio Watanabe [594]. Cuộc gặp tại trụ sở đảng của ông Watanabe diễn ra thân mật,đôi bên bàn một số vấn đề chiến lược về hợp tác kinh tế, bàn những công việc có thể bắt đầu ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận. Theo ông Phan Văn Khải, cuối cuộc gặp, ông Watanabe gợi ý: “Tôi có nhiều bạn bè quốc tế, liệu tôi có thể giúp được gì không?”. Được lời, ông Khải nói: “Việt Nam muốn bình thường hóa với các nước, đặc biệt là với Trung Quốc và Mỹ”...
Tiếp theo, tại trang 404, Huy Đức viết:
...Ngày 29-8-1990, Đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, chuyển thông điệp của Bắc Kinh mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô - thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc - vào ngày 3-9-1990 để “hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước”. Chuyến đi Thành Đô vào ngày 2-9-1990 gồm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng, được tháp tùng bởi Hồng Hà, chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn, trưởng Ban Đối ngoại và Thứ trưởng Ngoại Giao Đinh Nho Liêm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch không có trong thành phần cuộc gặp...
Nội bộ người CS lúc đó phân hóa và dấu diếm, lén lút nhau, được Huy Đức viết tiếp:
...Ngày 5-6-1990, trong cuộc gặp Đại sứ Trương Đức Duy, tổng bí thư Việt Nam đã sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Ông Nguyễn Văn Linh nói với Trương Đức Duy: “Chúng tôi muốn cùng những người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội... Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay... Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin”598. Thay vì bắt đầu một kỷ nguyên Việt Nam thiết lập quan hệ với Trung Quốc bằng tư thế độc lập của một quốc gia và chỉ vì quyền lợi quốc gia, Trung Quốc vẫn được coi là đàn anh trong mối tương quan của hai quốc gia cộng sản. Điều này còn ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Hà Nội và Phnom Penh...
Thật khó để không nghĩ, nhiều độc giả sẽ không sôi sục với phần in đậm (như trên), nhất là từ Nguyễn Văn Linh - một người những tưởng là... "đổi mới" trong mắt những "con cừu" của thập niên 90 (!!!)
Sau khi sốt sắng đến như thế, thì:
...Theo ông Trần Quang Cơ, trong bảy điểm về Campuchia thống nhất ở Hội nghị Thành Đô, có hai điểm có tính chất chung, năm điểm còn lại hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, không có điểm nào theo yêu cầu của Việt Nam601...
.
Huy Đức đã không thể nói thêm chi tiết về "năm điểm" mà có vẻ vô cùng quan trọng???
Đó là điều tôi vẫn thắc mắc cho đến khi đọc hết phần này.
Sẵn đây, câu nói nổi tiếng của vị tướng Cộng sản lừng danh trong cuộc chiến với người Mỹ cùng người anh em ruột thịt VNCH :"bám thắt lưng địch mà đánh" cũng nên được chuyển tới ông Thứ trưởng Bộ quốc phòng - Thượng tướng - Phó giáo sư - Tiến sĩ chuyên ngành quan hệ quốc tế - Nguyễn Chí Vịnh để kích thích tinh thần quân nhân của ông mạnh mẽ hơn lên so với phát biểu lòng vòng, đầy mâu thuẫn và tròng tréo đã được một thanh niên tên Vũ Huy Hoàng tranh luận khá sắc bén [4]
III. Tạm kết:
Tôi không tin ông Nguyễn Chí Vịnh cũng như các ông "tai to mặt lớn" khác không thèm đếm xỉa chút nào đến "Bên Thắng Cuộc", bởi có như thế đi chăng nữa, nhất định thư ký, trợ lý, thân tín của các ông cũng buộc phải đọc. Việc họ đọc với tâm thức nào, tâm trạng gì và báo cáo cho các ông ra sao là điều đáng lưu tâm hơn.
Thật khó để không nghĩ sự xuất hiện của "Bên Thắng Cuộc" (dù chỉ mới phần 1) không góp phần làm "lung lay lòng đảng", bởi những ngày gần đây dồn dập những bài báo, những phỏng vấn, hội nghị của giới cầm quyền VN ngày càng tỏ rõ sự hốt hoảng, hoang mang, mất phương hướng khó chối cãi mà do chính Trần Đăng Thanh, Nguyễn Thanh Tuấn, Vũ Hải Triều, Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Chí Vịnh v.v... cho đến cả Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng bộc lộ quá rõ.
"Bên Thắng Cuộc" không phải là tiểu thuyết, tuy thế tôi có thể cam đoan nó khá hấp dẫn với nhiều tình tiết ly kỳ không kém phim truyện, đặc biệt những đoạn về cái chết của Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn với phần "Bàn tay Lê Đức Thọ" và những phần về mối tình miền Nam của Lê Duẩn cùng nhiều phần khác...
Chỉ ngay từ phần một, nếu có một đạo diễn tài năng và hứng thú, "Bên Thắng Cuộc" nên được biên kịch để sản xuất một bộ phim dài nhiều tập, đủ chất hồi hộp, ly kỳ, gay cấn, éo le và không thiếu những chi tiết gây cười một cách đáng yêu (thật sự, không mỉa mai) của những "chú bộ đội" vừa "chân ướt chân ráo" vào Sài Gòn những ngày đầu sau 30/4/1975. Nhất định, bộ phim (nếu có) này sẽ trở thành bộ phim vừa đậm chất sử thi vừa đậm chất bi -hài - chính kịch, cho thế hệ hôm nay và mai sau hiểu rõ ràng hơn về một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Năm 2012 khép lại với cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ bị bỏ rơi mà không biết năm mới nội dung này sẽ ra sao, trong khi đó Nguyễn Chí Vịnh lại nói: “Nếu như các ông [Mỹ] làm đúng những gì đã nói thì tôi hoan nghênh, còn nếu không các ông sẽ buộc phải rời khỏi khu vực như năm 1975 rời khỏi Việt Nam”, dù là bịa hay thật, lời phát ngôn như thế xuất phát từ miệng của một Tiến sĩ - Phó giáo sư tốt nghiệp chuyên ngành "quan hệ quốc tế", quả thật không tài nào hiểu nổi "tài ngoại giao" của ông tướng này (!)
2013 vừa đến, tôi miên man nghĩ về vận nước long đong...!
Nguyễn Ngọc Già
________________
[*] Chân thành cảm ơn anh Nguyễn Công Huân đã mua tặng tôi một bản ebook.
[**] Quyển một gồm 2 phần chính:
Phần I: Miền Nam, gồm 7 chương, 55 phần.
Phần II: Thời Lê Duẩn, gồm 4 chương, 36 phần.
Và 2 phần phụ lục
[***] Nhân đây, chân thành cám ơn tác giả Huy Đức đã tái hiện "lịch sử đói kém" một cách khoa học với tư liệu hiếm, giúp cho loạt bài "Nhân chuyện đổi tiền nghĩ về Sài Gòn một thuở" có độ khả tín hơn.
[****] Bộ phim "Maika - Cô bé từ trên trời rơi xuống" rất thu hút khán giả lúc bấy giờ (nêu không lầm) khoảng những năm 1979 - 1982 gì đó.http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4_b%C3%A9_%C4%91%E1%BA%BFn_t%E1%BB%AB_nh%E1%BB%AFng_%C4%91%C3%A1m_m%C3%A2y


Tổng số lượt xem trang