-Bên thắng cuộc: sự thật dành cho Huy Đức-Trước khi bình luận về Bên thắng cuộc, Tư Mã Thiên cũng có vài dòng đánh giá cá nhân về Huy Đức. Là một nhà báo nổi tiếng, rất nhiều bài báo, bình luận sắc sảo của Huy Đức đã lôi cuốn được người đọc, sự dũng cảm hay uy tín của Huy Đức được xác lập là điều không có gì bàn cãi. Nhờ vị trí của một nhà báo lại được tiếp cận với nhiều vị lãnh đạo đất nước nên Huy Đức nắm được nhiều thông tin và ra sách cũng không có gì là lạ. Nhà báo viết sử thì lại càng thích hợp, nhưng nhà báo là nhà báo, sử gia là sử gia, viết cái gì cũng phải đứng trên đúng tư cách của cái đó thì mới có thể đem lại giá trị cho tác phẩm của mình. Nhà báo phải có chính kiến trong các bài bình luận của mình, còn sử gia thì ở bất cứ thể chế nào cũng đều phải tuyên bố khách quan. Khách quan thì mới có sự thật. Nhưng có lẽ tuyên bố thì dễ, thực hiện lại rất khó, chỉ có những sử gia đầy tự trọng (chứ không phải dũng cảm hay uy tín) mới có thể làm được điều này, hoặc là những sử gia của thế hệ sau mà không có bất cứ “tì vết” gì với thế hệ trước. Tư Mã Thiên sẽ bàn về Bên thắng cuộc dưới những góc nhìn riêng của mình:
Sự thật khách quan
Trước hết phải thừa nhận rằng trải qua hai cuộc chiến tranh thì đất nước ta có rất nhiều tình tiết lịch sử phải được viết lại, điều này rất thường tình, ví như những tình tiết cắm cờ trên nóc hầm tướng Đờ Cát hay xe tăng húc đổ cánh cổng Dinh Độc lập, thời khắc chiến thắng của chiến tranh tất cả đều vui mừng, mừng vì sẽ không còn hy sinh, không còn mất mát, đất nước được độc lập, người dân không còn là nô lệ… đó là mới là giá trị toàn vẹn của chiến thắng, chẳng ai “rỗi hơi” để ghi nhận lại những tình tiết vụn vặt này, chỉ sau khi hòa bình và cần có sự kiện chính xác để “ghi nhận lại lịch sử”, theo tôi giá trị của những tình tiết đó là để “ghi nhận lại lịch sử”, còn lịch sử là dân tộc ta đã chiến thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh đuổi hai đế quốc Pháp, Mỹ, đánh đuổi chính quyền tay sai. Có thể hòa bình đã lâu nên khiến người ta quên đi những ý nghĩa to lớn của chiến thắng và bắt đầu để ý đến những tình tiết nhỏ hơn. Lấy thêm một vi dụ để thấy viết lịch sử khó như thế nào, những người trong cuộc đều là chỉ huy của các tàu chiến chính quyền ngụy kể lại trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, các ông Hà Văn Ngạc, Vũ Hữu San thì mô tả mình như người anh hùng nhưng ông Lê Văn Thự lại nói khác, ông Thự nói thẳng rằng: “có một số người biết sự thật, nhưng ai nói sai họ vẫn mặc kệ, miễn người viết đề cao Hải Quân, còn nói thật thì họ cho là làm mất mặt Hải Quân. Vì vậy khi viết bài này, tôi biết trước là sẽ có nhiều người bất mãn vì bài viết của tôi, không những bất mãn mà tệ hơn, còn lên án tôi là kẻ bêu xấu Hải Quân, nhưng tôi vẫn phải viết để nói lên sự thật và nói thay cho những người đã chết trong trận Hoàng Sa”.
Người viết sử phải khách quan, vậy Huy Đức mở đầu cuốn sách bằng cái gì?: “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”… Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”. Khi Huy Đức đã tự ấn định trong đầu mình một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch, rồi mới đi tìm sự thật thì chẳng ngạc nhiên gì về cái sự thật mà Huy Đức tìm được. Tôi nghĩ rằng một người vừa gặp rắc rối thì không thể đưa ra ý kiến chính xác và người nào nghe những lời đó mà cắm đầu làm theo thì không phải là người tỉnh táo. Người viết sử ngay lời nói đầu đã bộc lộ lệch lạc thì còn mong gì ở sự khách quan ? Một công trình không còn sự khách quan thì chỉ là sách chứ không thể là lịch sử.
Độ dài của cuốn sách
Với một cá nhân có tham vọng viết sử hàng chục năm của đất nước (dù tác giả nói là sau 1975 nhưng trong sách có rất nhiều sự kiện của trước 1975) nhưng tóm trong phần bi kịch và dày khoảng 800 trang thì tôi cho rằng nó chưa phải là nhiều. Còn “bi kịch” của hàng triệu chiến sĩ đã hy sinh, hàng triệu gia đình ly tán, hàng trăm ngàn tù cách mạng ở Côn Đảo, Phú Quốc… của Bên thắng cuộc đã bị nhà báo có “lương tâm trong sáng” Huy Đức lãng quên, những bi kịch đó vẫn dai dẳng cho đến ngày hôm nay.
Một giai đoạn dài và đầy ắp các sự kiện lịch sử có bi có tráng của đất nước thì vài trăm trang sẽ kể được bao nhiêu phần sự thật khi mà mỗi tình tiết chỉ được nhìn qua lăng kính một vài nhân vật “thất thế” hoặc qua góc nhìn của Huy Đức. Hãy xem ví dụ dưới đây: Báo Tuổi trẻ ngày 24.1.2013 giới thiệu tập phim đi tìm sự thật Mậu Thân 1968 của “đạo diễn tư nhân” Phong Lan, mất 10 năm tìm kiếm tư liệu, hàng ngàn cuộc phỏng vấn để nữ đạo diễn mới dám nói câu này: “Không có nhân chứng nào nói dối”. Chỉ một sự kiện thôi nhưng phải mất rất nhiều công sức, thời gian, tiền bạc và kiểm chứng lời nói của các nhân chứng mới có được một tác phẩm lịch sử. Huy Đức chỉ làm một công việc đơn giản là đi hỏi cùng với việc tập hợp một mớ tư liệu hỗn độn và cho ra một tác phẩm tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của đất nước!? Xin dẫn lại câu nói của ông Cao Tự Thanh: “Tư liệu chỉ là một phần của sử học, còn phải có tri thức, phương pháp và bản lãnh thì may ra tư liệu mới giúp người ta thành sử gia được”.
Lối viết
Sự thiên kiến của cả tác phẩm không có gì phải bàn nhưng đến cả khi đi vào chi tiết một sự kiện thì Huy Đức cũng trổ tài nhà báo. Cuốn sách sử của Huy Đức đã đi vào lịch sử khi sách điện tử phát hành ngày hôm trước thì ngày hôm sau đã phải chỉnh sửa nội dung trên sách giấy. Cựu sĩ quan ngụy Lê Quang Liễn nói “sự sai sót lớn đã làm tổn thương danh dự cá nhân tôi và nhiều người do trích dẫn từ sự ngụy tạo của Phan Xuân Huy, con rể của Dương Văn Minh”, nhà báo Lưu Đình Triều thì nói “tác giả Huy Đức đã cắt xén và trích dẫn không đầy đủ những lời tâm sự về cuộc đời ông. Cũng theo ông Triều, những ngày qua, ông sống rất khổ tâm vì phải giải thích cho gia đình, cơ quan, bạn bè hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện”. Nếu Huy Đức không cắt xén và đưa tất cả sự kiện mà nhà báo Lưu Đình Triều đã nói thì đọc giả sẽ tự cảm nhận là “hố sâu thực sự” hay không chứ không cần Huy Đức hướng dẫn, nhưng đã có sự “cắt xén”, nghiệp vụ của nhà báo chứ không phải của sử gia. Thật lạ là Huy Đức khi là nhà báo thì “nói ai cũng tin”, khi là sử gia thì “ai nói cũng tin”. Rào cản cuối cùng mà một nhà báo hay sử gia đều phải vượt qua đó là kiểm chứng thông tin. Trong Bên thắng cuộc, Huy Đức đã huy động hàng chục tác phẩm chính thống lẫn trôi nổi và mặc như đó là những nguồn tư liệu khách quan, phỏng vấn hàng trăm người và xác định luôn đó cũng là những ý kiến khách quan. Có thể do cái định kiến từ đầu hoặc do Huy Đức không đủ sức để kiểm chứng thông tin nên đã dẫn đến cái sự lạ như vậy. Một tác phẩm không cần kiểm chứng mà chỉ cần quy nạp tất cả những thông tin lượm lặt được thì gọi là sách giải trí phù hợp hơn, hơn nữa, nếu có “lương tâm trong sáng” thì khi viết về bi kịch càng phải thận trọng hơn. Huy Đức sẽ còn phải sửa gì nữa khi trong cuốn sách đã đưa vào quá nhiều chi tiết ? Tôi có cảm giác Huy Đức hãnh diện với những thông tin mà bao nhiêu năm lăn lộn có được. Và nếu những thông tin đó không được đẩy lên thành “lịch sử” thì có lẽ nó không xứng tầm với một nhà báo tên tuổi. Tất nhiên, Bên thắng cuộc sẽ có một số tư liệu để các sử gia khác dùng nó một cách khoa học hơn, toàn diện hơn.
Sau này, có thể một nhà báo nào đó sẽ viết “lịch sử” của vụ án Năm Cam, trong đó có đoạn: “Từ năm 1995 đến 1997, Hoàng Linh nhận 4 lần tiền, mỗi lần 15 triệu đồng, tổng cộng là 60 triệu đồng do Liên Khui Thìn gửi cho ông Huỳnh Sơn Phước (Phó tổng biên tập báo Tuổi trẻ), ông Hoàng Quý (nguyên chánh văn phòng báo Tuổi trẻ), ông Huy Đức (nguyên phóng viên báo Tuổi trẻ), mỗi người 20 triệu đồng” (bút lục của cơ quan điều tra); và phần nói thêm về Huy Đức sẽ là: “Ngày còn làm ở Tuổi trẻ, Huy Đức là bậc thầy của việc dùng ngòi bút làm kinh tế cá thể, những người làm ở công ty Bia Sài Gòn kể vanh vách chuyện Huy Đức cầm bút đi trước, nhà thơ Nguyễn Đỗ cầm hợp đồng quảng cáo dí theo sau. Nhờ thế phóng viên, Huy Đức có rất nhiều bất động sản dưới chân cầu Nguyễn Hữu Cảnh do một công ty quân đội đỡ đầu” (phỏng vấn Hồ Thị Thu Hồng – nguyên Tổng Biên tập báo Thể thao văn hóa).
Đoạn đầu đã cắt đi câu “những người trên không thừa nhận lời khai của Hoàng Linh”, đoạn sau thì thêm vào câu “nhờ thế phóng viên”, những đoạn cắt, thêm hoàn toàn không bóp méo sự thật nhưng lại thể hiện được ý đồ của người viết. Đấy chính là Tư Mã Thiên đang tập theo lối “viết sử” của Huy Đức.
Lịch sử đâu có dễ viết!
Tư Mã Thiên 01/2013
- “Bên thắng cuộc” viết cho ai? Ai cần đọc BTC?(Gocomay). Phải nói sau khi đọc xong cuốn 2 của “Bên thắng cuộc”, có tựa đề “Quyền bính”, tôi như vừa tận hưởng “bữa tiệc” thông tin rất ấn tượng. Mà từ trước tới nay chưa được tham dự bao giờ.
Có một số ý kiến cho rằng, tác giả Huy Đức chỉ bày biện các sự kiện theo kết cấu có chủ ý một cách thật tự nhiên mà không bình luận gì nhiều… nên tác phẩm thiếu đi tính “hàn lâm”. Nhưng theo tôi, ở 2 cuốn sách này, Huy Đức đã đạt tới một thủ pháp rất cao trong cách thể hiện của một nhà báo có tầm nhìn theo phương pháp làm báo hiện đại. Đó là sự tôn trọng độc giả, tránh sự áp đặt chủ kiến của tác giả lên hiện thực khách quan của lịch sử. Khiến độc giả thay vì thụ động tiếp nhận thông tin, lại có thể chủ động tham gia vào từng sự kiện. Để tiếp nhận nó một cách chủ động, tùy theo trình độ, khả năng và cảm thụ riêng biệt của mỗi người.
Lại có ý kiến nhận xét, tác giả Huy Đức giành nhiều thiện cảm với các ông Võ Văn Kiệt và các cộng sự đắc lực của ông. Song nếu tinh ý, ta sẽ thấy, tác giả không hề né tránh khi đề cập tới trách nhiệm của ông Võ Văn Kiệt trong việc ký 2 nghị định gây nhiều hệ luỵ về mở rộng hoạt động của Tổng cục II (96/CP) và nghị định quản chế tại gia những người bất đồng chính kiến (31/CP).
Nhược điểm nữa rất cơ bản ở ông Kiệt là không những chỉ mải lo về chính sách phát triển kinh tế mà xem nhẹ công tác nhân sự (để cho Trần Đình Hoan tác oai tác quái). Với cương vị thủ tướng ông đã buông lơi cả về quốc phòng, an ninh và ngoại giao cho Lê Đức Anh thoả sức tung hoành. Rồi cả những lem nhem trong chuyện “quan hệ bất chính” (quan hệ ngoài hôn nhân) của Võ Văn Kiệt với bà Hồ Thị Minh (người dự kiến sẽ “giúp việc” cho cụ Hồ) ở chiến khu Việt Bắc. Người con ngoài giá thú Phan Thành Nam (với bà Minh) cũng được Huy Đức đưa vào tác phẩm khá chi tiết, khi mà tất cả các tài liệu chính thống đều né tránh.
Một người nữa, được cho là Huy Đức ưu ái, đó là vị Đại tướng Tổng tư lệnh – Bí thư Quân uỷ (một thời) – Võ Nguyên Giáp. Song cứ đọc những dòng sau đây, ta sẽ thấy tác giả đã rất khách quan đối với nhân vật lịch sử này:
“Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.”
Không chỉ có Điện Biên Phủ, trong cuộc chiến ở miền Nam trước 30.04.1975, cho dù cả 2 ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ o ép tướng Giáp một cách quyết liệt bằng việc cho bắt tất cả những cộng sự thân tín của ông Giáp trong cái gọi là “Vụ án xét lại chống đảng”. Nhưng vai trò của tướng Giáp trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng và Bí thư Tổng Quân uỷ TW trong Tổng hành dinh chỉ đạo bộ máy chiến tranh của Hà Nội là không ai có thể thay thế được. Vậy mà uy tín và sinh mạng của tướng Giáp dưới cái nhìn của TBT Lê Duẩn và Trưởng Ban Tổ chức TW Lê Đức Thọ thật rẻ rúng:
“Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
(trích chương 15: tướng Giáp – Cuốn 2: Quyền bính)
Cho nên trong thời điểm tướng Giáp được giao nhiệm vụ phụ trách UB Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, ngoài dân gian đã lưu truyền vế câu đối: “Ba mươi năm chiến tranh tướng Võ không còn Nguyên mảnh Giáp” là vậy! Bởi, khi “thanh gươm trận” sắc bén của ông đã không thể bảo vệ được các chiến hữu và cả bản thân mình, hào quang của vị “Anh Cả Quân Đội” thật sự chỉ như thứ “nắng quái chiều hôm” trong mắt những kẻ nắm “Quyền bính” thật sự. Nếu tướng Giáp không “hèn” trước song Lê (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ), chắc chắn số phận của ông sẽ đoản mệnh như hai vị tướng lừng danh nơi trận mạc (Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn) chí cốt của ông (?)
Đóng góp rất đáng ghi nhận của Bên thắng cuộc (BTC) là đã trả lại một phần quan trọng sự thật của lịch sử hiện đại của Việt Nam (nhất là sau 30.04.1975) như vốn dĩ nó có. Chứ không phải bằng sự thêu dệt nhằm mục đích tuyên truyền của bất kỳ phe nhóm nào. Bởi vậy, sau khi đọc xong BTC, ta càng thấy không lạ những cây viết qúa gượng gạo (theo đơn đặt hàng) khi cho rằng tác phẩm của Huy Đức là “thiên kiến”; “thiên lệch”; “bóp méo”; “nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu”; là “chém gió”. Có ý kiến của quan chức còn lấp lửng răn đe “sẽ xem xét BTC dưới góc độ của Nghị định 97/CP”.
Đối với những người chưa hề (chưa thèm) đọc tác phẩm mà đã hô hào và tích cực chống cuốn sách, thật chả đáng để chúng ta bận tâm nhiều.
Có vài chi tiết vụn vặt ở phía các tướng lãnh của VNCH như tướng Lê Văn Hưng (chuẩn tướng – Phó tư lệnh Quân Đoàn IV) dùng súng bắn vào ngực (tim) hay bắn vào đầu? hiện vẫn chưa chính xác. Đặc biệt cách dùng từ “tuẫn tiết” (như Huy Đức dùng) hay “tự tử” (vì sợ bị trừng trị của một số ý kiến phò bên thắng cuộc) cũng có gây tranh cãi. Mặc dù vậy, những cái chết can đảm, trọng danh dự của các tướng VNCH (dù bằng sung hay bằng thuốc độc) trong và sau thời điểm 30.4.1975 như tướng Nguyễn Khoa Nam; Lê Văn Hưng; Trần Văn Hai; Phạm Văn Phú; Lê Nguyên Vỹ… cũng đáng để cho những ai yêu hoà bình, hoà hợp và hoà giải dân tộc suy ngẫm. Bởi không chỉ sự thật mà cả tình thương yêu giống nòi mới có thể là phương thuốc qúi nhằm “chữa lành các vết thương cũ”. Chứ hận thù và cố chấp sẽ chả bao giờ lấp được cái “hố ngăn cách” vốn đã qúa sâu giữa những cựu thù.
Ngoài thái độ ngạo mạn của cặp bài trùng Lê Duẩn – Lê Đức Thọ, bỏ ngoài tai lời khuyên can hợp lý của tướng Giáp trong đợt Mậu Thân 1968, dẫn tới sự tổn thất nặng nề cả quân và dân trên toàn miền Nam. Nhờ phần phụ lục của cuốn 2 (Quyền bính) của BTC mà ta mới thấy rõ hơn chân tướng nhà độc tài hiếu chiến Lê Đức Thọ đã cư xử vô lối tới mức nào với trận chiến khốc liệt ở Quảng Trị: “Theo tướng Lê Phi Long, trong thời gian diễn ra Chiến dịch Quảng Trị: “Ông Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc! Chúng tôi, cơ quan tham mưu, không đồng tình với cách làm này nhưng không biết than thở với ai, hình như anh Văn cũng cảm nhận được điều đó…”. Chính sự chớ trêu này mà: “Thành cổ Quảng Trị thất thủ khi quân miền Bắc đã gần như hoàn toàn kiệt sức. Theo tướng Lê Phi Long: “Lực lượng chiếm giữ Thành Cổ khi đó nói là có mấy tiểu đoàn nhưng trên thực tế chỉ còn phiên hiệu, mỗi tiểu đoàn chỉ còn ba bốn chục người. Việc bổ sung quân số tiếp tế qua sông hết sức khó khăn. Nhiều sinh viên đã phải rời giảng đường để nhập ngũ. Nhiều tân binh chưa gặp mặt người chỉ huy đã ngã xuống. Nhiều cán bộ chỉ huy ngày đêm vất vả, râu tóc mọc kín mặt mà không có thời gian cắt cạo. Trong hầm phẫu ở ngay dinh Tỉnh Trưởng cũ thường xuyên có trên dưới 200 thương binh, sặc mùi hôi thối. Các lực lượng trong Thành Cổ thì chiến đấu một cách tuyệt vọng, còn các đơn vị ở các hướng khác, tuy có cố gắng đánh vào cạnh sườn để hỗ trợ cho lực lượng ở trong Thành nhưng cũng không tạo được hiệu quả. Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Ta đã tung hết lực lượng, đã kiệt quệ. Có lúc tôi đã phải điều học viên trường Lục Quân về gần thủ đô lập một lữ đoàn để bảo vệ Trung ương, vì hết cả quân”.
Vậy mà những màn vừa diễn ra về cái gọi là “kỷ niệm 40 năm ngày ký kết Hiệp định Paris thắng lợi” của hệ thống tuyên truyền lề đảng ầm ĩ suốt cả tuần qua vẫn cho rằng Lê Đức Thọ là nhà chính trị, nhà ngoại giao và nhà quân sự bậc kỳ tài. Trong khi bất chấp lời khuyên của Tổng hành dinh (của tướng Giáp), cùng với Lê Duẩn nhắm mắt ném quân vào “cối xay thịt” – Thành cổ Quảng trị nghiền nát 1 đại đội/ngày (81 ngày=81 đại đội) mà kết quả của hòa đàm cũng chỉ là những điều khoản do phía Mỹ đưa ra từ thời gian trước đó. Để minh định cho sự thật này, tác giả Pierre Asselin từ Hononulu gửi cho BBC ngày hôm qua (28.01) đã chỉ ra rằng:
“Chiến thắng của Hà Nội là một chiến thắng trả bằng cái giá đắt, không phải là một chiến thắng vẹn toàn mà những lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặc biệt là Lê Duẩn, đã mường tượng khi cuộc chiến bắt đầu.”
Ở một đoạn khác Asselin phân tích:
“Hà Nội đánh giá thấp quyết tâm bảo vệ lợi ích của Tòa Bạch Ốc ở Việt Nam. Đợt đánh bom Giáng sinh ở Hà Nội và Hải Phòng gây chấn động tâm lý cho Hà Nội, chưa kể thiệt hại vật chất. Vài ngày sau khi Hà Nội cam kết trở lại bàn thương lượng và Nixon tạm dừng đánh bom, hội đàm mở lại ở Paris.
Sự thực tế của Hà Nội, việc họ muốn kết thúc đàm phán, chấm dứt chạm súng, thể hiện rõ qua sự sẵn lòng có những nhượng bộ mới, nhất là ngôn ngữ về tình trạng khu phi quân sự sau khi ngừng bắn. Nếu Hà Nội đã có những nhượng bộ này ngay từ đầu tháng 12, cuộc đánh bom Giáng sinh đã tránh được.”
(http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/01/130128_pierre_asselin_paris1973.shtml)
Có một điều thú vị nữa mà những ai chưa được đọc “Hoa xuyên tuyết” của tác giả Bùi Tín thì chưa hiểu được sự trắc ẩn trong con người cố TBT Nguyễn Văn Linh. Một người mà có thời được cho là linh hồn của công cuộc “đổi mới” và “cởi trói” sinh hoạt văn nghệ ở Việt Nam từ Đại hội VI (1986). Sau khi đọc xong cuốn 2 (Quyền bính), với những giữ kiện khá đầy đủ, ta mới thấy đây chính là con người ít học, bảo thủ, định kiến và thù vặt nhỏ nhen với tầm nhìn vô cùng thiển cận. Cho dù đời tư khá thanh bạch chính liêm. Nguyễn Văn Linh và những nhân vật bảo thủ giáo điều như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng… đã bóp chết tư tưởng dân chủ đa nguyên xuất hiện ở xứ ta hồi cuối thập niên 80s ngay từ trong trứng nước.
Công cuộc “đổi mới” với những bài báo ký tên NVL dưới thời ông Linh trị vì thực chất chỉ nhằm nâng cao vị thế của Tổng bí thư (vốn “cách nhau chỉ bằng sợi tóc” như chính lời ông Linh nói lúc nhậm chức). Để rồi sau đó quay lại hoàn toàn với giáo điều “ý thức hệ” một cách tai hại và phải chui vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh mà cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là “Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 5 bắt đầu”. Đó là về chính trị. Còn lĩnh vực kinh tế, với tư duy giáo điều về con đường đi lên CNXH, thành phần kinh tế nhà nước vẫn cứ nắm vai trò “chủ đạo” cho dù làm ăn thua lỗ, thất thoát do không tự bơi được trong cơ chế thị trường tự do. Luôn cần “phao bơi” chả khác thời bao cấp. Cái gọi là “đổi mới” thực ra chỉ là giải pháp tình thế khi bầu sữa “viện trợ của Liên Xô” không còn. Nhiều nơi trong nước thiếu đói tới mức có người đàn ông phải cắt bắp chân của mình để nấu cháo cứu đói cho các con. Những cảnh rùng rợn như trong “Cái đêm hôm ấy đêm gì” (Phùng Gia Lộc), chỉ khi được phanh phui, người dân mới được đảng và nhà nước “đổi mới tư duy” cho bung ra làm ăn tự do để khỏi chết đói.
Khi có chút của ăn của để nhờ mở ra đa thành phần về kinh tế mang lại thì giới bảo thủ lại sợ “chệch hướng”, lại thít. Nhất là việc đưa vào Bản sửa đổi Hiến pháp 1992 điều 4 (giống điều 6 của thây ma hiến pháp Liên bang Xô Viết) về sự lãnh đạo độc tôn của ĐCS. Đặc biệt vẫn qui định đất đai thuộc “Sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”. Như thế cái gọi là “đổi mới” theo “cơ chế thị trường định hướng XHCN” thực ra chỉ là trò bịp để cho những kẻ nắm quyền bính đè đầu cưỡi cổ hòng “ăn trên ngồi trốc” và “vinh thân phì gia” trên xương máu và mồ hôi nước mắt của muôn dân.
Như một qui luật tất yếu “cùng tắc biến”, những bế tắc về kinh tế hiện nay, biết đâu lại là cơ may cho sự thay đổi toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị. Đồng hành với những đóng góp rất trách nhiệm của hàng ngàn trí thức và nhân sỹ tiến bộ vào Bản dự thảo hiển pháp sửa đổi đang trong giai đoạn lấy ý kiến đóng góp của toàn dân, cuốn sách BTC của Huy Đức do tác giả tự phát hành vào dịp này thật rất kịp thời. Nó không chỉ dừng lại ở việc công bố sự thật để “giúp chúng ta tìm ra phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không phạm các sai lầm mới” như tác giả bộc bạch ở chương cuối (chương 22 – Cuốn 2: Quyền bính) với đoạn kết sau đây:
Nhớ khi “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Nhớ khi trả lại ruộng đất và một số quyền căn bản cho dân thì đất nước hồi sinh, đời sống người dân bắt đầu cải thiện. Bản chất của đổi mới là từ chỗ Đảng và Nhà nước cấm đoán, tập trung tất mọi quyền hành, đến chỗ để cho dân quyền được tự lo lấy cơm ăn, áo mặc.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”(629). Không thể phủ nhận tầm nhìn của Hồ Chí Minh. Khi ông đưa ra tuyên bố này loài người chưa có Internet, thế giới chưa có toàn cầu hoá, độc lập dân tộc đối với người dân ở nhiều quốc gia vẫn được coi là vô cùng thiêng liêng.
Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân mới là nền tảng hình thành chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được Nhân văn – Giai phẩm, tránh được biết bao binh đao xung đột trong nội bộ dân tộc, gia đình.”
Thiết nghĩ, đó là tất cả tâm lành của một nhà báo dấn thân, không còn muốn “trú ngụ trong sự sợ hãi” luôn trăn trở và lao động miệt mài hàng chục năm dòng mới có được. Vậy “công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước…” (như ý kiến của giáo sư Chu Hảo – NXB Tri thức, Hà Nội) đã viết cho ai? Và ai cần đọc Bên thắng cuộc nhất?
Xin nhường lại cho người có trách nhiệm cao nhất của chế độ, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các ông trong Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (nếu qúi vị thật lòng muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh… ) trả nhời giùm!
– Minh Diện bổ sung thông tin cho BTC phần 1:ÔNG ĐỖ MƯỜI “ĐẺ RA” LÝ MỸ (Bùi Văn Bồng).* MINH DIỆN
Nhiệm vụ đặc biệt gì không ai được biết. Qua vài thông tin rò rỉ, các “quân sư quạt mo” nhận định chuẩn bị đánh tư sản thương nghiệp, mật danh X-3, dưới sự chỉ huy của “Bàn tay sắt” Đỗ Mười và giờ G đã điểm! Khi đó, ông Đỗ Mười là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam.
M.D- “Bên thắng cuộc” lột trần hậu trường chính trị VN (BS Ngọc).