-
* MINH DIỆN
Hai phiên tòa - một xử dân, một xử quan - không làm yên được lòng dân sau hơn một năm sảy ra vụ Tiên Lãng. Cũng như dân Văn Giang chưa nguôi bức xúc, dù ngọn lửa trên cánh đồng Xuân Quan đã tắt và những kẻ đánh dân đã phải đứng trước vành móng ngựa. Đơn kêu oan và khiều kiện vẫn mỗi ngày một chất cao như những đống gạch đá củ đậu ở Đông Triều...
Tất cả chỉ vì việc cưỡng chế thu hồi đất, mà nguyên nhân sâu xa từ khái niệm “Sở hữu toàn dân!”, một khẩu hiệu, một "tiêu chí dân chủ", nhưng lại là "sợi dây trói vô hình" mà người dân chẳng có quyền gì thực chất được tự chủ căn bản và lâu dài! Có người gọi đó là “Lời ru buồn cho đất!”.
Ngày 21-2-1848, bản Tuyên ngôn cùa Đảng cộng sản, lần đầu tiên xuất bản với vai trò là Tuyên ngôn của Hiệp hội cộng sản, do đề xướng của K. Marx, đã khẳng định “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu”, và đề ra nguyên tắc phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Bảy trong mười nội dung cơ bản đã được Karl Marx và F. Enghels vạch ra là : “ Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước. Áp dụng thuế lũy tiến cao. Xóa bỏ quyền thừa kế. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và tất cả những kẻ phiến loạn . Tập trung tín dụng, và tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước. Thực hành nghĩa vụ lao động với tất cả mọi người...”.
Thực hiện nguyên tắc đó, năm 1917, Lê Nin đã ra lệnh tịch thu toàn bộ đất đai của Kulak . Bị tước đoạt “miếng bánh mỉ” trên tay, những người Kulak Sông Đông đã vùng dậy , và máu người Nga đã đổ trong cuộc nội chiến thảm khốc. Trước thực trạng đó , tháng 3-1921, tại Đại hội đảng cộng sản toàn Nga lần thứ X, Lê Nin đã đề ra chính sách kinh tế mới, gọi tắt là NEP, nhằm phục hồi và xây dựng nền kinh tế kiệt quệ sau nội chiến và chiến tranh thế giới. Với chính sách kinh tế mới, nước Nga đã “ phải đẩy lùi lại với chủ nghĩa tư bản, phải dùng bàn tay của cả nhà tư bản để cày sới miếng đất xây dựng xã hội chủ nghĩa!” (Lê Nin). Nội dung chủ yếu của NEP, là trao quyền tự chủ cho nông dân,lấy nông nghiệp làm nền tảng phát triển kinh tế, xây dựng mối quan hệ công nông . Lê Nin đã có câu nói nổi tiếng rút ruột từ bài học xương máu : “ Hãy để cho người nông dân tự suy nghị trên luống cày của họ!”
Năm 1936 bản Hiến pháp của nước Nga được sừa đổi, vấn đề ruộng đất cởi mở hơn,không dùng từ “tước đoạt” như trước, mà đặt ra một khái niệm mới , là “Sở hữu toàn dân”. Dù còn nhiều tranh cãi, nhưng chiến tranh thế giới lấn thứ hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công Liên Xô, cuốn nước Nga vào cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, vấn đề tranh chấp nội bộ được gác lại vì sự tồn vong cùa dân tộc.
Bản Hiến pháp năm 1959 của Việt Nam ra đời dựa vào bản Hiến pháp năm 1936 của nước Nga, về đất đai vẫn giành quyền sở hữu cá nhân không quốc hữu hóa như Nga .
Nhưng thực tế , năm 1960, miền Bắc đã tiến hành xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp. Từ “Hợp tác xã bậc thấp” lên “Hợp tác xã bậc cao”. Ở bậc thấp, mỗi gia đình nông dân còn nhìn thấy mảnh ruộng của mình, được hưởng hoa lợi ruộng đất theo tỷ lệ phần trăm , con trâu, cái cày là của riêng. Lên bậc cao, ruộng đất công hữu hóa, không còn chế độ hoa lợi , trâu bò, cày bửa cũng bị sung công . Về cơ bản miền Bắc đã biến đất đai thành tư liệu sản xuât sở hữu toàn dân, dù Hiến Pháp vẫn quy định sở hữu cá nhân.
Ông Tố Hữu đã ca ngợi thành quả đó trong bài thơ “ Ba mươi năm đời ta có đảng” như sau:
Dân có ruộng dập dìu hợp tác!
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê.
Chiêm mùa cờ đỏ ven đê
Sớm hôm tiếng trống đi về trong thôn!
Qủa thật rất vui! Mỗi buổi sáng kẻng vang lên, mọi người tới địa điểm tập trung đi làm việc. Tiếng gọi nhau í ới, tiếng cười, tiếng nói rộn ràng ngõ xóm. Những tổ cày, tổ bừa, tổ tát nước , tổ cấy túm tụm với nhau, tha hồ trò truyện, khói thuốc lào nghi ngút. Chả ai thèm để ý đến thời gian . Khi mặt trời chói chang trên ngọn tre, đội trưởng hò hét, mọi người mới đủng đỉnh ra đồng . Làm việc quấy quá một lúc là trưa, rủ nhau vào gốc đa, bờ tre ngồi tán phét. Chiều vàng mặt trời, “thơ thẩn dang tay ra về. Cơm nước xong đến nhả tổ trưởng, đội trưởng bỉnh công ghi điểm. Ánh đẻn chấp chới như đom đóm khắp đường làng.
Trên vách hội trường hợp các tác xã, các ngã ba , ngã tư đường làng , đỏ rực khẩu hiệu: “Hợp tác là nhà ,xã viên là chủ!” và “Mỗi người làm việc bằng hai”, nhưng chẳng ai muốn làm chủ, chẳng ai hăng hái làm việc bằng hai. Khái niệm “làm chủ tập thể” đồng nghĩa với “cha chung không ai thèm khóc”, còn lời kêu gọi làm việc bằng hai, được đáp lại bằng câu ca dao mỉa mai: “ Mỗi người làm việc bằng hai, để cho cán bộ mua đài , mua xe!”
Ngưởi xã viên chỉ thực sự làm chủ mảnh ruộng phần trăm . Mỗi gia đình có vài chục mét vuông , nhưng đó lại là miếng cơm , manh áo , là cuộc sống cùa họ. Bao nhiêu suy nghĩ, lo toan , bao nhiêu công sức của người xã viên đều dồn vào đó. Những cánh đồng hợp tác mênh mông , ngoài mấy người trong ban chủ nhiệm, chẳng ai thiết tha nhòm ngó. Ngược lại không ít xã viên tìm cách cấu véo thành quả của tập thể. Cảnh bố mẹ gặt trước cố tình để sót những bông lúa mẩy cho con mót phía sau, hoặc dằn mạnh bó lúa cho thóc rụng xuống bờ để con hót, diễn ra phổ biến trong mùa gặt.
Nhằm củng cố mô hình hợp tác xã nông nghiệp, năm 1963,đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã về huyện Lệ Thủy , Quảng Bình xây dựng điển hình hợp tác xã Phong Thủy. Đầu tư bao nhiêu tiền của, sức lực, nổi lên được ngọn gió Đại Phong. Nhưng ngọn gió ấy chỉ thúc đẩy được 504 hộ dân xã Phong Thủy , huyện Lệ Thủy, không đủ sức lan tỏa cả nước. Cũng như ở Thái Bình, ông Nguyễn Ngọc Trìu dồn sức người, sức của xây dựng hợp tác xã Vũ Thắng, kết quả chỉ làm rung động được trái tim nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý cho ra đời một “Bài ca năm tấn!”
Dù tuyên truyền vận động ráo riết,dù biện pháp hành chính thắt chặt,sức sản xuất vẫn ì , tiêu cực phát triển. Những cánh đồng mầu mỡ trở nên cằn cỗi, năng xuất thấp. Lúa cấy xong không có người làm cỏ bón phân. Thậm chí lúa chín không có người gặt. Ông Kim Ngọc, Bí thư tình ủy Phú Thọ lúc bấy giờ nhận xét : “ Xã viên không coi ruộng đất là của mình nên họ chẳng thiết tha gì với đồng ruộng!” Hậu quả là, trước mỗi ngày công được ba, bốn cân thóc, teo dần còn một cân, có nơi chỉ còn vài lạng. Gặt về bao nhiêu nộp thuế, nghĩa vụ bấy nhiêu vẫn chưa đủ. Nạn đói âm ỉ tràn từ làng này qua làng khác, bộ mặt nông thôn miền Bắc quắt queo, hốc hác không kém thời nô lệ. Nhà văn Phùng Gia Lộc đã diễn tả cái đói trong phóng sự “ Cái đêm hôm ấy đêm gì” như sau:
“Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có dấu được tý gì. Nó nói:
- Chi nấu cơm cho bà và em ăn thôi. Mẹ với anh Học với con ăn chào rau má rồi! Bữa nay mẹ luộc nhiều rau cải.
Tôi thấy cay xè trong mắt:
- Thế thì nấu thêm vào! Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van vái ông bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?”
Giữa lúc đó công an, dân quân đến đòi nộp thóc nghĩa vụ. Bà mẹ quỳ xuống lạy
- Các bác ,các anh ơi. Có còn cái gì đâu mà nộp? Các bác , các anh không thấy đàn con hắn đói xanh, đói trong đi à ? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?”
Thương dân đói quá, ông Kim Ngọc quyết định phương án táo bạo, thực hiện khoán hộ ở Phú Thọ. Nhờ khoán hộ, cuộc sống người dân Phú Thọ đỡ khổ. Ông Kim Ngọc chỉ làm theo lời Lê Nin “ Để cho người nông dân tự suy nghĩ trên luống cày của mình” , nhưng cuộc đời ông rơi vào bi kịch , bị kiềm điềm , quy kết, oan ức ra đi trong thầm lặng.
Trường Chính là một trong những người trì trích Kim Ngọc dữ nhất, rồi ông nhận ra mình đã sai,ông rất ân hận. Có lẽ vì vậy , năm 1980, trong dự thảo Hiến Pháp, với cương vị Chủ tịch nước,Trường Chinh ký tờ trình Bộ chính trị , đề nghị vẫn giữ đa thành phần trong quản lý đất.
Nhưng bấy giờ Tổng bí thư Lê Duẩn ở thế thượng phong, và ông đang say sưa với khái niệm “Làm chủ tập thể”, nên không ai dám trái ý ông. Bản Hiến Pháp 1980 là “Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”, nội dung cơ bản Nhà nước dưới sự lãnh đạo của đảng và chuyển toàn bộ ruộng đất thành sở hữu toàn dân.
Hậu quả của chính sách làm chủ tập thể đã đưa nền kinh tế đến kiệt quệ. Mọi người làm chủ nhưng chẳng ai làm chủ. Bộ máy quan liêu dẫn tới đặc quyền , đặc lợi tham nhũng. Các hợp tác xã ở miền Bắc tan rã, xã viên chỉ lo cho mảnh ruộng phần trăm của mình, các tập đoàn sản xuất ở miền Nam như cha chung không ai khóc, nông dân bỏ ruộng sống vất vưởng buôn bán, hoặc tìm đường vượt biên. Năm 1987, cả nước chỉ đạt được 17 triệu tấn lương thực quy ra thóc. Cùng với sự tác động tiêu cực của chính sách giá lương tiền , lại bị cấm vận, nền kinh tế đổ sụp. Từ chế độ lưu thông phân phối khủng hoảng cung cầu, đẻ ra chính sách ngăn sông cấm chợ. Đất nước như bị chia cắt ra thành từng mảnh nhỏ, nhưng cái đói lại bao trùm toàn lãnh thổ.
Tôi còn nhớ hình ảnh cố nhà văn trung tá Thái Vượng, khoác chiếc ba lô đầy sắn nhảy tàu từ Nam ra Bắc cứu đói vợ con.
Theo thông kê, cả nước ngày ấy 9,5 triệu người thiếu ăn, trong đó 5,2 triệu người đứt bữa và 3,5 triệu người đói.
Từ thực tế đó chính sách khoán 10 ra đời. Đây được coi như quyền sở hữu tạm thời , vì ngoài nội dung khoán đất lúa, đất rừng, mặt nước cho các hộ dân, để họ tổ chức kinh doanh,còn cho phép chuyển nhượng, thừa kế. Chính sách ngăn sông cấm chợ đồng thời được xóa bỏ. Một cuộc cách mạng thật sự của Đảng cộng sản Việt Nam , chấm dứt nạn đói hoành hành, và như huyền thoại, năm 1989, hơn 1,5 triệu tấn gạo đã được xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn Linh nói : “Ham chủ nghĩa xã hội hình thức là đánh sập nền kinh tế nông dân. Nền kinh tế nông dân bị sập thì khủng hoảng chính trị. Thương dân, thương nước thì phải cởi trói cho nông dân trước. Nông dân đổ mồ hôi và máu mới có đất, không ai được quyền tước đoạt của họ”.
Ông Võ Văn Kiệt đồng quan điểm này với ông Nguyễn Văn Linh. Ông nói: “ Tại sao 5% đất giao cho dân có hiệu quả còn 95% đất của toàn dân lại không đạt hiệu quả? Người nông dân chỉ có thể làm giàu trên chính mảnh ruộng của họ. Đó chính là NEP của Lê Nin”.
Ông Nguyễn Văn Linh đã chấp nhận giải tán các tập đoàn, giao đất cho dân. Người nông dân phẩn khời nhận lại ruộng, tự chủ canh tác, mùa màng bội thu. Năm 1992 Việt Nam đã xuất khẩu được 3 triệu tấn gạo.
Nhưng “Thương cho cái kiếp má đào, cởi ra rồi lại buộc vào như chơi!”. Cũng là đất đai mồ hôi, nước và cả máu xương bao đời nay người nông dân mới mới có được, nhưng cái câu “sở hữu toàn dân” như sự mồi mớm, mị dân đã sinh ra nhiều hệ lụy. Cùng một chế độ chính trị-xã hội, cùng do đảng Cộng sản cầm quyền, thế nhưng vị lãnh đạo này hô “cởi trói” cho nông dân, đến vị lãnh đạo khác lại đi trói người nông dân để chiếm đoạt ruộng đất ngay trên luống cày của họ!
* MINH DIỆN
(tiếp theo) - Khi công cuộc đổi mới đang trên đà phát triển, Việt Nam được coi là một “con rồng” của Châu Á, với mức tăng trưởng 7,6% vào năm 1990 và đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo, thì bỗng khựng lại. Nguyên nhân cũng lại do ông Nguyễn Văn Linh.
Ông quê Hải Dương, tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi, phần lớn thời gian hoạt động trong Nam, ở những địa bàn ác liệt, được dân đùm bọc. Ông có nhiều kinh nghiệm thực tế, tính ngay thẳng, cuộc sống liêm khiết , nhưng hạn chế về tầm nhìn ra thế giới bên ngoài. Ông đã có công phá rào khi làm Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Đầu nhiệm kỳ Tổng bí thư ông đề ra “ những việc cần làm ngay”, cởi trói cho văn nghệ sỹ, khuyến khích sáng tác nói thẳng nói thật, và cởi trói cho nông dân ,cho phép rút ruộng đất ra khỏi tập đoàn , sản xuất tư nhân. Nhưng ông lại bị mắc hợm Trung Quốc ở Hội nghị Thành Đô, với cái gọi là “ Giải pháp đỏ”. Nói như Nguyễn Văn An : “ Nguyễn Văn Linh không phải là con người thực sự đổi mới!” Sau Hội nghị Thành Đô, ông đã bỏ “những việc cần làm ngay”, xiết lại sợi dây cơ chế chính sách, đẩy con thuyền đổi mới lùi lại. Ông từ chối không tham gia nhân sự Đại hội VII của đảng cộng sản Việt Nam , dù nhiều người vẫn tín nhiệm .
Bấy giờ nhiều người đặt niềm tin và kỳ vọng vào ông Võ Văn Kiệt, người sẽ thay ông Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư, lèo lái con tàu đổi mới vượt thác mạnh mẽ hơn. Ông Nguyễn Văn Linh cũng đánh giá rất cao Võ Văn Kiệt, người từng sát cánh bên ông trong những năm chống Pháp, chống Mỹ ở miền Nam, cùng gồng mình xé rào đưa kinh tế Sài Gòn bứt lên từ vực thẳm, làm tiền đề cho công cuộc đổi mới cả nước, cũng là người đồng quan điềm giao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Nhưng Nguyễn Văn Linh lại là người ngăn cản Võ Văn Kiệt làm Tổng bí thư . Lời phát biểu thiếu căn cứ : “ Không cần phải chống tham nhũng ở đâu xa,mà hãy chống tham nhũng ngay trong nhà vợ con Thủ tướng!” của ông trong một hội nghị bàn về chống tham những gây sốc, làm xôn xao dư luận. Ông Võ Văn Kiệt đã hai lần viết thư gửi Bộ chính trị, để nghị làm sáng tỏ. Trong lá thư đó có đoạn : “ Nếu tôi như anh Nguyễn Văn Linh nói, thì tôi không còn xứng đáng là một Uỷ viên bộ chính trị, thậm chí một đảng viên!”.
|
Hội nghị Thành Đô - 9/1990 |
Khi sắp qua đời ông Nguyễn Văn Linh ân hận về lời phát biểu của mình, và ông bộc bạch: “ Anh Sáu Dân là người rất tốt, rất năng động, nhưng tôi sợ anh đổi mới quá đà mắc sai lầm!”
Đại hội VII của đảng công sản Việt Nambầu Đỗ Mười làm Tổng bí thư. Ông từng được Lê Duẩn tin tưởng giao nhiệm vụ thay Nguyễn Văn Linh làm Trường ban cải tạo trung ương, thực hiện chiến dịch đánh tư sản ở Sài Gòn 1979, biến “Hòn ngọc viễn đông” thành “ kho phế liệu !” Khi làm Tổng bí thư, Đỗ Mười trung thành với đường lối Lê Duần, muốn xóa sạch quyền sở hữu tư nhân. Trong bối cảnh Liên Xô sụp đổ, Đông Âu tan rã, chủ nghĩa xã hội lung lay tận gốc, Đỗ Mười vẫn nêu cao “tinh thần bôn-sê-vích”, không chấp nhận quan điểm của Võ Văn Kiêt , là thay đổi Hiến pháp theo hướng trao quyền sở hưũ ruộng đất cho nông dân. Đỗ Mười gắn chặt tư duy của mình vào tư tưởng của người tiền nhiệm Lê Duẩn : “ Làm chủ tập thể là tinh thần cơ bản , là nội dung nhất quán, và sở hữu toàn dân là cốt lõi của chủ nghĩa xã hội!” Ông khẳng định: “ Trước sau gì cũng tới đó nên về đất đai vẫn để nguyên như Hiến pháp 1980!”
Quan điểm cùa Đỗ Mười được Đào Duy Tùng nhiệt liệt ủng hộ. Thay mặt Ban bí thư , ngày 14-4-1993, khi chuẩn bị đưa dự thảo Luật đất đai ra lấy ý kiến nhân dân, Đào Duy Tùng huấn thị : “ Phải làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm được quan điềm cơ bản của đảng và nhà nước ta: Toàn bộ đất đai đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước chỉ giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng , không cho mua bán đất...” Đào Duy Tùng chỉ thị : “ phải theo dõi sát sao trong quá trình thảo luận , kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thảo luận!”
Với sự lãnh đạo của đảng chặt chẽ như vậy, việc lấy ý kiến chỉ là hình thức, nhiều người có quan điềm tư hữu đất đai như ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, phải im lặng trước vấn đề nhạy cảm đó. Và nội dung bản Hiến pháp 1992, thuộc quyền Tổng bí thư Đỗ Mười, quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Không thành công trong việc sửa đổi Hiến pháp, ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải và một số người đã cố gắng cho ra đời Luật đất đai 1993 cởi mở hơn, với khái niệm 5 quyền: Quyền Sử dung, quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế, quyền thế chấp, và quền cho thuê đất. Đây là một bước tiến đáng kể so với những Luật đất đai trước.
Nhưng người dân không thật phần khởi, bởi Luật đất đai 1993 đề ra quy định hạn điền và thời hạn giao đất, trong khi Điều 18 Hiến Pháp 1992, quy định giao đất ổn định lâu dài cho dân . Hạn điền và thời hạn giao đất là đặc trưng và ranh giới để phân biệt sở hữu tư nhân và tập thể . Luật đất đai quy định hạn điền và thời gian giao đất đề giữ vững cái cốt lõi “Sở hữu toàn dân” . Trên mở dưới thắt, đầu cởi đuôi trói, là những thủ pháp quen thuộc của đảng. Người dân vẫn không được tự do suy nghĩ trên mảnh đất của mình. Ngược lại, với các thủ pháp thắt mở như vậy , dễ đẻ ra các thủ tục hành chính rườm rà, thiếu minh bạch hành dân. Có những điều luật không nhất quán, mà chồng chéo, thậm chí đối chọi nhau, hậu quả cũng đổ lên đầu dân. Dù mảnh đất của cha ông để lại, đất khai hoang, hay đất sang nhượng đúng pháp luật theo Bộ luật dân sự quy định, nhưng theo Luật đại lại phải qua chính quyền làm thủ tục cho thuê đất có thời hạn, khi chuyển nhượng, hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng phải đóng 100% tiền sử dụng đất. Người dân đã phải đóng thuế hai lần trên cùng một mảnh đất của mính.
Vậy mà Tổng bí thư Đỗ Mười vẫn cho rằng đã là quá mở. Ông cho rằng đó là nguy cơ đi trệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần đó, ngày 14-10-1994, Quốc hội ban hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức trong nước sử dụng đất, và ngày 13-2-1995, Chính phủ ban hành Nghị định 18, theo đó, tổ chức, cá nhân trong nước không được thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp quyền sừ dụng đất như trước . Nguyên tắc bất hồi tố trong dân sự không được áp dụng, tất cả các tổ chức được giao đất phải chuyền sang thuê đất, và chỉ được thế chấp tài sản trên đất. Sợi giây quản lý đất đai xiết chặt hơn.
Nghị định 18, như một tác nhân làm sụp đổ ngành kinh doanh bất động sản,làm thất thu ngân sách hàng ngàn tỷ đồng, làm hàng loạt doanh nghiệp sau một đêm thức dậy trắng tay, nhiều doanh nghiệp chết tức tưởi như công ty Minh Phụng, Epco, Tanimex ở thành phố Hồ Chí Minh.
|
Nông dân Vụ Bản (Nam Định) đấu tranh chống cưỡng chế thu hồi đất nông nghiẹp |
Tháng 12-1997, ông Đỗ Mười kết thúc nhiệm kỳ Tổng bí thư, để lại hậu quả tày đình đó, nhưng vẫn chễm chệ trên ghế cố vấn, giữ vai trò phán quyết mọi chủ trương đường lối. Người kế nhiệm là Lê Khả Phiêu có công phá cái “Vòng kim cô” , và ông đã phải trả giá. Nông Đức Mạnh làm hai nhiệm kỳ Tổng bí thư, đó là thời kỳ uy tín cùa Đảng cộng sản Việt Nam tụt dốc nhất kể từ khi được thành lập. Ông không đưa ra được bất kỷ một chính sách mới nào có lợi cho dân cho đảng, ngoài việc lập đường dây nóng với Trung Quốc, một câu nói nổi tiếng “ Ở Việt Nam al cũng là con cháu Bác hồ!”và vụ tai tiếng PMU 18. Trong thời gian đó, luật đất đai đã 5 lần thay đổi, đều theo hướng hạn chế bớt quyền lợi của dân, tăng quyền cho chinh phủ. Ví dụ, Điều 27 , Luật đất đai 1993 ghi: “ Trong trường hợp thật cần thiết, nhà nước mới thu hồi đất đang sử dụng của người thuê đất vảo mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, thì người bị thu hồi được đền bù thiệt hai”. Luật đất đai 1998 vẫn giữ nguyên như vậy, nhưng Luật đất đai 2003, lại cho chính quyền thêm quyền : “Thu hồi đất để phát triển kinh tế!” Điều 20, Luật đất đai năm 1993, quy định : “ Khi hết thời hạn giao đất, nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng, và trong quá trình sử dụng đất chấp hành đúng pháp luật về đất đai thì được nhà nước giao đất tiếp tục sử dụng” Năm 1998 vẫn giữ nguyên điều này, nhưng Luật đất đai 2003, tại khoản 10, điều 38, quy định : “Nhà nước thu hồi những phần đất không được gia hạn khi đã hết hạn”.Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 84, Bộ tài nguyên và môi trường ra thông tư 06, càng mở rộng đường thu hồi đất cùa dân.
|
Oan khốc Đoàn Văn Vươn |
Với điều mục đích thu hồi đất để “phát triển kinh tế” và với quyền được “thu hồi những phần đất không được gia hạn”, chính quyền hoàn toàn lảm chủ đất đai, dân chỉ còn nghĩa vụ phải thi hành. Những mảnh sổ đỏ, sổ hồng trở nên vô giá trị. Chính quyền từ huyện đến trung ương có thể thu hồi bất cứ lô đất, vùng đất nào mà họ muốn, chỉ cần vẽ một bản đồ quy hoạch và làm một dự án phát triển kinh tế. Khu công nghiệp, khu chế suất, khu du lịch, khu đô thị mới, nhà hàng, khách sạn , sân Golf. Những quyết định thu hồi đất, luôn thòng sẵn một điều khoàn đe dọa lệnh cưỡng chế , được ban hành dễ như trở bàn tay.
Với những quyết định thu hồi đất ấy, người ta đền bù cho dân giá quy định, mang tính tượng trưng, rồi làm dự án này, dự án nọ, phân nền phân lô bán với giá gấp ngàn lần. Nhiều doanh nhân kinh doanh bất động sản trở thành các đại gia, ngất ngưởng trên những mảnh đất đẫm mô hôi xương máu của người nông dân. Các nhóm lợi ích bu vào đất. Đất là miếng mồi béo bở nhất của các quan tham. Người nông dân trắng tay, trở thành kẻ làm thuê làm mướn, đi bán vé số, thậm chí đi ăn xin .
Nạn nhân Đoàn Văn Vươn, là một điển hình cùa “Sở hữu toàn dân” đất đai. Các quan chức huyện Tiên Lãng đã vận dụng điều khoản “thu hồi những phần đất không được gia hạn” để ra quyết định thu hồi 19,5 ha đầm tôm của anh. Anh Vươn không chấp nhân, họ ra lệnh cưỡng chế trái phép, dẫn đến vụ án “giết người và chống người thi hành công vụ”.
Cuộc cưỡng chế lửa khói ở Văn Giang, gạch đá ở Đông Triều , và 70% trong tổng số đơn khiếu kiên hiện nay cũng từ những bất cập của chính sách đất đai.
|
Sơ đồ dự án Ecopark Văn Giang lộ rõ hình SÂU KHỔNG LỒ ĂN ĐẤT (hình bắt gặp ngẫu nhiên trên Internet. Lạ!) |
Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã viết trên Vietnannet : “ Công nhận sở hữu tư nhân, bãi bỏ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bãi bỏ chế độ 'đảng chủ', áp dụng tam quyền phân lập, thực hiện nguyên tắc tranh cử, công khai minh bạch...”. Nhưng hình như cũng như những người khác, ông Nguyễn Văn An đưa ra những phát biểu khảng khái như vậy mà các nhà lãnh đạo đương chức đương quyền, những nhóm lợi ích vẫn coi như gió thoảng qua.
Đảng cộng sản Việt Nam đang tổ chức lấy ý kiến rộng rãi về việc sửa đổi Hiến pháp và Luật đất đai. Nhưng có thật sự cầu thị, thực lòng cần dân chủ hay không lại là chuyện kác!
Đất đai là một nguồn lợi tiềm tàng, đồng thời cũng ẩn chứa nhiều mâu thuẫn. Đất không biết nói nhưng hồn dân là hồn đất. Khi đụng chạm đến cõi xâu xa ấy phải có tâm thức chân thành. Mọi sự lừa dối, áp đặt sớm muộn cũng bị phơi bày. Khi luật pháp không rõ ràng, thiếu minh bạch, nhiều bất công thì đất đai chính là cái mầm sinh ra bất ổn cho toàn xã hội. Nhưng điều trớ trêu là sự bất ổn đó lai do chính quyền móc nối với đại gia gây nên, chỉ vì lợi ích cá nhân và phe nhóm.
Bao đời nay, nông dân đứng lên đấu tranh chỉ vì ruộng cày, chỉ vì bát cơm manh áo. Nay kẻ nào chiếm đoạt đất của nông dân thì dù ở thể chế chính trị nào cũng trở thành kẻ thù của nông dân. Đó là quy luật. Quyền lực, trong chừng mực, hoàn ảnh nào đó có thể bắt, trói người nông dân ngay trên luống cày của họ. Nhưng đến lúc mà sự chịu đựng đã dồn đến chân tường, nông dân sẽ bắt trói kẻ thù. Dù sao, người dân vẫn còn chút hy vọng đến lúc nào đó đảng, nhà nước thật sự muốn nghe ý kiến của dân, muốn cởi trói cho dân, để trên mỗi luống cày nở rộ mùa màng.
M.D
(hết, bài có 2 phần)
-----------------------
* Tư liệu liên quan:
Mới đây, sáng 11/4, DÂN OAN VĂN GIANG
LẠI KÉO VỀ HÀ NỘI
(Theo
Cầu Nhật Tân - Giải phóng mặt bằng) - Dân oan Văn Giang tiếp tục kéo băng rôn biểu tình tại 46 Tràng Thi – trụ sở của MTTQVN. Họ vẫn yêu cầu xử lý vụ cưỡng chế cướp đất của họ, ném mìn khói gây ngạt, gây tiếng nổ lớn để đàn áp dân vào tháng 4 năm ngoái.
Dự án Ecopark gây tranh cãi với nhiều tình tiết vi phạm pháp luật của các bộ ngành từ trung ương đến địa phương vẫn chưa có hồi kết về trách nhiệm. Ông Hùng Võ sau lần đối thoại với dân Văn Giang tại trụ sở Bộ TNMT đã nhận sai về mình và chỉ ra các sai phạm, bất cập của cả thủ tướng khi ấy là phó thủ tướng, ký bừa vào văn bản giao 500 hecta đất cho chủ đầu tư chưa có tên .