Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

Bài Học Miến Điện CÁCH MẠNG ĐỂ THOÁT ÁCH TÀU

Thiên Trường

Miến Điện hết sức quan trọng đối với Tàu trên nhiều phương diện. Tàu ý thức rất rõ rệt điều này nhưng không cộng tác chân thành với Miến mà chỉ trục lợi bằng đủ mánh khóe xảo quyệt.
TÀU ĐỎ PHẢN BỘI
Tháng 8.1939, Thakins Soe thành lập Đảng Cộng Sản Miến Điện (CPB = Communist Party of Burma). Năm 1941, từ trong khám đường Insein, ông và Than Tun ra Tuyên ngôn Insein kêu gọi tạm thời hợp tác với người Anh để chống phát xít Nhật.

Mặt khác, tháng 9.1940, đại tá Suzuki Keiji tiếp xúc với sinh viên Aung San. Hai người cùng đi Tokyo và được bộ Tổng Tham Mưu Hoàng Gia tiếp. Aung San cùng một nhóm thanh niên gọi là “Ba mươi đồng chí” bí mật rời khỏi Miến Điện để được huấn luyện quân sự trên đảo Hải Nam và, ngày 28.12.1941, thành lập Quân đội Độc lập Miến Điện (BIA = Burma Independence Army), mùa xuân 1942 đổi tên thành Quân đội Quốc phòng Miến Điện (BDA = Burma Defence Army) và tháng 8.1943, sau khi Nhật ban cho Miến Điện độc lập, lại đổi thành Quân đội Quốc gia Miến Điện (BNA = Burma National Army) và Aung San vinh thăng thiếu tướng, tổng tư lệnh BNA kiêm bộ trưởng Quốc Phòng.
Ngày 8.3.1942, ĐCSM có trụ sở tại Mandalay do Bohmu Ba Htoo chỉ huy phát động cuộc khởi nghĩa. Ngoài ra, còn Đảng Cách mạng nhân dân (PRP = People’s Revolutionary Party) do Aung San đồng sáng lập. Từ 1942, BNA quy tụ các đảng phái, kể cả ĐCSM rút vào rừng. Tháng 8.1944, tại Pegu, BNA, CPB và PRP hợp tác thành lập tổ chức chống phát-xít (AFO = Anti-Fascist Organisation) do Thakins Soe lãnh đạo, tháng 12, tiếp xúc với Đồng Minh xin hợp tác để đuổi Nhật đi. Ngày 27.3.1945, tướng Aung San chỉ huy BNA lãnh đạo cuộc nổi dậy quốc gia, tuyên chiến với Nhật. Sau khi Nhật đầu hàng, AFO đổi thành Liên Minh Tự do Nhân dân Chống phát-xít (AFPFL = Anti-Fascist People’s Freedom League) do Than Tun làm tổng thư ký và tiếp tục đấu tranh chống Anh đòi độc lập. Tháng 2.1947, tướng Aung San ký hiệp ước Panlong với lãnh tụ các dân tộc thiểu số về thống nhất đất nước và hòa hợp dân tộc.
Từ tháng 3.1948, do đói nghèo sau chiến tranh, hàng nghìn nông dân ở miền Nam Miến Điện khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, cuộc khởi nghĩa kéo theo các cuộc nổi dậy của một số đơn vị quân đội có nhiều binh lính là dân tộc thiểu số. Cuộc nội chiến khốc liệt nhất là cuộc chiến giữa quân đội chính phủ Liên bang với lực lượng vũ trang của Đảng Cộng Sản Miến Điện (ĐCSM) có căn cứ ở bang Nam Shan vùng Đông Bắc Miến Điện giáp biên giới Tàu. Từ năm 1968, ĐCSM được Đảng Cộng Sản Tàu (ĐCST) của Mao Trạch Đông tích cực hỗ trợ nên rất mạnh. Đầu thập niên 1970, ĐSCM muốn chiếm quyền cai trị khu vực dọc biên giới để kiểm soát mậu dịch với Tàu.
Năm 1978, Tàu lùn Đặng Tiểu Bình, với chủ trương thực dụng nổi tiếng “mèo trắng mèo đen”, tuần thú Miến, nhìn ngay thấy làm thân với quân phiệt Miến mới có lợi, không ngần ngại bỏ rơi ĐCSM. Tháng 11.1985, ĐCSM đánh bại quân đội chính phủ Liên bang tại khu vực Hxi Hxi Wan bang Shan. Chính phủ phải huy động 2 sư đoàn bộ binh, sử dụng oanh tạc cơ Pilatus và tên lửa 4 nòng 122 mm của Liên Xô mới đẩy lui được, thừa thắng đánh chiếm Kyubok – vùng lãnh thổ rộng lớn do quân đội ĐCSM kiểm soát, vượt sông Thalwin tấn công vào tổng hành dinh Panghsang (nay là Pangkang) của ĐCSM gần biên giới Tàu, cuối năm 1986, mở chiến dịch Panghsang truy quét căn cứ Kokang phía Bắc Bang Shan của ĐCSM, tiêu diệt hoàn toàn lực lượng quân đội ĐCSM. Tàn quân và một số lãnh tụ ĐCSM phải chạy trốn sống lưu vong ở nước ngoài.
Tháng 4.1989, nội bộ ĐCSM bị phân hóa. Ngày 17.4, quân đội Bang Wa, vốn lệ thuộc ĐCSM, trở mặt đột kích đại bản doanh ĐCSM tại thủ phủ Panghsang. ĐCSM kêu cứu Tàu nhưng không được đáp ứng. ĐCSM tan rã thành 4 lực lượng vũ trang: 1/ UWSA (United Wa State Army) của sắc tộc Wa; 2/ MNDAA (Myanmar National Democratic Alliance Army) của sắc tộc Kokan; 3/ ESSA (Eastern Shan State Army) của sắc tộc Shan, và 4/ NDA–K (New Democratic Army–Kachin) của sắc tộc Kachin. Nhờ sự phản bội của các đồng chí Tàu, ĐCSM cáo chung sau gần 50 năm tồn tại.
Lợi dụng cơ hội này, quân đội chính quy điều đình ngay, đạt được hưu chiến với bốn lực lượng này, đến năm 1997, lại đạt được hưu chiến với 17 lực lượng võ trang của các sắc tộc thiểu số khác. Các sắc tộc thiểu số được ban quyền tự trị rộng rãi và kiểm soát vùng biên giới Miến-Tàu. Thế nhưng Tàu áp dụng chính sách chia để trị.
ĐÒN SÓC HAI ĐẦU
Miến Điện gồm 14 bang, 7 bang là của người Miến (Burman hay Mang), 7 bang còn lại là của các sắc tộc thiểu số tọa lạc ở hai khu. Ở phía đông, bang Kachin và bang Shan trên biên giới Miến-Tàu; các sắc tộc Wa và Kokan sống trên miền bắc lãnh thổ của bang Shan; phía nam bang Shan là bang Karen tức Kayah trên biên giới Miến-Thái; phía tây nam bang Karen là bang Kayin; giữa bang Kayin và biển Andaman là bang Mon. Sang miền tây, dọc duyên hải có bang Rakhine tức Arakan và bang Chin ở miền bắc Rakhine.
Tác giả Hà Nhân Văn nhận định: “Trải qua nhiều thập niên nội chiến (từ 1949), phong trào dân thiểu số ở bang Kachin, Miến Điện vẫn chưa dẹp nổi. Thứ nhất do Bắc Kinh bắt cá hai tay, bí mật dung dưỡng phong trào, bao trùm vùng biên giới Bắc Miến Điện”(”Tầu mất Miến Điện Hoa Nam loạn to!”. 18.12.2011).
Phần lớn tài nguyên Miến nằm trong lãnh thổ của các sắc tộc thiểu số. Tàu ủng hộ và hậu thuẫn họ, đặc biệt là các sắc tộc Kachin, Wa và Kokang, cung cấp kinh viện, vũ khí và các tiện nghi căn bản như điện, nước, viễn thông và buôn bán qua biên giới.
Theo Nhóm Khủng Hoảng Quốc Tế (International Crisis Group), Tàu muốn duy trì quân bình giữa các sắc tộc thiểu số và chính phủ Miến để bảo vệ ổn định ngõ hầu bảo đảm được việc khai thác các nguồn tài nguyên này. Chính sách “hai mặt” (“two-face” policy) này của Tàu không phải không có rủi ro.
Tại bang Kachin, Tàu đầu tư rất nhiều trong kỹ nghệ khai mỏ khoáng sản, thủy điện, canh nông và tiểu thương. Để bảo vệ những quyền lợi này, Tàu một mặt cho quân chính quy đi bọc qua biên giới sang lãnh thổ Tàu để tấn công KIA (Kachin Independent Army = Quân Đội Độc Lập Kachin). Mặt khác, Tàu cung cấp vũ khí hạng nặng cho quân Cộng Sản UWSA của sắc tộc Wa. Theo Jane’s Intelligence Review, thiết vận xa do Tàu sản xuất trang bị súng liên thanh được thấy ở đại bản doanh Panghsang của UWSA sát biên giới Tàu. Tuy UWSA đã ký thỏa ước hưu chiến với chính phủ Miến từ 1989 và Tàu cũng không muốn có chiến tranh ở vùng biên thùy này nhưng Tàu vẫn cung cấp vũ khí cho UWSA để đe dọa chính quyền Miến đừng giở trò với Tàu.
Dĩ nhiên chính phủ Miến không ưa cái trò đòn sóc hai đầu của Tàu vì nó làm suy giảm quyền uy của họ. Do đó họ hết tin vào Tàu, cố hạn chế ảnh hưởng Tàu trong các chính sách đối nội và đối ngoại.
Bertil Lintner giải thích chính sách đòn sóc hai đầu của Tàu:
Tháng 12.2012, nhiều cuộc họp kín diễn ra ở Bắc Kinh, tại đó các học giả từ Vân Nam lập luận rằng chính phủ Tàu nên đóng cửa biên giới và chỉ cộng tác với nhà cầm quyền Miến để đè bẹp KIA, do đó cải thiện quan hệ căng thẳng với Naypyidaw. Các quan chức Bộ Ngoại Giao cảnh giác rằng quan điểm một chiều như thế có thể dẫn đến dòng người tỵ nạn Kachin tràn vào Vân Nam và có thể xảy ra những cuộc tấn công vào các doanh nghiệp và cá nhân Tàu. Hơn nữa, Tàu phải xét đến sự kiện tỉnh Vân Nam có hơn 130,000 dân tộc Kachin. Khi KIA bị trực thăng võ trang, chiến đấu cơ phản lực và trọng pháo tấn công khốc liệt vào tháng giêng, nhiều ngàn người Kachin Tàu đi bằng xe tải và xe buýt đến biên giới để tỏ lòng đoàn kết với anh em của họ bên kia biên giới. Nhiều người Kachin Tàu khác bị chặn lại ở các trạm kiểm soát trước biên giới. Cứ xét tính nhạy cảm của Tàu trong việc giải quyết vấn đề sắc tộc ở các vùng như Tây Tạng và Tân Cương, Bắc Kinh không thể tự cho phép gây thù chuốc oán với một dân tộc thiểu số khác, dù nó bé nhỏ (”Powers Seek Influence in Burma’s Conflict”. YaleGlobal.18.3.2013).
TÀU XANH THỔ PHỈ
Sau khi đại thắng quân Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tưởng Giới Thạch, ngày 1.10.1949, “vĩ đại đạo sư, vĩ đại lãnh tụ, vĩ đại thống soái, vĩ đại đà thủ” Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Tàu, tháng 12-1949, “giải phóng” tỉnh Vân Nam, tàn quân QDĐ gồm 1600 lính thuộc Quân đoàn 8 và quân đoàn 26, do Lý Mật cầm đầu, chạy từ Vân Nam sang Miến Điện kết hợp với Sư đoàn 93 lưu lại phía bắc Miến Điện từ Đệ Nhị Thế Chiến. Lực lượng vũ trang tại chỗ của Chính phủ Miến Điện yêu cầu giải giới không được bèn tấn công. Chúng trụ lại tại Mông Dương, gần biên giới Miến-Thái, tuyển thêm binh lính địa phương, nâng quân số lên 12,000, được Mỹ dùng máy bay C.46, C.47 bay từ Đài Loan đến thả dù tiếp tế vũ khí, trang thiết bị quân sự, nhu yếu phẩm nhằm ngăn cản “làn sóng cộng sản” tràn xuống Đông Nam Á. Lý Mật được Tưởng Giới Thạch phong tặng danh hiệu thống đốc Vân Nam, được QDĐ trả lương, xây sân bay dã chiến ở Mong Hxat, trực tiếp nhận tiếp tế Đài Loan, mở rộng phạm vi hoạt động, kinh tài bằng cách trồng và sản xuất thuốc phiện. Tháng 9.1952, Lý Mật ký hiệp ước tương trợ giữa QDĐ và tổ chức quốc phòng Karen, thành lập “Quân đội hợp nhất các dân tộc tự do Đông Nam Á”, lợi dụng lúc quân đội Miến tập trung đánh lực lượng của ĐCSM, mở rộng quyền kiểm soát, thu thuế, bắt lính ở thượng nguồn sông Thanlwin nửa phía đông bang Shan. Chính phủ Miến Điện cố đẩy họ ra nhưng không được bèn kêu gọi Liên Hiệp Quốc can thiệp. Năm 1953, Mỹ áp lực yêu cầu QDĐ rút hết quân ra khỏi Miến Điện. Cuối năm 1954, gần 6.000 binh lính đã rời khỏi Miến Điện và Lý Mật tuyên bố giải tán quân đội của ông. Tuy nhiên, vẫn còn hàng ngàn người ở lại và được Đài Loan tiếp tục chỉ huy và tiếp tế bằng đường hàng không. Quân đội Miến mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhưng không tiêu diệt được họ. Tàn quân QDĐ tồn tại và hoạt quấy phá suốt ba thập niên 1950, 1960, 1970, cho đến ngày 1.1.1979 Mỹ và Tàu thiết lập quan hệ ngoại giao mới không được viện trợ nữa, tan rã dần, một số trở về Đài Loan, một số thành thổ phỉ buôn bán thuốc phiện ở vùng Tam giác vàng và đi ăn cướp các nơi, một số chuyển thành dân địa phương được gọi là Hoa Kiều.
Sự hiện diện của tàn quân QDĐ làm thay đổi toàn bộ sinh hoạt của các sắc dân trong vùng và biến nơi đây thành một trong những trung tâm sản xuất thuốc phiện lớn nhất và khó bài trừ nhất thế giới như sẽ trình bày dưới đây.
TÀU XANH TÀU ĐỎ THI NHAU TÀM THỰC
Tại nội địa Miến, các nhóm sinh viên, học sinh và các phần tử quá khích Hoa Kiều ở nhiều địa phương Miến bị ảnh hưởng mạnh của cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16.5.1966, muốn thực hiện “cách mạng văn hóa vô sản” tại Miến, thành lập các đội “Hồng vệ binh”, tuyên truyền tư tưởng cách mạng vô sản, đập phá, phóng hỏa các cửa hàng cửa hiệu, nhà máy, gây đình trệ sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp ở các bang, vùng phía Bắc Miến, tiến hành các hoạt động “tạo phản” tại một số thành phố lớn và nhiều khu vực miền Bắc Miến. Họ hoạt động quá khích, đe dọa an ninh chính trị của Miến. Miến yêu cầu Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm về những tổn thất này. Hai bên khẩu chiến kết tội lẫn nhau. Làn sóng chống Tàu tại Miến nổi lên trên toàn quốc. Năm 1967, chính quyền Miến phải huy động quân đội, cảnh sát và tốn nhiều công sức mới có thể dẹp yên các cuộc nổi loạn của Hoa Kiều, hàng trăm người trong bọn họ bị thiệt mạng trong các cuộc xung đột, nhiều người bị bắt giam và bị trục xuất về Tàu. Miến chủ động đoạn giao với Tàu từ 1967 đến 1970.
Năm 1971, Mao Trạch Đông đón Nixon tại Bắc Kinh. Năm 1972, Tàu Cộng thay Đài Loan làm thành viên Hội đồng Bảo an LHQ. Tàu Cộng làm thân, hợp tác với Miến chặn tàn quân QDĐ chạy trốn sang Vân Nam; đồng thời giảm dần ủng hộ ĐCSM, tăng cường giao thương với Miến.
Năm 1998, sau những vụ sạt lở đất lớn trong các tỉnh Quý Châu, Vân Nam và Quảng Tây do nạn phá rừng bừa bãi gây ra, Bắc Kinh ra lệnh cấm khai thác gỗ trong nước, doanh nhân Tàu liền vượt biên sang Miến Điện và Lào khai thác gỗ còn bừa bãi hơn nhiều.
Các công ty Tàu được quyền tự do ra vào Miến Điện khai thác tài nguyên, xây dựng đường sá và bến cảng để vận chuyển hàng hóa và nguyên vật liệu. Ngoài 10 công ty khai thác khoáng sản đang hiện diện tại Miến Điện, doanh nhân Tàu còn làm chủ 6 công trình khai thác khoáng sản lớn trong tiểu bang Kachin và Shan. Trong những vùng có nhiều tài nguyên quí hiếm (vàng, đá quí, gỗ mun, voi và thú rừng), hàng ngàn người Tàu xâm nhập bất hợp pháp vào khai thác, bất chấp sự phản đối của các chính quyền địa phương.
Nguy hiểm là tại các công trường, doanh nghiệp Tàu đem công nhân của họ từ Tàu sang làm việc, người địa phương chỉ được tuyển dụng vào những công việc không chuyên môn và ngắn hạn. Sau khi được quyền hoạt động trên lãnh thổ Miến Điện, doanh nhân và di dân Tàu ồ ạt vào các thị trấn và thành phố xây nhà, lập phố tạo dựng cơ sở làm ăn. Trong thành phố, họ tìm mọi cách chiếm hữu những địa điểm có lợi ích kinh tế cao: khu vực trung tâm, các trục lộ giao thông chính, bến cảng, phi trường, đường bộ, đường sông. Trên vùng đồi núi và đồng bằng, Tàu thuê bao những khu đất lớn để khai thác gỗ và trồng cây công nghiệp.
Cho đến nay, gần như toàn bộ hệ thống buôn bán sỉ và một số ngành bán lẻ (áo quần và máy móc gia dụng) nằm trong tay Hoa Kiều. Họ cũng gần như độc quyền trong các ngành xây dựng và kinh doanh địa ốc và gây ra nạn đầu cơ làm giá cả hàng hóa, xăng dầu và nhà đất gia tăng, khiến các sư sãi phải xuống đường chống đối năm 2007.
Khi việc buôn bán thuốc phiện ở vùng Tam Giác Vàng phát triển và bị người Tàu lũng đoạn, dọc các trục lộ xuyên biên giới Vân Nam-Miến Điện, nhà cửa, hàng quán, sòng bạc và khách sạn của người Tàu mọc lên như nấm để thu hút tiền bạc của những nhóm áp tải thuốc phiện kiếm được.
NHA PHIẾN CHIẾN TRANH MIẾN ĐIỆN
Làm gì cũng không kiếm tiền nhanh và nhiều bằng trồng, buôn và áp tải thuốc phiện. Giá thuốc phiện năm 2002 cho một kilogram là $300 ở nơi sản xuất, $800 bán cho con buôn và $16,000 cho khách tiêu dùng.
Vùng Tam Giác Vàng hiểm trở nằm trên bờ sông Mekong (Cửu Long) thơ mộng là điểm hội tụ của biên giới ba quốc gia Miến Điện, Thái Lan và Lào, sản xuất thuốc phiện nhiều chỉ sau A Phú Hãn, mỗi năm cung cấp trên 4,000 tấn thuốc phiện, hay 335 tấn nha phiến tinh chế tức bạch phiến (heroin), trong năm 1990 chỉ riêng Miến Điện đã sản xuất gần phân nửa số thuốc phiện tiêu thụ trên toàn thế giới: 2.365 tấn nha phiến hay 197 tấn bạch phiến. Thuốc phiện vùng Tam Giác Vàng có phẩm chất cao nhất nên rất được giới tiêu thụ quốc tế ưa chuộng. Chính vì thế mà khu Tam Giác Vàng trở thành nơi tranh chấp quyền lợi giữa các phe nhóm buôn lậu. Các sắc tộc thiểu số Miến Shan và Kachin nằm trong vùng Tam Giác Vàng đã từ lâu có truyền thống trồng cây anh túc để chế biến thành thuốc phiện. Người Karen và Môn tuy không sản xuất thuốc phiện nhưng là những nhóm áp tải và vận chuyển thuốc phiện có thế lực nhất xuống vịnh Martaban và sang Thái Lan để sau đó xuất cảng sang các quốc gia khác. Quan trọng nhất là các nhóm người Miến gốc Tàu tại Kokang ở phía bắc bang Shan, tuy chỉ có trên dưới một triệu người nhưng từ khi liên kết với lực lượng QDĐ đã trở thành nhóm chủ chốt trong việc phân phối thuốc phiện từ miền rừng núi xuống đồng bằng. Năm 1950, Tàu Cộng giúp người Kachin thành lập Mặt Trận Nhân Dân, trang bị hơn 6.000 tay súng chống lại tàn quân QDĐ. Ai ngờ, được vũ trang, Kachin hợp tác với QDĐ sản xuất và áp tải thuốc phiện. Những nhóm nhỏ hơn như người Pao (200.000 dân), người Wa (500.000 dân), người Paluang (200.000 dân), người Lahu (100.000 dân) cũng được Tàu trang bị vũ khí và tất cả đều trở mặt theo QDĐ và người Shan để được chia phần.
Cùng với chiến dịch loại trừ tàn quân QDĐ, chính quyền Miến muốn chiếm luôn địa bàn sản xuất thuốc phiện bằng cách hạn chế thế lực của các lãnh chúa (sahopa) người Shan, đồng minh của QDĐ.
Sao Gnar Kham, một tướng người Shan, cùng những lãnh chúa Shan khác, thành lập quân đội riêng và tiếp tục quản trị vùng đất rộng lớn miền Đông Bắc và liên kết với các lực lượng QDĐ, được Bangkok đỡ đầu, chống lại Rangoon. Làng Ban Hin Taek, tỉnh Chieng Rai (Thái Lan) trở thành đại bản doanh của quân đội Shan. Năm 1962, các nhóm võ trang QDĐ và Shan tôn Mạc Hằng (Moh Heng), một người Tàu tại Kokang, lãnh đạo cuộc kháng chiến. Thay vì chống lại Rangoon, năm 1964, những nhóm này kết hợp lại tại tỉnh Chieng Mai, Thái Lan, thành hai đạo quân lớn do tướng Lý Văn Huân (Li Wen Huan) và tướng Đoạn Sử Văn (Duan Shi Wen) lãnh đạo, để bảo vệ các vùng canh tác và áp tải thuốc phiện xuống đồng bằng.
Ăn chia không đều, các nhóm vũ trang thường xuyên xung đột lẫn nhau. Năm 1964, Sao Gnar Kham bị QDĐ ám sát tại Thái Lan. Năm 1966, Mặc Hằng rời lực lượng võ trang Shan để thành lập lực lượng cách mạng thống nhất dưới quyền điều động của tướng Lý Văn Huân; La Thành Hán (Lo Hsing Han, sản xuất heroin 999 tinh chất nhất Đông Nam Á) dẫn lực lượng Kokang theo phò tướng Đoạn Sử Văn; người Lahu theo tướng Naw Seng vùng Đông Bắc… Giá cả, thị trường và dịch vụ phân phối nha phiến và bạch phiến tại Tàu và Đông Nam Á đều do các băng đảng xã hội đen, được QDĐ hải ngoại đỡ đầu, định đoạt. Các trùm xã hội đen già yếu hay chết, quyền hành chuyển sang một thanh niên bố Tàu mẹ Shan tên là Trương Tư Phú (Chang Chi-fu: 1934-2007) được QDĐ huấn luyện. Hắn lấy biệt danh là Khun Sa nghĩa là “ông hoàng thịnh vượng”. Ban đầu, hắn tuyển được vài trăm người thành lập quân đội riêng, đến năm 1963 đổi thành đội dân phòng người sắc tộc (Ka Kwe Ye) thần phục chính phủ Ne Win, nhận tiền, quân phục và vũ khí của chính phủ để cạnh tranh với những đội áp tải người Shan do QDĐ đỡ đầu, rất có kết quả. Hai bên ăn chia rất sòng phẳng. Khun Sa tăng quân số lên 800 và không cộng tác với chính phủ Miến nữa, thống trị hai bang Shan và Wa, bắt đầu sản xuất thuốc phiện. Năm 1967, hắn đụng độ với tàn quân QDĐ ở bang Shan, bị thảm bại, năm 1969 lại bị chính phủ Rangoon bắt và đem ra tòa xử tử hình về tội phản quốc. Năm 1973, phó tướng của hắn bắt cóc hai bác sĩ Nga đòi chuộc hắn ra. Ra rồi, hắn đổi các đội dân phòng người sắc tộc thành các đội dân quân du kích (Pyi Thu Sit), tuyển mộ người Lahu, Wa và Pao và cả ĐCSM, nhất là từ khi thu phục được những biệt kích Hmong từ Lào sang Thái Lan tị nạn, thế lực của hắn tăng nhiều. Cơ quan CIA giúp hắn tổ chức những cuộc đột kích vào đất Lào tìm kiếm người Mỹ mất tích và móc nối với những người Hmong khác. Với lực lượng hùng hậu như vậy, năm 1976 hắn tái tục nghề buôn lậu thuốc phiện và đóng đô ở làng Ban Hin Taek, miền bắc Thái Lan. Quân đội của các chính quyền Rangoon và Bangkok chỉ bao vây hoặc canh chừng từ phía xa các căn cứ địa của hắn, không dám đến gần. Lợi tức của hắn dĩ nhiên là đồ sộ, cho phép hắn mua chuộc gần hết chính giới và quân đội Thái Lan và Miến Điện để việc áp tải hàng xuống đồng bằng được dễ dàng. Hắn thừa tiền để mua những vũ khí tối tân nhất (máy bay trực thăng, hệ thống radar, truyền tin, phòng không, chống chiến xa và các phòng y tế dã chiến) từ các kho vũ khí của Thái Lan và Đài Loan. Các tổ chức buôn lậu khác cung cấp vũ khí cá nhân mua trực tiếp từ Tàu. Dưới trướng của hắn có trên 30,000 binh lính, chưa kể gần một triệu người gồm đủ mọi sắc tộc được che chỡ và nuôi dưỡng.
Tháng 1.1982, quân đội và cảnh sát Thái đuổi được hắn sang bên kia biên giới về Miến. Về Miến, hắn kết hợp với các nhóm võ trang Kachin và ĐCSM (hai lực lượng này cung cấp 70% lượng thuốc phiện tại Miến), đổi tên nhóm của hắn thành Quân Đội Thống Nhất Shan (SUA = Shan United Army), công khai chống lại chính phủ Miến, đòi độc lập cho bang Shan, tiếp tục kiểm soát vùng biên giới Miến-Thái và lãnh đạo các sắc tộc vũ trang Miến để áp tải thuốc phiện, phân chia quyền lợi. Hắn mở rộng địa bàn sản xuất tại Lào do người Hmong phụ trách. Hắn được Mã Trân Văn (Ma Zhengwen), một người Panthay tức Tàu theo Hồi giáo ở Miến, giúp bán thuốc phiện ở miền bắc Thái Lan.
Năm 1984, tất cả các tổ chức lớn nhỏ liên quan đến việc buôn bán hay áp tải thuốc phiện trong khu Tam Giác Vàng đều đặt dưới quyền của hắn. Mặc dù buôn bán và vận chuyển thuốc phiện bị cấm trên toàn lãnh thổ Miến, các nhóm sắc tộc chuyển hàng xuống vùng biển vẫn được yên ổn, chỉ cần đóng tiền mãi lộ, rất cao, khi đi ngang qua các trạm kiểm soát. Giới buôn bán thuốc phiện và giới quân phiệt Miến giữ hòa khí cho đến đầu thập niên 1990, chính quyền Vân Nam kêu gọi thành lập Khu Kinh Tế Tứ Giác (Quadrangle Economic Zone) gồm Côn Minh (Vân Nam), Kengtung (tiểu bang Shan, Miến Điện), Chiang Mai (Thái Lan) và Luang Prabang (Lào), để cạnh tranh với các nhóm áp tải thuốc phiện. Những nhóm sắc tộc sinh sống trong khu vực biên giới, đặc biệt là những nhóm sắc tộc gốc Tàu, được cung cấp vũ khí để chuyển thuốc phiện sang Vân Nam. Khun Sa được chính quyền Vân Nam trọng đãi và mời tham dự những chương trình phát triển Khu Tứ Giác. Sự “cạnh tranh bất chính” này xâm phạm đến quyền lợi của giới quân phiệt Miến Điện.
Năm 1988, một nhà báo Úc từ Thái lén vào Miến gặp Khun Sa và được hắn nhờ chuyển đề nghị bán toàn bộ thu hoạch thuốc phiện của hắn cho chính phủ Úc trong 8 năm, mỗi năm lấy 50 triệu Úc kim. Dĩ nhiên, chính phủ Úc từ chối đề nghị “rộng rãi” này, lấy cớ là chính phủ Úc không có nghề buôn nha phiến. Năm 1989, hắn lại đề nghị chính phủ Hoa Kỳ mua thuốc phiện của hắn, nếu không hắn sẽ tung ra bán trên thị trường quốc tế. Cơ quan DEA (Drug Enforcement Administration) của Mỹ ra giải thưởng $2 triệu cho ai bắt được hắn. Năm 1996, hắn đầu hàng chính phủ Miến và về cư ngụ tại một lâu đài ở Rangoon với 4 bà vợ trẻ ngưới Shan, sống yên ổn cho đến khi mãn phần ngày 26.10.2007.
Con trai của Khun Sa, Tun Myint Naing (Steven Law), một trong hai người giầu nhất Miến Điện, là giám đốc công ty Asia World Company thành lập ngày 5.6.1992. Trong dự án xây con đập thủy điện vĩ đại Myitsone ở Miến Điện, công ty này giữ một vai trò trọng yếu trong việc chấp thuận dự án và xây dựng hạ tằng kiến thiết chuẩn bị cho việc thi hành dự án, như một trại trên đỉnh đồi cách vị trí đập 4.8 km để cho các thanh tra Tàu ở và trắc đạc vùng trong 5 tháng. Công ty cũng được Tàu giao quyền vận chuyển “vật tư”, thật ra là thuốc phiện, vàng và đá quí sản xuất trong tiểu bang Kachin, từ Miến Điện sang Vân Nam bằng hơn 100 con voi.
Tổng thống Thein Sein bỗng nhiên vào tháng 9.2011 ra lệnh đình chỉ dự án xây đập thủy điện Myitsone tại bang Rachin, thành thử “trăm voi không được bát nước sáo”.
MIẾN NÉ XA TÀU
Việc đình chỉ dự án Myitsone là dấu hiệu rõ nhất và mạnh nhất của nhà cầm quyền dân sự Miến Điện muốn tách dần ra khỏi ảnh hưởng độc hại của Tàu. Trước đó, năm 2004, như một cảnh cáo gửi cho Tàu, chính quyền Miến đã bắt tướng Khin Nyunt, nhân vật số 3 của tập đoàn quân nhân, về tội bán đứng quyền lợi quốc gia cho Tàu.
Sự bất mãn đối với Bắc Kinh càng gia tăng năm 2009 khi chính quyền Miến khám phá Tàu đang tái vũ trang những nhóm sắc tộc gốc Tàu, đặc biệt là người Pao, người Wa và người Kokang, sinh sống dọc vùng biên giới, để quấy rối và làm suy nhược quyền lực của chính quyền trung ương.
Chính quyền dân sự dân chủ non nớt của Miến Điện đang phải đối phó với vấn đề sắc tộc gần như nan giải do Tàu gây ra và để lại. Ngay thần tượng dân chủ Suu Kyi cũng đang mất dần uy tín vì cố gắng giúp TT Thein Sein trấn an các sắc tộc thiểu số để duy trì an ninh, ổn định và thống nhất quốc gia.
C. S. Kuppuswamy nêu ra những bằng chứng cho thấy quân dân Miến đã ý thức được hiểm họa Tàu:
Với hồ sơ trước đây về việc Tàu ủng hộ ĐCSM nay đã giải tán và hiện nay đang cung cấp vũ khí cho UWSA và KIA (qua cổng hậu), chính phủ và nhất là quân đội Miến Điện ngày càng đề phòng Tàu hơn nữa, sau khi mở cửa cho các quốc gia Tây phương.
Bertil Lintner, một người quan sát Miến lâu năm, viết “Các báo kiểu bác học ở Tàu đã chạy nhiều bài phân tích cái gì trục trặc trong chính sách Miến Điện của Bắc Kinh và có thể và phải làm gì để chấn chỉnh nó. Một biện pháp đề nghị là tung ra một chiến dịch giao tế nhân sự trong Miến Điện nhắm vào việc sửa sang toàn bộ hình ảnh tiêu cực của Tàu hiện có tại quốc gia này (Asia times trên mạng ngày 6.10.2012).
Ngày 20.11.2012, Hoàn Cầu Thời Báo — một tờ báo quốc doanh – phổ biến một bài nhan đề “Đừng suy đoán nhiều quá về chuyến thăm (của Obama)” tranh luận rằng “Các cải cách dân chủ và mở cửa cho Tây phương của Miến Điện không chỉ thỏa mãn Hoa Thịnh Đốn mà còn cả các quyền lợi của Tàu trong trường kỳ. Các quan hệ Tàu-Miến phải trải qua vài thay đổi để thích nghi vào việc này. Nhưng những thay đổi sẽ bị hạn chế” – Michele Penna (The Irrawaddy-24 January 2013).
Một cuộc thăm dò dân ý mới đây của mạng web Hoàn Cầu Thời Báo đề ngày 19.1.2013 cho biết 53% độc giả của nó cho rằng “Tàu phải tham gia vào tranh chấp sắc tộc ở Bắc Miến” trong khi 63% bảo họ tin rằng tranh chấp ảnh hưởng lên quan hệ song phương giữa Miến và Tàu…
Tiếng nói Dân chủ Miến Điện ngày 21.1.2013 công bố một báo cáo rằng Tàu đã chuyển súng phá thiết giáp đặt trên xe PTL02 cùng với các hệ thống phòng không người mang (MANPADS) cho UWSA (United Wa State Army) có thể coi là ý định của Bắc Kinh muốn dùng nhóm hùng cường như là một đòn bẩy ở Miến. “Bằng cách khiến cho việc tăng cường người Wa được dễ dàng, họ đã gửi một thông điệp rõ ràng cho Tatmadaw [quân đội Miến] rằng sự kiên nhẫn của họ có giới hạn”.
Bằng cách gửi đặc sứ Phó Anh cùng với một phái đoàn quân sự ngày 19.1.2013 đến Yangon, chính phủ Tàu đã chuyển quan tâm của nó về tranh chấp ở Kachin, khiến cho vài viên đạn rơi vào lãnh thổ Tàu và một đoàn đông người tỵ nạn. Có phúc trình cho biết chính phủ Miến đã đơn phương tuyên bố hưu chiến ngày 19.1.2013 theo lệnh của phái đoàn Tàu (Paper No. 5380. “Myanmar-China Relations – Post Myitsone Suspension”. 28 Jan 2013).
Cộng tác với Tàu, nhận viện trợ của Tàu… là đem những trái bom nổ chậm đặt trong lòng quốc gia. Sức tác hại của nó kinh khủng và kéo dài không biết đến bao giờ mới dứt.
Son Tran 
- Chủ tịch nước hội kiến với các vị lãnh đạo Trung Quốc(TTXVN). – Nội dung bàn thảo giữa Chủ tịch nước Việt Nam và Chủ tịch nước TQ(RFA). - Việt Nam-Trung Quốc thỏa thuận thúc đẩy hợp tác cùng có lợi (VOV). –Chủ tịch TQ: Trung-Việt kiên định hợp tác hữu nghị (KT). – Việt- Trung: Tăng cường sự tin cậy chính trị! (NLĐ). –Chủ tịch Sang tái khẳng định mối quan hệ “16 chữ vàng, 4 tốt với “nước lạ” ?(DLB). - Video:Chủ tịch nước hội kiến Thủ tướng Lý Khắc Cường (VTV). - Phỏng vấn ông Hoàng Việt, Đại học Luật TPHCM: TQ chia để trị khi xích lại với VN? (BBC).

- Việt-Trung mở đường dây nóng để giải quyết va chạm Biển Ðông (VOA). – Việt-Trung lập đường dây nóng về hoạt động ngư nghiệp tại Biển Đông (RFI). - Ngày càng nhiều rủi ro cho tàu thuyền qua lại Biển Đông (TT). – Nhà phân tích Lưu Tường Quang, từ Sydney: Mỹ định vị toàn diện tại Châu Á Thái Bình Dương(RFI). – ASEAN-Trung Quốc thống nhất nhiều điểm cứu hộ trên Biển Đông (VOV).


Lữ Giang

Khi phong trào chống hàng “made in China” được phát động trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, chúng tôi có hỏi vài người đang hăng say vận động chiến dịch này: Năm 2011 hàng “made in China” được nhập vào Mỹ trên 399 tỷ USD và năm 2012 trên 425 tỷ. Vậy sự tẩy chay của cộng đồng người Việt sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với khối lượng hàng “made in China” đồ sộ này? Quý vị sẽ làm giảm bớt được bao nhiêu tỷ dollars?
Những con số nói trên cho thấy người Việt cần có tầm nhìn rộng lớn hơn mới có thể có hành động chính xác. Cuộc họp mặt giữa Tổng Thống Obama và Chủ Tịch Tập Cẩn Bình vừa qua cũng đòi hỏi phải có tầm nhìn vượt lên trên những suy nghĩ và hành động theo cảm tính.

TRỌNG TÂM CỦA CUỘC HỌP
Trên báo New York Times ngày 8.6.2013, dưới đầu đề “Hoa Kỳ và Trung Quốc di chuyển gần hơn về khí hậu, nhưng không trên gián điệp điện toán”, hai nhà bình luận Jackie Calmes và Steven Lee Myers nhận định rằng hai nhà lãnh đạo đã gặp nhau gần tám tám tiếng đồng hồ bắt đầu từ tối thứ sáu, và tỏ vẻ như mong muốn xác định lại mối quan hệ giữa hai bên theo một phương cách có thể cho phép hai quốc gia vượt qua những khác biệt về kinh tế, chính trị và ngoại giao giữa họ, hơn là bàn về những cuộc khủng hoảng mới hay cũ có thể làm chệch hướng tiến bộ trên toàn bộ các vấn đề.
Ngay từ khi mở đầu cuộc họp, Tòa Bạch Ốc đã cho biết mục đích của cuộc họp ở đây không phải là thông báo giao dịch mới mà là để tạo ra một mối quan hệ thoải mái hơn giữa ông Obama và ông Tập Cận Bình, có thể tránh đẩy hai quốc gia vào cuộc xung đột leo thang.
Trong một cuộc phỏng vấn, bà Bonnie Glaser, Cố vấn cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) Hoa Kỳ, đã nhận định như sau về cuộc họp không chính thức nầy:
Vấn đề quan trọng nhất là bản chất của quan hệ Mỹ-Trung. Cả Tổng thống Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình đều hiểu rằng nhân dân Mỹ và Trung Quốc cũng như toàn thế giới sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề nếu hai nước sa vào vết xe đổ của lịch sử, khi một cường quốc mới nổi thách thức một cường quốc đang đứng đầu thế giới và kết thúc bằng xung đột quân sự. Trong cuộc gặp tại California, hai nhà lãnh đạo đã bàn thảo về mô hình quan hệ mà hai bên mong muốn, như ông Tập Cận Bình tuyên bố với báo giới là một mối quan hệ dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi và mở rộng hợp tác.”
Dĩ nhiên là trong cuộc họp này, nhiều vấn đề gay cấn cũng đã được nêu lên nhưng không đi vào chi tiết, chẳng hạn như vấn đề môi trường, vấn đề gián điệp điện tử (cyberespionage), vấn đề Bắc Hàn, vấn đề xoay trục ở Biển Đông và Hoa Đông, vấn đề mậu dịch, v.v. Chúng ta thử phân tích một số vấn đề được coi là gay cấn nhất hiện nay.

THẰNG BÉ CHƠI DẠI
Trong đầu năm nay Bắc Hàn đã cho phóng hỏa tiển tấm xa, thử bom hạt nhân và dọa sẽ tấn công Nam Hàn và Hoa Kỳ bằng võ khí nguyên tử… Hôm 30.3.2013, Bắc Hàn công bố văn bản gọi là “Bản tuyên chiến toàn diện”!
Bắc Hàn không ngờ đó là những trò chơi dại. Hoa Kỳ và Nhật Bản đã vin vào các hành động đó để quyết định tái võ trang cho Nhật Bản, mục tiêu được nói là để đối phó với Bắc Hàn, nhưng trong thực tế là để chận đứng sự lộng hành của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Ngoài ra, những hành động của Bắc Hàn còn tạo lý do cho Hoa Kỳ tiếp tục duy trì các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nam Hàn và Okinawa.
Thấy thằng bé chơi trò tai hại, Bắc Kinh đã gọi Đại sứ Bắc Hàn tại Bắc Kinh đến để khiển trách. Sau đó ngày 22.5.2013, Bắc Hàn đã phải gởi ông Choe Ryong-hae, Cục trưởng Cục Chính trị, đến Bắc Kinh để trình bày vấn đề. Hôm 25.5.2013, Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-un tuyên bố Bình Nhưỡng muốn hoà bình và sẵn sàng tái tục tiến trình đối thoại với những nước chủ chốt. Bắc Hàn và Nam Hàn đã gặp nhau lại ở Bàn Môn Điếm từ ngày 12.6.2013.
Tại cuộc họp ở Sunnylands, chính quyền Obama đã hoan nghênh hành động này của Trung Quốc và nói đó là một đấu trường đầy hứa hẹn để "tăng cường hợp tác."

CHƯA NƠI NÀO BẰNG TRUNG QUỐC
Như chúng tôi đã nói, từ khi giao thương với Trung Quốc đến nay, lúc nào cán cân mậu dịch của Mỹ cũng bị thâm hụt và số thâm hụt ngày càng tăng. Năm 2011, hàng “made in China” được nhập vào Mỹ trên 399 tỷ USD, trong khi Mỹ chỉ bán cho Trung Quốc được 104 tỷ, thâm hụt 295 tỷ. Năm 2012 Mỹ nhập của Trung Quốc trên 425 tỷ và bán cho Trung Quốc chỉ có 110 tỷ,thâm hụt 315 tỷ. Tại sao?
Tại Mỹ giá nhân công và các chi phí sản xuất khác quá cao, nên nhiều công ty Mỹ đã đầu tư vào Trung Quốc để có thể sản xuất hàng với gia rẻ, rồi một phần bán ngay tại chỗ, một phần bán ra trong vùng và một phần nhập ngược về Mỹ. Trong tổng số hàng Mỹ nhập cảng hàng năm từ Trung Quốc, đa số là các hàng do Mỹ sản xuất tại Trung Quốc, chỉ khoảng 25% là hàng của Trung Quốc.
Nhưng quan hệ mậu dịch giữa Mỹ và Trung Quốc đang gặp thử thách, vì ba lý do: Lý do thứ nhất là giá nhân công ở Trung Quốc ngày càng tăng. Lý do thứ hai là Trung Quốc đã tăng thuế suất hàng nhập cảng nên hàng Mỹ khó bán vào và Trung Quốc. Lý do thứ ba là giá đồng nhân dân tệ được duy trì ở mức thấp nên hàng nhập cảng có giá cao trong khi hàng xuất cảng lại được bán với giá thấp. Mỹ coi việc ấn định đồng nhân dân tệ ở mức thấp là một hình thức “trợ cấp xuất cảng”, vi phạm hiệp ước WTO.
Vấn đề này có nêu lên trong cuộc họp, nhưng Ngoại Trưởng Kerry cho biết quan hệ mậu dịch Mỹ - Hoa sẽ được bàn trong tháng 7 tới đây. Nhưng vấn đề sẽ được giải quyết cách nào?
Một số người đã đề nghị đưa các công ty Mỹ từ Trung Quốc trở về Mỹ để làm giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp ở trong nước. Ông Obama cũng đã có lần tuyên bố như vậy. Người khác cho rằng nếu Trung Quốc gây khó khăn, các công ty Mỹ có thể dời các cơ sở kinh doanh qua các nước khác có chi phí sản xuất còn rẽ hơn ở Trung Quốc, như Việt Nam hay Ấn Độ chẳng hạn. Nhưng vấn đề không giản dị.
Mỹ có hai thị trường xuất khẩu lớn là Âu Châu và Trung Quốc. Âu Châu tiêu thụ khoảng 30% hàng xuất khẩu của Mỹ, tương đương với 461 tỷ USD mỗi năm, còn Trung Quốc khoảng 26%. Nhưng trong thời gian qua, Âu Châu phải trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế quá nặng kéo theo sự suy thoái kinh tế của Mỹ nên Mỹ phải bám vào Trung Quốc. Một thí dụ cụ thể là trường hợp của Wal Mart: Sau khi sản xuất tại Trung Quốc hãng này đã lập 200 siêu thị bán hàng ngay tại chỗ, 300 siêu thị bán ở Nhật Bản và 100 siêu thị bán ở Ấn Độ. Thị trường hàng điện toán và điện thoại tại Trung Quốc là một mối lợi lớn của Hoa Kỳ.  Sản phẩm iphone và ipad đợt đầu chỉ bán ở Mỹ được 64 triệu cái trong khi đó Trung Quốc tiêu thụ đến 79 triệu cái. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy năm ngoái công ty Dell của Mỹ đã bỏ ra 100 tỷ USD để sản xuất máy điện toán tại Trung Quốc.
Trên thế giới hiện nay có nhiều nơi có giá nhân công rẻ như Phi Châu, Ấn Độ, Nam Mỹ, kể cả Mexico bên cạnh Mỹ, nhưng các công ty Mỹ đã không đầu tư ở các vùng này mà đầu tư ở Trung Quốc vì ở các vùng đó mãi lực quá kém.
Ông Ôn Gia Bảo, Thủ Tướng Quốc Vụ Viện của Trung Quốc, đã từng tuyên bố: “Chúng ta không có một lý do nào để kéo lui mối giao hảo Mỹ - Hoa; trái lại, có hàng vạn lý do để các quan hệ phải chặt chẽ hơn.”
Một cách cụ thể, ông Ôn Gia Bảo nói rằng khi Trung Quốc xuất cảng hàng sang Mỹ thì có hai giới được lợi lộc. Thứ nhất là các công ty Mỹ đã thiết lập nhà máy sản xuất ở Trung Quốc sẽ kiếm thêm lời; thứ nhì là người tiêu thụ ở Mỹ được mua hàng hóa với giá rẻ.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thấy như thế nên họ không sợ Mỹ bỏ Trung Quốc.

BIỂN ĐÔNG: VẤN ĐỀ GAY CẤN
Bản tin của đài VOA ngày 8.6.2012 cho biết theo bản tường trình của thông tín viên đài VOA là bà Natalie Liu, mối quan tâm chính của Trung Quốc là sự chú trọng mới trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ về vùng Châu Á - Thái Bình Dương - thường được gọi là “trục xoay” - nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Như chúng ta đã biết, tham vọng hiện nay của Trung Quốc là làm chủ cả Biển Đông lẫn Biển Hoa Đông. Trung Quốc nghĩ rằng khi Mỹ có quyền độc chiếm Trung Đông thì Trung Quốc cũng có quyền độc chiếm Biển Đông, vì Trung Quốc cũng là một cường quốc. Để giảm bớt sự lộng hành của Trung Quốc, Hoa Kỳ tuyên bố quay trở lại Á Châu. Vấn đề là Hoa Kỳ đang làm chơi hay làm thật?
Về kinh tế, Hoa Kỳ hô hào triển khai “Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương” (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP). Nhưng đây chỉ là mới một hoài vọng. Các quốc gia trong khu vực này nhỏ lớn và nghèo giàu cách nhau quá xa nên rất khó trở thành một thị trường chung như Âu Châu. Một thí dụ cụ thể là khu vực ASEAN được thành lập từ năm 1992, nhưng đến nay có 4 nước là Việt Nam, Lào, Campuchia và Miến Điện vẫn chưa thể gia nhập được. Trong khi đó hầu hết các thành viên của khối này lại ký hiệp ước làm ăn riêng với Trung Quốc!
Về phương diện pháp lý, ngoài Philippines ra, các nước khác khi hành xử tố quyền chưa chắc ai thắng ai. Đừng nghe những người không phải là chuyên gia nói mà tưởng bở. Philippines cũng đang gặp khó khăn. Phi không thể kiện Trung Quốc trước Tòa Án Quốc Tế, vì muốn được tòa này thụ lý, hai bên phải cam kết thi hành phán quyết của tòa, nhưng Trung Quốc không cam kết nên Tòa không thể xử được. Phi phải kiện trước Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế. Trước tòa án này, nếu Trung quốc không tham dự, tòa sẽ xử khuyết tịch. Nhưng một khó khăn khác lại xảy ra: Giả thiết tòa xử Phi thắng nhưng Trung Quốc không thi hành phán quyết của Tòa, Phi phải làm thế nào? Phi phải nhờ Hội Đồng Bảo An LHQ can thiệp. Nhưng tại đây Trung Quốc có quyền phủ quyết nên vấn đề lại bế tắc. Như vậy phám quyết của Tòa Án Trọng Tài chỉ có giá trị xác định những nguyên tắc căn bản mà thôi, không có giá trị cưởng hành.
Vế quân sự, chúng ta mới chỉ thấy hai biến cố: Biến cố thứ nhất là Hoa Kỳ tuyên bố tăng cường căn cứ quân sự ở Úc. Biến cố thứ hai là ủng hộ Nhật tái vũ trang. Hoa Kỳ có hiệp ước bảo vệ Philippines năm 1951, nhưng Phi vẫn nghi ngờ sự can thiệp của Hoa Kỳ khi có cuộc đụng độ với Trung Quốc. Hoa Kỳ có thể viện dẫn không có sự cho phép của Quốc Hội để từ chối hành động.
Để bảo vệ vùng đặc khu kinh tế 200 dặm của Việt Nam, Hà Nội đã gạ mua hỏa tiễn tầm trung của Nga, nhưng Nga không bán. Hà Nội gạ Ấn Độ, Ấn Độ cũng từ chối. Hà Nội phải gạ Mỹ, Mỹ đòi thực thi nhân quyền. Trong thực tế, không nước nào muốn bán hỏa tiễn tấm trung cho Việt Nam vì không muốn làm mất lòng Trung Quốc.
Hiện nay Trung Quốc chỉ muốn Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để đổi lại, Trung Quốc sẽ dành cho Việt Nam một số khu vực trên Biển Đông để khai thác. Khi vấn đề chưa giải quyết, nếu Viêt Nam im lặng, Trung Quốc sẽ để cho khai thác một số khu vực. Nếu Việt Nam ồn ào, Trung Quốc sẽ xiết nhỏ vùng đánh cá lại. Nếu Việt Nam cứ cho ngư dân ra khơi, Trung Quốc cho “tàu lạ” (tàu không số, không bảng cờ)húc... Trung Quốc đang xử dụng lý của kẻ mạnh.
Trong cuộc họp với Bộ Trưởng Quốc Phòng Philippines là Voltaire Gazmin hôm 7.6.2013, Đô đốc Samuel Locklear III, Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ khẳng định Mỹ trung lập ở Biển Đông”. Ông bày tỏ mối lo ngại về những gì đã và đang diễn ra trong khu vực. Ông cam kết thực hiện chính sách tái cân bằng ở Châu Á của Hoa Kỳ, bao gồm các khía cạnh chính trị - kinh tế và ngoại giao. Ông nhấn mạnh Mỹ phản đối bất cứ hành động đơn phương nào làm thay đổi hiện trạng khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Nhưng đó chỉ là những lời cam kết suông.
Giải pháp hiện nay là tiến tới hoàn thành một “Quy tắc Hành Xử (Code of Conduct – DOC)ở Biển Đông. Nhưng qua hội nghị thường niên về An Ninh Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương ở Singapore vừa qua với cái tên là Đối thoại Shangri-La”, chúng ta thấy kết quả vẫn chua đi tới đâu, vì không có sự đồng thuận của Trung Quốc.

MỸ KHÓ BỎ TRUNG QUỐC
Các nhà phân tích nói ông Tập Cận Bình muốn có cuộc họp không chính thức vừa qua là để khẳng định dấu ấn về chính sách đối ngoại của mình, đó là xây dựng mối quan hệ “siêu cường kiểu mới” với Mỹ, tức thực hiện “Giấc mơ Trung Quốc”.
Trong cuộc gặp gỡ hôm 7.6.2013, Tổng thống Obama nói:
“Mỹ hoan nghênh sự vươn lên của Trung Quốc. Trên thực tế, sự phát triển của Trung Quốc cũng là lợi ích của Mỹ. Mỹ tin tưởng rằng, một Trung Quốc hòa bình, thịnh vượng và ổn định không chỉ tốt cho Trung Quốc mà còn cho cả Mỹ và cộng đồng quốc tế.”
Ông Tập Cận Bình trả lời:
Tôi và Tổng thống Obama gặp nhau để vạch ra tương lai cho quan hệ Trung-Mỹ và thiết kế kiểu quan hệ mới. Năm ngoái khi tới thăm Mỹ tôi đã từng nói, Thái Bình Dương rộng lớn đủ không gian dung nạp cả hai nước lớn Trung - Mỹ chúng ta, và bây giờ tôi vẫn cho là như vậy   (Tân Hoa Xã ngày 8.6.2013)
Trước đó, trong cuộc họp về Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Trung Quốc Thích Kiến Quốc tuyên bố: Tranh chấp Biển Đông để đời sau giải quyết”.
Philippines thấy rõ vấn đề Biển Đông hơn người Việt ở hải ngoại. Trên tờ Malaya Business ngày 10.6.2013, Ellen Tordesillas, một nhà phân tích kỳ cựu của Philippines đã nhận định:
Mặc dù Mỹ muốn ngăn chặn thế lực của Trung Quốc, nhưng nước này sẽ không muốn làm kẻ thù của người khổng lồ Châu Á. Họ cũng không muốn bị lôi kéo vào cuộc chiến giữa Philippines và Trung Quốc”.
Trung Quốc cũng đã chính thức thông báo nhận lời mời của Mỹ tham gia cuộc tập trận mang tên “Vành đai Thái Bình Dương” (RIMPAC) vào năm 2014.

Ngày 13.6.2013
Lữ Giang


Lữ Giang

Khi Tiến Sĩ Maung Zarni thuộc Viện Nghiên Cứu Á Châu của Trường Đại Học Darussalam Miến Điện báo động phong trào chống người Rohingya và chống Hồi Giáo ở Miến Điện là Tân Quốc Xã (neo-Nazi), các nhà bình luận Tây Phương đều cho rằng ông ta “cường điệu” và họ tránh dùng thuật ngữ đó. Nhưng khi những hình ảnh của cuộc bạo loạn chống Hồi Giáo bùng nổ ở Meiktila tại trung tâm Miến Điện vào ngày 20.3.2913 được đưa lên báo chí và truyền hình, người ta mới thấy những gì Tiến Sĩ Zarmi mô tả là đúng sự thật: Đó là phong trào thanh lọc chủng tộc và tôn giáo.
                Biểu tượng của Phong Trào 969

Ngày 22.3.2013, tổ chức Quan Sát Nhân Quyền (Human Rights Watch) đã công bố một bản phúc trình dày 153 trang nói về thảm họa này. Bản phúc trình có đầu đề là “Tất Cả Những Gì Các Bạn Có Thể Làm Là Cầu Nguyện (All You Can Do is Pray)  và tiếp theo là “Tội Ác Chống Nhân Loại và Diệt Chủng đối với người Hồi Giáo Rohingya ở Bang Arakan của Miến Điện” (Crimes Against Humanity and Ethnic Cleansing of Rohingya Muslims in Burma’s Arakan State). Chiến dịch diệt chủng (campaign of ethnic cleansing) bắt đầu từ tháng 6 năm 2012. Chúng tôi chỉ trình bày những nét chính với những tin tức cập nhật. Quý vị có thể vào trang nhàhrw.org để đọc.

LÝ DO CỦA SỰ XUNG ĐỘT?
Ngày 2.5.2013, đài BBC có phổ biến bài “Lý do gây thù hận tôn giáo ở Miến Điện” của giáo sư Alan Strathern, một nhà nghiên cứu về lịch sử thuộc Đại học Oxford. Sau khi rào trước đón sau, ông đã đi đến kết luận rằng “nhiều người theo đạo Phật chia sẻ rằng đất nước họ phải được thống nhất, và rằng tôn giáo của họ đang bị đe dọa.” Chúng ta thử nhận xét về hai lý do này.
1.- Lý do sợ mất sự thống nhất
Người Hồi Giáo Rohingya ở Arakan nói rằng quốc gia Arakan đã có từ năm 2666 trước CN. Đến thế kỷ thứ 8, những thương buôn người Hồi Giáo A-rập đã đến buôn bán và truyền đạo Hồi cho họ. Nhưng năm 1785, Miến Điện đã xâm chiếm đất nước của họ và biến thành bang Rakhine của Miến Điện.
Có thể coi tình trạng của người Arakan gióng như trình trạng của người Chiêm Thành ở Việt Nam. Người Arakan cũng như người Chiêm Thành không hề đòi lại nước hay một quy chế tự trị cho sắc tộc của họ. Giáo sư Alan Strathern đã xác nhận họ là những cộng đồng nhỏ, sống hiền hàa.” Như vậy, lý do sợ mất sự thống nhất không đứng vững.
Trong bài diễn văn đọc tại Đại Học Rangoon ngày 19.11.1913 nhân chuyến viếng thăm Miến Điện, Tổng Thống Obama đã nói:
Đất nước của các bạn sẽ mạnh hơn vì có nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng các bạn phải nắm bắt cơ hội đó. Các bạn phải nhận ra thế mạnh đó.
Nhưng hình như những lời này chỉ là “nước đổ đầu vịt”
2.- Lý do sợ Phật giáo bị đe dọa
Thông tín viên Arnaud Dubus của RFI tại Bangkok đã nhận định:
Ở Miến Điện cũng như ở Cam Bốt và ở Thái Lan, có một sự đồng hóa chặt chẽ giữa Phật giáo với dân tộc đa số của đất nước như người Miến, người Khmer hay người Thái. Nếu sinh ra là người Miến Điện thì phải là người theo đạo Phật. Một người Miến Điện Hồi giáo hay Thiên chúa giáo bị coi là một điều quái đản.”
Tài liệu thống kê cho biết Miến Điện có dân số khoảng 60 triệu, theo nhiều tôn giáo khác nhau, trong đó Phật giáo chiếm 89,3%, Thiên Chúa giáo 5,6%, Hồi giáo 3,8%. Với một tỷ số người theo Phật giáo áp đảo như vậy, làm sao đạo Phật ở đây có thể bị đe dọa được?
Vả lại, khi muốn hội nhập vào các xã hội văn minh, Miến Điện cũng phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. Nếu ngày nay Phật giáo được tự do phát triển ở Mỹ, ở Úc, ở Anh, ở Pháp…, tại các tôn giáo khác lại không thể phát triển trên “đất Phật”?
Nếu nhận xét của giáo sư Alan Strathern là đúng, Miến Điện chưa thể hội nhập vào các xã hội văn minh được vì không chấp nhận những quyền căn bản của con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo.
DÙNG LÁ BÀI PHẬT GIÁO
Từ thập niên 60 đến nay, vì muốn loại bỏ người người Rohingya ra khỏi “đất Phật”, các chính phủ Miến Điện đã áp dụng nhiều luật pháp kỳ thị không thể chấp nhận được, chẳng hạn như: Buộc người Rohingya phải chứng minh được rằng họ đã sống trên đất Miến kể từ trước 1824 nếu muốn có quốc tịch Miến. Dĩ nhiên, rất ít người có thể trình loại bằng chứng này, và như vậy họ không được coi là công dân Miến. Họ cũng không có quyền tự do đi lại và bị cưởng chế về các vấn đề như hôn nhân, sở hữu đất đai, v.v... Đa số người Rohingya đang lâm vào tình huống của những người vô tổ quốc ngay chính trên đất của họ. Nhưng các biện pháp nói trên đã không loại bỏ hay ngăn chận được sự phát triển của người Hồi giáo Rohingya. Nhà cầm quyền đã nghĩ đến lá bài Phật giáo.
Chúng ta nhớ lại, trong nhiều thập niên qua, để bảo vệ quyền bính, giới quân phiệt Miến đã dùng nhiều biện pháp mạnh để khống chế khối Phật giáo. “Cuộc cách mạng áo cà sa” năm 2007 đã bị chính quyền đàn áp thẳng tay. Cả thế giới đã lên tiếng bênh vực Phật giáo.
Các biện pháp độc tài quân phiệt đã làm nền kinh tế Miến sụp đổ, nhà cầm quyền Miến phải thay đổi chính sách kể từ tháng 3/2011, thực hiện nhiều cuộc cải cách về cả chính trị lẫn kinh tế để có thể hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, mới làm hòa với Phật giáo được một thời gian ngắn, nhà cầm quyền Miến đã dùng ngay lá bài Phật giáo để loại bỏ người Hồi giáo Rohingya.
Nhà sư Ashin Wirathu trụ trì ở tu viện Mandalay, người đã từng bị tù năm 2003 với tội danh kích động hận thù tôn giáo vì liên hệ đến vụ tàn sát các gia đình Hồi giáo và thiêu đốt các đền Hồi giáo ở tỉnh Kyauk-hse, nay được thả ra và cho làm lãnh tụ “Phong Trào 969 để thực hiện cuộc “thánh chiến” tiêu diệt người Hồi giáo Rohingya.
DÙNG VỌNG NGỮ KÍCH ĐỘNG LÒNG HẬN THÙ TÔN GIÁO
Phong Trào 969 được nói là được thành lập để chống lại phong trào 786 của Hồi giáo.
Ba con số 969 được giải thích là Tam Bảo (Tiratana) trong Phật giáo gồm 24 thuộc, con số 9 đầu là Phật, con số 6 ở giữa là Pháp, con số 9 ở sau là Tăng (9 Buddha, 6 Dhamma, 9 Sangha),tổng cộng là 24.
Còn ba con số 786 được dùng trong truyền thống của Hồi Giáo Nam Á, được mô tả là biểu hiệu cho con số 21 (7+8+6=21), có nghĩa là Hồi Giáo sẽ thống trị thế giới trong thế kỷ 21. Nhưng các nhà bình luận Tây phương lật tẩy ngay, nói đó là vọng ngữ. Con số 786 chỉ là con số của câu Kinh Koran thường được người Hồi Giáo ghi trước cửa nhà của họ. Lời kinh đó là: “Nhân danh Đấng Allah, Rất Nhân Từ, Hằng Thương Xót” (In the name of Allah, the Most Gracious, the Ever Merciful).
Vọng ngữ thứ hai là tuyên truyền rằng đa số người Hồi giáo ở bang Arakan là từ Bangladesh qua. Nhưng các nhà báo Tây phương cho biết đa số người Rohingya là dân bản địa, chỉ có một thiểu số đến từ Bangladesh.
Cuộc kiểm tra của người Anh năm 1891 cho biết có 58.255 người Hồi giáo ở Arakan, đến năm 1911 đã tăng đến 178.647 người. Hiện này số người Hồi giáo ở đây đã trên 800.000.
Nhà sư Ashin Wirathu đã cho thành lập khắp nơi trong cả nước những tiểu ban của Phong Trào 969, có nhiệm vụ tổ chức các buổi thuyết giảng về lý do phải phát động cuộc “thánh chiến” chống Hồi giáo, phân phát các đĩa CD, sách và cả truyền đơn tuyên truyền chống Hồi giáo.
Có nhiều tờ truyền đơn còn khẳng định rằng người Hồi giáo kiểm soát nền kinh tế trong nước, tín đồ Phật giáo không nên buôn bán với họ. Những thành viên phong trào kêu gọi Phật tử nên mua bán với các cửa hiệu của Phật tử có treo biển và dán giấy 969.
THỰC HIỆN CUỘC DIỆT CHỦNG
Hôm 19.5.2013, đài RFI đã cho phổ biến một bài dưới đầu đề 969: Cơn ác mộng của người Hồi giáo Miến Điện” nói lên những chuyện bi thảm đang xảy ra ở Miến Điện. Mở đầu, bài báo viết như sau:
“Tháng Ba vừa qua, các nhóm Phật giáo cực đoan tại Miến Điện đã tấn công dữ dội vào người Hồi giáo ở các thành phố miền Trung và miền Đông Nam, giết hại hàng chục người và phá hủy nhiều khu phố và đền thờ Hồi giáo. Như trong các cuộc đụng độ năm ngoái giữa người Rakkhine theo đạo Phật và người Rohingya theo đạo Hồi ở miền Tây Miến Điện, lực lượng an ninh đã không can thiệp, thậm chí còn giúp những kẻ tấn công. Phong trào mang tên 969 là một trong những động lực của chiến dịch chống người Hồi giáo này.”
Human Rights Watch đã công bố hình ảnh vệ tinh cho thấy 800 cơ sở hạ tầng và nhiều khu vực trong thành phố Meiklita bị tàn phá trong đợt bạo động từ ngày 20 đến 22.3.2013. Phần lớn những khu phố bị đốt phá là nơi người Hồi giáo cư ngụ. Có 43 người thiệt mạng và hơn 12.000 người phải di dời chỗ ở.
Tại bang Rakhine, miền Tây Myanmar, chính phủ ước tính có hơn 35.000 người phải di dời vì bạo lực, hầu hết là những người thiểu số Hồi giáo Rohingya. Thông tín viên Arnaud Dubus của RFI tại Bangkok cho biết những người Rakhine theo đạo Phật vẫn được phép tự do di chuyển và sinh sống tại thành phố hay trong làng của họ.
Trong cuộc bạo loạn ở Meikhtila vào đêm 30.3.2013, những người Hồi giáo chiếm khoảng 30% của thành phố có 100.000 dân này, đã phải ở ngoài đường phố kể từ khi cửa hàng và nhà cửa của họ đã bị đốt cháy. Các đám võ trang Phật giáo cầm dao phay và kiếm có mặt khắp nơi trong thành phố.
Tổ chức HRW ước lượng từ khi có các cuộc bạo loạn đến nay, đã có khoảng 450.000 người Hồi giáo Rohingya phải rời bỏ nơi cư trú của họ. Tin tức hàng ngày cho thấy tình trạng loại trừ tôn giáo và diệt chủng này khó chấm dứt.
RỒI SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
Trong 60 năm qua, các nhà cầm quyền quân phiệt ở Miến Điện đã dùng quân sự để đối phó với người Jingpo ở bang Kachin thuộc vùng Đông Bắc Miến Điện giáp giới với Trung Quốc và người sắc tộc Karen nổi lên đòi độc lập ở bang Kayin nằm sát biên giới Thái Lan. Hai cuộc chiến này vẫn chưa chấm dứt. Nay nhà cầm quyền không dùng quân sự mà dùng Phật giáo để loại bỏ người Hồi giáo Rohingya. Cuộc chiến này sẽ đưa đến những hệ lụy chưa thể lường trước được.
Trong chiến tranh Việt Nam, cả Hoa Kỳ lẫn Đảng CSVN đều xử dụng lá bài Phật giáo. Hoa Kỳ đã dùng lá bài Phật giáo để lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm và đổ quân vào miền Nam Việt Nam. Còn CSVN dùng Phật Giáo để tạo tình hình bất ổn ở miền Nam. Nhưng Hoa Kỳ và CSVN đều dùng Phật giáo để đối phó với các thế lực chính trị. Tại Miến Điện hiện nay, nhà cầm quyền lại dùng Phật giáo để đối phó với Hồi giáo, tức dùng tôn giáo để đối phó với tôn giáo. Trò chơi này rất nguy hiểm vì nó tạo ra lòng hận thù tôn giáo kéo dài không dứt.
Nhưng dù dùng Phật giáo để đối phó với các thế lực chính trị hay các tôn giáo khác, tôn giáo cũng đã bị xử dụng như một công cụ chính trị với hai hậu quả: Hậu quả thứ nhất là tôn giáo bị mất đi những lý tưởng cao đẹp của mìnhtừ Đạo Từ Bi biến thành cơn ác mộngHậu quả thứ hai là tình trạng mà thuật ngữ Phật giáo gọi là Nghiệp Báo.
Về đất nước Miến Điện, khi chính quyền dùng Phật giáo để thanh toán Hồi giáo, hâu quả cũng sẽ không đơn giản.
Hôm 3.5.2013, phát ngôn viên của Cảnh sát Indonesia là thiếu tướng Boy Rafli Amar, cho biết qua tin tình báo, cơ quan này đã bắt được hai kẻ tình nghi và xét thấy trong ba lô của họ có 5 quả bom tự chế. Hai người này khai định đặt bom tòa đại sứ Miến Điện ở thủ đô Jakarta vì muốn trả thù việc Miến Điện tấn công người Hồi giáo Rohingya.
Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau đó khoảng 1000 người Hồi giáo cực đoan thuộc tổ chức có tên Mặt Trận Bảo Vệ Hồi Giáo đã tập trung và tiến đến tòa đại sứ Miến Điện ở Jakarta, lên tiếng kêu gọi “thánh chiến” chống lại việc bắt bớ những người Hồi giáo anh em của họ.
Trên đây chỉ là phản ứng của cá nhân hay một vài nhóm Hồi giáo. Về lâu về dài, Miến Điện khó thoát khỏi những phản ứng trả đũa của khối Hồi giáo. Chính sách kỳ thị chủng tộc và tôn giáo tại Miến Điện hiện nay đang mở đường cho một tổ chức Hồi giáo ly khai xuất hiện giống như ở Philippines và Thái Lan. Nếu tình trạng này xảy ra thì đó là điều không may cho Miến Điện.
Ngày 23.5.2013
Lữ Giang

Tổng số lượt xem trang