Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2014

Phụ thuộc Trung Quốc vì kinh tế bị các nhóm lợi ích chi phối

-Phụ thuộc Trung Quốc vì kinh tế bị các nhóm lợi ích chi phối
HÀ NỘI (NV) - Thảo luận về tự chủ kinh tế, nhiều chuyên gia tin rằng sự phụ thuộc Trung Quốc về kinh tế là do kinh tế Việt Nam bị các “nhóm lợi ích” chi phối.


Dự án xây dựng cảng Vĩnh Tân ở Bình Thuận do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận có rất nhiều tai tiếng. (Hình: Thanh Niên)

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã trao gần như toàn bộ các hợp đồng EPC (NV: Engineering, Procurement and Construction contract - hợp đồng tổng thầu, loại hợp đồng mà nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công, cung ứng vật tư, thiết bị đến thi công và chạy thử rồi mới bàn giao cho chủ đầu tư) cho nhà thầu Trung Quốc: 23/24 dự án xi măng, 15/20 dự án nhiệt điện đốt than, 5/6 dự án hóa chất, 2/2 dự án chế biến khoảng sản, chưa kể các dự án giao thông, chưa kể ưu tiên cho thuê rừng và đất rừng ở biên giới.

Khi bàn về tự chủ kinh tế, ông Lê Ðăng Doanh, một chuyên gia kinh tế, tiếp tục thắc mắc tại sao lại xảy ra điều đó. Thực tế vừa kể đem lại bao nhiêu lợi ích quốc gia, bao nhiêu lợi ích cho các nhòm, các cá nhân?

Ông Doanh nhấn mạnh, Trung Quốc là “thầy” về mua chuộc, đút lót. Tình trạng kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc phải chăng là do bị các nhóm lợi ích chi phối quá mạnh.

Không chỉ giành được phần lớn các hợp đồng thông qua đấu thầu, các doanh nghiệp Trung Quốc còn đang dốc tiền mua lại các doanh nghiệp khác ở Việt Nam, chẳng hạn mua lại Công Ty CP của Thái Lan để nắm quyền chi phối toàn bộ thị trường thức ăn gia súc, gia cầm ở Việt Nam.

Theo thống kê của Hải Quan CSVN, năm 2012, Việt Nam nhập cảng các loại hàng hóa, nguyên liệu từ Trung Quốc có giá trị 28.8 tỉ Mỹ kim, trong khi Trung Quốc cho biết, năm 2012, lượng hàng hóa, nguyên liệu mà Trung Quốc xuất cảng sang Việt Nam trị giá 34 tỉ Mỹ kim. Chênh lệch giữa thống kê nhập cảng và xuất cảng giữa hai bên là 5,2 tỉ Mỹ kim và ông Doanh nhận xét, khoản chênh lệch lớn bất thường đó phải chăng là qua đường tiểu ngạch.

Ông Nguyễn Văn Thụ, chủ tịch Hiệp Hội Doanh Nghiệp Cơ Khí Việt Nam, lặp lại điều mà nhiều người từng thắc mắc, vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không thực hiện đúng hợp đồng, chất lượng công trình và thiết bị kém, già thành công trình thường xuyên cao hơn giá dự kiến... nhưng hầu hết các dự án vẫn tiếp tục được giao cho các nhà thầu Trung Quốc và chẳng ai ngăn chặn các nhà thầu này đưa từ Trung Quốc sang những loại vật tư, phụ tùng vốn có sẵn tại Việt Nam, cũng như đưa cả lao động phổ thông sang làm việc tại các công trình mà họ là tổng thầu?

Theo ông Thụ, bởi Trung Quốc thắng thầu hầu hết các dự án ở Việt Nam nên nay, khi tổ chức đấu thầu quốc tế chỉ có các nhà thầu Trung Quốc tham gia, nhà thầu của các nước khác không muốn tham gia nữa.

Ông Thụ khẳng định, thực trạng vừa kể là do các chủ đầu tư không có lương tâm.

Ông Thụ cho biết, Hiệp Hội Doanh Nghiệp Cơ Khí Việt Nam đã gửi văn bản cho thủ tướng và chủ tịch nhà nước, đề nghị kiểm tra lại toàn bộ các dự án do Trung Quốc đang thi công dở dang để huy động doanh nghiệp Việt Nam và các nhà thầu ngoại quốc khác hoàn tất những dự án này.

Ông Doanh cho rằng, vì các nhóm lợi ích chi phối các dự án đầu tư nên đã phát sinh nhiều “sơ hở không đáng có” khiến kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc. Ông Doanh đề nghị phải minh bạch và làm rõ trách nhiệm cá nhân.

Hồi hạ tuần tháng trước, sau khi các chuyên gia kinh tế, báo giới liên tục cảnh báo kinh tế Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc. Nếu Trung Quốc gây áp lực bằng cách cắt đứt quan hệ kinh tế - thương mại, kinh tế Việt Nam sẽ suy sụp, thông tấn xã Việt Nam đã thực hiện cuộc phỏng vấn ông ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nhà nước Việt Nam. Trong cuộc phỏng vấn đó, ông Sang tuyên bố, không để kinh tế Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc.

Nhân vật là chủ tịch nhà nước Việt Nam cho biết, Việt Nam theo đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ” để “bảo đảm cùng có lợi và dứt khoát không để phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào trong cả kinh tế lẫn chính trị” song nhìn nhận, “một số lĩnh vực thực hiện không đúng chủ trương này, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế” và thừa nhận nhập siêu từ Trung Quốc “càng ngày càng lớn, liên tục” và trong đó có “các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất.” (G.Ð)

Trung Quốc nhận thầu và “quả đắng” của ngành cơ khí

Phần nào nhờ sự kiện biển Đông, “bi kịch” ngành cơ khí phải chịu đựng nhiều năm qua đã được phơi bày...


“Có thể nói, ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề khi các nhà thầu Trung Quốc là tổng thầu các dự án công nghiệp hầu như không dành phần việc nào cho cơ khí trong nước”.

Đó là bình luận của ông Nguyễn Văn Thụ, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI), khi nhìn lại 12 năm thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020. 

Giá trị của ngành cơ khí năm 2013 đạt 700 nghìn tỷ đồng, chiếm 20% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Tuy nhiên, ngành cũng đang đối mặt với tình trạng thiếu vốn đầu tư, thiếu công nghiệp phụ trợ, và đặc biệt là việc hầu hết dự án công nghiệp dùng cơ chế chỉ định thầu hoặc cơ chế đấu thầu giá thấp, nên đều lọt vào tay các nhà thầu Trung Quốc.

Từ năm 2003 đến 2011, nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC 5/6 dự án hóa chất, 2/2 dự án chế biến khoáng sản, 49/62 dự án xi măng và nhiều dự án giao thông.

Riêng về nhiệt điện, có 16/27 dự án do Trung Quốc làm tổng thầu.

Đa phần các dự án này bị chậm tiến độ từ 3 tháng - 3 năm, chất lượng thiết bị không đồng đều, một số thiết bị phụ trợ chất lượng thấp thường bị thay thế. 

Ở một số dự án, diễn ra tình trạng thay đổi thiết bị so với cam kết ban đầu, thay đổi tiêu chuẩn vật liệu, thay đổi hoặc bổ sung nhà cung cấp, dẫn tới đội giá hợp đồng.

Đáng chú ý, nhiều nhà thầu đã đưa vật tư sắt thép, phụ tùng, phụ kiện có thể chế tạo tại Việt Nam và cả lao động phổ thông sang các công trình mà họ làm tổng thầu.

Tại nhà máy alumin Lâm Đồng gói thầu là 466 triệu USD, giao lại cho Việt Nam 170 tỷ đồng (không được 8 triệu USD). Trong khi đó, nhà máy alumin Nhân Cơ có giá trị hợp đồng là 499 triệu USD, thì giao thầu phụ Việt Nam là 53 tỷ đồng (2,5 triệu USD).

Chủ tịch VAMI Nguyễn Văn Thụ cho rằng, một trong những nguyên nhân đầu tiên chính là… chính sách của chúng ta. Luật Đấu thầu đã ưu tiên các nhà thầu có giá bỏ thầu thấp mà chưa quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ về chất lượng thiết bị.

Luật này và các nghị định hướng dẫn thực hiện chưa được hoàn chỉnh và đồng bộ, thiếu hướng dẫn về hệ số quy đổi liên quan đến xuất sứ vật tư, phụ kiện hàng hóa khi xét giá đánh giá, gây nhiều khó khăn trong công tác xét thầu và vì thế chỉ chọn được nhà thầu với giá thấp.

“Cả thế giới phải thua Trung Quốc nếu chỉ xét về giá. Do đó, Trung Quốc đã thắng thầu hầu hết các dự án lớn tại Việt Nam”, theo ông Thụ.

Trong khi đó, năng lực của các chủ đầu tư còn hạn chế, chỉ “thích” chọn phương pháp đấu thầu EPC mà ngại trong việc tách các phần công việc, để có các gói thầu phù hợp với điều kiện nhà thầu trong nước làm được.

Còn sau khi đã ký tổng thầu, công tác kiểm tra giám sát đánh giá năng lực nhà thầu của chủ đầu tư còn yếu, chưa quyết liệt thực hiện các biện pháp chế tài xử lý vi phạm nhà thầu…

Một lý do nữa không kém quan trọng là vấn đề tài chính, theo đó nhiều dự án thực hiện chỉ định thầu EPC là do nhà thầu Trung Quốc thu xếp tài chính từ nguồn vay Trung Quốc, với lãi suất thấp, thủ tục vay đơn giản.

Ông Thụ cho biết, VAMI đã nhiều lần kiến nghị Chính phủ cần có biện pháp giám sát, kiểm tra, chế tài việc nhiều dự án trọng điểm quốc gia (như nhiệt điện, khai khoáng, xi măng…) do nhà thầu Trung Quốc thực hiện mà không tạo điều kiện cho thầu phụ Việt Nam, và đặc biệt là những dự án sử dụng lao động phổ thông trong công trình.

“Từ nhiều năm trước, chúng tôi đã đề nghị cần phải có các chế tài mạnh mẽ để hạn chế việc nhà thầu Trung Quốc sử dụng lao động phổ thông và thiết bị phụ trợ trong nước đã sản xuất và chế tạo được”, ông kể.

“Chúng tôi luôn cho rằng phải chọn các nhà thầu có năng lực thực sự về công nghệ, bảo đảm chất lượng sản phẩm tốt, cơ chế quản lý tiên tiến và có cam kết sử dụng lực lượng cơ khí trong nước tham gia chế tạo lắp đặt, để tạo điều kiện phát triển ngành cơ khí trong nước”.

Gần đây nhất, trước tình hình biển Đông dẫn đến một số dự án tổng thầu Trung Quốc làm tại Việt Nam có những trục trặc nhất định, VAMI đã gửi báo cáo lên Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ, đề nghị cho kiểm tra lại toàn bộ các dự án công nghiệp do Trung Quốc đang thi công dở dang, để huy động lực lượng trong nước kết hợp với các nhà thầu nước ngoài khác hoàn chỉnh các dự án này.

“Đây là một thách thức lớn, song cũng là cơ hội để các nhà thiết kế và xây lắp trong nước vượt lên chính mình trong sự nghiệp xây dựng đất nước trở thành một nước văn minh, cường thịnh, tồn tại bên cạnh nước láng giềng đầy bất trắc”, ông Thụ nhấn mạnh.

Theo ông Trần Hữu Huỳnh, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, các vấn đề mà VAMI nêu cũng đã được giới chuyên gia nêu lên nhiều lần trong nhiều năm qua, nhưng chưa được quan tâm thích đáng.

Ông hy vọng với các diễn biến gần đây, chính sách đối với lĩnh vực này sẽ có sự đổi thay cơ bản, để từ đó thay đổi được tình hình trên thực tế.

-Bối cảnh vì sao VN thần phục TQ (TTHN 3-7-14) -- Bài này rất có ích. NÊN ĐỌC! ◄◄

Sau khi “tổ quốc Liên Xô” của ông Lê Duẩn tan rã năm 1989, thì từ thời Nguyễn Văn Linh cho đến thời Lê Khả Phiêu, các tổng bí thư vẫn coi việc quy phục Trung Quốc là cách duy nhất để cứu vãn cơ đồ thống trị của đảng trên nước Việt Nam.

Nhưng lấy lý do nào để biện minh cho việc quay về thần phục Trung Quốc, sau khi đã bị quân đội Trung Cộng tấn công ở biên giới năm 1979 và ở Trường Sa năm 1988? Các ông tổng bí thư này phải nêu lý do cao siêu hơn quyền lợi. Họ giải thích hai nước “đồng chí anh em” là những thành trì cuối cùng bảo vệ thứ gọi là “chủ nghĩa xã hội!”.

Từ đó, Việt Cộng bắt đầu theo con đường lệ thuộc Trung Cộng. Cho nên, trong ngôn ngữ ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam, khi nào còn đề cao chủ nghĩa xã hội là còn chủ trương mối bang giao với Trung Cộng là trọng tâm chiến lược.

Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh là người có kinh nghiệm cá nhân đau đớn khiến chính bản thân ông coi việc quy phục Trung Cộng là điều không thể tránh được. Tháng 10 năm 1989, Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự quốc khánh Ðông Ðức, được chứng kiến cảnh giễu võ giương oai của “Cộng Hoà Dân Chủ Ðức” với các cuộc mít tinh hàng trăm ngàn người hô các khẩu hiệu chủ nghĩa cộng sản muôn năm đầy “hồ hởi phấn khởi.” Trong cuộc tiếp tân, Nguyễn Văn Linh được lãnh tụ cộng sản Ðông Ðức Honecker báo tin là chế độ Cộng Sản Ðức sẽ tồn tại vĩnh viễn mặc dù làn sóng người Ðông Ðức đang chạy ào ào qua Hung, Tiệp rồi qua Tây Ðức. Khi Nguyễn Văn Linh về tới Hà Nội thì bức tường Berlin bị sập, Honecker bị chính các đàn em lật đổ. Theo cuốn hồi ký Hồi Ức và Suy Nghĩ của Trần Quang Cơ, viết năm 2001, thì trong cuộc đại lễ ở Berlin, Linh cũng gặp lãnh tụ Rumani là Chủ Tịch Ceaucescu. Lãnh tụ tối cao cha già dân tộc Rumani và “anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới đang lâm nguy”.

Nhưng ngay sau đó, Linh nghe tin cả hai vợ chồng Ceaucescu bị các đàn em đảo chính và đem bắn. Những kinh nghiệm đó khiến Linh phải lo lắng cho số phận của chính mình và các lãnh tụ cộng sản Việt Nam khác. Phải tìm cách tự cứu!

“Trước tình hình ấy”, Trần Quang Cơ viết, trong nội bộ Ðảng Cộng Sản Việt Nam “nổi lên một ý kiến… phải bằng mọi giá bắt tay ngay với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Xin nhấn mạnh những chữ “bằng mọi giá” và “ngay” lập tức. Cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ mô tả luận điểm của Nguyễn Văn Linh dùng để thuyết phục Bộ Chính Trị nên chịu thua Trung Cộng là: “Dù bành trướng thế nào, Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa”. Linh đã nhấn mạnh lý luận trên khi Bộ Chính Trị thảo luận về kết quả cuộc gặp gỡ các lãnh tụ Trung Cộng ở Thành Ðô năm 1990, trong đó, Linh đã chấp nhận ngay phương cách giải quyết cuộc chiến ở Căm Pu Chia do Trung Cộng đề nghị, mặc dù Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch đã chống nên không được mời sang Tàu.

Trước đó, khi Liên Xô bắt đầu giảm bớt viện trợ kinh tế, mà các chính sách xã hội chủ nghĩa của Cộng Sản Việt Nam đã đưa quốc dân đến kiệt quệ, năm 1988 đảng đã đành nhẫn nhục, tự sửa cả điều lệ đảng lẫn Hiến Pháp, chịu xoá bỏ những câu ngu dốt viết trong thời Lê Duẩn, gọi tên “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”. Ngày 5 tháng 6 năm 1990, để xin hoà trước khi sang Thành Ðô, Nguyễn Văn Linh đã mời Ðại Sứ Trung Cộng Trương Ðức Duy tới, tự thú nhận là Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã sai lầm, đồng thời khoe công nay đã thay đổi: “Trong 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi lời nói đầu Hiến Pháp, có cái sai đang sửa.” Linh ngỏ ý muốn sang Tầu gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc để “bảo vệ chủ nghĩa xã hội”; vì “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội”. Lời nói của Nguyễn Văn Linh được Trần Quang Cơ thuật lại nguyên văn như sau:

“Chúng tôi muốn cùng những người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc… Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin…”. Lúc đó Nguyễn Văn Linh đóng vai người lãnh đạo cao nhất nước mà nhún mình nói, “các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay!”

Không có cách nào “khiêm tốn” hơn!

Ba ngày trước khi Linh, Ðỗ Mười, Phạm Văn Ðồng lên đường sang Thành Ðô, Bộ Chính Trị họp ngày 30 tháng 8 năm 1990. Trần Quang Cơ kể:

“Anh Linh nêu ý kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc…” Linh được Lê Ðức Anh ủng hộ, mặc dầu có những người không tin việc hợp tác với Trung Cộng có thể thực hiện được, như Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công. Sau cuộc họp Thành Ðô, khi các lãnh tụ cộng sản Việt Nam bay sang Cam Pu Chia giải thích phương cách giải quyết này với Hunsen, Lê Ðức Anh nói thêm cho rõ, “Mỹ muốn cơ hội này xoá bỏ cộng sản. Nó đang xoá ở Ðông Âu… Ta phải tìm đồng minh. Ðồng minh này là Trung Quốc”.

Qua những lời tường thuật trung thực của Trần Quang Cơ, một người tỏ ra rất trung thành với đảng và kính trọng Nguyễn Văn Linh, chúng ta thấy động cơ khiến Linh và tập đoàn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã lựa chọn con đường hợp tác với Trung Cộng chỉ vì họ thấy hoàn toàn cô đơn, không còn biết nương tựa vào đâu để “bảo vệ chủ nghĩa xã hội.” Trong thực tế là bảo vệ quyền hành của họ. Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ sau này đều bị loại dần dần ra khỏi Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng Cộng Sản vì không “nhất trí!”

Nguyễn Văn Linh đã khởi xướng chủ trương quy phục Trung Cộng, có thể chỉ vì biết mình đã được lọt vào mắt xanh giới lãnh đạo cộng sản bên Tầu. Tháng 10 năm 1989, tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Lào là Kayson Phomvihan đã qua Bắc Kinh, được Ðặng Tiểu Bình tiếp đãi trong 70 phút, trong đó 60 phút là nói chuyện về Việt Nam. Qua Kayson, Ðặng Tiểu Bình đã “bắn tin” cho các lãnh tụ Hà Nội. Trần Quang Cơ viết:

“Trong khi không tiếc lời phê phán Lê Duẩn, Ðặng đã hết lời ca ngợi Nguyễn Văn Linh. Ðặng kể lại khi làm tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1963 (Ðặng) đã tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh từ miền Nam (Việt Nam) sang Hồng Kông để đi Bắc Kinh gặp nhau, (Ðặng) khen Anh Linh là ‘người tốt, sáng suốt, có tài’; nhờ Kayson chuyển lời thăm anh Linh…”.

Không thể nói Nguyễn Văn Linh đã ngả theo Trung Cộng vì bị “ăn bánh phỉnh” của Ðặng Tiểu Bình. Bởi vì chính sách quy phục Trung Cộng không do một cá nhân quyết định là vì đa số các lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam thời đó đồng ý. Vì họ không có chỗ tựa nào khác. Muốn dựa vào Trung Cộng, họ phải nêu một lý do cao cả hơn quyền lợi của nhóm thiểu số cầm quyền này, lý do cao cả đó là “bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Mặc dù không ai biết chủ nghĩa đó thực hiện thế nào, ngoài chế độ công an trị và hệ thống doanh nghiệp nhà nước!

Ðiều tội nghiệp cho Việt Cộng là Trung Cộng hoàn toàn thờ ơ với ý kiến hoàn toàn lý thuyết cao siêu đó. Họ chỉ nghĩ tới quyền lợi quốc gia của họ, và sẵn sàng đánh sau lưng Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Trung Cộng đã “mở bài” làm “lộ tẩy” những bí mật trong cuộc đàm phán về Cam Pu Chia giữa hai nước. Trần Quang Cơ kể: “Hiểm độc nhất là Trung Quốc đã thông báo khá rộng rãi với các nước những điều Nguyễn Văn Linh và Lê Ðức Anh nói riêng với Trương Ðức Duy” (đại sứ Trung Cộng ở Hà Nội). “Sáng ngày 26 tháng 6, 1990 đại sứ Cộng Hoà Liên Bang Ðức gặp Bộ Ngoại Giao ta, cho biết là ngày 22 tháng 6 Trung Quốc đã thông báo cho đại sứ các nước Liên Hiệp Âu Châu ở Bắc Kinh nội dung cuộc họp giữa Từ Ðôn Tín và tôi (Trần Quang Cơ) và đưa ra kết luận: ‘Việt Nam là những người rất xảo trá, rất xấu xa…’”

Một tháng sau cuộc họp ở Thành Ðô, Ngoại Trưởng Mỹ James Baker nói với các nhà báo rằng Trung Quốc tố cáo các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam nói rồi không giữ lời. Baker được Trung Cộng mớm cho, tuyên bố thẳng, “Không thể tin được ngay cả lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam”. Trần Quang Cơ thuật lại: “Baker còn nói rằng Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị… ‘Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội…’” mà giới lãnh đạo cao cấp của Việt Nam đưa ra. Bắc Kinh nói một cách công khai, lại khuyến khích ngoại trưởng Mỹ nhắc lại, để làm mất mặt nhóm lãnh tụ ở Hà Nội. Nhưng nhóm lãnh tụ này vẫn cắn răng chịu đựng!

Trước những thủ đoạn xảo trá của Bắc Kinh như vậy, thật không thể hiểu được tại sao các Ðảng Cộng Sản Việt Nam vẫn bám lấy con đường hợp tác với Bắc Kinh để bảo vệ chủ nghĩa xã hội! Ðến thời Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, ông ta còn đi sang Tàu năn nỉ tái lập một tổ chức quốc tế cộng sản, với Việt Nam, Cuba, Bắc Hàn, mà Trung Cộng đứng lãnh đạo!

Có phải các lãnh tụ cộng sản bây giờ vẫn muốn trung thành với di sản chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh để lại, hay không?

Ðiều này khó tin. Vì tất cả các lãnh tụ trung ương đều đang lo vơ vét của cải cho vợ, con, gia đình. Họ chỉ lo bảo vệ những của cải đó chứ không thiết tha đến chủ nghĩa nào cả.

Vậy tai sao cuộc họp Trung Ương Ðảng Cộng Sản vừa qua vẫn nhấn mạnh đến khẩu hiệu “Tiến lên chủ nghĩa xã hội” trên “giai đoạn quá độ” dài dằng dặc không biết bao giờ tới bờ bên kia?

Vì khẩu hiệu đó cũng là một tín hiệu về ngoại giao. Hô khẩu hiệu đó là cho biết đảng vẫn tiếp tục chính sách của Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu: Vẫn tuyệt đối trung thành với các đồng chí Trung Quốc. Kể từ thời Nguyễn Văn Linh, bất cứ ai lên cầm quyền ở Hà Nội, đều phải được Bắc Kinh phê chuẩn. Trung Cộng không cho Nguyễn Cơ Thạch đi trong phái đoàn sang Thành Ðô năm 1990. Thế là sau đó Thạch bị rút ra khỏi Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng, suốt đời không còn ngóc lên được nữa. Trung Cộng mời Phó Thủ Tướng Vũ Khoan sang Bắc Kinh năm 2005, nhưng Khoan tới nơi bèn bị bỏ rơi giữa chợ, không cho gặp một nhân vật quan trọng nào cả. Thế là mọi người đều hiểu: Vũ Khoan không thể lên chức thủ tướng được, mặc dù đã có công vận động để ký thỏa ước thương mại song phương với Mỹ cho Việt Nam vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Vì thế Nguyễn Tấn Dũng, một phó thủ tướng khác, đã lên ngồi ghế thủ tướng cho tới bây giờ.

Chỉ khi nào Ðảng Cộng Sản Việt Nam chính thức từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê, đổi tên đảng, bỏ những chữ “xã hội chủ nghĩa” trong tên nước; khi nào dân Việt Nam được sống làm người Việt bình thường không theo chủ nghĩa nào cả, không bám lấy cường quốc nào để nhận làm anh em cả, thì lúc đó Việt Nam mới thực sự độc lập!

“Ái quốc hoá ra thành phản quốc,
Ngàn thu mối hận dễ nào phai.”
(Báo Mai)



"Thái tử Đảng" ở Việt Nam: Con Cháu Các Cụ Cả’ (NV 30-6-14) -- Những người này (và nhiều người nữa) thì ai cũng biết rồi, nhưng đọc lại vẫn thấy buồn, buồn vô kể, buồn nhất là cho những người đã hi sinh cho "cách mạng" Việt Nam. ◄◄

Lê Diễn Đức

Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa.

Câu ca dao trên có từ chế độ phong kiến với tập quán cha truyền con nối. Nhưng tập quán này là một thiết chế xã hội mang tính công khai, được xã hội chấp nhận.

Các chế độ độc tài toàn trị tệ hại hơn, có cấu trúc giống như một nhà nước phong kiến nhưng mọi thứ đều không minh bạch. Những kẻ cầm quyền sống ngập trong xa xỉ nhưng chỉ đến khi bị lật đổ người dân mới biết. Saddam Hussein (Iraq) hay Gaddafi (Lybia) là những ví dụ.

Hệ thống độc tài cộng sản toàn trị thì có mô hình một nhà nước với “vua tập thế” là Bộ Chính Trị, cơ quan đầu não của một đảng duy nhất cầm quyền. Không cha truyền con nối, nhưng con cháu các lãnh đạo được cơ cấu vào các tổ chức của đảng để bồi dưỡng và quy hoạch cho tương lai.

Trong chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh đã dùng cụm danh từ “Hạt Giống Ðỏ” để đặt tên cho con cháu cán bộ nằm vùng tại miền Nam Việt Nam. Những “Hạt Giống Ðỏ”/“Học sinh miền Nam” này được đưa ra Bắc nuôi dưỡng và học tập, nhiều người đi du học nước ngoài.

Từ khi Việt Nam “mở cửa,” thời cuộc thay đổi, việc quy hoạch giới “5C” (”Con Cháu Các Cụ Cả”) thường gắn liền với lợi ích nhóm lâu dài, nhằm duy trì và phát triển các mối làm ăn. Thời đại ở Việt Nam “5C” cũng được chuyển sang “Thái Tử Ðảng.”

“Thái Tử Ðảng” (Taizi Dang) là một danh xưng mang ý nghĩa châm biếm, dùng để chỉ tầng lớp con cháu của các quan chức cao cấp nổi bật và có ảnh hưởng ở Trung Quốc. Bằng một cách không chính thức, tầng lớp này thường được hưởng nhiều đặc ân của nhà nước. Do đó, tầng lớp con cháu này có nhiều cơ hội được quy hoạch để làm lãnh đạo trong tương lai, dù hình thức bên ngoài vẫn biểu hiện bởi các nguyên tắc dân chủ như thông qua bầu cử; hoặc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, tích lũy khối lượng tài sản khổng lồ mà những người dân thường không thể nào có được” (Wikipedia).

Trong giới “Thái Tử Ðảng” nhiều người được đi du học tại Mỹ, Anh, Úc... và sau khi học về đã chỗ đứng ngon lành dọn sẵn.

Tuy nhiên không phải tất cả con cháu các nhà lãnh đạo đều là “Thái Tử Ðảng,” điều này phụ thuộc vào cơ hội, khả năng và tham vọng của bản thân. Nhiều “thái tử” lắm tiền, ăn chơi hoang túng, sa vào rượu chè, nghiện hút, gái, chẳng làm nên công cán gì. Ví dụ như Nguyễn Ðức Quang (Quang Béo), con trai cựu Cục Phó Tổng Cục An Ninh, giám đốc Công an Hà Nội Nguyễn Ðức Nhanh, hay Nguyễn Khánh Trọng, con trai cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Công An Nguyễn Khánh Toàn.

Trong guồng máy quyền lực hiện nay, giới “Thái Tử Ðảng” khá đông, xin được kể ra một số có “máu mặt.”

Cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn có hai vợ, nhiều con, nhưng đáng chú ý có hai người.

Một, Lê Kiên Thành (sinh 1955), kỹ sư hàng không tại Liên Xô, hiện là chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị (HÐQT) Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Và Phát Triển Ðô Thị; chủ tịch HÐQT Công ty Cổ Phần Chế Biến Thực Phẩm Thái Minh; chủ một sân golf và là phó Chủ tịch thường trực Hội Golf Việt Nam, là thành viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam TP. Hồ Chí Minh.

Thứ hai, con út Lê Kiên Trung (sinh 1958), Cục trưởng Cục Hải Quan TP. Hồ Chí Minh (từ tháng 12 năm 2007), hiện là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục An ninh II, Bộ Công An.

Cố Ðại Tướng Nguyễn Chí Thanh có con trai út là Nguyễn Chí Vịnh, thượng tướng, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, một người được cho là có quyền lực bao trùm, trên cả bộ trưởng Phùng Quang Thanh. Nguyễn Chí Vịnh thuở thanh thiếu niên học dốt, chơi bời, hay ăn cắp vặt, nhưng vẫn được châm chước, lên như diều gặp gió, mặc dù khi phong chức hay cơ cấu vào ủy viên Trung Ương Ðảng đã có phản ứng của các sĩ quan trong Bộ Quốc Phòng.

Vợ của Nguyễn Chí Vịnh là con gái Trung tướng Ðặng Vũ Chính, tức Ðặng Văn Trung, cựu tổng cục trưởng Tổng Cục 2 thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam (từ năm 1994 đến năm 2002). Vũ Chính đã “chuyển giao” thành công quyền lực cho con rể trong Tổng Cục 2, có lúc được xem là “nhà nước trong một nhà nước,” khiến Nguyễn Chí Vịnh tạo được thế đứng vững chắc. Nguyễn Chí Vịnh có ba con, một đi du học ở Úc, một đi Nga và một đi Trung Quốc.

Nguyễn Văn Bình, thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, được xem là trung tâm chi phối các nhóm lợi ích hiện nay ở thượng tầng. Nguyễn Văn Bình học toán ở Liên Xô cũ, con ông Nguyễn Văn Chuẩn, cựu tổng Giám Ðốc Ngân Hàng Quốc Gia, tức tương đương chức Thống Ðốc bây giờ.

Anh ruột của Nguyễn Văn Bình là Nguyễn Văn Thành. Thành lấy con gái ông Lê Quang Ðạo, Trung tướng, cựu chủ tịch quốc hội, là Nguyễn Nguyệt Tĩnh, một “soái” thành đạt ở Ba Lan làm ăn nhiều với thị trường Liên Xô. Con trai của Lê Quang Ðạo là Thiếu Tướng Nguyễn Quang Bắc. Vì thế Nguyễn Văn Bình có cả mối quan hệ lợi ích dây mơ rễ má với các tướng lĩnh quân đội.

Tô Huy Vũ con trai trưởng ban tổ chức trung ương Tô Huy Rứa hiện là Vụ phó của Ngân Hàng Nhà Nước.

Lê Minh Hưng, con trai cố bộ trưởng Công An Lê Minh Hương là phó thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước.

Tướng Tô Lâm, thứ trưởng Bộ Công An là con trai ông Tô Quyền, cựu cục trưởng Cảnh Sát Giao Thông, cựu giám đốc Công An Hải Hưng. Tô Lâm sinh năm 1957, được cho là người giải cứu vụ Vinashine cho Nguyễn Tấn Dũng, một nhân vật đầy quyền uy. Tô Lâm được Tướng Nguyễn Văn Hưởng trực tiếp nâng đỡ kéo lên từ vị trí cục trưởng lên tổng cục trưởng rồi thứ trưởng Bộ Công An chỉ trong vòng mấy năm!

Tô Lâm khôn ngoan, thường nhận con cháu lãnh đạo cấp cao về đơn vị mình để tạo ơn nghĩa, vây cánh. Phan Minh Hoàn (Hoàn Ty), con cựu Thủ Tướng Phan Văn Khải; Trần Quốc Liêm, em vợ Nguyễn Tấn Dũng, hay con trai giám đốc Công An Tuyên Quang; con trai giám đốc Công An Ninh Bình đều làm việc dưới trướng Tô Lâm.

Thiếu Tướng Nguyễn Ðức Chung (Chung con), giám đốc Công An Hà Nội, là con nuôi của Lê Hồng Anh, thường trực Ban Bí Thư.

Nguyễn Hoàng Linh, sinh năm 1971, là cục phó thuộc Tổng Cục Tình Báo (Tổng Cục 5), con trai tướng công an Nguyễn Văn Hưởng, một người cho lúc về hưu đã có ảnh hưởng lớn đến Nguyễn Tấn Dũng, quyền hành mênh mông, khuynh loát mọi quan hệ làm ăn lớn.

Phùng Quang Hải, trung tá, giám đốc Tổng Công Ty 319 thuộc Bộ Quốc Phòng, con trai của bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh. Phùng Quang Hải đang cùng với Nguyễn Thanh Phượng, con gái Nguyễn Tấn Dũng, điều hành môi giới mua bán vũ khí cho quân đội, một sân chơi rất hẹp mà chỉ “Thái Tử Ðảng” nặng ký mới vào được.

Con trai của Lê Ðức Anh, cựu chủ tịch nước, Lê Mạnh Hà, là phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP. Hồ Chí Minh.

Trong giới “Thái Tử Ðảng” hiện nay, có lẽ Nguyễn Thanh Nghị, con thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng, được quan tâm nhất.

Ông Nghị, sinh năm 1977, con trai cả của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, từng theo học tại Ðại học Kiến Trúc trong nước, sau đó đi du học tại Mỹ.

Năm 2011, tại Ðại Hội Ðảng Cộng Sản Việt Nam XI, tuy không được đại hội đảng từ cơ sở đề cử lên, song Nguyễn Tấn Dũng đã mặc cả với Nguyễn Văn Chi, ủy viên Bộ Chính Trị, chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương, kéo con trai vào danh sách do đại hội toàn quốc đề cử. Nghị được bầu làm ủy viên Dự Khuyết Ban Chấp Hành Trung Ương, cùng với con trai của Nguyễn Văn Chi là Nguyễn Xuân Anh, hiện là phó Bí Thư Thành Ủy, phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP. Ðà Nẵng.

Ngày 11 tháng 11 năm 2011, Nghị được “bổ nhiệm” làm thứ trưởng Bộ Xây Dựng, phụ trách kiến trúc và quy hoạch thay cho Thứ Trưởng Nguyễn Ðình Toàn.

Tháng 3 năm 2014, Nghị được Bộ Chính Trị cử giữ chức phó bí thư Tỉnh Ủy tỉnh Kiên Giang, nơi Nguyễn Tấn Dũng từng làm phó bí thư, rồi bí thư Tỉnh Ủy và chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân. Nghị cũng kiêm giữ chức phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh từ ngày 28 tháng 3 năm 2014.

Nghị được cha phân công chỉ đạo đầu tư phát triển đảo Phú Quốc, vùng đất mà gia đình Nguyễn Tấn Dũng đã đầu tư khá nhiều. Nghị được giao chuẩn bị đề án “Ðặc Khu Hành Chính Kinh Tế Phú Quốc,” với tham vọng biến hòn đảo này thành một trong ba đặc khu kinh tế lớn nhất của Việt Nam.

Thế nhưng, vừa qua thủ tướng có quyết định rút ông Nghị khỏi tổ công tác về phát triển đảo Phú Quốc và đồng ý để bà Phan Thị Mỹ Linh, thứ trưởng Bộ Xây Dựng, thay Nguyễn Thanh Nghị.

Trong khi đó, con trai út của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận quyết định “đi đào tạo thực tế ở cơ sở” tại tỉnh Bình Ðịnh và làm phó bí thư Tỉnh Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Bình Ðịnh nhiệm kỳ 2013-2017 củng cố bậc thang đi lên danh vọng.

Rõ ràng có sự lúng túng của Nguyễn Tấn Dũng trong việc sắp đặt chỗ ngồi cho con trai lớn, nhưng có lẽ Dũng quyết chọn bài đi từ cơ sở. Nếu vào ủy viên chính thức ở Ðại Hội Ðảng XII, chức bí thư tỉnh sẽ trong tầm tay và từ bí thư Tỉnh Ủy ra trung ương đảm nhận vai trò cao hơn mặc nhiên thuận lợi.

Nhiều người cho rằng giới “Thái Tử Ðảng” có học, sẽ là hy vọng cho những cải cách tương lai hướng về thể chế dân chủ. Tôi thì không tin. Loại này cơ hội và láu cá hơn thế hệ trước nhiều. Một tay trí thức lưu manh còn nguy hiểm hơn một lão nông dân ngu dốt. Kim Jong Un ở Bắc Triều Tiên hay Assad ở Syria là những tấm gương nhãn tiền.

Tóm lại, thế hệ trước, những ông nông dân vô học đi làm cách mạng, sau khi cướp được chính quyền leo lên ghế lãnh đạo, đã chuẩn bị sẵn một tương lai cho con cháu, đôn nhau vào những vị trí ngồi mát ăn bát vàng, vừa để duy trì chế độ, vừa bảo vệ tài sản kiếm được. Một guồng máy cai trị mà sự tiếp nối giống như chế độ phong kiến cha truyền con nối, chỉ khác về hình thức.




"Thái tử Đảng" = Lợi ích nhóm?  Nhận diện biểu hiện “Lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ và giải pháp khắc phục (TCCS 2-7-14) -- Đọc bài về Thái tử Đảng ở trên rồi đọc bài này trong Tạp Chí Cộng Sản thì thấy rõ ràng là TCCS đang kêu gọi đảng viên cảnh giác nguy cơ của bọn Thái tử Đảng!   Hoan nghênh Tạp chí Cộng Sản!

TCCS - “Lợi ích nhóm” có trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy, nó có cả trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong công tác tổ chức, cán bộ nói riêng với những biểu hiện đa dạng và phức tạp. Cần sớm có chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện này.


Khái niệm “lợi ích nhóm” 

“Lợi ích nhóm” là một cụm từ, một thuật ngữ đang được nhắc đến nhiều trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đang làm cho nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các tầng lớp nhân dân quan tâm nhìn nhận, mổ xẻ dưới nhiều cách nhìn với các cấp độ, góc độ khác nhau. Lợi ích thường liên kết con người với nhau, và vì vậy phân chia ra các nhóm, giai tầng khác nhau. Chính vì thế mà có lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, hay lợi ích giai cấp... Từ “lợi ích nhóm” có thể hình thành nên nhóm lợi ích, nhóm xã hội. Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm xuất hiện ngày càng nhiều nhóm lợi ích khác nhau, các nhóm này vừa có thể có lợi ích chung, vừa có lợi ích riêng, có lợi ích tích cực, có lợi ích tiêu cực.

Như vậy, có thể hiểu lợi ích nhóm như sau: Lợi ích nhóm là lợi ích của một nhóm người liên kết với nhau, hỗ trợ nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau có lợi ích và bảo vệ lợi ích đó. Xét về mục đích và bản chất, lợi ích nhóm có thể chia thành lợi ích nhóm tích cực và lợi ích nhóm tiêu cực. Lợi ích nhóm tích cực là lợi ích chính đáng, hợp pháp của một nhóm người. Việc hình thành nó là nhu cầu khách quan, chính đáng, tự nhiên trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, nhiều nhóm người với những đặc điểm, hoàn cảnh khác nhau. Còn lợi ích nhóm tiêu cực là “lợi ích” mà nhóm thu được nhằm vào các “tình huống” hay “phi vụ” nhạy cảm, không lành mạnh, mờ ám, thiếu minh bạch. Bài viết giới hạn ở việc phân tích những biểu hiện của lợi ích nhóm tiêu cực (gọi tắt là lợi ích nhóm) trong công tác tổ chức, cán bộ.

“Lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ

Trong công tác tổ chức, cán bộ, biểu hiện của lợi ích nhóm cũng rất đa dạng, phức tạp, có trong tất cả các công đoạn, các khâu, các bước trong quy trình hoạt động của công tác tổ chức, cán bộ. 

Thứ nhất, lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ. 

Biểu hiện lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công tác cán bộ là một bộ phận cán bộ tham mưu, khi tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành chính sách có liên quan đến công tác cán bộ thì không vì chính sách, lợi ích chung mà tham mưu, ban hành những chính sách có lợi cho họ (ví dụ: nới lỏng hơn các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, chuyển ngạch, nâng ngạch,...). Biểu hiện khác của tình trạng này là những cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng, ban hành chính sách cán bộ “dưới tiêu chuẩn, điều kiện cơ bản” (như điều kiện tiếp nhận, điều chuyển, bố trí công tác, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt hoặc được đi học, đi công tác nước ngoài) để người thân của họ, hoặc cán bộ lãnh đạo có đủ điều kiện đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện đó; ban hành chính sách, quyết định, nhiều khi mang tính “nội bộ”, có tính chất đặc quyền, đặc lợi cho một số ít cán bộ, trái với quy định hoặc theo quy định của Nhà nước nhưng không minh bạch để trục lợi. 

Thứ hai, lợi ích nhóm trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của cấp trên về công tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế, quy trình cụ thể của cấp dưới để trục lợi.

Có tình trạng quy định của cấp trên về chính sách, chế độ chung của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ không được cấp dưới cụ thể hóa bảo đảm đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục. Họ “vận dụng” ban hành chính sách, chế độ đối với cán bộ vì lợi ích nhóm của số ít cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, dẫn đến việc thực hiện trái quy định của cấp trên vì nhiều lý do hoặc luôn có sự thay đổi để cho “vừa” với những tiêu chuẩn, điều kiện cá biệt của một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý để trục lợi cho bản thân hoặc cho người thân của mình theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách” làm thiệt hại cho lợi ích chung của cán bộ, công chức, viên chức, gây bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có nơi, đáng lẽ phải vận dụng quy định của cấp trên để ban hành chính sách về công tác cán bộ của cấp mình phù hợp nguyên tắc, chủ trương, quy định, nhưng lại vận dụng ban hành trái quy định nhằm “lách luật” để có lợi cho bản thân hoặc người thân của mình trong việc tuyển dụng, đề bạt, thực hiện các chính sách cán bộ khác, như mở tuổi để được đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử, kéo dài thời gian công tác,...

Thứ ba, lợi ích nhóm trong việc chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ. 

Biểu hiện của lợi ích nhóm này dễ thấy nhất và đang phổ biến hiện nay là cán bộ lãnh đạo trong một số doanh nghiệp nhà nước đã chỉ đạo xây dựng chính sách lương, chính sách thu nhập có lợi cho họ, dẫn đến chính sách lương “khủng” - “thu nhập quá cao” trong một số cán bộ lãnh đạo, quản lý của một số doanh nghiệp, lĩnh vực ngành, nghề; hoặc ban hành, thực hiện những chủ trương, chính sách cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hằng năm đi nghiên cứu, tham quan, học tập ở nước ngoài quá nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí, thất thoát kinh phí của cơ quan, đơn vị, tổ chức. Một biểu hiện nữa của lợi ích nhóm trong tổ chức thực hiện công tác cán bộ là cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo, quản lý tuy biết cán bộ cấp dưới thuộc “cánh hẩu” của mình, trình độ năng lực hạn chế, nhưng vẫn bổ nhiệm, đề bạt, bao che để tạo thành một “ê-kíp” cán bộ làm việc vì lợi ích nhóm để trục lợi. Trong khi đó, cán bộ có đủ năng lực, trình độ, điều kiện thì không được quan tâm quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đúng khả năng, sở trường của họ, khiến họ “bất bình”, thậm chí đi tìm cơ hội làm việc ở những nơi khác.

Thứ tư, lợi ích nhóm trong việc tổ chức thực hiện công tác tổ chức, cán bộ. 

Biểu hiện này thể hiện ở một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ thuộc phe, cánh của người lãnh đạo đã tham mưu trong việc bố trí người thân của họ dù trình độ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém, kinh nghiệm công tác không có vào những chức vụ, vị trí công tác có nhiều “lợi thế, màu mỡ, quyền thế” để trục lợi theo kiểu “quyền đi liền với lợi lộc, quyền đi liền với tiền”. Trong khi những cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt và có kinh nghiệm công tác, có uy tín thì không được xem xét bố trí đảm nhiệm các công việc đó. Tình trạng này đã hình thành “cơ quan”, “chi bộ” mang tính chất gia đình như ở Vụ PMU18 trước đây và một số vụ việc tiêu cực khác. Có cán bộ lãnh đạo khi sắp hết nhiệm kỳ, hết thời hạn làm lãnh đạo quản lý đã ban hành những quyết định bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, thay đổi vị trí công tác tốt hơn cho cán bộ thuộc diện “thân tín”, cho người thân trong gia đình mình không đúng chế độ, tiêu chuẩn, điều kiện.

Tình trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan cho thấy, một số quy định của Đảng, Nhà nước ban hành nhưng chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, nên bị một số cán bộ lãnh đạo, quản lý hoặc cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức, cán bộ lợi dụng để tham mưu, “lách luật” ban hành những quy định có lợi cho lợi ích của cán bộ lãnh đạo hoặc người thân của họ hoặc cho chính cán bộ làm công tác tham mưu về công tác cán bộ. Về nguyên nhân chủ quan cho thấy, một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ hoặc cán bộ lãnh đạo dù nhận thức đúng, đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ nhưng vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm đã cố tình không thực hiện đúng, đã chỉ đạo hoặc chủ động tham mưu ban hành những chủ trương, chính sách về công tác cán bộ ở cấp mình nhằm vụ lợi cho bản thân, người thân hoặc “cánh hẩu” của mình; mà không vì lợi ích chung của cơ quan, tổ chức, của toàn Đảng về công tác cán bộ. Một số cán bộ lãnh đạo không chấp hành nghiêm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, dẫn đến vi phạm về công tác này vì lợi ích cục bộ, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa lợi ích cục bộ của một số ít người, “cánh hẩu” của mình hoặc người thân của mình trong công tác bổ nhiệm, đề bạt, bầu cử cán bộ.

Một số giải pháp khắc phục “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ

Biểu hiện “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua với những dạng khác nhau ở các cấp độ, mức độ khác nhau trong các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, tuy chưa nhiều, chưa phổ biến nhưng rất nguy hại, cần sớm có chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời. Theo chúng tôi, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chính sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu về tác hại của nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ để từ đó nâng cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu, ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, quy định, quyết định cũng như tổ chức thực hiện đúng công tác tổ chức, cán bộ; khắc phục triệt để lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua. Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm cho cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế của Nhà nước về tác hại của lợi ích nhóm, để từ đó thực hiện đúng, tốt chức năng tham mưu trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ. Kịp thời thay thế hoặc bố trí công việc khác cho phù hợp đối với những cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ có biểu hiện động cơ lợi ích nhóm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, thiếu trách nhiệm hoặc tiêu cực trong tham mưu, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, uy tín giảm sút.

Hai là, để tích cực tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết là người đứng đầu phải nêu cao tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW, của Bộ Chính trị, ngày 14-5-2011 và Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư, ngày 7-6-2012, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; đồng thời thực hiện nghiêm Quy định về những điều đảng viên không được làm; nêu cao ý thức thực hiện đúng quy định về đạo đức công vụ, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức. Động viên người thân trong gia đình chấp hành nghiêm túc quy định của Đảng và Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình can thiệp, tác động để làm trái hoặc được hưởng những chế độ, chính sách về công tác cán bộ không đúng tiêu chuẩn, điều kiện.
Ba là, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ một cách đầy đủ, đồng bộ, chuẩn xác, công khai, minh bạch. Đồng thời phải kiểm soát, giám sát chặt chẽ quá trình thực thi mới hạn chế được việc lợi dụng, “lách luật” để cấp dưới ban hành chủ trương, chính sách, chế độ về công tác tổ chức, cán bộ thuộc cấp mình hoặc vận dụng thực hiện quy định của cấp trên ban hành mang tính chất lợi ích nhóm để trục lợi. Chấn chỉnh lại công tác tổ chức, cán bộ vì nhân tố con người là quan trọng nhất và quyết định tất cả. Chỉ đạo xây dựng một bộ tiêu chí cụ thể, sát thực hơn để đánh giá cán bộ một cách công khai, công bằng, hiệu quả nhất, đáp ứng được 3 tiêu chuẩn: thứ nhất, có tầm nhìn, năng lực, nhất là năng lực thực tiễn; thứ hai, có khả năng tổ chức triển khai; thứ ba, gương mẫu, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không cá nhân chủ nghĩa, không lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng đề cao quy chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa và đề cao trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu; khắc phục tình trạng bầu cử, bổ nhiệm, đề bạt tuy đúng quy trình, hình thức, nhưng không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, chất lượng cán bộ theo quy hoạch và thực tế năng lực, trình độ của họ; coi trọng phát hiện, đào tạo, sử dụng và tôn vinh người tài, “đủ tâm” và “đủ tầm” gánh vác trọng trách được giao; kiên quyết chống những biểu hiện lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ. Sớm nghiên cứu áp dụng Luật Hồi tỵ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý không phải là người địa phương. Nâng cao mức lương cho cán bộ, công chức, bảo đảm để họ có thể sống được bằng lương và thể hiện danh dự của người cán bộ, công chức sẵn sàng cống hiến cho Đảng, Nhà nước và hết lòng phục vụ nhân dân. Kịp thời sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ, nghị quyết, quy định về công tác tổ chức, cán bộ đã ban hành để rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi những quy định không còn phù hợp, khó thực hiện, dễ bị lợi dụng tạo lợi ích nhóm để trục lợi; ban hành mới những quy định còn thiếu và tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, có kết quả.

Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp trên phải chú trọng, tăng cường, đổi mới phương thức, biện pháp, nội dung kiểm tra, giám sát, kiểm soát tổ chức đảng cấp dưới, cán bộ, đảng viên dưới quyền trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chế độ, quy định về công tác tổ chức, cán bộ, trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao về công tác tổ chức, cán bộ. Đặc biệt là phải hết sức coi trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực (quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước) của tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cơ quan, đơn vị, kể cả cán bộ tham mưu cấp chiến lược từ cấp tỉnh trở lên về công tác tổ chức, cán bộ; bảo đảm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đều phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát nghiêm ngặt, chặt chẽ bằng chế độ, quy định, quy chế cụ thể, không được lạm dụng thực hiện lợi ích nhóm để trục lợi. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước phải tiếp tục rà soát để bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc, chế độ công tác cho phù hợp, trong đó xác định rõ và phân công cụ thể, rành mạch trách nhiệm, quyền hạn của tập thể, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, mối quan hệ giữa các thành viên trong chỉ đạo, điều hành nói chung, trong công tác tổ chức, cán bộ nói riêng để thực sự phát huy dân chủ, chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, khắc phục tình trạng độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng hoặc quyền lực tập trung vào một số ít người, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa chủ trương, quyết định biểu hiện lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của một số ít người, thậm chí của một người. Ban hành và tổ chức thực hiện quy định về kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn chủ trì ở các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước trước khi kết thúc nhiệm kỳ để chống “lợi ích nhóm”. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, kiểm soát, phát hiện, xử lý, loại bỏ kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống, vô trách nhiệm, mất uy tín và trở thành lực cản phát triển. Những trường hợp có dấu hiệu vi phạm, bị tố cáo có vi phạm về lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ phải được chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế của Nhà nước,... trong cán bộ, đảng viên, công chức gắn với đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ để trục lợi. Trong đó chú trọng thực hiện quy định tất cả công chức khi vào làm việc tại cơ quan đảng, chính quyền đều phải kê khai trung thực, đầy đủ, chính xác tài sản của bản thân và của gia đình mình và sau đó phải thực hiện kê khai thường xuyên hằng năm; cuối nhiệm kỳ công tác hoặc trước khi được điều động, điều chuyển, luân chuyển công tác mới, bảo đảm công khai, minh bạch các nguồn thu nhập của bản thân và gia đình. Có biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý kịp thời các hoạt động phi pháp, ngăn chặn các biểu hiện bất minh, lợi ích nhóm, bảo đảm không có cơ hội để lợi dụng tạo ra nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ để tham nhũng, trục lợi. Sử dụng những công cụ, biện pháp giám sát của cộng đồng, của nhân dân và xã hội để phát hiện những dấu hiệu bất thường, bất minh nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ.

Công tác tổ chức, cán bộ là công việc gốc của Đảng, bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Nếu trong lĩnh vực này có suy thoái, biến chất, tham nhũng, tiêu cực ở mức độ “lợi ích nhóm” thì rất nguy hại cho Đảng, Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến yếu kém, khuyết điểm, hạn chế trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua, dẫn đến tình trạng còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy thành tích, chạy tội, bao che cho khuyết điểm sai phạm của cấp dưới. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ sự hình thành lợi ích nhóm, khái niệm lợi ích nhóm, biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ, chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến lợi ích nhóm, đề xuất một số giải pháp đấu tranh, ngăn chặn, giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra thấy được sự nguy hại, ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác tổ chức, cán bộ nói riêng để có cơ sở, căn cứ đề ra các chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh thực sự có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng./.
Cao Văn Thống, Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ủy ban Kiểm tra Trung ươngTS. Đỗ Xuân Tuất, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh




Quan giàu nước mạnh? (GD 3-7-14)


Không chỉ là nghi ngờ (RFA Blog 4-7-14) -- Nhiều người, như blogger này, đưa ra giả thuyết là một số lãnh đạo VN đang bị Trung Quốc mua chuộc bằng tièn nên ngoan ngoản thần phục Trung Quốc. Dù chia sẻ phần nào sự nghi ngờ ấy, tôi nghĩ chúng ta không nên quên khả năng "tự lừa dối" (self-denial) của con người (vâng, của cả chính bạn và tôi!). Ít ai thẳng thắn với chính mình mà nhìn nhận việc mình làm là xấu, chúng ta có cách ngụy biện, tự cho việc mình làm là vì một mục tiêu cao quý nào đó. Cụ thể, những "lãnh đạo ăn tiền của Trung Quốc" này có thể đang nghĩ rằng họ là khôn ngoan, nhẫn nhịn để tránh chiến tranh đổ màu cho dân tộc, còn tiền bạc mà Tàu đút lót (trực tiếp lẫn gián tiếp) là chuyện kinh doanh của vợ con, dòng họ, bạn bè họ, không ảnh hưởng gì đến hành động của họ. Và họ "thành thực" tin như thế!
Kami

Nghi ngờ là bản năng và cũng là bản tính của con người, sự nghi ngờ của mỗi con người được đánh giá chưa hẳn là tốt và cũng không phải đã là xấu, nếu như nó có chừng mực. Tôi là người trân trọng và thích theo đuổi sự thật, cũng có lẽ bởi tôi thích lời Triết gia Rene Descartes (Pháp) có nói rằng: "Nếu bạn muốn trở thành người theo đuổi sự thật, bạn cần phải ít nhất một lần trong đời nghi ngờ mọi thứ bằng hết sức của mình".
Trong các bài viết bình luận chính trị của mình, tôi luôn đưa ra các giả thuyết và dùng các lập luận khách quan để chứng minh sự đúng đắn của giả thuyết đó. Giữa những giả thuyết và sự thật bao giờ cũng có những khoảng cách nhất định, theo tôi một nhà báo hay một nhà bình luận chính trị giỏi là người có sự cách biệt giữa những giả thuyết của mình đưa ra và sự thật diễn ra sau đó là ít nhất. Và việc không còn khoảng cách biệt giữa giả thuyết và sự thật đã diễn ra, nghĩa là khi giả thuyết chồng lên sự thật thì người ta gọi là sự tiên đoán. Nói vài dòng có vẻ triết lý đầu bài viết cũng là để biện minh cho việc một số bạn đọc có ý kiến cho rằng: gần đây tôi có những giả thuyết và nhận định đã gây sốc cho bạn đọc. Đặc biệt là vấn đề liên quan đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc về vấn đề Biển Đông nói chung hay lập trường quan điểm của các nhà lãnh đạo Việt Nam nói riêng.

Các diễn biến chính trị của chính trường Việt Nam liên quan đến vấn đề Biển Đông, nhất là kể từ đầu tháng 5.2014 khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào sâu lãnh hải - vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam được dư luận đặc biệt chú ý. Đặc biệt là thái độ cũng như quan điểm của của các tứ trụ 
lãnh đạo hay bốn con ngựa (tứ mã) kéo cỗ xe Việt Nam (nói theo cách báo chí Trung Quốc viết) được ví là những con ngựa bất kham đang ra sức chạy theo các hướng khác nhau, mỗi ngựa mỗi hướng. Điều đó được đánh giá rằng đã giảm đi sức mạnh đoàn kết trong nội bộ lãnh đạo Đảng CSVN. Và sự lừng chừng trong quan điểm của nhà nước Việt Nam trong vấn đề Biển Đông trong thời gian qua, nguyên nhân là từ đó mà ra.


Trong những ngày gần đây, sau hai tháng khi mà sự ấp úng và kiệm lời của các lãnh đạo Việt Nam (trừ ông Thủ tướng) đã bị dư luận phản ứng dữ dội và coi đó là sự vô trách nhiệm của những người đứng đầu nhà nước trước lúc chủ quyền bị đe dọa bởi sự xâm lăng, gây hấn của chính quyền Bắc kinh. Thì đột nhiên, từ ngày 01.7.2014 trở lại đây, các nhà lãnh đạo Việt Nam một lần nữa bỗng lên cơn lên đồng tập thể với các phát biểu, hành động để phản ứng Trung Quốc khá gay gắt. Đặc biệt là sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các cơ quan liên quan củng cố hồ sơ pháp lý Kiện Trung Quốc để báo cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước xem xét cân nhắc việc đấu tranh pháp lý về Biển Đông. Trong lúc chờ đợi, các ông TBT Nguyễn Phú Trọng, CTN Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng... thì người ta thấy cả Trưởng Ban Nội chính TW Nguyễn Bá Thanh cũng lên tiếng tham gia, khi tuyên bố Việt Nam sẽ giành lại những gì đã mất. Điều đó được dư luận đánh giá là sự thể hiện sự thống nhất về ý chí của tứ trụ lãnh đạo Việt Nam, trong việc sử dụng biện pháp pháp lý để đối phó với Trung Quốc trong vấn đề giàn khoan HD-981 nói riêng và vấn đề Biển Đông nói chung. Vấn đề bây giờ chỉ còn là thời gian là kiện Trung Quốc vào lúc nào?

Mới nhất, tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 03.7.2014 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, trả lời báo giới về thời điểm khi vào Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc ra các cơ quan trọng tài và tài phán quốc tế, Người phát ngôn Lê Hải Bình cho biết: “Sẽ kiện Trung Quốc vào thời điểm mang lại lợi ích cao nhất cho Việt Nam”. Có nghĩa là chắc chắn phía Việt Nam sẽ kiện, song quan trọng nhất là Việt Nam chỉ kiện khi nào ta có lợi nhất. Điều đó là hoàn toàn đúng, vì trong lúc này cái mà chính quyền Việt Nam lo sợ nhất là sẽ bị Trung Quốc trả đũa về kinh tế, trong lúc nền kinh tế Việt Nam hiện nay hầu như hoàn toàn dựa vào Trung Quốc. Cụ thể là nhập siêu từ Trung Quốc ngày càng lớn, liên tục diễn ra, đặc biệt là các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, cũng nhưmột số sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam quá tập trung vào thị trường Trung Quốc. Không những thế trong lĩnh vực đấu thầu EPC, BOT và cung cấp thiết bị ở một số ngành quan trọng như điện, thông tin viễn thông và một số ngành kinh tế khác hiện nay, nhà đầu tư Trung Quốc chiếm tỷ lệ rất lớn. Trong bối cảnh đó việc thận trọng trong việc kiện Trung Quốc là hết sức cần thiết và phải được tính toán kỹ.


Tuy nhiên lý do này cũng cần phải được lật đi lật lại, thậm chí là phải được nghi ngờ vì nó là cái cớ để một số người trong ban lãnh đạo Đảng CSVN có thể vin vào đó để lần chần trong việc kiện Trung Quốc với lý do là chưa có lợi. Và một khi lật ngược vấn đề thì một ý kiến đáng chú ý được đưa ra là biết đâu một bộ phận lãnh đạo Việt Nam đã bị Trung Quốc dùng tiền bạc để mua chuộc và dẫn tới đã bị vô hiệu hóa?  


Người Việt Nam từ xưa đến nay vẫn coi đồng tiền là Tiên, là Phật. Thời bây giờ, thời đại Hồ Chí Minh - hậu Năm Cam thì trong xã hội, người ta từ người già đến trẻ em, từ cán bộ, đảng viên đến dân thường thì ai ai cũng hưởng ứng học tập và thấm nhuần triết lý sống của ông "trùm", đó là: "Có những thứ không mua được bằng tiền. Nhưng lại mua được bằng rất nhiều tiền?". Điều đó nay đã trở thành chân lý và giá trị thiết thực hơn hẳn các khẩu hiệu kiểu "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của một thời u mê. Tất cả mọi người bây giờ đều tỉnh ngộ, thực tế hơn trong cái xã hội không có kỷ cương trật tự và mọi giá trị truyền thống  đều đã bị đảo lộn. Chính vì thế các chiêu lừa chính trị tư tưởng của đảng để định hướng quần chúng bây giờ đã hết đất dụng võ. Cũng bởi dân bây giờ do thấm đòn nhiều nên ai cũng khôn ra, nói nhảm nói bậy dân họ đều biết cả. Với cái bộ máy nhà nước hiện nay đang mục ruỗng bởi vấn đề tham nhũng không được quan tâm giải quyết, không ai bảo được ai vì đều tham nhũng như nhau. Tham nhũng tràn lan ở mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương và mọi ngõ ngách của cuộc sống đã trở thành chuyện bình thường. Có ai không tham nhũng và không tiếp tay cho tham nhũng mới là chuyện lạ.


Theo truyền thông nhà nước cho biết, tại cuộc hội thảo “Tự chủ kinh tế trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau” do Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức sáng 3.7.2014, chuyên gia kinh tế TS. Lê Đăng Doanh cho rằng: “Trung Quốc là bậc thầy về mua chuộc, đút lót. Tình trạng kinh tế chúng ta phụ thuộc phải chăng là do lợi ích nhóm chi phối mạnh” và 
TS. Lê Đăng Doanh cũng đã báo động rằng: “Việt Nam đã trao quá nhiều công trình cho nhà thầu Trung Quốc theo hình thức EPC: 23/24 nhà máy xi măng; 15/20 dự án nhiệt điện đốt than, giao thông, khai khoáng (bauxite), cho thuê rừng và đất rừng ở vùng biên giới…”. Và TS. Lê Đăng Doanh cũng đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta giao quá nhiều dự án cho nhà thầu Trung Quốc như vậy. Có bao nhiêu lợi ích quốc gia, bao nhiêu lợi ích cho ai?”. Sở dĩ nhà thầu Trung Quốc trúng hầu hết các công trình quan trọng là do chính sách chọn thầu của Việt Nam chú ý nặng về giá, do nắm được nên phía Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật đưa ra giá thầu thấp để rồi điều chỉnh tăng sau. Và tất nhiên làm được điều đó thì chắc chắn nhà thầu Trung Quốc sẽ phải dùng rất nhiều tiền để mua chuộc cán bộ Việt Nam từ cấp Bộ trưởng trở xuống, đó là điều chắc chắn. Đáng lưu ý ở đây là vấn đề lợi ích nhóm được nhắc tới và những kẻ đứng đầu có khả năng khuynh loát và chi phối các nhóm lợi ích đó không thể ngoài những cán bộ cao cấp nhất (!?). Thượng bất chính thì hạ tắc loạn là như thế.


Trong sử sách Trung Quốc mà chúng ta đã đọc, thì chiêu dùng bạc vàng, ngọc châu để đút lót là các chiêu các Vua, quan  Trung Quốc ưa dùng. Bằng Vàng bạc, châu báu mà người ta có thể dụ tướng địch mở cửa thành cho quân bên ngoài theo chước "Nội công, ngoại kích" để đánh thành, thì há cỡ gì đến ngày nay chiêu bẩn này không được chính quyền Trung Quốc dùng với Việt Nam? Nhất là các thông tin từ vụ án Dương Chí Dũng cho thấy, thượng tướng công an Phạm Qúy Ngọ và cấp trên của ông ta (chưa phải là các lãnh đạo cấp cao nhất) đã nhận tiền hối lộ cả triệu đô la Mỹ một cách nhẹ như nhận cân đường hộp sữa. Thì điều đó sẽ khiến người ta có quyền nghi ngờ một vài lãnh đạo cao cấp của Việt Nam cũng sẽ nhận bạc triệu hoặc nhiều, nhiều triệu đô la từ phía Trung Quốc để làm hay không thực thi trọng trách của mình là điều hoàn toàn rất có thể. Ai dám đảm bảo là điều đó là không thể xảy ra? Trong lúc cơ chế kiểm soát tham nhũng của Đảng CSVN trong nhiều chục năm qua đã hoàn toàn bất lực và đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Các chương trình chống tham nhũng với việc xử lý các đại án trong thời gian qua cũng cho thấy chỉ là trò đánh trống khua chiêng. Cũng chỉ chống được đám tép riu, tay chân. Còn những con cá lớn thì vẫn nghiễm nhiên tồn tại để cao giọng dạy dỗ người khác về vấn đề đạo lý và nhân cách.

Lâu nay, một trong những lý do mà dư luận đồn đoán rằng ban lãnh đạo Đảng CSVN không dám lớn tiếng phản bác Trung Quốc hay tỏ ra chống Trung Quốc mà luôn phải ngoan ngoãn thần phục. Nghe nói cũng vì Trung Quốc đang nắm giữ con bài tẩy, đó là nhiều bí mật tày đình mang tính thâm cung bí sử liên quan đến các lãnh đạo Đảng CSVN từ thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay. Điều mà người ta cho rằng một khi những bí mật này được bật mí thì nó có thể làm sụp đổ cả cái chế độ hiện tại, do sự thất vọng của người dân.

Biết đâu một phần trong các bí mật ấy lại có liên quan đến những việc không thể mua được bằng tiền - mà mua được bằng rất nhiều tiền của các lãnh đạo hiện đại? Phải chăng "Há miệng mắc quai", đó là lý do khiến cho một vài ai đó trong Ban lãnh đạo của Đảng CSVN lân khân, chần chừ trong việc phản ứng với Trung Quốc một cách triệt để?

Ngày 04 tháng 7 năm 2014

© Kami


Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ nói về quy định cấm xưng "chú cháu" nơi công sở (Petrotimes 4-7-14) - Thay đổi cách xưng hô cũng phải làm đề án! (TBKTSG 4-7-14)




--Những Số Tiền Phi Pháp Cho Nền Kinh Tế Ngầm Bài viết của báo Tầm Nhìn "Phí “bôi trơn” khiến giá BĐS luôn “ảo” " số ra ngày 29/8/2013 cụ thể hoá tỷ lệ “phí bôi trơn” cho các dự án BDS. Tỷ lệ này là từ 25% đến 30%. Các cựu quan chức như GS Đặng Hùng Võ và TS Cao Sỹ Kiêm cũng xác định một vụ việc mà có lẽ mọi người đều biết và đã trở thành chuyện hàng ngày ở huyện.
 

Nếu theo tổng kết của sở thống kê thì con số FDI đầu tư vào BDS trong10 năm qua là khoảng 60 tỷ USD. Tiền đầu tư từ nội địa của các nhà đầutư Việt chiếm khoảng 45 tỷ USD. Bỏ qua con số cho những đầu tư chui(không cách gì định lượng) thì số tiền “bôi trơn” vào khoảng 27 tỷ USD.Đây là một số tiền khủng cho một quốc gia còn nghèo như Việt Nam; và sốtiền này là một trong những nhân tố tạo nên một nền kinh tế ngầm đáng kểở Việt Nam; cũng như là những lý do khiến thế giới đặt Việt Nam vàonhững quốc gia có số lượng rửa tiền cao nhất thế giới.

Tuy nhiên, tiền bôi trơn không chỉ giới hạn ở các dự án BDS. Một bài viết của tôi về nạn phá rừng (Global Witness Và Nước Mắt Môi Trường)cho thấy nếu chỉ tính 8,000 USD cho mỗi mét khối gỗ của rừng sinhnguyên, con số thu nhập của việc phá rừng lấy gỗ là khoảng 65 tỷ USDtrong 16 năm qua. Phí bôi trơn của các lâm tặc cũng đem đến cho nền kinhtế ngầm hơn 20 tỷ USD.

Đây tôi chỉ nói đến có 2 ngành nghề. Chúng ta còn có thể tính ra phíbôi trơn cho các dự án xây cất cầu đường, khai thác khoáng sản hay cácnhà máy lọc dầu, thép, xi măng, phân bón….Các dịch vụ như logistics vớiphí vận chuyển, cảng bãi, thuế hải quan, và cả trăm cách để kiếm tiềnbằng kỹ nghệ phong bì.

Có thể nói phí bôi trơn phủ tràn tất cả các lãnh vực ngành nghề củanến kinh tế, từ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…và mọi doanh nghiệplớn hay nhỏ (kể cả những quán hàng rong) đều phải chịu món “thuế” vôhình này. Ngay cả các người dân vẫn đối mặt hàng ngày với những món tiền“thuế” khi di chuyển và bị CSGT hỏi thăm.

Một vài ước lượng về tầm cỡ của nền kinh tế ngầm từ các chuyên gia(dĩ nhiên có thể sai hoàn toàn) là lượng giao dịch giữa các thành phầntham dự có thể lớn hơn 50% của GDP Việt nam hay khoảng 60 tỷ USD.

Hệ quả đầu tiên của phí bôi trơn là việc gia tăng giá thành của mọisản phẩm. Trong khi lương nhân công Việt Nam được tiếng là một trongnhững nơi rẻ nhất thế giới, giá cả sinh hoạt tại các thành phố lớn đềunằm trong top 20 của toàn cầu. Xem bài Gánh nặng phí quản lý

Hệ quả sau đó là các số tiền khủng từ thu nhập phi pháp này tạo nênmột nền kinh tế ngầm rất lớn, ngoài tầm kiểm soát của chánh phủ và khôngthể định lượng bởi các nhà phân tích kinh tế. Thực tình, nêú những dòngtiền bất hợp pháp này đổ vào những hoạt động đầu tư và thương mại chínhthống như các dòng tiền khác, thì ảnh hưởng của chúng trên nền kinh tếcũng rất tích cực và đáng khuyến khích. Nhưng bản chất cần che giấu củadòng tiền khiến chúng thường đổ vào những phi vụ đầu cơ chụp giựt, đánhmau rút gọn, nên chúng thay đổi nhiều bản sắc của nền kinh tế trong cáclãnh vực BDS, chứng khoán, vàng, ngoại hối…Việc đem các khối tiền lớn ranước ngoài để tìm sự an toàn về lâu dài…cũng làm xuất huyết vốn luânchuyển trong nước.

Và chưa nói đến những hệ quả khác liên quan đến vấn đề đạo lý, sự vôcảm do phong trào chạy theo đồng tiền bẩn (và dễ kiếm), tấm gương củacác người có quyền, sự yếu kém của một xã hội dân sự, và một nền giáodục “dạy không người nghe”….

Nền kinh tế ngầm là biểu hiện của tất cả những gì không minh bạch. Vàmột nền kinh tế chính trị không minh bạch là rào cản lớn nhất cho mọitiến bộ của xã hội.

Alan Phan-Những Số Tiền Phi Pháp Cho Nền Kinh Tế Ngầm


- Hoàng Anh Gia Lai tháo chạy bất động sản và nợ thuế hàng trăm tỷ đồng (CafeLand).

Gầy dựng lại niềm tin từ mỗi gia đình

Còn “ăn xổi ở thì”, còn vướng bẫy

-Không có kịch bản suy sụp kinh tế dẫn tới thay đổi chính trị

- Bài 1: Xem lại mô hình chiến lược hiện nay của nền kinh tế Việt Nam (FB Nguyễn Tấn Thành). Bài 2: Những thách thức hiện nay khi thay đổi mô hình kinh tế.


Lương khủng không bằng... 'lậu' khủng (TVN 1-9-13)

Kinh tế Việt Nam ‘đa mang’ nên phải ‘đèo bòng’ (SM 1-9-13)

Đổi mới hay là... chết (DNSG 31-8-13)

Thị trường càphê nội địa: cuộc rượt đuổi bất tận (SGTT 1-9-13) Gu càphê đổi thay theo thời cuộc (SGTT 1-9-13) -- Hai bài này hay!

'Đứa trẻ cũng biết tác động tăng giá xăng, điện' (PN Today 1-9-13)

Thấp thỏm bên hồ, đập (NLĐ 1-9-13)

- Cục u bướu di căn từ đời Bí thư Nguyễn Phú Trọng (Cầu Nhật Tân). - Vụ bầu Kiên: Vì sao TGĐ từng đương nhiệm ACB thoát tội? (KT).


Lộ mặt hàng loạt ngân hàng lớn “dính” tới bầu Kiên (KT 31-8-13) - Lộ mặt hàng loạt ngân hàng lớn “dính” tới bầu Kiên (KT).

- Giật mình quyền lực những đại gia NH kín tiếng (VEF).

- Sự sụp đổ của các công ty chứng khoán: Bài học đắt giá cho giấc mơ thiếu sự tính toán (PT).

- DN ngoại dọa bỏ Việt Nam sang Campuchia, Myanmar (VEF). - Phải “níu” nhà đầu tư ở lại (PLTP).

- Cải cách để đón cơ hội (TN).

- Khi thương hiệu mở rộng sản phẩm (DNSG).

- Lãi suất 0%: Nói vậy mà không phải vậy… (GD&TĐ).

- Thị trường càphê nội địa: cuộc rượt đuổi bất tận (SGTT). - Khát vọng “thủ phủ càphê toàn cầu” (SGTT).

- Cấp phép cho tàu đi đánh bắt cá ở nước ngoài (TP).

- Kinh tế phong trào và cái giá nông dân phải chịu (TVN).

- Doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc bị “ép” thừa nhận ấn định giá (SM). - Chưa minh bạch, khó xử lý nợ xấu (TN).

- Điểm mặt các ngân hàng lớn ‘dính’ đến bầu Kiên (VTV).

- Diễn đàn Việt-Đức về cải cách kinh tế vĩ mô (ĐTTC). - Sửa luật để cải thiện môi trường đầu tư (TT).

- Đại gia Trung Quốc thành tỷ phú nhờ buôn bông Việt Nam (TP).

- Việt Nam – cầu nối hợp tác kinh tế Trung Quốc-ASEAN (VOV).

- Tăng trọng bò bằng… nước giếng (NLĐ).

- “Giải cứu” chung cư cũ (NLĐ).

- Mạo xưng để xin tài trợ 30 tỉ đồng (NLĐ).

- Hai vợ chồng người Việt bị bắt ở Thái Lan vì buôn lậu ngà voi (VOV). - Người Việt bị bắt vì ‘giấu cá trong quần’ (BBC).

- 5 nghi can trong đường dây đưa lậu người vào Úc bị bắt (VOA).

Ngân hàng khốn khó vì bị nợ dây dưa (TP 31-8-13)

Tờ Economist viết về điện ở Việt Nam: Electricity in Vietnam: A heavy load (Economist 31-8-13) -- "Vietnam’s power grid is under strain. All kinds of fuses may blow". Các nhà đầu tư ngoại quốc nghe thế này tránh sao khỏi đâm hoảng? Nhưng Đảng và Nhà nuớc đang bận đánh ông... Lê Hiếu Đằng! (Of all the fuses, they are most afraid of the socio-political fuse!)

Tỷ phú Tàu làm giàu nhờ Việt Nam? New Billionaire Makes Money From Vietnam-China Cotton Gap (Bloomberg 28-8-13)

Ông Phạm Quang Tú: Lời nguyền khoáng sản và giá phải trả... (PN Today 29-8-13)

Khoáng sản: “ông canh, bà xuất” (SGTT 28-8-13)

Sẽ lập ủy ban quản lý các tập đoàn (TT 29-8-13)

Thù lao sếp ngân hàng nào cao nhất Việt Nam? (DT 29-8-13)

Phỏng vấn luật sư Jacques Vergès (vừa qua đời): “A good trial is a work of art” (UK Prospect 29-8-13) -- Nhiều bạn bên Pháp biết ông này

Thân phận 'nô lệ cần sa' người Việt ở Anh - Kỳ 1: Những 'bóng ma' bị chối bỏ (TN 30-8-13) Kỳ 2: Bị xích bằng sợi dây vô hình (TN 31-8-13) -- Nguyên văn trên báo London Sunday Times: Beaten. Raped. Starved. The Teenage ‘Ghosts’ Behind British Cannabis Trade (25-8-13) -- Bạn nào là subscriber cua London Times, có thể vào thẳng:


Hàng xách tay thao túng thị trường (NLĐ 31-8-13)

Thị trường càphê nội địa: cuộc rượt đuổi bất tận (SGTT 31-8-13)


Sới gà ở biên giới: Dân chơi “chết” vì những độc chiêu (TP 31-8-13)- Tại sao có tới 26 ngân hàng dính tới Bầu Kiên (Tầm nhìn).

- Lặp lại kịch bản nào – BTA hay WTO? (TBKTSG).

- Thực Phẩm Việt Nam và FDA Mỹ (Góc nhìn Alan).

- Nông dân được đi học trồng lúa, trồng rau (TBKTSG).- Nỗi lo giữ ”bảo hộ xuất xứ” cho nước mắm Phú Quốc (VOV).

- Vươn ra ngư trường Indonesia (TT).

- Thanh long “ép” lúa, thiệt hại khó lường (DV).

.- Lao động nữ làm việc ở nước ngoài: Đi rủi ro, về bất trắc (PNTP).



- Sẵn sàng xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận (TP).

- Công an điều tra vụ “Tiết lộ “động trời” của một chủ dự án ở Hà Nội” (DT). - Giao dự án 1,2 tỉ USD cho tổng thầu ‘chưa có kinh nghiệm’ (TN).

- Thanh niên dập lá lách sau khi làm việc với công an (TP).

- Vấn nạn kẹt xe đã có hướng gỡ (PLTP).

- Xăng dầu nhập khẩu giảm mạnh: Dấu hiệu nền kinh tế chưa khỏe? (PLTP).

- Lo giữ thương hiệu nước mắm Phú Quốc (DV).

- Xuất khẩu gạo trước nguy cơ lỗ nặng (PLTP).

- Trắng tay với bất động sản, về trồng rau… kiếm bạc tỷ (DV).

- Vì sao Cty CP NICOTEX Thanh Thái chôn thuốc sâu xuống đất? (LĐ).- Nhập nhằng giữa “nho độn đá” và nho chất lượng (VTV).

- Nghịch lý “thừa” đơn hàng (HQ).

- Đau đầu, nhức óc vì đội mũ bào hiểm rởm (GD&TĐ).

-- Đi tây để làm về nông nghiệp: Học nhiều, áp dụng ít

--Nhà nông VN


- Tháo chạy khỏi các dự án thủy điện (NLĐ). - Nhiều công trình hồ, đập nhỏ mất an toàn (TBKTSG).

- Vụ “Lạm quyền đuổi nhân viên”: Người tố cáo tiêu cực bị sa thải! (NLĐ).

- HÔM NAY, LẠI XÉT XỬ VỤ ÁN VƯỜN MÍT: Gửi tâm thư lên Chủ tịch nước (NLĐ).

- PCT Hội Nông dân chiếm đất công để bán hủ tíu! (NLĐ).

- Hà Tĩnh: Bất an khi đê nghìn tỷ sạt lở (DV).

- Thù lao sếp ngân hàng nào cao nhất Việt Nam? (DT).

- EVN tiếp tục phải huy động điện giá cao (SGTT)

- Thoái vốn ngoài ngành: “Rút lui chứ không phải bỏ chạy” (VnEco).

- “Thị trường chứng khoán thế này thì cổ phần hóa thế nào?” (VnEco).

- Doanh nghiệp xuất khẩu gạo tự đưa mình vào thế khó (TBKTSG).

- SƠ HỞ TRONG QUẢN LÝ MẶT HÀNG TRỨNG GIA CẦM: Doanh nghiệp lao đao (NLĐ).

- Năm năm sau khủng hoảng kinh tế: Đâu là chỗ dựa (TTXVN).

Tổng số lượt xem trang