Đây là bài đầu tiên trong loạt bài về Việt Nam: con đường dân chủ. Chủ đề của bài 2 là "Quan hệ giữa Nhà nước và các đảng phái". Mọi đóng góp bài vở xin gửi về ttngbt@gmail.com. Xin cảm ơn các bạn.(NQ&TD)- Để xây dựng một xã hội dân sự (XHDS) trước tiên chúng ta cần phải hiểu mối quan hệ giữa người dân và Nhà nước. Mối quan hệ này được bắt nguồn từ sự hình thành quyền tài sản. Vậy Nhà nước được hình thành như thế nào.
1. Sự hình thành của Nhà nước
Trong cuốn “The Second Treaties of Government” được xuất bản năm 1690,1 Locke (1988) cho rằng tài sản là của Chúa. Theo Locke, trong tự nhiên trước khi con người sinh ra, và trước cả khi Nhà nước được thành lập, Chúa đã ban cho con người 3 quyền:
quyền thứ nhất là thân thể tự do, điều đó có nghĩa rằng, chúng ta có quyền con người và không thể bị bán, và do vậy không thể là một người nô lệ; quyền thứ hai là quyền sở hữu tài sản cá nhân, như là kết quả của lao động con người được kết hợp với tài nguyên thiên nhiên; và cuối cùng con người có quyền trừng phạt những người không tuân thủ hai quyền trên.
Như vậy theo Locke, một người làm chủ cơ thể của mình, và có thể sở hữu thành quả lao động của mình. Thành quả lao động được thể hiện như là thành quả của sức lao động được kết hợp với những công cụ và tài nguyên mà họ không làm chủ. Theo Locke, it nhất họ cũng có quyền hơn những người đã không bỏ công sức ra để có được thành quả như vậy. Để thực hiện được quyền thứ ba, tức là trừng phạt những người không thực hiện hai quyền trên thật sự là một thách thức đối với mỗi cá nhân. Locke cho rằng các cá nhân cần đạt được một thỏa thuận, nghĩa là cần có những cam kết với các bên khác, nhường lại quyền trừng phạt những người không tuân thủ hai quyền đầu cho một thực thể mới, đó chính là Nhà nước, nhưng vẫn giữ lại 2 quyền đối với tự do thân thể và tài sản cá nhân.
Adam Smith (1904) 2 không bỏ quên quyền sở hữu trong các bài giảng về luật pháp. Ông cho rằng, Nhà Nước được lập ra (thế kỷ 18) là để duy trì công lý nghĩa là để ngăn chặn các thành viên trong xã hội xâm phạm quyền sở hữu của người khác, hoặc chiếm đoạt những gì không phải của riêng của họ.
Học thuyết của Locke cho thấy bản chất mối quan hệ giữa quyền sở hữu và Nhà nước cũng như quan hệ giữa mỗi cá nhân và Nhà nước. Locke cho rằng Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ tự do và tài sản của mỗi người dân. Không ai có quyền xâm phạm lợi ích của người khác. Locke cũng cho rằng khi Nhà Nước phá vỡ khế ước xã hội với người dân và trở thành một kẻ cướp tài sản của người dân thì người dân có quyền xóa bỏ khế ước và lập ra một Nhà nước khác.
Một quan điểm phản bác lại Locke là của Jeremy Bentham. Đến giữa thế kỷ 19, cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi nước Anh, Pháp và các nước tư bản khác. Khái niệm về tài sản đã được mở rộng vượt ra ngoài đất đai bao gồm hàng hóa khan hiếm nói chung. Tại Pháp, cuộc cách mạng của những năm 1790 đã dẫn đến việc tịch thu đất quy mô lớn trước đây thuộc sở hữu của nhà thờ và nhà vua. Khôi phục lại chế độ quân chủ đã dẫn tới việc đòi lại vùng đất cũ của họ (những người bị tước đoạt). Vào thời gian này, học thuyết của Locke bị Jeremy Bentham (1748-1832) tấn công. Bentham (1791),3 năm 1791, đã phản bác học thuyết của Locke về quyền tự nhiên của con người cũng như quan điểm về khế ước xã hội. Bentham không cho rằng Chúa có thể mang lại quyền tự nhiên cho loài người. Người dân có quyền đi bầu ra Nhà nước và Nhà nước chịu trách nhiệm phân bổ tài sản sao cho có lợi nhất cho mỗi người dân. Jeremy Bentham cho rằng tài sản là của Nhà nước, và người dân chỉ có quyền sử dụng tài sản mà thôi. Nhà nước có quyền quyết định quyền sở hữu nào cần được bảo vệ và quyền nào có thể bỏ qua.
Bentham cũng nêu rõ mối quan hệ giữa tài sản và Nhà nước, ông cho rằng Nhà nước đã tạo ra quyền sở hữu. Nhà nước có lợi ích và mục đích riêng và những lợi ích này cao hơn lợi ích của mỗi cá nhân. Nhà nước cũng có quyền đặt lợi ích của mình cao hơn lợi ích của mỗi người dân như tự do và tài sản của họ. Bentham cho rằng hệ thống luật về quyền sở hữu tài sản là "chiến thắng cao quý nhất của nhân loại".
Cho dù 2 quan điểm khác biệt, nhưng có một điểm chung trong lý thuyết của John Locke và Jeremy Bentham là Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ tài sản và sử dụng tài sản sao cho có lợi nhất cho người dân.
2. Quan hệ giữa người dân và chính sách của Nhà nước
Cần phải nhìn rõ giữa người dân, và chính sách của Nhà nước. Người dân ở nơi nào cũng vậy, họ làm việc và sống theo một khung luật pháp cũng như luật lệ của mỗi vùng. Do vậy, để duy trì trật tự và thực thi luật pháp, Nhà nước sẽ phải có một ngân sách và số tiền này được thu từ tiền thuế của người dân. Nhà nước sẽ thuê một lượng người nhất định để làm công việc duy trì trật tự và thực thi luật pháp, và những người này được gọi và công / viên chức (cán bộ). Một khi làm việc cho Nhà nước cán bộ sẽ có những nhiệm vụ riêng và họ không còn là một người dân bình thường, họ là công cụ thực hiện những chính sách của Nhà nước. Một chính sách chỉ là một tờ giấy bình thường nếu không được một ai đó thực hiện.
Vị dụ, tại Việt Nam, chúng ta có thể tự hỏi tại sao người Trung Quốc sang Việt Nam, mua lá vải, mua đỉa, mua ốc...và có điều tra cho thấy có hiện tượng đầu cơ, và gây xáo trộn thị trường Việt Nam...
Một người Trung Quốc trên đất Việt có thể là người dân bình thường nhưng cũng có thể không phải, khi họ cố tình gây rối. Những người Trung Quốc sang Việt Nam họ là những ai. Cũng có những người khá dữ. Giữa Hà Nội, tại ngã tư chùa Bộc - TH do mâu thuẫn, họ đã cầm chân một người, đập đầu người ta vào vỉa hè gây chấn thương sọ não. Tại Thanh Hoá hàng trăm người Tầu đã đuổi đánh người Việt. Họ ăn hàng không trả, thuê xe không trả,.... Ở đây cần phải phân biệt rõ động cơ chính trị là chính qua các hành động của dân Trung Quốc tại nước Việt.
Thử nhớ lại khi người dân Trung Quốc bị kích động chống Nhật, cũng là người dân hiền lành đó họ sẽ hành động ra sao. Không ai trách người dân, dù sao họ cũng chỉ là một công cụ. Nhưng chính mỗi chúng ta sẽ phải nhìn lại mình khi không thể phân biệt được giữa một người vô tội và một công cụ khát máu.
Ông cảnh sát Gia ve trong "Những người khốn khổ" đã tự sát. Có thể thấy, đó không phải là một cái chết của người dân thường Gia ve, mà chỉ là cái chết của một công cụ của Nhà nước đã trở lại trong lòng dân thành một dân thường Gia ve.
3. Trách nhiệm của Nhà nước
Với nguồn gốc hình thành của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà nước là bảo vệ tự do và tài sản của người dân, và người dân đóng thuế để Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này.
Nhìn những hành vi xâm phạm lợi ích của người dân, Nhà nước đã có hành động gì? Nếu để người Trung Quốc lộng hành trên đất Việt Nam, thì có khác gì thời người dân một cổ hai tròng. Nhưng ngẫm lại những gì hiện đang xảy ra thì chúng ta còn thấy buồn hơn nữa.
Người dân trả tiền thuế để Nhà nước bảo vệ quyền lợi của họ, như vậy người dân cũng có quyền giám sát quá trình thực hiện của Nhà nước. Nhưng tiếng nói của người dân đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình bị đối xử ra sao? Tại sao trên khắp các diễn đàn hiện nay tràn ngập các dư luận viên. Thử ví dụ, trong bài
Hàng trăm vết nứt trên cầu Rồng Đà Nẵng
Đọc các comment dưới đây:
Ở Mỹ, nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm là rất cao mà mấy cây cầu bê tông đâu có nứt.
Trả lời| Thích54
vyvan - 11:08 1/11
để hiểu được các dư luận viên đang làm gì? Họ tìm cách che dấu những lỗi lầm của Nhà nước. Những thủ đoạn của họ cũng có thể được nhận thấy như sau, tìm cách đánh lạc hướng trao đổi, đưa ra các comment lửng lơ để muốn hiểu cách nào cũng được, comment xong và bỏ chạy. Như vậy, các dư luận viên có tác động gì cho xã hội. Có thể khẳng định họ là những công cụ của chính sách ngu dân. Họ gây rối mù dư luận xã hội, và làm thấp đi dân trí.
Hoàn toàn có thể thấy chính sách sử dụng dư luận viên là chính sách chính quyền hóa nhân dân. Những dư luận viên là một công cụ không mang sắc phục. Đồng tiền của người dân đóng thuế không được sử dụng vì lợi ích người dân. Đây chính là thêm một tròng nữa vào cổ của người dân.
Như vậy, nếu chúng ta cần phải hiểu "không có dân ngu, chỉ có chính sách ngu dân", và đối với mỗi con người, chính sách của mỗi quốc gia sẽ thay đổi họ, dù rằng khi ra đời ai cũng như ai.
1 Locke, John, (1988). Two Treatises of Government. Cambridge: Cambridge University Press.
2 Smith, Adam. (1904). An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, London: Methuen and Co., Ltd., ed. Edwin Cannan, 1904. Fifth edition.
3 Bentham, J. (1791). Essay on Political Tactics, London, T. Payne.
© NQ&TD
*******************
- Lê Tuấn Huy: Cơ quan lập pháp và sự tan rã xã hội: nhìn từ John Locke (pro&contra).
Tháng 12 7, 2013
Lê Tuấn Huy
Viết cho việc Kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa XIII thông qua Hiến pháp sửa đổi, và cho việc một giảng viên quân đội, đang làm luận án tiến sỹ, liên lạc với tôi sau khi đọc Khảo luận thứ hai về chính quyền.
Trước khi mang diện mạo như ngày nay dưới một số hình thức khác nhau, đã có hai định chế làm luật ghi lại dấu ấn trong quá trình tiến hóa của cơ quan lập pháp và của lịch sử loài người. Đó là Hội nghị Công dân ở Hy Lạp, La Mã cổ đại, và Nghị viện ở nước Anh trung và cận đại. Cái đầu là cơ quan lập pháp trực tiếp, cái sau là cơ quan lập pháp đại diện.
Với sự phát triển của cộng đồng lãnh thổ, lập pháp toàn dân, với tư cách một định chế thường trực, đã ngày càng trở nên bất khả ngay ở thời đại của nó. Đến thời phong kiến, trên tổng thể, lập pháp không còn là định chế riêng.
Tuy nhiên, tại Anh, sau khi cho ra đời Đại Hiến chương (Magna Carta, Great Charter, 1215), trong thế kỷ XIII và XIV, cũng đã hình thành nên nghị viện. Ở những thế kỷ tiếp sau, kinh tế, văn hóa, xã hội châu Âu có những bước phát triển vượt bậc. Nghị viện Anh quốc không tránh khỏi sự tác động chính trị từ đó, và trở thành một trong những tuyến đầu chống lại quyền lực lỗi thời của nhà vua và giới quý tộc cũ, góp phần làm nên cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688, định hình nền quân chủ lập hiến.
Trong tiến trình chuẩn bị bước ngoặt này, John Locke viết Khảo luận thứ hai về chính quyền, công bố lần đầu năm 1689.
Sau khi mở đầu bằng lý lẽ bác bỏ kiểu nhà nước truyền nối, Locke bàn về các quyền tự nhiên, về một số tiến trình kinh tế liên quan, về các chính thể…, và kết thúc với việc giải thể chính quyền bằng sức mạnh của nhân dân.
Có thể diễn giải tiến trình khiến chính quyền phải giải thể từ việc xác định, rằng nhà nước không phải là cái tự dưng có quyền lực mà mọi người mặc định phải chấp nhận và phục tùng. Ngược lại, chính mỗi con người trong cộng đồng mới là cái đem lại cho nó điều đó, khi họ chấp nhận chuyển giao quyền lực tự nhiên của mình cho chính quyền, để tránh tình trạng ai cũng tự sử dụng uy quyền ở mức cao nhất đối với người khác. Việc chuyển giao này diễn ra từ hình thức thô sơ nhất, là chính quyền của người cha, để tiến triển thành chính quyền của xã hội.
Và như vậy, quyền lực nhà nước chỉ là loại quyền lực được ủy thác, chứ không phải cái quyền lực mặc nhiên và tuyệt đối.
Sự chuyển giao vừa nói đưa con người và cộng đồng từ trạng thái tự nhiên bước vào trạng thái xã hội. Nhưng dù trong bối cảnh phi trạng thái tự nhiên, chính quyền vẫn phải tôn trọng các quyền tự nhiên của con người, với những cái nổi bật nhất là quyền sinh mạng, quyền tự do, quyền sở hữu. Bảo toàn các quyền này là mục đích của những chính quyền chân chính. Xâm phạm các quyền này là mục đích của nhữngchính thể bất chính.
Một khi đã xâm phạm các quyền của con người, chính quyền đã tự đặt mình vào trạng thái chiến tranh với nhân dân, đẩy xã hội về lại trạng thái tự nhiên.
Dù vậy, trạng thái tự nhiên không phải là cái dễ dàng tái diễn, vì một khi đã chuyển giao quyền lực vào tay cộng đồng, người ta không thể rút lại cho mình (§243)[1]. Đồng thời, nhân dân lại luôn nhẫn nại với áp bức. Những trường hợp riêng lẻ không khiến họ khác đi. Nhiều sự việc như thế có thể vẫn khiến họ chịu đựng. Sự thiệt hại lớn hơn nữa, có lẽ họ cũng chưa sẵn sàng phản kháng. Thế nhưng, một khi chúng trở nên phổ biến, cùng với xác tín rõ rệt về sự xâm phạm, thì khó mà giữ cho họ bất động (§235, 230).
Đến khi đấy, quyền lực tối cao được ủy thác vào một cá nhân hay một hội đồng sẽ bị chính những người đã ủy thác tước bỏ. Nhân dân sẽ tự hành động với tư cách tối cao, lập nên chính thể mới hoặc giữ chính thể cũ nhưng trao quyền lực vào tay những con người mới (§243).
Suốt quá trình ấy, có hai định chế mà Locke tập trung vào như những cái khiến đi đến kết cục này, là quốc vương và cơ quan lập pháp. Vai trò của chủ quân trước biến động của quốc gia, là rõ ràng. Còn lập pháp, sao phải đặt nặng vấn đề khi nó vốn không thể vượt qua cái quyền uy mặc định kia?
Đó là bởi, một khi đã tồn tại với tư cách đại diện, lập pháp là nơi lưu giữ và công bố ý chí của xã hội, và cũng là cái linh hồn tạo nên hình thể và sự thống nhất của chính quyền. Khi cơ quan này bị phá vỡ hay giải thể, mọi sự vụ chính trị cũng theo đó mà kết thúc (§212).
Do vậy, đối với Locke, lập pháp bị hoán đổi là nhóm nguyên nhân đầu tiên khiến chính quyền bị giải thể. Có bốn biểu hiện khiến cơ quan này rơi vào tình trạng đó: 1. Quốc vương đặt ý chí độc đoán của mình cho lập pháp công bố; 2. Quốc vương cản trở lập pháp nhóm họp; 3. Quốc vương khiến cho cử tri hoặc cách tuyển cử bị hoán đổi mà không có sự châp thuận của nhân dân; và 4. Lập pháp khiến nhân dân rơi vào cảnh khuất phục ngoại bang (§214-217).
Trong nhóm nguyên nhân thực hiện trách nhiệm, ngoài lập pháp, còn có việc hành pháp sao nhãng, bỏ mặc việc thực hiện luật pháp. Và một khi luật pháp không còn được thực thi, cũng hiển nhiên xem như chính quyền không còn tồn tại (§219).
Nhóm nguyên nhân khác khiến chính quyền biến động, là sự phản loạn trách nhiệm. Đó là việc lập pháp hoặc hành pháp tối cao, hoặc cả hai hành động trái ngược sự ủy thác của nhân dân, khi thay vì bảo vệ, lạixâm đoạt sở hữu của người dân, tự biến mình thành ông chủ và định đoạt tài sản của họ. Khi hai nơi này đặt quyền lực độc đoán vào tay kẻ khác để áp bức người dân, cũng là một hành động chống lại sự ủy thác (§221).
Locke nói rằng một khi những nơi nắm giữ quyền lực bị, hoặc tự hoán đổi mình, thì chính họ đã làm loạn chống lại nhân dân (§227). Khi đó, họ tự đánh mất quyền lực mà nhân dân đặt vào, và nhân dân có quyền khôi phục quyền tự do nguyên thủy của mình (§222).
Trước khi đề cập đến sự giải thể chính quyền, ở những phần trước, Locke thường nói đến việc mọi người phải cáo kiện đến trời cao khi không có sự phân xử thế tục một cách công minh. Đến phần cuối của tác phẩm, người đọc sẽ hiểu, ông không khuyên nhân dân thụ động “kêu trời”, mà là sau khi cáo với trời, đến lượt người dân phải tự đưa ra phán xét để bảo vệ mình (§241-242). Lúc đấy, không tránh khỏi họ phải “đánh đấm” tương xứng với sự “đánh đấm” của những kẻ áp bức (§235).
Với giải pháp đó, không phải Locke cổ xúy cho loại bạo lực tuyệt đối. Ông nói rõ rằng học thuyết của mình, chủ trương quyền lực nơi nhân dân, mới chính là cái để ngăn ngừa bạo loạn, vì chính quyền phải biết rằng nó phải bảo toàn sở hữu của mọi người, nếu không, nhân dân sẽ phải thực hiện quyền thiết lập một cơ quan lập pháp mới (§226). Nổi loạn của người dân là điều răn đe mà Locke muốn nhà nước phải biết để tránh, để không buộc nhân dân phải đi đến giải pháp cuối cùng, sau khi chính quyền đã làm loạn trước bằng việc xâm đoạt những thứ mà nó phải bảo vệ cho họ.
Ngoài ý nghĩa chung của một tác phẩm kinh điển triết học chính trị,Khảo luận thứ hai về chính quyền đặc biệt có giá trị với những nơi mà ngày nay vẫn mang nhiều đặc trưng của hoàn cảnh ra đời cuốn sách.
Về kinh tế, đó là bối cảnh của chủ nghĩa tư bản buổi sơ khai và mông muội, tức sự vận hành của một nền kinh tế thị trường không đầy đủ, và tước đoạt bằng sức mạnh phi kinh tế là chuyện phổ biến. Trong đó, tích lũy đất đai, mà cũng là tích lũy tư hữu, diễn ra dưới hai hình thức trái ngược nhau, là sự tích lũy tự nhiên bằng lao động và chiếm hữu, và sự tích lũy bằng quyền lực và cưỡng đoạt. Nước Anh xưa cũng có hình thức sở hữu toàn dân về đất đai, để rồi trên danh nghĩa đất công, nhà vua (quyền lực trung ương) hay lãnh chúa (quyền lực đia phương) có quyền tước đoạt của nơi này hay người này, để trao cho nơi khác hay người khác, chung phe nhóm (lợi ích) của mình.
Về chính trị, đó là sự tồn tại của một chính thể dựa trên sự mặc định lịch sử và bất biến từ sự mặc định đó. Nhà vua đương nhiên cai trị xã hội nhờ công lao của vương triều và do mệnh trời quy định. Nghị viện thì có đó nhưng chỉ là cánh tay nối dài của chủ quân, không phải là cơ chế thường trực và thực quyền, mà là chỉ nơi hợp thức hóa những quyết định có sẵn của định chế tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện kia, bởi đa phần “đại biểu” là người thân tín và có đặc quyền đặc lợi gắn liền với sự chuyên chế ấy. Ngày nay, những thể chế lấy “lịch sử mệnh” (sứ mệnh lịch sử), “dân tộc mệnh” hay “giai cấp mệnh” làm nền tảng cho sự lãnh đạo tuyệt đối thì chẳng qua chỉ là thay ngôn từ cho cái thiên mệnh cai trị được Thượng đế ban phong bất di bất dịch khi xưa.
Mâu thuẫn ngày càng trở gay gắt hơn giữa xu hướng biến đổi của kinh tế với định hướng bất biến của chính trị, sẽ khiến chính quyền ngày càng sử dụng những phương cách khắc nghiệt hơn để duy trì cái phải thay đổi. Và càng như thế thì chủ thể vận dụng chúng cũng càng tự hoán đổi, từ chính quyền chân chính trở thành chính quyền bất chính, từ sự giải thể tự trong lòng nó đi đến sự giải thể của nhân dân. Quá trình đó cũng đồng thời là quá trình tan rã xã hội, mà kết cục sẽ là định hình một xã hội mới, với một chính quyền mới an toàn hơn cho mọi người. Thời của Locke đã vậy, mà thời mang danh của bất kỳ ai cũng vậy.
Locke không nói đến sự tan rã về mặt văn hóa, đạo đức, hay giáo dục…, mà diễn đạt sự tan rã xã hội về mặt chính trị.
Sự hoán đổi của cơ quan lập pháp, sự phản loạn của chính quyền đối với những người đã ủy thác quyền lực cho mình, bằng cách tước đoạt sở hữu của họ, chính là sự tan rã đó.
Thực thi luật pháp yếu kém, khiến xảy ra tình trạng vô chính phủ khi người thừa hành luật pháp lẫn người dân đều thực thi luật tự nhiên đối với sinh mạng người khác, chính là sự tan rã đó.
Khi chính quyền tự đặt mình vào trạng thái chiến tranh với dân chúng bằng việc sử dụng loại bạo lực không có quyền dùng, ra những luật không có thẩm quyền ra, chính là sự tan rã đó.
Ở thời hiện đại, sự tương đồng bối cảnh tan rã xã hội càng được cụ thể hóa, đến độ đặc thù, mà có lẽ tư duy sắc bén của Locke cũng khó lòng nghĩ đến.
Xưa, vua chúa công nhiên khẳng định phẩm giá và quyền lực tối thượng, chỉ sau có Thượng đế. Nay, cũng là sự công nhiên nhưng là công nhiên lập lờ, khi có một kiểu “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” có luật định, nhưng đứng sau một quyền lực cao nhất khác (không kèm chữ “nhà nước”), phi luật định nhưng quyền hạn vô biên và siêu tối thượng.
Xưa, người ta lấy đất công chuyển thành đất tư và thẳng thắn với sự phân phong sở hữu đó. Nay, “sở hữu toàn dân” nơi những người dân cụ thể được “chuyển nhượng” cho những người, những nhóm tư nhân được mang danh công lợi mơ hồ.
Xưa, chính quyền không đồng bộ nên người dân phải bột phát tự vệ. Nay, chính quyền hoàn chỉnh với lập pháp, hành pháp, tư pháp vừa thống nhất, vừa có sự phân công và phối hợp để “chăm lo” tốt nhất, mà người dân phải tự đứng ra định liệu mình cả theo kiểu tự phát lẫn tự giác[2].
Xưa, hành xử luật tự nhiên là để bảo toàn các quyền tự nhiên, trong điều kiện thiếu vắng luật xã hội. Nay, giữa “rừng luật” người ta lại sử dụng “luật rừng” để bảo toàn các quyền chuyên chế, cả ở phạm vi dân sự lẫn hình sự.
Xưa, luật tự nhiên về sinh mạng là bởi phải “mạng đổi mạng”. Nay, luật rừng về sinh mạng là để người dân liều mạng để giữ lấy sinh mạng trước đe dọa mất mạng thường xuyên từ những người phải bảo vệ nó, là để người dân đi đến chỗ tự đoạt mạng người đổi lấy mạng chó, là để chính quyền trọng vật mạng hơn nhân mạng.
Đương nhiên, còn nhiều thứ nữa có độ khác biệt giữa xưa và nay về biểu hiện của sự tan rã xã hội về chính trị, nhưng đối với lập pháp, những gì góp phần to lớn vào sự tan rã ấy, thì thời nào cũng thế. Đó là, do tham vọng, sợ sệt hay tham nhũng mà cơ quan này cố nắm giữ một quyền lực tuyệt đối, hay đặt nó vào tay người khác, áp nó lên cuộc sống, quyền tự do và tài sản của nhân dân. Rồi thực thể tuyệt đối ấy lại tiếp tục gạ gẫm, đe dọa, hứa hẹn để lôi kéo và sử dụng cơ quan này phục vụ cho mưu đồ của mình, để nhận trước từ các thành viên lập pháp lời hứa là sẽ bỏ phiếu cho cái gì và sẽ ban hành cái gì. Vào khi trạng thái chính trị đã như thế, nhân dân sớm muộn cũng phải giành lại vị trí tối cao của mình (§222).
Vào thời của Locke, quyền thay đổi chính quyền bằng lá phiếu chưa được chế định, tức chưa có biện pháp hòa bình để nhân dân “đuổi chính phủ” (theo ngôn từ của Hồ Chí Minh, mà đúng từ ngữ phải là “đuổi chính quyền”), nên ông phải khẳng định biện pháp vũ lực để cảnh báo.
Ngày nay, dù đã phát kiến phương pháp bất bạo động, nhưng nếu thực chất quyền thay đổi chính quyền vẫn chỉ là như xưa, tức chỉ tồn tại những quyền hiến định trên giấy, thì bối cảnh hiện diện của bạo lực vẫn còn nguyên đấy – đặc biệt ở thể chế nào xác tín sự tồn tại của mình bằng vũ lực – mà không thực thể bất bạo động nào có thể ngăn cản khi nó đã chín muồi (và ngược lại, không thực thể bạo động nào có thể thúc ép khi nó không là cái tất thiết).
Chủ nghĩa tư bản giãy hoài không chết bởi đã biết mở con đường hòa bình và đa nguyên cho người dân thay đổi cả thể chế kinh tế lẫn chính trị, cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ nghĩa xã hội không giãy cũng chết bởi chỉ biết có con đường vũ lực và đơn nguyên, để người dân phải chấp nhận và thuần phục những định chế “toàn năng” mặc nhiên và những quyết định “lịch sử” sẵn có.
Marx không sai khi nói vũ khí phê phán không thể thay thế cho sự phê phán bằng vũ khí. Nhưng trước đó, Locke đã bổ khuyết cho ông, với việc vạch rõ phạm vi bối cảnh của hai loại phê phán này, ở sự tan rã chính trị của xã hội và sự hoán đổi của lập pháp, cùng với sự chuyên chế của chủ thể nắm trong tay quyền lực tối thượng.
Vấn đề còn lại chính là nhận thức của giới quyền lực sẽ đẩy hiện thực vào bối cảnh nào. Thay đổi hòa bình hay chuyển biến vũ lực đều là do họ. Chỉ là, trì hoãn càng lâu, sự phân rã xã hội càng rộng, tàn phá kinh tế càng lớn, hậu quả chính trị càng nặng, hụt hẫng chiến lược càng sâu.
29/11 – 05/12/2013
[1] Con số chỉ số tiết trong sách.
[2] Các link được dẫn chỉ là tượng trưng những sự việc gần đây trong dòng sự việc cùng loại.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA HIẾN PHÁP DÂN CHỦ
Giáo sư David Williams, Đại học Indiana, Hoa Kỳ
NGƯỜI DÂN CÓ QUYỀN LỰA CHỌN CHÍNH QUYỀN CỦA HỌ
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều chính thể. Mỗi nước cần một cơ chế chính quyền phù hợp với hoàn cảnh riêng biệt và truyền thống của nước họ. Vì vậy, nhân dân của một nước cần có cơ hội chọn một cơ chế nhà nước mà họ nghĩ là phù hợp với đất nước họ, nếu không, dân chủ không tồn tại. Dân chủ không chỉ là bầu cử các lãnh đạo chính trị, mà còn là quyền chọn lựa chính thể phù hợp. Nhân dân minh định sự lựa chọn này trong một bản hiến pháp. Những người cầm quyền không có quyền áp đặt một chính thể khác biệt với những gì chính người dân đã chọn.
NGƯỜI DÂN CÓ QUYỀN QUY ĐỊNH NHỮNG GIỚI HẠN BỀN VỮNG CHO QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Một khi người dân đã chọn cho mình một chính thể, nhà cầm quyền không được phép thay đổi nó. Qua việc chọn chính thể, nhân dân có quyền đề ra những giới hạn cho những người làm việc trong chính quyền đó. Những quan chức này không thể vi phạm những quy định do người dân đề ra. Thông thường, nhân dân đặt ra những giới hạn lên chính quyền như sau:
Trước tiên, nhân dân phân chia quyền lực cho nhiều thành phần khác nhau của chính quyền: họ trao cho tổng thống một số quyền hạn và Tòa án một số quyền khác. Một khi nhân dân đã phân chia quyền lực như vậy, các quan chức chính quyền không được phép vượt quá giới hạn quyền lực người dân đã đặt ra. Chẳng hạn, tổng thống không được phép can thiệp vào công việc của Tòa án bằng cách phán xử các vụ kiện, cũng như không thể xen vào công việc của lập pháp bằng cách tự ra luật. Tam quyền phân lập chính là tên gọi chuyên môn của sự phân chia quyền lực giữa các thành phần khác nhau của chính quyền.
Thứ hai, người dân có thể muốn phân định quyền hạn của chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, như cấp tỉnh chẳng hạn. Thí dụ, nhân dân có thể trao cho chính quyền trung ương toàn quyền về quân đội, và trao cho chính quyền địa phương các quyền về giáo dục và trường học địa phương. Một khi người dân đã phân định như vậy, cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương đều phải tôn trọng và không được phép thay đổi. Nghĩa là chính quyền địa phương không được quyền sử dụng quân đội cho các vấn đề địa phương, và chính quyền trung ương không thể xen vào việc giáo dục, học đường của địa phương. Sự phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương như vậy được gọi là thể chế liên bang, hoặc có nơi gọi là thể chế tự trị.
Thứ ba, người dân yêu cầu chính quyền phải tôn trọng quyền của mỗi cá nhân. Các bản hiến pháp khác nhau bảo vệ các tập hợp khác nhau đôi chút về quyền cá nhân, nhưng lịch sử thế giới có xu hướng mở rộng các quyền được bảo vệ, thay vì hạn chế bớt. Thông thường, các hiến pháp bảo vệ các quyền cá nhân như quyền tự do tôn giáo, quyền phát biểu, phê bình hay biểu tình phản đối chính quyền, quyền tự do hoạt động chính trị, quyền được đối xử công bằng và quyền được hưởng một quy trình xét xử công bình trước pháp luật. Một khi các quyền này được nhân dân bảo đảm, chính quyền không được phép vi phạm, trừ những trường hợp vô cùng đặc biệt đã được nhân dân nêu rõ trong hiến pháp.
Thứ tư, người dân đòi hỏi chính quyền phải chịu trách nhiệm với họ thông qua các cuộc bầu cử tự do và định kỳ. Thông thường dân chủ đòi hỏi những quy định chi tiết về việc tổ chức bầu cử: thời gian và phương pháp tổ chức bầu cử; ai có quyền bỏ phiếu, ai có thể ứng cử, v.v. Các quy định về bầu cử để đảm bảo bầu cử diễn ra thực sự tự do, công bằng, minh bạch là tối quan trọng. Nếu không, những người kiểm phiếu chứ không phải cử tri mới thực sự là những người lựa chọn người đại diện. Đặc biệt quan trọng hơn nữa là phải có nền dân chủ đa đảng, nếu không thì người dân sẽ không có sự lựa chọn thực chất giữa các ứng cử viên đề xuất các chính sách chính trị khác nhau. Một khi người dân đã đề ra các nguyên tắc đó, các quan chức chính quyền không được phép vi phạm, như tìm cách tại vị khi đã hết nhiệm kỳ, hoặc gạt bỏ quyền bỏ phiếu của một số người, hoặc doạ nạt cử tri, hoặc từ chối các chính đảng khác đăng ký tham gia tranh cử. Các quy định đảm bảo bầu cử tự do và công bằng được gọi chung là Luật bầu cử.
MỘT KHI ĐÃ CHỌN RA CHÍNH THỂ VÀ NHỮNG GIỚI HẠN CHO CHÍNH QUYỀN, NGƯỜI DÂN CÓ QUYỀN KHẲNG ĐỊNH NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐÓ TRONG HIẾN PHÁP
Nhân dân tạo dựng và đặt ra giới hạn cho chính quyền; do vậy chính quyền được xem là công bộc hay con đẻ của người dân. Qua hiến pháp, nhân dân hướng dẫn cho công bộc của mình là chính quyền. Vì thế hiến pháp phải rõ ràng và cụ thể nhất có thể, nếu không thì những hướng dẫn cho chính quyền sẽ mơ hồ. Vì lý do này mà hiến pháp thường được viết thành văn bản. Nghĩa đen của từ hiến pháp là sự sáng tạo hoặc nền tảng, vì hiến pháp do người dân tạo ra và đặt nền tảng cho một chính quyền. Có nghĩa là chính quyền đó sẽ không có quyền lực chính danh nếu quyền lực của họ không xuất phát từ ý nguyện của người dân và phù hợp với các quy định hiến pháp. Do vậy, cần phải có những biện pháp để bảo đảm rằng hiến pháp vận hành hữu hiệu như một tập cẩm nang hướng dẫn cho chính quyền.
Trước hết, người dân phải đóng vai trò chủ yếu trong tiến trình soạn thảo và thông qua hiến pháp. Lý tưởng nhất là bản hiến pháp được soạn thảo bởi một hội đồng lập hiến do người dân bầu ra, trong đó một phần quan trọng là đại diện của các nhóm vốn yếu thế về chính trị như nữ giới hoặc các dân tộc thiểu số. Đồng thời, người dân phải có quyền đóng góp ý kiến cả trước và sau khi soạn thảo Hiến pháp. Và bản Hiến pháp chỉ được thông qua khi người dân phúc quyết phê chuẩn.
Thứ hai, hiến pháp phải khó thay đổi, để chính quyền không thể sửa đổi một cách độc đoán. Nếu chính quyền có thể dùng hình thức lập pháp thông thường để sửa đổi hiến pháp, thì hiến pháp sẽ không thể hạn chế quyền lực của chính quyền một cách hiệu quả. Ý nghĩa cơ bản của một bản hiến pháp là hạn chế quyền lực chính quyền một cách lâu dài và ổn định. Để được như vậy, bản hiến pháp phải khó sửa đổi và chỉ nên được sửa đổi khi được toàn dân thông qua qua trưng cầu dân ý, tốt nhất là với đại đa số phiếu thuận của người dân.
Sau cùng, người dân phải thiết lập một cơ chế thi hành hiến pháp để bảo đảm chính quyền chú tâm thực thi các hướng dẫn quy định trong hiến pháp. Nếu hiến pháp không được thi hành, nó sẽ chỉ là một con hổ giấy. Trong hiến pháp, người dân không chỉ đặt ra giới hạn cho chính quyền mà còn cần lập ra cơ chế để bảo đảm những giới hạn đó phát huy tác dụng. Một trong những cơ chế thi hành hiến pháp chính là các cuộc bầu cử tự do, công bằng với sự tham gia của nhiều chính đảng – nếu người dân cảm thấy chính quyền hiện tại đang hành xử vi hiến, họ sẽ có thể bày tỏ sự bất tín nhiệm qua lá phiếu và bầu những người khác lên thay thế. Nhưng thông thường bầu cử tự nó chưa đủ sức mạnh để kiềm chế chính quyền, vì bầu cử chỉ diễn ra theo một hạn kỳ cố định, và giữa hai cuộc bầu cử chính quyền có thể vi phạm hiến pháp nghiêm trọng mà không bị trừng phạt. Thêm vào đó, không phải người dân nào cũng hiểu tường tận về luật hiến pháp và nắm hết thông tin về những hành vi sai phạm của chính quyền. Do đó, cần có một cơ quan bảo hiến chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian, có kiến thức sâu rộng về luật hiến pháp và có thể tiếp cận các thông tin liên quan đến những hành xử của chính quyền. Về mặt hình thức, cơ quan này là một thành phần của chính quyền. Nhưng về thực chất, cơ quan này phải tồn tại độc lập với chính quyền mới có thể xem xét kỹ lưỡng hành xử của các quan chức.
*************************
-Cao Huy Thuần: Nhà nước: Ông là ai? (viet-studies 16-11-13) ◄◄◄
Cao Huy Thuần
Cập nhật lần cuối 16/11/2013
(Chuyện cũ nói lại)
Ngày xưa, ta gọi là « Quốc gia ». Quốc gia Việt Nam. Gia là nhà, quốc là nước. Bởi vậy, ai cũng hiểu như là hiển nhiên : Quốc gia là Nhà nước. Nhà nước ấy, theo định nghĩa pháp lý mà mọi người trên thế giới thường học, gồm ba yếu tố căn bản : một lãnh thổ, một dân số, một tổ chức chính trị. Việt Nam là một Nhà nước vì Việt Nam có một lãnh thổ hình chữ S, một dân số gồm nhiều thành phần dân tộc, một chính thể đóng đô tại Hà Nội. Thế giới hiểu Nhà nước Việt Nam là vậy. Nhưng người Việt Nam hiểu như vậy thì lầm to !
Đọc Hiến pháp 1980, rồi Hiến pháp 1992, rồi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hiện nay, « Nhà nước » trong đó không phải là Quốc gia. Không phải là… Nhà nước ! Không gồm ba yếu tố như ta thường học. Nó là cái gì đó không chính xác, và nó không chính xác vì ngôn ngữ đẻ ra nó không phải là ngôn ngữ pháp lý mà là ngôn ngữ chính trị. Ngôn ngữ chính trị khai sinh ra nó nằm trong Hiến pháp 1980, tức là Hiến pháp chấm dứt Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thiêng liêng của thời Tuyên Ngôn Độc Lập, chấm dứt Hiến pháp 1946 mà ngôn ngữ rất pháp lý, chính xác. Nói lại chuyện cũ may ra hiểu được chuyện mới chăng.
Trong « Lời Nói Đầu » của bản Hiến Pháp 1980 ấy có câu chỉ đạo như sau : « Nó (tức là Hiến pháp) thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý trong xã hội Việt Nam ». Quái, Quốc gia Việt Nam chạy đi đâu mà bây giờ chỉ còn « xã hội Việt Nam » ? Trong cái « xã hội » ấy, « Nhà nước » chỉ còn là một trong ba thành phần, đứng đàng sau rốt, như cái đuôi con voi. Vậy thì « Nhà nước » này đâu có phải là khái niệm pháp lý mà ai cũng hiểu ? Nó là cái gì mà vai trò được giao phó là công việc của một anh quản lý ?
Hiến pháp 1992 hiện hành và Dự thảo sửa đổi không lặp lại nguyên văn câu tuyên bố chỉ đạo ấy nữa, nhưng tinh thần là y chang, một sợi chỉ hồng ấy thôi xuyên suốt từ đầu đến cuối. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Đảng và Nhà nước là hai. Đảng là ai, mọi người đều thấy cụ thể. Nhưng « Nhà nước », thực thể là thế nào, có thực thể hay không, khi Quốc hội cũng là đảng viên, khi Chính phủ cũng là đảng viên, khi đâu đâu cũng là đảng viên ? Nếu Đảng và « Nhà nước » là hai thì ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không phải là Nhà nước ? Thế tại sao khi ông đi thăm nước này nước nọ, họ tiếp ông như đại diện của Nhà nước Việt Nam ? Trong đầu của mọi người trên thế giới, ông là Nhà nước Việt Nam ! Họ trương cờ đỏ sao vàng của Nhà nước Việt Nam để tiếp ông. Ông đứng nghiêm trang nghe quân nhạc của họ cử hành bài quốc ca của Nhà nước Việt Nam. Họ đâu có tiếp « xã hội Việt Nam » ! Họ tiếp « Nhà nước Việt Nam » ! « Xã hội Việt Nam » đâu có quốc kỳ, quốc ca ? Quốc kỳ ấy, quốc ca ấy có từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập lại Nhà nước Việt Nam đã bị xóa bỏ trên bản đồ thế giới như một quốc gia độc lập. Trước đó, vẫn có « xã hội » nhưng không có Nhà nước ! Nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chữ S độc lập, một con Hồng cháu Lạc độc lập, một chính quyền độc lập trong đó đảng Cộng sản tham gia như một thành phần. Như vậy, đảng Cộng sản nằm trong chính quyền, ở trong Nhà nước, cùng với nhân dân nằm trong bụng của Nhà nước, đâu có nằm lên trên ? Dù cho sau đó, Hiến pháp 1980 ban cho đảng Cộng sản quyền lãnh đạo, và nếu nhân dân chấp nhận quyền đó, thì đó hiển nhiên là lãnh đạo trong chính quyền, lãnh đạo chính quyền, chứ sao lại lãnh đạo Nhà nước ?
Vậy thì « Nhà nước » được đẻ ra từ 1980 không phải là Nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh rồi ! Vì vậy, khái niệm lẫn lộn như chỉ rối. Chẳng hạn, khi điều 9 đoạn 2 của Dự thảo sửa đổi viết : « Mặt Trận (Tổ Quốc) cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân », chữ « cùng » trong đó thật là bí hiểm. Sao lại « cùng » ? Nếu anh ở trong Nhà nước thì anh không thể « cùng » được. Anh chỉ « cùng » với một cái gì hay với ai là khi cái đó, người đó, ở ngoài anh, chẳng hạn anh « cùng » với vợ anh. Vậy Mặt Trận ở ngoài Nhà nước à ? Lại cũng chẳng hạn khi điều 29 của Dự thảo sửa đổi viết : « Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý Nhà nước… », quái, ấy là một Nhà nước hay hai Nhà nước ? Nhà nước nào tạo điều kiện ? Nhà nước nào được quản lý ? Nếu là hai thì vô lý, vì làm gì có hai Nhà nước, cũng như làm gì có hai mặt trời ! Nếu là một thì lại không chính xác vì cái việc « tạo điều kiện » là việc của các cơ quan Nhà nước, của chính quyền, trong đó đáng lẽ có cả đảng Cộng sản như đã nói.
Hãy đọc lại Hiến pháp 1946 : làm gì có chữ « Nhà nước » ! Bởi lẽ Nhà nước 1946 là nước, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và trong nước ấy chỉ có một chính quyền thôi, gồm : Nghị Viện (Quốc Hội), Chính phủ, cơ quan tư pháp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chánh ở các cấp địa phương. Đó là các cơ quan của chính quyền Nhà nước mà Hiến pháp quy định quyền hạn và trách nhiệm cụ thể cùng các mối tương quan qua lại. Lúc đó cũng có đảng chứ, và đảng cũng chi phối chính quyền chứ, có thể lãnh đạo nữa trên thực tế, nhưng dù lãnh đạo đi nữa, đảng cũng là một bộ phận của chính quyền Nhà nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lui nhắc tới hoài mãi : « Đảng ta là đảng cầm quyền ». Cầm quyền là cầm chính quyền trong Nhà nước, chứ đâu có đặt bày ra một khái niệm « Nhà nước » mông lung rồi giao cho nó cái phận sự của anh quản lý, làm việc dưới một thế lực lãnh đạo không pháp lý hóa được và cũng không muốn pháp lý hóa vì pháp lý hóa thì hóa ra nó ở dưới luật mất rồi, đâu còn tối cao nữa ! Tất cả nhập nhằng mà ai cũng biết và cũng nói từ lâu trong quan hệ giữa đảng và « Nhà nước » là do ở chỗ ấy : dẹp bỏ ngôn ngữ pháp lý của Hiến pháp 1946 và thay vào đó hai khái niệm chính trị bằng ngôn từ chính trị : « lãnh đạo » và « quản lý ». Chừng nào hai khái niệm chính trị ấy chưa làm đề tài để thay đổi tư duy, sửa đổi Hiến pháp chỉ là thay đổi văn bản chính trị này bằng văn bản chính trị khác, không ảnh hưởng thực sự gì đến đời sống pháp luật.
Vậy thì Nhà nước là gì, và vai trò đích thực của Nhà nước là gì ? Phe tự do nói : Nhà nước là trọng tài. Phe mác xít nói : là bộ máy nằm trong tay một giai cấp để bóc lột giai cấp khác. Gác ra ngoài tranh luận lý thuyết ấy, điều chắc chắn là lúc nhân loại đang còn ban sơ thì Nhà nước chưa có. Xã hội đầu tiên của loài người chắc hẳn là xã hội gia đình. Sau đó là thị tộc, đẳng cấp, bộ lạc… Nghĩa là Nhà nước không phải là cách tổ chức chính trị duy nhất của xã hội trong lịch sử nhân loại, nhưng là cách tổ chức chính trị mới mẻ nhất, hoàn hảo nhất. Nhà nước xuất hiện sau một quá trình tiến triển dài của những cấu trúc xã hội ; những cấu trúc này càng ngày càng trở nên phức tạp và càng được phân biệt với nhau. Nhà nước là sản phẩm của quá trình đó. Durkheim nói như vậy. Thuyết mác xít thì giải thích : Nhà nước xuất hiện lúc mà những mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa được nữa. Dưới cái nhìn này hay cái nhìn kia, Nhà nước đều xuất hiện ngay khi có một đầu não chính trị tách ra khỏi xã hội và làm nhiệm vụ tạo lập trật tự. Trong học thuyết mác xít, quyền hành từ xã hội mà ra nhưng lại có vẻ đứng lên trên xã hội để ngăn chận không cho những mâu thuẫn giai cấp đi đến mức làm tiêu diệt cả xã hội. Trong tư tưởng Durkheim, Nhà nước là một cơ quan có lý tính, có khả năng vượt qua những lợi ích và tranh chấp cá nhân.
Dù thế nào đi nữa, bản chất của Nhà nước là thống trị, thống trị bằng cách ban hành những quy tắc mà công dân phải tuân theo, nếu không thì sẽ bị trừng trị. Mà sự trừng trị của Nhà nước thì hiệu nghiệm lắm, bởi vì Nhà nước có độc quyền cưỡng chế bằng quân sự. Cưỡng chế, đó là đặc tính của Nhà nước. Lịch sử của Nhà nước là lịch sử của sự tập trung dần dà quyền hành cưỡng bức vào tay những người cai trị, và Nhà nước được đẻ ra lúc nó trở thành nguồn gốc chính đáng duy nhất của quyền lực và bạo lực. Nói một cách khác, Nhà nước chưa bao giờ chỉ làm công tác của một anh quản lý tính sổ tính sách. Nhà nước làm ra luật, Nhả nước ban hành luật, Nhà nước tạo ra các cơ quan để thi hành luật, Nhà nước trừng trị sự vi phạm luật, Nhà nước giải quyết những phân tranh xã hội, Nhà nước duy trì trật tự : đó không phải là quản lý, đó là cai trị, và Nhà nước nào cũng cai trị, kể cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dù chỉ là trên danh nghĩa thôi, ai dám bảo Quốc hội của ta không cai trị ? Ông là « cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất » mà. Ai dám bảo ông thủ tướng hiện nay không cai trị ? Cai trị, không có gì khác hơn là soạn luật, làm ngân sách, thảo kế hoạch, bảo vệ trật tự an ninh. Dù cho ông làm dưới sự lãnh đạo của điều 4, bản chất của công việc ông làm là chính trị, không phải hành chánh. Dù có điều 4 đi nữa, khi ông làm những công việc có bản chất chính trị, bản chất quyền lực, bản chất cai trị rồi, thì ông không phải là anh quản lý nữa. Cho dù có lúc ông đội cái mũ quản lý, lúc nào ông cũng cai trị, hoặc là cai trị thông qua bộ máy của đảng, hoặc là cai trị thông qua bộ máy Nhà nước, hoặc là, nói cho chính xác, thông qua bộ máy của Đảng – Nhà nước. Nói Nhà nước không cai trị cũng như nói thiên lôi không có sét. Thiên lôi không quản lý sét cho ai ở trên đầu, thiên lôi đánh là đánh.
Bởi vì không có Nhà nước nào quản lý cả, bởi vì đã là Nhà nước thì là cai trị, là sử dụng quyền hành chính trị, quyền hành ý thức hệ, cho nên vấn đề cố hữu đặt ra là : Vậy thì đảng làm gì ? đảng ở đâu ? đảng « lãnh đạo » như thế nào ?
Chỉ có hai cách để giải quyết vấn đề. Một là đảng trực tiếp nắm hẳn quyền chính trị, sử dụng trực tiếp mọi quyền hành Nhà nước, và như vậy thì đừng phân biệt « lãnh đạo » và « quản lý » nữa trong đầu óc và trên giấy tờ, vì cả hai đã chính thức nhập làm một. Hai là tách đảng ra khỏi Nhà nước như đã từng tuyên bố lâu nay, và như vậy thì Nhà nước sẽ nắm thực quyền và khái niệm « lãnh đạo » phải quan niệm lại. Trong cả hai trường hợp, trường hợp nào cũng cần có con gà và nắm xôi để cúng tiễn đưa hương hồn anh quản lý về nơi chín suối.
*
Chuyện đã cũ, nói đi nói lại sợ nhàm mà chẳng được lợi lộc gì. Thế nhưng, mới cách đây mấy ngày thôi, hồi đầu tháng 11 này, báo Tuổi Trẻ có đăng bài phỏng vấn TS Nguyễn Sĩ Dũng, phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, mà nhan đề làm tôi giật mình : « Đổi mới là mệnh lệnh của thời đại ». Dù đã từng nhiều lần lạc quan, rồi thời đại vẫn qua mà đổi mới vẫn cứ là mệnh lệnh, tôi vẫn muốn tiếp tục lạc quan khi đọc đoạn cuối của bài phỏng vấn, trong đó ông phó chủ nhiệm kể lại lần gặp cố thủ tướng Võ Văn Kiệt vài tuần trước khi ông mất :
« Lúc bấy giờ tôi có nói rằng cần phải hết sức tránh việc hình thành hai nhà nước trong một đất nước. Chúng ta có thể nghiên cứu nhất thể hóa sâu rộng hơn, như Singapore chẳng hạn, để Đảng lãnh đạo thật sự « hóa thân » vào Nhà nước… Tôi cho rằng hiện nay đây là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất để đổi mới nền quản trị quốc gia của chúng ta ».
Nói với ông Kiệt thì chỉ cần nửa lời ông cũng hiểu, vấn đề là có ai khác nữa hiểu như ông ? Ông phó chủ nhiệm nói thêm : « Thật ra, nhất thể hóa cũng đã được Đảng ta đề ra, chứ không phải là điều gì mới mẻ cả ». Đúng vậy, không có gì mới. Bản thân tôi cũng đã nói cách đây hơn hai mươi năm. Nhưng nói mà ai nghe ?
Dù vậy, mấy lời tâm huyết của TS Nguyễn Sĩ Dũng là tiếng nói của trí tuệ thức tỉnh, buộc trí thức phải lưu tâm. Cảm tạ lời nói đó, tôi nghĩ rằng : giá như Quốc hội chỉ đem vấn đề trọng yếu đáng nói này ra bàn thôi và gác qua một bên mọi chuyện hoa lá cành khác trong Dự thảo thì quả thật thời đại sẽ ăn mừng cho Việt Nam. Dù ăn mừng quá muộn.
ĐỌC KHẾ ƯỚC XÃ HỘI CỦA JEAN-JACQUES ROUSSEAU
Không ai có thể đứng trên pháp luật
09:06 | 24/11/2013
Bản dịch cuốn sách Khế ước xã hội (Jean-Jacques Rousseau, Alpha Books và NXB Thế giới phát hành) do Gs Dương Văn Hóa dịch, với những chú giải đầy đủ, dễ hiểu là một cuốn sách không thể bỏ qua đối với các độc giả quan tâm đến những nguyên lý chính đáng để thiết lập nhà nước và chính quyền dân sự.
Khế ước xã hội gồm 4 quyển, mỗi quyển có 10 - 15 chương. Trong lời mở đầu Jean-Jacques Rousseau (1712 - 1778) viết: “Với bản chất con người như ta biết, và với tính chất có thể xảy ra của luật pháp, tôi muốn tìm xem trong trật tự của một xã hội dân sự có thể có một luật lệ cai trị nào cho chắc chắn và hợp tình, hợp lý...”. Trong hành trình này, Rousseau cũng như các nhà tư tưởng trước ông như Thomas Hobbes và John Locke đều bắt đầu từ nguyên thủy, nhận diện con người trong trạng thái thiên nhiên. Mở đầu chương thứ nhất Rousseau viết: “Con người sinh ra được tự do, nhưng ở đâu cũng bị xiềng xích”. Đối với Rousseau, tự do là điều kiện thiết yếu để con người là một con người. Trong trạng thái thiên nhiên mỗi con người là chủ của chính mình, nhưng từng cá nhân không thể chống chọi với thiên nhiên để tự tồn mà phải cùng chung sống với nhau hầu có đủ sức để sống còn.
Từ xã hội sơ khai đầu tiên là gia đình, con người quần tụ lại thành những cộng đồng lớn hơn, nhưng trong cộng đồng lớn hơn này cần phải có luật lệ để điều hành trật tự sao cho phúc lợi và tự do của mỗi người vẫn được bảo đảm. Câu hỏi được đặt ra là ai sẽ là “người” đặt ra những luật lệ này khi mỗi cá nhân đều bình đẳng như nhau? Rousseau phủ nhận mô thức chính quyền quân chủ do Grotius và Hobbes đề ra, và lý giải rằng một xã hội dân sự hợp lý, hợp tình chỉ có thể được tạo nên bởi sự thỏa thuận của mọi người tham gia. Hay nói một cách khác, bởi một khế ước xã hội do mọi người cùng lập nên và mọi người phải tuân thủ. Rousseau viết: “Cái mà con người mất đi khi chấp nhận khế ước xã hội là tự do thiên nhiên và sự vô giới hạn trong những việc anh ta muốn làm và muốn giữ khi chiếm được; bù lại, cái mà anh ta nhận được là sự tự do trong văn minh và quyền sở hữu chính đáng những gì mà anh ta có”. Người có thẩm quyền làm ra luật để cai trị một cộng đồng lập nên bởi khế ước xã hội, theo Rousseau, không ai khác hơn là tất cả mọi người đồng trao quyền đó cho một con người nhân tạo gọi là “Hội đồng Tối cao” (sovereign) bao gồm tất cả mọi người; con người nhân tạo này khi được thành hình bởi khế ước xã hội có đời sống và ý chí riêng. Ý chí riêng của con người nhân tạo này là ý chí của cả tập thể, gọi là “ý chí tập thể” (general will) chỉ nhằm đạt tới cái tốt chung cho cả cộng đồng, chứ không phải là ý chí của tất cả mọi thành viên (will of all) bao gồm ý chí và quyền lợi riêng tư của mỗi thành viên khác hơn quyền lợi của tập thể.
Điểm quan trọng Rousseau muốn nhấn mạnh là khi khế ước xã hội được lập thành, tức khắc nhà nước được khai sinh, và chủ quyền tối thượng của nhà nước nằm trong tay nhân dân, những người lập nên nhà nước này, chứ không nằm trong tay chính quyền (chương 7, QI). Các thành viên của nhà nước trở thành công dân. Hội đồng tối cao, như đã trình bày, chỉ là một khái niệm trừu tượng, phản ảnh ý chí tập thể qua luật pháp. Ý chí tập thể, Rousseau lý giải trong chương 4 (QII), phải “mang tính tổng quát trong mục đích cũng như trong bản chất, và phải phát xuất từ tất cả để áp dụng cho tất cả”. Từ nhận định này, Rousseau kết luận là: không một ai, kể cả vị quân vương, có thể đứng trên pháp luật.
Tuy nhiên, Hội đồng tối cao chỉ là một tác nhân trừu tượng, cần có thực thể để làm luật và thi hành pháp luật. Rousseau nhấn mạnh là cần có hai cơ quan tách biệt hoàn toàn để phụ trách hai nhiệm vụ này. Chính quyền, còn gọi là cơ quan hành pháp, là “cơ quan trung gian làm nhiệm vụ truyền thông giữa người dân và Hội đồng tối cao, và thi hành luật pháp cũng như bảo đảm tự do dân sự và chính trị”. Chính quyền, hay người đứng đầu guồng máy chính quyền, do đó, chỉ là những nhân viên thừa hành, có ăn lương, nhân danh Hội đồng tối cao sử dụng quyền lực được trao cho để thi hành pháp luật. Quyền lực này có thể bị Hội đồng tối cao giới hạn hay thu hồi bất cứ khi nào.
Đó là trên lý thuyết, trên thực tế, Rousseau nhận thấy có một vấn đề là khi nắm giữ quyền lực trong tay, chính quyền dễ có khuynh hướng lạm dụng quyền hành, và khi chính quyền càng cần nhiều quyền lực để điều hành thì chủ quyền tối thượng cũng cần có quyền lực tương đương để kiềm chế chính quyền khỏi lạm dụng quyền hành (chương 1, QIII). Thêm vào đó, quyền lập pháp là quyền riêng biệt, chỉ có thể nằm trong tay của Hội đồng tối cao - bao gồm tất cả mọi công dân mà chỉ nghĩ đến cái tốt chung cho cả tập thể. Đó chính là vấn nạn vì để cho luật pháp thể hiện cái tốt chung cho cả tập thể, quyền lợi riêng tư phải được gạt bỏ ra ngoài mỗi cá nhân. Rousseau viết: “cần phải có một người có sự thông minh siêu tuyệt để có thể thấu hiểu những nhiệt tình của con người mà vẫn không bị ảnh hưởng của thất tình, lục dục, một con người mà hạnh phúc độc lập với con người nhưng lại quan tâm đến hạnh phúc của con người, một con người mà sẵn sàng làm việc ở đời này cho kết quả ở đời sau” để làm luật.
Con người nhân tạo Hội đồng tối cao, hay Cơ cấu chính trị cũng như một con người thường, có sinh và có diệt. Rousseau ví quyền lập pháp như trái tim của nhà nước, quyền hành pháp là bộ óc điều khiển các chi thể hoạt động. Khi bộ óc bị tê liệt, con người vẫn có thể còn sống dù chỉ sống như thực vật, nhưng khi quả tim ngừng đập thì con người sẽ chết. Cũng cùng một thể ấy, cơ cấu chính trị sẽ chết khi người dân thờ ơ với nghĩa vụ công dân của họ nhất là trong lĩnh vực lập pháp (chương 11, QIII). Không những chỉ trong lĩnh vực lập pháp, “khi công dân không còn quan tâm đến việc phục vụ công ích nữa, và thích phục vụ quốc gia bằng tiền hơn là chính bản thân họ, thì quốc gia đó sắp sửa tiêu vong”.
Khi đặt bút viết Khế ước xã hội, Rousseau minh định là tìm xem đâu là nguyên lý chính đáng thiết lập nên nhà nước và chính quyền dân sự. Nhà nước được lập nên bởi một khế ước do tất cả mọi người đồng thuận, trao quyền lực chính trị cho chính quyền là những người công bộc của dân để điều hành đất nước theo nguyện vọng và ý chí tập thể. Quyền lực chính trị của chính quyền sẽ bị thu hồi bất kỳ lúc nào, nếu chính quyền không làm đúng chức năng được nhân dân giao phó. Khế ước xã hội, do đó, được coi là bản họa đồ xây dựng một thể chế dân chủ - cộng hòa hiểu theo nghĩa ngày nay, một chính quyền “của dân, do dân và vì dân”. Những vấn nạn Rousseau nêu ra về vai trò tuyệt đối vô tư của lập pháp, về sự tiếm quyền của hành pháp đã được các nhà sáng lập ra nước Mỹ giải quyết bằng nguyên tắc phân quyền và đại biểu dân cử. Dĩ nhiên, không có chế độ nào có thể được coi là hoàn hảo, nhưng như Churchill đã nói: “Dân chủ không phải là một chế độ hoàn hảo, nhưng còn khá hơn bất kỳ một chế độ nào đã từng có trong lịch sử loài người,” và sau này Thủ tướng Nehru của Ấn Độ cũng đồng tình: “Dân chủ là một chế độ tốt vì mọi chế độ khác đều tệ hơn rất nhiều”.
Hà Việt
Nguồn: