Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Đuổi học vì không đóng tiền ăn: Đồng tiền có mùi gì?

--Đuổi học vì không đóng tiền ăn: Đồng tiền có mùi gì? (Lao Động đã xóa bài? còn ở http://phunutoday.vn)
(Xi nhan) - Đồng tiền ngoài chợ có mùi hàng tôm hàng cá. Còn nếu đồng tiền ngay trong nhà trường đang là một thước đo chuẩn mực thì không hiểu đồng tiền đó có mùi gì!


Một câu chuyện có thật vừa được đưa lên báo đang gây sự phẫn nộ cực điểm trong dư luận.

TP.HCM: Bảo mẫu đạp cháu bé 18 tháng tuổi tử vong

Xót xa cháu bé bị tai nạn bầm tím khắp mặt

Cháu bé bị bạo hành dã man chỉ muốn vào TP.HCM

Một câu chuyện có thật vừa được đưa lên báo đang gây sự phẫn nộ cực điểm trong dư luận. Đại ý là vào một buổi trưa, bà L, nhân có việc đi ngang trường Hùng Vương đã tá hỏa khi nhìn thấy cháu nội là Lã Thị Th V đang đứng bơ vơ trước cổng trường đóng kín. Hỏi cơ sự thì cháu V nói không được ăn cơm vì chưa nộp tiền.
Sáng hôm sau, bà đưa cháu đến trường và khất cô tài vụ hẹn buổi trưa sẽ đến đóng tiền và được phòng tài vụ đồng ý. Vậy mà trưa hôm đó khi đến trường đóng tiền, bà L một lần nữa lại thấy cháu nội của mình đứng dưới cái nắng chang chang trước cổng trường đang đóng kín… 
Hóa ra, nguyên do của việc bị đuổi cổ ra ngoài cổng trường trong giờ các bạn ăn trưa chỉ là vì chậm nộp tiền. Và chậm nộp tiền là vì cha mẹ cháu V đang xảy ra lục đục.
Bạn sẽ có thể có một thứ tình cảm nào khác ngoài sự phẫn nộ. Bạn có bao giờ giật mình mỗi khi lơ đãng nghe chuyện con nhắc nộp tiền?
Người ta có thể trách “cha mẹ cháu đã thiếu quan tâm đến con cái”. Người ta có thể nói “nhà trường không phải là trại tế bần”. Thậm chí, người ta lập luận rằng: “Không có tiền thì không ăn. Thế thôi. Để đảm bảo công bằng cho những người nộp tiền ăn”.
Nhưng từ bao giờ dưới mái trường XHCN đã sinh ra cái thứ công bằng bằng cách làm nhục một đứa bé? Từ bao giờ và ai đã nghĩ ra biện pháp sòng phẳng đến lạnh lùng là buộc một đứa bé phải đứng ngoài cổng để gây sức ép thu tiền? Và từ bao giờ, đồng tiền trở thành một tiêu chí cho việc phục vụ trong chính môi trường sư phạm đang dạy dỗ những đứa trẻ rằng đồng tiền không mua được hạnh phúc.
Còn bảo đó là “biện pháp” ư? Liệu có thể gọi sự lạnh lùng đến vô cảm, sòng phẳng đến nhẫn tâm là một biện pháp?
Nhắc lại rằng, cháu V, 7 tuổi, mới đang chỉ là một học sinh lớp 2. Có lẽ còn quá nhỏ để có thể khóc trong tủi nhục.
Đã có một thời, khi buộc học sinh mặc đồng phục, ngành giáo dục đã đưa ra một lý do rất thuyết phục là để tạo ra sự bình đẳng, để tránh sự phân biệt giàu nghèo trong môi trường giáo dục.
Sự bình đẳng ấy đang hiện diện về mặt hình thức trên những tấm áo đồng phục. Nhưng trong không ít trường hợp, lại thiếu vắng trong chính tư duy của những nhà giáo dục.
Những học sinh ở thủ đô phải ngồi trong lớp, không được ra ngoài xem xiếc cùng các bạn do cha mẹ không đóng 40 ngàn. Và lý do được giải thích là “đảm bảo công bằng cho những bạn đóng tiền”.
Và giờ, một đứa trò còn quá nhỏ để biết thế nào là công bằng, còn quá thơ dại để hiểu nổi tủi nhục, bị đối xử như thể hất kẻ ăn mày ra ngoài cửa nhà.
Đồng tiền ngoài chợ có mùi hàng tôm hàng cá. Còn nếu đồng tiền ngay trong nhà trường đang là một thước đo chuẩn mực thì không hiểu đồng tiền đó có mùi gì!
Anton Makarenko, nhà sư phạm vĩ đại người Ukraina có lần nêu triết lý giáo dục của ông rằng: “Muốn có những đoá hoa đẹp phải kịp thời dùng kéo cắt những cành khô hoặc dùng thuốc sát trùng mà tưới cho hoa”.
Chắc chắn, đó không phải là lưỡi kéo đồng tiền để cắt vào trang giấy tâm hồn còn đang trắng tinh. Bởi thứ mà “lưỡi kéo đồng tiền” nhận được không phải là một đóa hoa đẹp mà là một tổn thương của người lớn và một bài học lớn về nổi tủi hổ của những đứa bé.
Theo Lao động
-Vòng kim cô trên đầu giới khoa học xã hội

Tiếp tục trao đổi với tác giả Từ Huy, nhân bài Vụ Luận văn về Mở Miệng:
còn cơ hội nào cho ngành KHXH&NV? 7-10-2013



                         I /      CŨNG CHỈ LÀ MỨC ĐỘ….. THÔNG THƯỜNG.
   Trong đời sống văn chương học thuật ở ta,  luôn luôn người ta thấy có những hiện tượng tạm gọi là chệch hướng, còn chữ của giới chính thống là sai lầm hư hỏng chống đối. Rồi có sự tố giác phê phán. Rồi sau vài lời nói qua nói lại và có khi cả những “chiến dịch đấu tranh” kèm theo là những xử lý,  dư luận lại rơi vào im ắng cho đến khi … có những vụ mới.
Vụ Mở miệng và luận văn Nhã Thuyên thuộc loại ấy.

Về khâu xử lý, tôi nhớ thời chống Mỹ, cả Lưu Quang Vũ  lẫn Phạm Tiến Duật đều có những chuyện lôi thôi khiến một hai năm bị cấm in trên các báo. Tức là hình thức xử lý còn nặng hơn rất nhiều so với cách chức hoặc cho thôi việc thời nay.
 Đặt trên cái nền chung, thấy  tình hình  chung quanh vụ luận văn về “Mở miệng” hôm nay còn là ở mức …có thể hiểu được. 
 Điều tôi cho rất đáng hoan nghênh là, khi nhìn nhận vụ việc, nhà nghiên cứu Từ Huy đã không dừng lại ở hiện tượng cụ thể  mà nhân đó nêu ra nhiều vấn đề chung của giới KHXH. Tôi cho là một sự triển khai cần thiết. Trong phạm vi bài này, tôi  thử đi vào giải thích tại sao giới nghiên cứu KHXH  VN đã có những ứng xử  như tất cả chúng ta đã thấy.
Cả  giới đã được đào tạo để trở thành như thế.
Nhắc tới mấy năm 1956-58,  ngày nay chúng ta chỉ nhớ tới vụ Nhân văn Giai phẩm , và những ảnh hưởng của nó tới giới sáng tác.
 Nhưng thời điểm trên cũng là bước ngoặt trong giới ở ta đại học ở ta, rõ nhất là giới nghiên cứu các bộ môn thuộc khoa học xã hội.
Sự phát triển trước đó của đại học là tự phát.  Nay nền đại học non trẻ và “tiên thiên bất  túc”, “bất thành nhân dạng” về  nhiều phương diện ấy, được làm lại với những chủ đích rõ ràng.
 Nếu ở các nước khác, đại học là khu vực cuộc sống được thể nghiệm, khu vực tự trị, khu vực dân sự điển hình thì ở ta nó được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt cũng như  sự can thiệp mạnh mẽ và trực tiếp của chính trị. Các cơ sở đại học phải trở thành những “pháo đài xã hội chủ nghĩa” như chữ nghĩa hồi 1958-60 vẫn dùng.  
  Lý do thì, như chỉ dẫn của một tác giả Nga mà tôi nêu trong bài viết  ngày 14-10-2013 trên blog này, KHXH  được sinh ra như thế, nó phải như thế, có gì là lạ. Nó cũng có nghiên cứu, nhưng là chỉ làm ở mức hết sức sơ lược.  Trong những lúc bốc đồng, hoặc cố ý làm dáng, người ta cũng tuyên bố đi tìm chân lý, đứng về phía sự thật lịch sử …. . nhưng đó chỉ là trong ao ước.  Phần chính khoa học lúc này phải làm là những công việc mà  thần học trung thế kỷ vẫn làm.  Nếu thần học cuối cùng phải chứng minh được chỗ đúng của các kinh sách có liên quan tới Chúa thì khoa học xã hội lúc này lấy việc đi vào minh họa cho cái đúng của thời hiện nay, cái đúng theo  các chỉ thị nghị quyết, cái đúng của cấp trên…làm mục đich.
Trên đại thể là thế mà trong từng việc cụ thể cũng là thế.
Tôi lấy một ví dụ. Vào những ngày hạ tuần tháng mười 2013, trên báo chí đang rộ lên lời trách cứ các nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại về việc sao không đưa tướng Giáp vào sách giáo khoa. Tôi xin thanh minh hộ các giáo sư sử học thế này -- họ đâu có quyền! Đây toàn là do chỉ thị từ trên xuống cả. Thách kẹo cũng không có người biên soạn SGK dám viết khác và các thầy lên lớp từ  tiểu học tới đại học dám giảng khác.
Không có ngoại lệ
Đọc bài của Từ Huy, ngay từ đầu, tôi đã không hiểu những lời ưu ái mà tác giả đưa ra đối với khoa nọ của trường đại học kia. Rằng đó là nơi rất có truyền thống tìm tòi chân lý. Rằng ở nơi đó luôn luôn có sự đón nhận, làm “bà đỡ” cho những tư tưởng mới trong nghiên cứu văn chương.
 Theo chỗ tôi biết thì hiện nay chẳng có một cơ sở nào như thế cả.
 Cuối bài, Từ Huy có nói tới tình trạng tạm gọi là “vượt thoát” và  kể ra là đã có những trường hợp khá thành công cả trong khu vực mà tác giả có quan hệ.
Trước hết là trong sáng tác, tôi thấy những trường hợp như Nguyễn Huy Thiệp, như Bảo Ninh đúng là những nhân vật vượt thoát thành công thật. Nhưng thử hỏi là sau họ làm gì có những tên tuổi nào khác.
Thứ nữa, nay các tác tác giả này đã được các tài liệu  chính thống công nhận đâu. Trong xã hội, Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp vẫn được hoan nghênh được in lại. Nhưng họ không bao giờ được đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
Khi cần kể thành tựu của giới nghiên cứu, Từ Huy có phần lúng túng hơn. Những ưu điểm tác giả nêu ra ở đây chỉ hạn chế trong việc sử dụng những lý thuyết văn học ở nước ngoài vào để thúc đẩy tình hình trong nước.
Về mặt số lượng, tôi cho là người đi theo phương hướng này còn rất ít.
Hơn thế phải nói thẳng là những thành công của nó còn ở mức rất khiêm tốn. Trong những trường hợp tốt nhất thì chúng ta mới may mắn được coi là những người thuộc bài, còn việc áp dụng những kiến thức đó vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam – xin lỗi cho tôi nói một cảm giác mà có thể nhiều người không đồng ý – còn chưa có thành tựu nào đáng kể.
Trong một bài viết gần đây, tôi có nói rằng giáo dục ở ta nói chung đang trong tình trạng vô phương cứu chữa. Một trong những luận cứ của tôi là giá kể bây giờ có chương trình đúng đắn, sách giáo khoa đúng đắn thì cũng không lấy đâu ra người để dạy các chương trình  đó cả. Và người ta cũng không biết làm gì với hàng triệu giáo viên đang đứng trên bục giảng hiện nay; ở họ, có một cái gì đó đã cứng lại rồi, họ không thể thay đổi được nữa.
Với giới đại học cũng thế.                                                           
                                    II/ THỬ XÁC ĐỊNH MỘT THỰC TRẠNG
Khi điểm lại tình hình,  Từ Huy có ngỏ ý “trách móc” rằng sao từ ngày xảy ra cái vụ phê phán luận văn này, sau vài lời phản biện yếu ớt, trong giới không thấy nhiều người lên tiếng.Trong khi tỏ ý lo lắng cho tình hình từ nay về sau, tác giả thỉnh thoảng không quên giảng giải cho mọi người thế này mới là nghiên cứu, thế kia mới là khoa học.
 Tôi thì tôi thấy cách cư xử  của cả giới KHXH  như vừa rồi là nằm trong bản chất và lý do tồn tại của nghề nghiệp. Có một guồng máy đã hình thành, họ vừa là sản phẩm, lại vừa là các thành tố góp phần vận hành  guồng máy đó. Bận lắm, quay cuồng lắm! Về chuyện nên làm thế nào, họ không có thời gian mà nghĩ đến nữa. Cái phần tự vệ trong mỗi người luôn luôn mách bảo họ rằng biết ra chỉ thêm phiền, tốt hơn là đừng nghĩ.  
Cáo trạng và biện hộ
Đi vào cụ thể hơn.
 Từ Huy tự hỏi nguyên nhân của  vụ phê phán Luận văn về Mở Miệng xuất phát từ những hiềm khích cá nhân hay xuất phát từ một chủ trương
Trả lời: là chủ trương. Để mượn lại chữ của Từ Huy, chẳng có  “nhát dao nào là mù quáng cả“.
        Từ Huy cảnh báo: Điều gây tuyệt vọng không phải chỉ là sự tái bùng nổ đáng ngạc nhiên của những cây bút phê bình dao búa [ …] mà còn là (và có lẽ chủ yếu là) biểu hiện của thái độ chấp nhận đầu hàng ở giới đại học. Chính sự chấp nhận này rất có thể sẽ đẩy KHXH&NV vào tử lộ.
Trả lời: Không đầu hàng sao được! Đến những Trần Văn Giàu Trần Đức Thảo Nguyễn Mạnh Tường Đào Duy Anh Trương Tửu… cũng phải mất chức khi người ta đã chẳng cần, nữa là những cá nhân mới nẩy nòi lên chính trong tay nhà cầm quyền mấy chục năm nay. Dựng lên thành bụt đạp xuống thành đất ngay, chuyện đâu có lạ.
Còn lo rằng, do đó, nó –  bộ môn KHXH mà chúng ta đang quan tâm --  sẽ  suy tàn  ư ? khó lòng sống sót ư?  Người ta đã đẻ, người ta sẽ nuôi. Cái việc phù phép cho nó trở thành sống động đâu có quá khó.  Người ta sẽ biểu dương nó, khen ngợi nó. Cấp tiền nuôi nó. Ban cho nó danh hiệu. Giới thiệu nó với giới khoa học quốc tế (còn việc quốc tế có công nhận không thì không cần biết). Còn muốn gì nữa?
 Từ Huy nhắc tới một chân lý: không có tự do học thuật thì khoa học không thể phát triển được.
Trả lời: Trên nước Việt Nam này, không có thứ  KHXH  mà Từ Huy hiểu và các nước người ta vẫn hiểu. Ngược lại, ở ta, cũng như ở nước Nga xô viết trước đây, nó có một cái nghĩa riêng. Theo nghĩa này, tự nó vẫn phát triển chứ đâu có dừng lại. Cái làm cho nó phát triển không phải là tự do mà là  các … mệnh lệnh chỉ thị hồi trước và và các đơn đặt hàng. Cái đó thì hiện nay không thiếu, không bao giờ thiếu.
 Từ Huy viết : Người nghiên cứu cũng có quyền nhìn đối tượng theo cách của mình, có quyền đưa ra một quan điểm nghiên cứu và chứng minh quan điểm đó bằng các lý lẽ lập luận được thể hiện trong công trình của mình. Quan điểm đó đúng hay sai, có thuyết phục người khác hay không, đó là chuyện cần phải tranh luận, nhưng người nghiên cứu không thể bị vùi dập vì quan điểm  riêng.
Trả lời: Không. Ở KH XH Việt Nam, khi đã nhận những chức danh như giáo sư tiến sĩ , người ta không có quyền có quan điểm riêng, lại càng không có quyền có quan điểm sai (so với cái đúng mà nhà nước quy định). Chỗ riêng tư anh có vụng trộm nói khác nghĩ khác, tôi tạm tha. Nhưng công khai thì không. Cái chuyện ăn đòn (= vùi dập) khi làm sai là chuyện đương nhiên.  Anh có vì thế mà chết cũng chẳng ai thương tiếc. Cố nhiên, người đứng đắn thì sẽ ăn đòn xong lại đứng dậy, nhưng đó là việc riêng của anh.
Sức sống dai dẳng
 Từ Huy lo một khối băng giá đang ngự trị trong cả giới. Và tác giả đặt giả thiết:
Đằng sau sự im lặng của giới đại học  [ …  ] có thể đọc thấy điều gì? Nỗi sợ hãi? Sự hạn chế về năng lực chuyên môn? Sự tê liệt khả năng phản ứng? Sự thờ ơ vô cảm (coi đấy không phải là việc của mình)? Sự chuẩn bị tâm lý cho một quá trình chịu đựng vô điều kiện những áp đặt từ trên xuống, bất kể những áp đặt đó phi lý như thế nào, một quá trình chịu đựng lâu dài chưa biết bao giờ mới kết thúc?
Trả lời: Tất cả sự dự đoán của tác giả là đúng. Nhưng cần biết thêm, cách phản ứng của con người hiện nay nói chung -- chứ không phải riêng của các “nhà” KHXH -- bị điều kiện hóa rất chặt chẽ  và đó chỉ là một bộ phận trong sự chịu đựng hàng ngày. Đừng quá hy vọng ở họ. Họ sẽ chẳng chết như đã chẳng sống. Họ sẽ như thế này… mãi. Và sống có lý có lẽ, có sự tự tin cẩn thận.
Hồi chống Mỹ, miền Bắc tức “bên thắng cuộc” sống trong một tình thế bị cắt đứt hoàn toàn với giới khoa học bên ngoài. Phía tư bản thì những Freud, Kafka, Sartre, Camus , Levy Strauss …đều phản động hết không nói làm gì.  Ngay cả với thế giới XHCN cũng vậy. Trung Quốc rơi vào cách mạng văn hóa, còn Liên Xô bị coi là xét lại, là một thứ nấm độc cần phải từ chối.
Những năm đó, bao nhiêu sinh viên và thực tập sinh đang học các ngành KHXH ở Liên xô và Đông Âu đều bị gọi về dù học còn dang dở.
 Tôi tuy chỉ ở bên văn chương nhưng mọi chuyện bên khoa học cũng được biết ít nhiều, vì  cả hai khu vực này đều trong phạm vi chi phối của ông Tố Hữu. Tôi nhớ có một tư tưởng của Tố Hữu, do giới  tuyên huấn lúc ấy cho lan truyền, cho rằng về khoa học tự nhiên thì chúng ta có thể kém các nước, nhưng còn về khoa học xã hội thì  ta là nhất, các nước khác cắp sách đến học chúng ta.
Về sau này, những tư tưởng đó có thể được trình bày kín đáo hơn, nhưng theo tôi thấy nó không bao giờ mất hẳn. Và nó biến hình thành những tư tưởng tinh vi hơn, chẳng hạn về cái gọi là tinh thần dân tộc trong nghiên cứu xã hội. Riêng nó đủ tạo nên sức sống dai dẳng của các loại các bộ môn  được gọi là khoa học hôm nay.
 Mức độ suy đồi
Không phải trong giới không còn những người muốn làm khoa học xã hội thực sự.
Ở đây cũng những người  được đào tạo đúng bài bản từ nước ngoài về. Và ngay trong những người chỉ là dân nội địa có những người  do lương tri và học hỏi mà cảm thấy lẽ ra  chúng ta phải có một thứ khoa học khác.
Tuy vậy, trong thực tế, có hai khía cạnh phải tính tới.
 Một là  ngay từ điểm xuất phát, giới đại học ở ta, nhất là bên KHXH, đã được hình thành theo kiểu ba vạ. Không ít người trong họ ban đầu là những cán bộ tuyên truyền chỉ giỏi về xách động, thiếu chuyên môn nhưng lại thừa ý chí, xông vào đủ mọi lĩnh vực và nay hóa ra những nhân vật đầu đàn, những pioneer (tạm dịch: người đặt nền móng) cho KHXH  VN hiện đại.
Việc bảo vệ con đường đã qua của KHXH hôm nay là lẽ sống của họ. Cố nhiên họ thừa hiểu mọi cố gắng đưa ngành này vào quỹ đạo của KHXH thế giới đều có nghĩa là phủ định công lao và vai trò của họ, đời nào họ cho phép.
Hai là  mấy chục năm nay,  tình trạng ọp ẹp ngành này kéo dài. Trên cái mặt bằng quá thấp của giáo dục nước ta, KHXH chính là khu vực trũng nhất. Học sinh phổ thông giỏi đi học y khoa, học tin học, học kinh tế… chứ mấy ai chịu theo bên văn bên sử. Khi vào ngành rồi, thì lại có sự sàng lọc tiếp theo, theo phương châm “ hồng trước chuyên sau”.
Ở các ngành khoa học tự nhiên, thì  sự kém cỏi còn khó che giấu. Chứ ở đây, cứ mạnh mồm là được. Không có gì lạ nếu bộ phận kém cỏi và hoạt đầu trong KHXH, lại được coi là bộ phận đáng nâng đỡ và dần dần đóng vai thao túng tình hình.
Những người ưu tú thì bị chèn ép, chỉ riêng việc chống lại chủ nghĩa bình quân cũng khiến họ tiêu mòn sức lực.
Quan trọng không kém là vai trò của đãi ngộ. Trong khi các cán bộ có thiện chí khoa học cô đơn, và thiếu đủ mọi điều kiện để làm việc, thì những kẻ nịnh nọt, một lòng một dạ kiên trì thứ khoa học minh họa tha hồ được khen thưởng, được cho đi học nước ngoài, được cấp những khoản kinh phí lớn để “nghiên cứu”, những gì họ viết ra được đưa vào sách giáo khoa chính thức giảng dạy cho hàng triệu sinh viên học sinh.
Các nhà nghiên cứu trẻ có phải là thánh cả đâu ? Bao nhiêu thông minh  vốn có trong họ trước tiên được sử dụng để thích ứng với hoàn cảnh mà cũng là để tìm cho mình một chỗ đứng. Nhu cầu tự do và khả năng học hỏi ở mỗi người dần bị mài mòn, người trước kẻ sau họ đều rơi vào cái quỹ đạo đã được vạch sẵn.
 Xét đại trà, bộ mặt của giới nghiên cứu đã hình thành đúng như sự nhào nặn của những người trả lương họ. Để đỡ phiền phức, càng ngày , những người trong cuộc càng tự mình thỏa mãn với công việc và trình độ của mình, không ai có ý ân hận và lo lắng về sự xa cách giữa KHXH Việt Nam và KHXH thế giới.
Không có gì là khó hiểu trong cái định hướng mà cả giới đã chọn. Thắc mắc mà làm chi khi bây giờ khi đại cục cũng đã hỏng, tôi chỉ một con chim non bé bỏng –vứt trong lồng con giữa một lồng to.(Tố Hữu).Trong khi đó, nhìn đi nhìn lại hóa ra so với ngày hàn vi mình nay cũng không đến nỗi nào. Phần lớn các nhân vật khôn ngoan trong giới đã đạt tới cai đích mà họ ôm ấp.  Giáo sư cũng có, tiến sĩ “ như lợn con”, viện sĩ hàn lâm nếu muốn rồi anh cũng có thể có.
Khi những điều kiện vật chất được thỏa mãn thì những đòi hỏi về tinh thần dần dà rồi cũng tan biến.
 Từ Huy đặt vấn đề trách nhiệm Chỉ còn hy vọng khi những người làm nghiên cứu ở Việt Nam, với tư cách cá nhân, vẫn giữ được cho mình quan điểm độc lập so với quan điểm chính thống này. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ phải nhìn thấy trách nhiệm của chính họ […]trong sự suy tàn của ngành KHXH&NV
Theo tôi hiểu, với giới nghiên cứu KHXH hiện nay nêu ra hai chữ trách nhiệm là thứ xa xỉ.
Trong nhiều luận văn công bố gần đây, Từ Huy đã giảng giải cho chúng ta thấy giới đại học phải có một cách hoạt động như thế nào, người làm khoa học xã hội phải có trình độ và tư cách  như thế nào.
Chẳng hạn tác giả có nói đến yêu cầu của giới khoa học là đi tìm chân lý chứ không phải đi tìm cái đúng và nhiều khi họ nghiên cứu mà họ không biết rằng mình sai hay đúng.
 Về phần mình, tôi ngờ rằng những điều đó ngày càng khó nghe đối với giới nghiên cứu hiện nay, vì chúng đánh vào lòng tự ái của họ, lương tâm của họ, là điều mà chính họ muốn quên lãng và không muốn ai nhắc lại nữa.
Từ Huy có lẽ đã cảm thấy điều đó khi mở đầu  bài viết bằng đoạn cảm thánVẫn biết rằng những gì nói ra ở đây có thể chẳng ai nghe, có thể chẳng nhận được sự hồi đáp nào, mà có khi lại tự gây nguy hiểm cho bản thân, chuốc lấy sự thù ghét của đồng nghiệp. Nhưng đã cầm bút thì không làm khác được. 
Đây tôi không nói rằng việc giới nghiên cứu im lặng là tốt, nhưng chúng ta cần phải thông cảm với họ. Họ được đào tạo theo những cách khác và đặt quyền lợi khoa học của mình ở những điểm khác. Nêu ra những yêu cầu bên ngoài đối với họ, là làm phiền họ và cũng chỉ gây thất vọng vì sẽ chẳng bao giờ mà yêu cầu đó được thỏa mãn.
 Sống tiếp như thế nào đây
Chúng ta thường chỉ lo lắng là có vẻ như KHXH ở ta hiện nay không có thành tựu. Cái đáng lo hơn là con người. Khi con người đã hỏng thì làm ra cái gì có giá trị nữa.
Một bạn theo dõi tình hình khoa học ở Nga kể với tôi câu chuyện sau:
Đúng năm 1991, khi Liên xô sụp đổ thì một nhà khoa học trẻ bảo vệ thành công một luận án xuất sắc về chủ nghĩa vô thần. Đó là một người hết sức thông minh. Ông hiểu rằng cả tuổi trẻ của ông đã đi vào con đường sai lầm. Cảm thấy không có lý do để sống nữa, ông nhẩy lầu tự tử.
Ở ta không có những con người như thế. Trong trường hợp tốt nhất chúng ta chỉ có những người như Trần Quốc Vượng đã mô tả, cái gì cũng có một chút. Một chút phải đạo một chút chống đối làm dáng. Một chút khoa học, một chút một chút  xẩm chợ nói liều. Một chút cống hiến hết mình, một chút nhặt nhạnh kiếm chác.
Vả chăng, cái mẫu như ông Vượng cũng đang ngày một hiếm.
Thế tức là tình thế hoàn toàn tuyệt vọng hay sao? Khi tự đặt cho mình câu hỏi này, tôi tìm tới câu trả lời nước đôi. Vâng, tuyệt vọng thật . Đáng lẽ chúng ta phải có hàng trăm Bảo Ninh, hàng vài chục Nguyễn Huy Thiệp thì văn chương chúng ta mới khởi sắc được, chứ chỉ có một hai người ấy, mọi sự hy vọng đều là tự dối mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể chết như ông tiến sĩ người Nga, chúng ta phải sống. Đối với các bạn trẻ, tôi nghĩ  nay là lúc phải phân thân, vừa biết sống như mọi người, vừa dành một phần tối đa có thể để học hỏi và thầm lặng bắt tay vào, làm một cách hết lòng, làm như làm cho chính  mình những việc tử tế có đóng góp cho khoa học mà cũng là có đóng góp thực sự  cho nhân dân đất nước .
 May mà chúng ta làm khoa học xã hội, công cụ làm việc nhiều khi chỉ cần ít cuốn sách là đủ. Cũng chẳng cần chung quanh công nhận vội…Bởi cái đích của ta rất xa…Trong việc này mỗi người có thể rất đơn độc, và thất bại nữa…Và trước mắt là chịu thiệt, là không có cả danh lẫn lợi. Nhưng niềm vui lớn nhất, niềm vui của cuộc truy tìm chân lý đang chờ. Nhờ thế, lòng ta luôn luôn thanh thản.
Trong cái cuộc sống khó khăn này, có một điều theo tôi nên nghĩ. Là không phải chúng ta bi đát mà nhiều người khác trên trái đất này cũng bi đát, các trí thức Nga , các trí thức Trung Quốc , và gần đây các trí thức Afganistan, Iraq , Ai Cập… Mà  nghĩ rộng ra nữa, đọc kỹ vào văn học phương Tây thế kỷ XX, thì ở đâu chúng ta chẳng bắt gặp cái giọng đau đớn.
 Ở một trang sổ tay cũ, tôi từng chép được một câu danh ngôn, đúng hơn là một lời tự nhủ của một trí thức,  nó từng ám ảnh tôi nhiều năm, nay mới lục ra chép lại:
 Thời đại chúng ta  cốt yếu là một thời đại bi thảm bởi thế chúng ta từ chối coi nó là một cái gì bi thảm.  Cuộc đại biến động đã xảy ra, chúng ta ở giữa những đổ nát, chúng ta bắt đầu xây dựng những túp lều  trú ngụ tạm bợ và dấy lên chút hy vọng nhỏ bé mới. Đó là một công việc khá nhọc nhằn. Nay là lúc không có con đường bằng phẳng nào dẫn tới tương lai. Nhưng chúng ta sẽ đi vòng quanh hoặc bò qua những trở ngại. Chúng ta  phải sống thây kệ bao nhiêu bầu trời đã sụp.

Câu này của D.H. Lawrence (1885 - 1930), tôi đọc được từ trong một cuốn sách của ông Nguyễn Hữu Hiệu, hình như là cuốn Con đường sáng tạo in ở Sài Gòn trước 1975.




Ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD 6-11-13) -- Nguyễn Phú Trọng ký. Biết thế là đủ.

Quy định 'trên mây' trong GD: Vật đen tuyệt đối và Học thuyết củ cải (GD 4-11-13)

Nghệ thuật đương đại Việt Nam: Nên ở bên rìa xã hội? (TP 6-11-13)

Văn học Nga và những thế hệ bạn đọc Việt Nam (ĐĐK 6-11-13) Trò chuyện với dịch giả Hòang Thúy Tòan

Giáo sư Đinh Gia Khánh - Một nhà văn hóa, một nhà khoa học lớn về văn chương (VHNA 7-11-13)

Nhà văn Nguyễn Đình Thi: Phong ba, phong nhã và phong biểu (VHQN 6-11-13)

Người thả mây cho gió (CAND 5-11-13) -- Lâm Thị Mỹ Dạ (có hình Hòang Phủ Ngọc Tường -- Trời! Sao mọi người -- kể cả tôi -- bây giờ già như thế? Nhớ những năm 1960-70..., khi mình còn trẻ)

Dấu xưa: Chuyện của Sài Gòn (DNSG 6-11-13) -- Về họa sĩ Văn Y

Soạn giả Kiên Giang: Lang thang giữa "chợ đời" (CAND 6-11-13)Nhầy nhụa karaoke 'bốc hốt" - Thiên đường "đen" của phận đào tiếp bia (CAND 6-11-13)


Hồ sơ Trương Tửu: Thầy Trương Tửu của chúng tôi: một trí thức sáng danh của đất nước (VHNA 4-11-13) -- Bài Nguyễn Đình Chú

Dạy sử thời hậu chiến: làm thế nào để trưởng thành từ bài học lịch sử? (Diễn Ngôn 4-11-13)

Độc giả ở thành phố Hồ Chí Minh với sách (VHQN 5-11-13)

Khoảng trống văn hóa (DNSG 5-11-13)

Tự Lực văn đoàn: Hương văn xuyên thế hệ (SGTT 5-11-13) -- P/v nhà báo Vu Gia.

Giải Booker: Mới mở đã... rối (NĐB 5-11-13)

Vụ ĐH Hùng Vương TP.HCM: Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân chỉ đạo tạm đình chỉ con dấu (MTG 5-11-13) -- Chịu không nổi, phải xía vô!Toà chính thức thụ lý vụ bộ trưởng Giáo dục bị kiện (NĐT 5-11-13) -- Vụ Hòang Xuân Quế


- Nhà văn NHẬT TIẾN: HÀNH TRÌNH CHỮ NGHĨA (KỲ 28) (Nhật Tuấn). – Sách của Nguyễn Đắc Kiên: Hãy ngẩng mặt (DCVOnline).

- Ý nghĩa Cách mạng Tháng Mười Nga với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN (QĐND). - Những người cộng sản sám hối trước tượng đài Lenin vì ziczac của lịch sử (Polit/ Kichbu). - Ý nghĩa Cách mạng Tháng Mười Nga không thay đổi (TT). - ‘Cận cảnh’ nguyên nhân Liên Xô tan rã (TVN).

- Trung Quốc: Bom nổ liên hoàn trước Tỉnh ủy Sơn Tây (PT). - Nổ bom tại Thái Nguyên không liên quan tới vụ Bắc Kinh (ĐV).

- TQ và Hội nghị Trung ương ‘cột mốc’ (BBC).

Tổng số lượt xem trang