-1106 - SÔNG HỒNG TRỔI VƯỢT THỜI ĐẾ NGHIÊU
[Nb : Bài nầy gồm đoạn 4.4 của bài Tộc Việt Thời Hùng 1, và đoạn 4.2 của bài Việt và Hoa Thời Hùng 4A].
a. Quy Lịch.
Theo truyền thuyết, năm Đế Nghiêu thứ 5, 2191 ttl, Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần ngàn năm, trên mu có khắc chữ về chuyện trời đất vận chuyển và lịch trình cày cấy. Đế Nghiêu sai chép lại và gọi là Quy Lịch.*1
Đế Nghiêu là một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Đế Nghiêu thời 2196-2117 ttl, cách đây 4200 năm.*2
b. Việt Thượng.
Tộc Việt phát xuất từ Hồ Đồng Đình từ 7000 năm trước.
Khi đã thêm đông đúc, vì hạ lưu Sông Dương Tử còn úng nước, và vì thượng lưu Dương Tử lại nhiều núi rừng hiểm trở, Dân Việt đã phát triển ngược lên vùng Thượng lưu Sông Tương. Cũng vì vậy, vùng nầy được gọi là Việt Thượng. - [Phải gần 3000 năm sau, với việc Đại Vũ trị thủy, vùng Hạ lưu Dương Tử mới phát triển, và có tên là Đất Hạ, Nhà Hạ].*3
Việt Thượng theo vết chân Dân Việt mà lan rộng xuống miền Nam. [Việt Thượng biến thanh thành Việt Thường].*4
Theo đường sông và thung lũng, dân Việt vượt thượng nguồn Sông Tương, qua Sông Quế xuôi về nam, tới vùng sông lớn Tây Giang. [Từ khi có ghi chép, đây là con đường nổi tiếng, nối liền Trường Sa, Hàng Dương, Quế Lâm, Liễu Châu].
Thượng nguồn Sông Tương còn có nhánh Sông Lỗi, qua Sông Bắc, dẫn tới cửa biển Tây Giang. [Hiện nay trở thành con đường Trường Sa, Hàng Dương, Thiều Quan, Phiên Ngung (nay là Quảng Châu)]. [Bản đồ].
Tuy nhiên, lưu vực Tây Giang không đủ thuận hợp cho việc phát triển lớn của Tộc Việt chuyên nghề Lúa Nước và sông hồ.
Vì vậy, một nhóm dân Việt đã từ Tây Giang ngược thung lũng và giòng Sông Tả, vô Bắc Phần Việt Nam. [Hiện nay là đường Hà Nội, Lạng Sơn, Nam Ninh, Liễu Châu, Quế Lâm, Hàng Dương, Trường Sa].
Nhóm khác từ cửa Tây Giang ven theo biển vào Vịnh Bắc Phần, tới vùng Sông Hồng và Sông Mạ, trong lành phì nhiêu.
Với thời gian, nhờ vùng đất thuận hợp và phì nhiêu, Dân Việt vùng Sông Hồng Sông Mạ đã trổi vượt.*5
* *
Trong mấy ngàn năm gần đây, chủ trương và sách vở Trung Hoa đã đánh lận, di chuyển thời tiền sử của Tộc Việt vùng Đồng Đình trở thành nguồn gốc tộc Hoa ở vùng Hoàng Hà. Dầu vậy, truyền thuyết Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần ngàn năm cho Đế Nghiêu vẫn là truyền thuyết quan trọng và phổ thông.
Rùa Thần khổng lồ ngàn năm là loại ba ba đặc biệt của vùng Sông Hồng. Hiện nay ba ba khổng lồ vẫn còn sinh sống ở nhiều nơi trong lưu vực Sông Hồng và Sông Mạ. Hồ Hoàn Kiếm và Tháp Rùa đã nổi tiếng nhờ loại ba ba nầy. Con ba ba hiện chưng ở đền Ngọc Sơn dài 2,1m, ngang 1,2m, nặng 250 kg.
Ngoài lưu vực Sông Hồng, hiện chỉ còn 2 con ba ba loại nầy được phát hiện ở sông Dương Tử, ở sở thú Tô Châu.
Ở khắp vùng Việt Thượng, không có loại rùa hoặc ba ba khổng lồ nào khác.
Như vậy, Rùa Thần Việt Thượng chính là Rùa ngàn năm từ Sông Hồng. Tên khoa học của loại ba ba khổng lồ nầy là Rafetus Swinhoei.*6
* *
Truyền thuyết lại ghi nhận trên mu Rùa Thần Việt Thượng có khắc chữ ghi việc trời đất vận chuyển, và có lịch chỉ dẫn thời tiết trồng cấy. Đế Nghiêu chép lấy, gọi là Quy lịch.
Như vậy, từ năm 2191 ttl, thời Đế Nghiêu, cách đây 4200 năm, Dân Việt vùng Sông Hồng đã vượt trổi hơn vùng Đồng Đình của Đế Nghiêu, về kỹ thuật và kinh nghiệm nông nghiệp Lúa Nước, về chữ viết, về thời tiết, về thiên văn, và về lý thuyết cao siêu.
Đây là chứng cứ súc tích ghi nhận sự phát triển tiên tiến vừa về văn minh, vừa về văn hóa, văn học của Dân Việt Sông Hồng. Vùng Sông Hồng trở thành Trung tâm Phát triển bậc nhất của Tộc Việt và của toàn vùng Đông Á cách đây hơn 4000 năm.
Dân Việt Sông Hồng ghi nhớ và lưu truyền giai đoạn đặc biệt nầy với truyền thuyết : ‘Việt Nam có 4000 năm văn hiến’. Hiện nay, đã là 4200 năm. [2191 ttl + 2013 dl = 4204].*7
* *
Ngoài truyền thuyết sứ giả Việt Thượng tặng Rùa Thần cho Đế Nghiêu năm 2191 ttl, còn có truyền thuyết Đại Vũ, v. 2070-2025 ttl, được Rùa Thần tặng Lạc Thư, Sách Lạc.
Sách Lạc được biểu trưng bằng 9 nhóm chấm trên lưng Rùa Thần. Nhờ đó, Đại Vũ học được cách trị thủy, đào 9 con sông mới, khai thông 9 đường núi lớn, phân chia trời đất vạn vật thành 9 nhóm, học cách thức trị dân, và thành lập Nhà Hạ năm 2070 ttl.*8
Cũng theo sách vở Trung Hoa, Chu Văn Vương cũng học Sách Lạc, và viết Kinh Dịch, khoảng gần năm 1046 ttl.*9
* *
Hãnh diện với trình độ văn minh và văn hóa tiên tiến, cũng như để lưu truyền cho con cháu những bài học ngàn đời, Dân Việt Sông Hồng đã dùng chính hình ảnh ‘Rùa Thần mang Sách Lạc’ làm biểu hiệu của mình.
Từ đó 'Sách Lạc trên lưng Rùa Thần' trở thành chữ 'Việt' 粤 của Việt Thượng, chữ ‘Việt Sách Lạc’.
Hình Rùa trở thành khuôn ngoài , với đầu, thân, chân và đuôi Rùa. 9 nhóm chấm thành các nét trên lưng Rùa của chữ Việt .
Vì Rùa Thần từ Sông Hồng ở Việt Thượng mang Sách Lạc, nên đây là dấu chỉ xác chứng Sách Lạc là của Dân Việt Sông Hồng.
Đây cũng là di tích chứng tỏ Dân Việt Sông Hồng đã tự xưng là Lạc, Việt Lạc.
Cho tới hiện nay, những vùng đất thuộc Việt Lạc vừa bị sáp nhập vào đất Trung Hoa, như Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, và Hải Nam, vẫn còn dùng chữ Việt Sách Lạc nầy 粤 cho tên Việt 粤 của mình. [Họ tự xưng là Việt Tây, Việt Đông...].
Cùng với lịch sử, đây cũng là dấu chứng dân vùng Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, và Hải Nam, cũng thuộc dân Việt Lạc.*10
* *
Như vậy, theo địa lý, chủng tộc, và lịch sử, vào Thời Hùng 1, 2879-2070 ttl, toàn vùng đất rộng lớn, từ thượng lưu Sông Tương xuống phía Nam, là vùng Việt Thượng của dân Việt Lạc, với trung tâm là lưu vực Sông Hồng, trị sở là Việt Trị.*11
Ngày nay, Việt Thượng của Việt Lạc bao gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, một phần Phúc Kiến, một phần Vân Nam, Lào, và phía Bắc Việt Nam, xuống tới Hải Vân. [Đây chỉ là vùng Việt Thượng. Việt Lạc còn bao trùm cả Quý Châu, Hồ Nam, và một phần Giang Tây, lên tới Hồ Đồng Đình].
* *
a. Đông đúc trù phú.
Với nhiều thuận hợp về thủy thổ, đồng ruộng, sông hồ, và khí hậu, vùng Sông Hồng Sông Mạ đã phát triển mạnh, và trở thành trung tâm của Việt Thượng. Cũng do đó, những kỳ tích của vùng Sông Hồng được coi là truyền thuyết của Việt Thượng.
Từ năm 2000 ttl, cách đây 4000 năm, đã là thời phát triển đồ đồng.
Từ năm 1000 ttl, đồng thời với Nhà Chu lập nghiệp ở phương Bắc, vùng Đông Sơn trên bờ Sông Mạ, Thanh Hóa, đã để lại nhiều Thạp và Trống đồng tuyệt kỹ, lưu lại dấu tích của nền kỹ nghệ phồn thịnh, với những tuyệt tác vượt thời gian.
Những tài liệu về thời cách đây 2000 năm cũng đã chứng tỏ sự phát triển trổi vượt, đông đúc và trù phú của Sông Hồng đương thời và trước đó.
Theo Từ Tùng Thạch trong Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, so sánh dân số thời đó đã cho thấy Giao Chỉ có đông người nhất, số người trong mỗi gia đình cũng đông nhất.*12
- Quảng Đông Tân Ngữ của Khuất đại Quân : ‘Giao Chỉ mỗi năm nộp thóc hơn 1360 vạn hộc. Tính ra tất cả thuế các châu Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu gộp lại cũng không bằng’.*13
b. Thanh bình thịnh vượng.
Một đặc điểm quan trọng khác là trong suốt thời gian mấy ngàn năm, ngay cả trong hơn 800 năm thời Chu, 1046 – 206 ttl, trong khi phương Bắc luôn chiến tranh hỗn loạn, Việt Lạc lại phát triển trong thanh bình thịnh vượng.
Chính cuộc sống thịnh vượng và thanh bình nầy đã là dấu chứng cho những phát triển về mọi mặt, không chỉ kỹ thuật trồng cấy, kim loại, đồ gốm... mà nhất là về văn hóa, văn học, về sách vở, về tư tưởng, học thuyết...*14
* *
Ghi chú :
*1 - Theo Thông Chí do Trịnh Tiều, 1104-1162 dl, và Cương mục Tiền Biên do Lý Kim Tường.
*2 - Niên đại ghi theo Hạ Thương Chu niên biểu, do Hạ Thương Chu Đoạn Đại Công Trình, 2000.
*3 - Đọc bài 1107 Tộc Việt Thời Hùng 2, đoạn 3.1.
*4 - Cũng vậy, Việt Trị thành Việt Trì. (Sông) Mạ được ghi thành chữ Mã... - Về Đặc tính chữ Tượng hình, đọc thêm bài 1102 Vài Minh định về Lịch sử Văn hóa Địa lý, đoạn 3.2.
*5 - Đọc bài 1103 Tộc Việt thời Khởi Nguyên, phần 5.
*6 - www : Rafetus Swinhoei / wikipedia.
*7 - Đọc bài 1108 Tộc Việt Thời Hùng 3, đoạn 7.2.
*8 - Đọc bài 1107 Tộc Việt Thời Hùng 2, đoạn 3.3.
*9 - Đọc thêm bài 1110 Tộc Việt Thời Hùng 4A, mục 5.1a.
*10 - Thời trước, tên ‘Việt’ có 3 cách viết khác nhau :越, 粵, 鉞. - Đọc thêm bài 1403 Bốn Chữ Việt Linh Thiêng, phần 2.
Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, và Hải Nam, vừa bị chia ranh khỏi Đại Việt từ năm 906 dl, cách đây 1000 năm. - Đọc thêm bài 1102 Vài Minh định về Lịch sử Văn hóa Địa lý, mục 5.2e.
Vì ở phía Nam của Ngũ Lĩnh, nên sách vở từ thời Hán còn gọi là Việt Thượng là vùng Lĩnh Nam. - Bản đồ bài trên, mục 5.2a.
Từ sau 906 dl, Đại Việt chỉ học chữ nho trong sách vở, nên dùng chữ Việt cổ điển 越.
Ngoài Sách Lạc, học thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo Đức... đều có nguồn gốc Việt Lạc Sông Hồng. - Đọc thêm các bài về Nguồn gốc Lạc Hồng của các Học thuyết (1303 tt).
*11 - Trị sở nay gọi là thủ phủ, thủ đô. - Về các Thời kỳ trong Thời Hùng, đọc bài 1402 18 Vua Hùng : 9 Vua Hùng Bà, 9 Vua Hùng Ông, đoạn 2.2.
*12 - Nxb Thượng Hải, 1947.
*13 - Đọc Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quí Đôn, 1772, bản dịch Phạm Vũ, nxb Tự Lực, Sàigòn 1974, tr 149. Đọc thêm bài 1110 Tộc Việt Thời Hùng 4A, đoạn 4.2.
*14 - Nhưng về sau, Trung Hoa đã soán đoạt, tiếm nhận, hủy hoại, chuyển đổi, xuyên tạc.
_____________________
Nguyễn Thanh Đức 2013.