Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2014

LÀM VIỆC NƯỚC Theo Văn Hóa Việt - TRUYỀN KỲ TIẾT LIÊU

-Thân tặng Bà Con chuẩn bị Mừng TẾT với Bánh Chưng, Bánh Dày, Bánh Tét, Bánh Tổ. - http://danhgiactau.com
2105 - LÀM VIỆC NƯỚC - TRUYỀN KỲ TIẾT LIÊU


LÀM VIỆC NƯỚC Theo Văn Hóa Việt -TRUYỀN KỲ TIẾT LIÊU



1. DẪN NHẬP
Truyền kỳ TIẾT LIÊU ghi lại diễn tiến một cuộc thi tài để nối ngôi vua. Vì vậy, Truyền kỳ Tiết Liêu hàm chứa nhiều bài học gồm tóm quan niệm Làm Vua, Làm Việc Nước, của Văn hóa Việt.
Đề tài cuộc thi là tìm kiếm lễ vật thích đáng để dâng cúng Tổ Tiên.
Ngoài Dân Việt, có dân tộc nào lấy tiêu chuẩn làm vua là việc tìm kiếm lễ vật thích đáng để dâng cúng Tổ Tiên ? Không cần trưởng nam, không cần tài cầm quân, không cần giết người cướp của ! Chỉ cần tìm được lễ vật thích đáng, là được làm vua. Lạ lắm, mà cũng thực tế và thâm thúy lắm !
- Truyền kỳ Tiết Liêu đã đặt nền tảng cho quan niệm An Dân Thịnh Nước. Đặc biệt, giúp đời sống Dân Nước thể hiện hai nguyên lý nền tảng của Xã hội Loài Người là Thân Thương tột cùng và Bình Đẳng tột cùng..
Truyền kỳ Tiết Liêu loại bỏ những thể chế độc tài toàn trị, với bọn quyền chức tham tàn hống hách, cũng như giải quyết những tệ đoan của xã hội dân chủ chuyên chế, với nạn dân chủ đấu thầu, dựa trên quảng cáo, mị dân, và thủ đoạn... hiện nay !
*     *     *     *
2. TRUYỀN KỲ TIẾT LIÊU
Vua Hùng chọn người kế vị, nên ra lịnh hễ hoàng tử nào tìm được lễ vật thích đáng nhất để dâng cúng Tổ Tiên, thì được làm vua.
Trong khi các anh em đi khắp nơi tìm của quý vật lạ, Tiết Liêu lại chỉ tìm quanh quẩn ở nhà. Nhưng rồi Tiết Liêu được một cụ già quắc thước hiện ra dạy cách dùng gạo làm bánh để cúng. Theo đó, Tiết Liêu gói gạo nấu thành bánh chưng và giã xôi thành bánh dày.
Tới ngày hẹn, Tiết Liêu dâng hai cái bánh và được làm vua.
Từ đó, bánh chưng bánh dày được dùng để cúng tế trong những ngày tết lễ.
*     *     *     *
DIỄN TRUYỆN
3. GIỚI THIỆU VIỆC NƯỚC
3.1 Lo Cho Dân.
Truyền kỳ Tiết Liêu ghi lại diễn tiến một cuộc thi tài để nối ngôi vua. Theo truyền thống Văn hóa Việt, làm vua là một công tác lo cho dân. Vì vậy, Truyền kỳ Tiết Liêu hàm chứa nhiều bài học cho Người Làm Việc Nước.
Ngày nay, người Làm Việc Nước được hiểu là bất cứ ai tham gia chính quyền hoặc can dự tới đời sống người dân.
*     *
3.2 Vấn Đề Truyền Ngôi.
a. Người tìm Lễ vật.
Theo thói quen ở các nền văn hóa, ngôi vua thường được truyền cho trưởng nam hoặc cho hoàng tử nào có khả năng và công trạng nhất.
Theo lịch sử các dân tộc, công trạng và tài năng đó thường được đánh giá bằng những thắng lợi quân sự hay chính trị. Ai chiếm được nhiều của nhiều đất, bắt được nhiều nô lệ... người đó xứng đáng làm vua.
Vì vậy, thực là lạ lùng cái tiêu chuẩn Vua Hùng đặt ra để chọn người kế vị. Vua đã không truyền ngôi cho trưởng nam, cũng không thi tài bắn cung múa kiếm hay tài điều binh khiển tướng, mà thi tìm kiếm lễ vật thích đáng nhất để dâng cúng Tổ Tiên.
b. Đặc trưng Việt.
Tiêu chuẩn thực oái oăm, lạ lùng. Nhưng chính điểm lạ lùng đó là dấu hiệu đặc trưng và là sự trổi vượt của Văn hóa Việt.
Lệ truyền ngôi vua theo vị thứ các hoàng tử, thực ra đã không chú trọng đặc biệt tới những điều kiện tài trí và đức độ của ngôi vua, và giao phó việc an dân thịnh nước cho sự may rủi của khả năng đứa con được sinh ra trước.
Việc truyền ngôi theo tiêu chuẩn tài ‘cướp người chiếm của’ thì rõ ràng đã bộc lộ chủ trương tự tôn vụ lợi, coi người khác là phương tiện phục vụ cho tham vọng của mình.
Trong khi đó, Văn hóa Việt lại nhìn thấy trong việc tìm kiếm lễ vật dâng cúng Tổ Tiên gồm đủ mọi tiêu chuẩn cần thiết cho một ông vua, cho một người Làm Việc Nước.
Chính nền tảng khác biệt nầy đã làm cho vua chúa nước ta, Nền Quân Chủ Việt, khác hẳn mọi nền quân chủ ở các nước khác.
*     *     *     *
4. PHẨM CÁCH NGƯỜI LÀM VIỆC NƯỚC
Khi chọn người, khi ra cuộc thi, việc đầu tiên chính là tìm hiểu tư cách của các ứng viên.
4.1 Con Người Thừa Hành.
Để cho nối ngôi, Vua Hùng đặt tầm quan trọng đặc biệt vào sự kiện các hoàng tử phải lo việc thờ kính Tổ Tiên.
Khi quan tâm tới việc thờ kính Tổ Tiên, người trị nước luôn nhớ rằng mình không phải là chúa tể tối cao. Trong việc an dân, cùng với ông ta và trên ông ta, còn có những Vị Khuất Mặt. Các Vị đó sẽ xét đoán, khen thưởng hoặc trách phạt ông.
Chính nền tảng thờ kính Tổ Tiên nầy đã giúp người Làm Việc Nước luôn nhớ tới thân phận Con Người của mình. Hơn nữa, quyền chức cao sang cũng chỉ là phương tiện thừa hành công tác lo cho Dân Nước.
Nhờ đó, họ tránh khỏi tự kiêu tự mãn quá đáng, khỏi mang ảo tưởng mình là độc tôn xuất chúng, siêu phàm, là thần là thánh... như nhiều vua chúa trong các văn hóa khác.*1
*     *
4.2 Mang Nặng Trách Nhiệm.
Không những nhấn mạnh tới điều kiện của người Làm Việc Nước là phải nhận thực thân phận con người của mình, việc thờ kính Tổ Tiên lại còn nhắc nhớ công ơn dựng nước của tiền nhân.
Đất nước hôm nay không phải là do một người, một dòng họ hay một nhóm người gầy dựng, mà là công lao xương máu của cả dân tộc, của mọi người dân, trải hàng mấy trăm đời liên tục.
Nhờ thờ kính Tổ Tiên, người làm vua luôn ghi nhớ sự đóng góp của mọi người và ý thức tiếp tục sứ mạng cùng với toàn dân nối tiếp và phát huy sự nghiệp của Tổ Tiên.
Làm việc nước là mang nặng trách nhiệm, chứ không phải để thao túng quyền chức, hoặc vui chơi hưởng thụ.*2
*     *
4.3 Đủ Tâm Đủ Trí.
Đã đặt nền tảng trị nước trên lòng thờ kính Tổ Tiên, Vua Hùng còn nhấn mạnh tới việc phảitìm kiếm lễ vật thích đáng.
Tìm kiếm tức là phải vận dụng tối đa tài trí của mình để đạt mục tiêu. Thực vậy, dầu có tận tâm tận lực, dầu có đem hết mọi khả năng, mọi thì giờ, nhưng nếu thiếu tài thiếu trí, thiếu khôn ngoan sáng suốt, thì cũng không thể nào nhận biết và tìm được lễ vật thích đáng nhất.
Vì vậy, khi Vua Hùng ra lệnh cho các hoàng tử đi tìm lễ vật, chính là để nhận biết người nàođủ tâm đủ trí cho công cuộc an dân thịnh nước.
*     *
4.4 Biết Rõ Công Tác.
Về phần lễ vật, để là lễ vật thích đáng dâng cúng Tổ Tiên, thì lễ vật đó phải biểu lộ đầy đủlòng thành kính, cũng như tâm tư và quan niệm sống của người dâng cúng.
Vì vậy, để được kế vị vua, lễ vật thích đáng phải biểu lộ đầy đủ quan niệm an dân thịnh nước của một ông vua.
Do đó, người tìm được lễ vật thích đáng nhất cũng chính là người quan niệm việc nước đúng đắn nhất, biết rõ công tác nhất, và biết cách thực thi hữu hiệu nhất.
*     *
4.5 Phẩm Cách Làm Việc Nước.
Như vậy, khi ra lịnh tìm kiếm lễ vật dâng cúng Tổ Tiên, Vua Hùng đã gồm tóm trọn vẹn quan niệm của Văn hóa Việt về Người Làm Việc Nước. Người đó phải biết mình chỉ là kẻ thừa hành, biết gánh trách nhiệm, biết dùng tài trí, và biết đích xác công tác an dân thịnh nước.
* Để thể hiện các nguyên tắc trên, để bài học thêm cụ thể và thực tế, Truyền kỳ Tiết Liêu tiếp tục khai triển chi tiết về việc xử dụng tài trí và về công tác an dân thịnh nước.
*     *     *     *
5. TÀI LÀM VIỆC NƯỚC
5.1 Thi Tài An Dân Thịnh Nước.
Lịnh Vua Hùng đã truyền, cuộc thi đã bắt đầu, các hoàng tử nao nức ra đi tìm kiếm lễ vật.
Đây là giai đoạn mọi người phải tỏ ra mình đủ tài đủ trí để làm vua. Vì vậy, đây chính là phần tìm hiểu tài an dân thịnh nước.
*     *
5.2 Căn Cứ Trên Dân.
a. Vọng ngoại.
Khi quyết tâm tìm kiếm lễ vật, có thể mọi hoàng tử đều thành tâm tận lực, không những để được làm vua, mà còn vì đạo hiếu với cha và vì lòng kính quý Tổ Tiên. Tuy nhiên, phương thức tìm kiếm của mỗi người lại khác nhau.
Khi đi khắp nơi để tìm lễ vật, các anh em của Tiết Liêu đã chứng tỏ lòng nhiệt thành của mình. Họ không sợ tốn công tốn của để hoàn thành lịnh của vua cha.
Tuy nhiên, dưới khía cạnh khác, sự kiện ‘đi khắp nơi tìm kiếm’ lại biểu lộ việc họ ít quan tâm đến những gì đang có sẵn tại trong nước. Họ cho rằng những gì quý giá ngon ngọt đều ở những nơi khác, xa xăm.
b. Lấy Dân làm Gốc.
Về phần Tiết Liêu, chàng chỉ tìm quanh quẩn ở nhà. Chàng tin tưởng ở nhà cũng có những lễ vật chứng tỏ tài an dân thịnh nước.
Làm vua là để lo cho dân nước, nên Tiết Liêu chỉ tìm ở dân nước, chỉ thấy Dân Nước.
Nơi người dân, chàng quyết tâm phát hiện lễ vật thích đáng nhất của một người lãnh trọng trách cùng với toàn dân xây dựng quê hương.
Chàng xác tín rằng : muốn dân an nước thịnh thì phải nhìn vào chính dân nước, căn cứ trên Dân, lấy dân làm gốc.
*     *
5.3 Thấm nhuần Nếp Sống Dân Tộc.
a. Cầu với Tổ.
Và rồi Tiết Liêu được hậu đãi. Chàng được một Cụ Già hiện ra chỉ dạy cho chàng.
Để biết Cụ Già là ai, ta cần nhìn Truyền kỳ Tiết Liêu trong toàn Bộ Truyền Kỳ. Ở Truyền kỳ Tiên Rồng, Cha Rồng đã dặn : ‘Khi cần thì gọi, Ta về ngay’. Ở Truyền kỳ Phù Đổng, với quyết tâm cứu nước, Vua Hùng đã lập đàn cầu Tổ, và Tổ đã về giúp. Ở đây, khi Tiết Liêu tính chuyện an dân thịnh nước, thì lại có Cụ Già quắc thước hiện ra.
Ý thức tường tận nhiệm vụ khó khăn và trọng đại của người Làm Việc Nước, chắc chắn Tiết Liêu đã thành tâm cầu khẩn Tổ. Có chuyện gì con cháu cần được Tổ giúp bằng việc chu toàn sứ mạng làm cho toàn thể con cháu của Tổ được an vui, đất nước của Tổ được thịnh vượng, sự nghiệp của Tổ được phát triển, vinh quang ?
Tiết Liêu đã cầu, và Tổ đã về.*3
b. Sống tinh thần Tổ.
Cũng như ở Truyền kỳ Phù Đổng, Tổ là biểu tượng của Hồn Nước, của sức sống, của tinh thần, của tinh hoa Văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên ở đây, khác với Truyền kỳ Phù Đổng, Tổ không có hình dung cổ quái, mà lại làquắc thước phi phàm.
Điều nầy cũng dễ hiểu. Ở Truyền kỳ Phù Đổng, con cháu đã quên Tổ, đã mất nước, nên thấy Tổ cổ quái. Ở đây, Tiết Liêu thấy Tổ quắc thước, vì con cháu đang nhớ Tổ, đang sống trong tinh thần của Tổ, và Tiết Liêu cũng đang hết lòng sùng kính Tổ, đang tìm kiếm lễ vật dâng cúng Tổ.*4
Như vậy, Tiết Liêu được Cụ Già chỉ dạy, chính là người Làm Việc Nước phải sống Tinh thần Tổ, để Hồn Nước hướng dẫn, tức là phải học hỏi, phải thấm nhuần và hành động theo tinh thần và truyền thống dân tộc.
Và do đó, làm việc nước cũng có nghĩa là thấm nhuần Nếp Sống Truyền thống của Dân Tộc.
*     *
5.4 Biết Rõ Nhu Cầu của Dân.
Cụ Tổ giúp Tiết Liêu tìm lễ vật bằng cách dạy Tiết Liêu dùng gạo làm bánh.
Khi nghe lịnh Vua Cha truyền tìm lễ vật dâng cúng, có thể mọi người đều nghĩ tới sơn hào hải vị, của quý vật lạ. Không ngờ Cụ Tổ lại dạy dùng gạo. Gạo là thức ăn thường ngày của mọi người, thì có gì là lạ, có gì là quý ?
Để thấy được thức ăn thông dụng nhất, lại là vật quý báu nhất, người Làm Việc Nước phải thực tế, gần dân, và để ý tới đời sống của dân. Gạo quý, không phải vì khan hiếm hay vì hào nhoáng, mà vì là thức ăn chính của người dân. Không gạo đồng nghĩa với đói rét, khổ cực, đau yếu, gia đình tan nát, không còn được sống xứng đáng kiếp Làm Người.
Như thế, khi dạy dùng gạo, Cụ Tổ dạy người Làm Việc Nước phải chăm sóc đời sống người dân, biết rõ nhu cầu chính yếu của người dân.
*     *
5.5 Cải Tiến Cuộc Sống.
Cụ Tổ lại dạy làm bánh, tức là dạy cách cải tiến gạo thành thức ăn đặc biệt.
Với khí hậu ở nước ta, cơm không thể giữ lâu ngày, chỉ sau vài bữa là cơm thiu. Nhưng khi cơm đã thành bánh, nhất là bánh dày, ta có thể cất ăn đến cả năm. Ngoài ra, bánh còn có mùi vị thơm ngon đậm đà hơn cơm.
Do đó, biết dùng gạo làm bánh, biết làm cho thức ăn căn bản của dân trở thành lâu bền thơm ngon hơn, chính là tài cải tiến cuộc sống người dân, tài làm cho người dân no ấm hơn, vững ổn hơn, vui sướng hơn.
*     *
5.6 Phương Thức Làm Việc Nước.
Như thế, tài của người Làm Việc Nước là tài biết tin tưởng vào dân nước, tài giúp dân sống thực truyền thống dân tộc, tài thấu hiểu nhu cầu thực tế của dân, và tài cải tiến cuộc sống người dân.
* Trong các tài đó, tài Cải tiến Cuộc Sống Người Dân lại là công tác thực tiễn và đa đoan nhất. Vì vậy, Truyền kỳ tiếp tục chỉ dạy chi tiết hơn, ở phần kế tiếp.
*     *     *     *
6. CÔNG TÁC VIỆC NƯỚC
6.1  Hai Loại Bánh.
Để có lễ vật xứng đáng, để tỏ ra đầy đủ khả năng, và thấu hiểu công tác của phận vụ làm vua, Cụ Tổ đã dạy Tiết Liêu làm bánh.
Như vậy, công việc làm bánh chính là hình ảnh của công tác làm việc nước.
Hơn nữa, Cụ Tổ dạy làm tới hai loại bánh, với hai cách làm khác nhau. Cũng bằng gạo, nhưng một cái gói lá một cái không, một cái nấu một cái giã, một cái xanh một cái trắng.
*     *
6.2 Làm Bánh Chưng.
Theo cách Tổ dạy, khi làm Bánh Chưng, phải ngâm gạo, rồi lấy lá gói, giữa để thịt, và nấumạnh lửa.
a. Phát triển Đời sống Tinh thần.
Theo cách Tổ dạy, tức là theo truyền thống dân tộc, theo nếp sống truyền đời.
Như thế, công tác đầu tiên của Người Làm Việc Nước là giúp toàn dân sống thực Tinh thần Con người, Tinh thần Dân tộc, ghi nhớ và thực hành kinh nghiệm Sống Con Người Toàn Vẹn của Văn hóa Việt, phát triển Đời sống Tinh thần của người Dân.
Trong suốt lịch sử Việt, việc giáo dục nầy đã được thể hiện qua việc thờ kính Tổ Tiên, qua nhiều dịp Tết Lễ và hội hè, đình đám trong suốt năm.
Các cuộc thi đua mọi ngành nghề trong mọi lễ hội cũng chú trọng tới việc giáo huấn thể lực, tri thức và tài năng, kỹ thuật.
b. Phát triển Đời sống Vật chất.
Gạo là căn bản sống của dân, thịt là món ăn bổ dưỡng quý giá. Gạo thịt tượng trưng cho căn bản cuộc sống người Dân.
Dùng gạo thịt để làm bánh, tức là chế biến cho thức ăn chính thêm bổ dưỡng, thêm ngon ngọt, và cất giữ thêm lâu ngày.
Như thế, cũng có nghĩa là người Làm Việc Nước đáp ứng những nhu cầu chính yếu của người Dân ngày một thêm tốt đẹp, thêm ấm no, làm cho Đời sống Vật chất của người Dân thêm phát triển, các ngành nghề được cải tiến, sức sống kinh tế gia tăng.
c. Phát triển Cuộc sống An lạc.
Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, dân Việt phát triển ở vùng ruộng đất xanh tươi màu mỡ, với nếp sống văn minh lúa nước.
Vì vậy, khi dạy lấy lá xanh gói gạo thịt thực chặt, Cụ Tổ dạy người Làm Việc Nước phải giúp người Dân được kết tụ vui sống ấm no trên ruộng đồng xanh tươi.
Như thế, công tác người Làm Việc Nước là giúp người Dân đủ điều kiện, đủ tiện nghi và đủthời gian để vui hưởng cuộc sống xanh tươi, không chật vật bon chen, vừa hưởng gạo trắng vừa hưởng trăng thanh, phát triển Cuộc sống An lạc, thanh bình hạnh phúc.
d. Phát triển Cuộc sống Tình Nghĩa.
Và rồi, cũng như phải chăm sóc cho lửa hồng luôn hừng cháy, để hột gạo dâng trào nhựa sống thành dẻo thơm ngon ngọt, người Làm Việc Nước cũng phải giúp người Dân được nung nấu bằng lửa hồng tình nghĩa, để tràn dâng sức sống và gắn bó với nhau.
Quang cảnh làm bánh chưng dịp tết lễ cũng bộc lộ rõ ràng ý nghĩa trên.
Đây là dịp mọi người quây quần bên nhau, kẻ gói người cột, kẻ thổi lửa người thay nước, vui vẻ líu lo... Suốt đêm ngồi bên nồi bánh rực lửa hồng mà hàn huyên tâm sự, chia sẻ an ủi, nhắc nhở khuyên lơn, thông cảm tha thứ...
Tất cả đều diễn ra trong bầu khí đượm đầy tình nghĩa yêu thương. Đời thêm tươi, thêm ấm, thêm hương vị, thêm sức sống... Cuộc sống Tình nghĩa thêm phát triển, đậm đà.
e. Thể hiện Cuộc sống An Lạc Tình Nghĩa.
Có như thế, gạo mới dẻo raBánh Chưng mới nền, mới không bấy, mới thơm ngon, mới có thể cất giữ lâu ngày... bảo đảm cho cuộc sống no ngon lâu dài hơn.
Đó là chủ đích, là tiêu chuẩn, và là kết quả của việc làm Bánh Chưng, và cũng là của công tác Làm Việc Nước. Chủ đích của Người Làm Việc Nước là giúp từng Người Dân phát triển đời sống vật chất, đời sống tinh thần, và cuộc sống an lạc, tràn đầy tình nghĩa, yêu thương đùm bọc.
*     *
6.3 Làm Bánh Dày.
Làm Bánh Dày có phương thức và ý nghĩa khác với làm Bánh Chưng. Chủ đích, kết quả, và công dụng cũng khác.
Khi làm Bánh Dày, phải đồ xôi cho khéo, rồi giã cho thực nhuyễn, cho hột xôi bấy ra, trộn lẫn vào nhau, quánh lại với nhau, và thêm nhân đậu.
a. Phát triển tốt nhất.
Trước hết, phải đồ xôi chín. Đồ xôi, nấu bằng hơi nước, là cách nấu công phu nhưng kết quả thơm ngon và bổ dưỡng nhất.
Gạo là nền tảng cuộc sống. Đồ xôi là giúp mọi người phát triển căn bản cuộc sống người Dân, giúp mọi người dân no ấm, theo phương thức tốt đẹp nhất.
b. Xóa bỏ ngăn cách.
Chính sức chày giã mạnh nhiều lần làm cho xôi tan ra.
Cũng như phải gắng sức quết giã cho các hột xôi tan lẫn vào nhau, người Làm Việc Nước phải xử dụng quyền lực để xóa bỏ những ngăn cách trong cuộc sống chung, tức là quyết dùngluật lệ xác đáng để giúp mọi người thực sự san sẻ của cải và tài năng của dân nước, thoát nạn ngăn cách, chênh lệch giàu nghèo, bóc lột, áp bức.
c. An định Xã hội.
Quết giã cho đến lúc hột xôi quánh vào nhau thành một khối thơm ngon, cũng là dùng quyền lực để an định xã hội, an định cuộc sống người Dân, giúp mọi người cùng phát triển và cùng hưởng nhận một cuộc sống tốt đẹp hơn, theo Lời Tổ dạy.*5
* Nguy cơ của việc xử dụng quyền lực là áp bức, độc tài. Nhưng quyền lực luôn cần thiết để bảo đảm cuộc sống chung tốt đẹp.
Mục đích xử dụng quyền lực của người Làm Việc Nước là làm cho mọi người Dân thực sự kết đoàn, cùng nhau kiến tạo một cuộc sống chung, cộng đồng đồng tiến, vừa trong đời sống vật chất, vừa trong tinh thần, trong an lạc, trong tình nghĩa. [Khi dân đã thực sự kết đoàn thì không còn sợ áp bức].*6
d. Mọi người chung hưởng cuộc sống.
Nhân đậu xanh làm cho bánh thêm mùi vị, thêm thơm ngon. Nhân tuy ít, nhưng gia tăng hương vị cho toàn thể cái bánh.
Như thế, thêm ‘nhân’ vào bánh là thêm hương vị đặc biệt cho toàn thể cái bánh, tức là làm cho mọi người dân đều được chung hưởng tinh túy của cuộc sống Làm Người, là làm cho cuộc sống thêm vui tươi hạnh phúc, ở mọi phương diện, thể hiện nếp sống bình đẳng đích thực.
e. Thể hiện Cuộc sống Phát triển trong An Định Bình Đẳng.
Có như thế, xôi mới trở thành Bánh Dày.
Như thế, phận vụ của người Làm Việc Nước là, với những phương cách tốt đẹp nhất, dùng luật lệ thích đáng để xóa bỏ mọi ngăn cách, an định cuộc sống của Dân Nước, giúp mọi người chung hưởng cuộc sống an định, bình đẳng, và phát triển  tinh hoa của cuộc sống xã hội.
g. Thích đáng là Xã hội Loài người.
Có như thế, Bánh dẻo thơm và cất giữ lâu ngày. Có được vậy, cuộc sống của mọi người dân mới thêm bảo đảm, thêm vững chắc, thêm vui tươi, thêm thơm ngon.
Có như thế, mọi người mới có thể cùng nhau phát triển cuộc sống tốt đẹp hơn, cuộc sống chung mới thực sự thích đáng là cuộc sống của xã hội loài người.
*     *
6.4 Truyền kỳ Tiết Liêu trong toàn BộTruyền Kỳ.
Tới ngày đã định, Tiết Liêu dâng 2 cái bánh, và được làm vua.
Như vậy, nhờ theo Lời Tổ Dạy, Làm Bánh Chưng, Bánh Dày, Tiết Liêu được công nhận là xứng đáng Làm Việc Nước. 
Quả thực, trong hệ thống hợp nhất của toàn thể Văn Hóa Việt, kết tinh trong Bộ Truyền kỳ Tộc Việt, Truyền kỳ Tiết Liêu là phần khai triển thực tế hai nguyên lý nền tảng cuộc Sống Xã Hội của Truyền kỳ Tiên Rồng. Hai nguyên lý nầy lại đã được lần lược khai triển ở Truyền kỳ Trầu Cauvà Truyền kỳ Chử Đồng.
Khi lo phát triển cuộc sống An lạc Tình nghĩa, qua biểu tượng Làm Bánh Chưng, Truyền kỳ Tiết Liêu đã nêu lên những tiêu chuẩn cho công tác Làm Việc Nước, là phải thể hiện thực tế vào cuộc sống của Dân Nước nguyên lý nền tảng xã hội Thân Thương Tột Cùng, Nền tảng Tương Quan giữa Người và Người.*7
Phương thức Làm Bánh Dày biểu trưng cho công tác thể hiện vào đời sống của Nước bốn nguyên tắc của việc sống thực nguyên lý nền tảng xã hội Bình Đẳng Tột CùngNền tảng mọi Sinh Hoạt Chung của con người.*8
Hai nguyên lý nền tảng Xã hội nầy, Thân Thương tột cùng và Bình Đẳng tột cùng, lại được kết tinh trong biểu tượng Trăm Anh Em được sinh ra cùng một lần, trong Một cái Bọc, củaTruyền kỳ Tiên Rồng.*9
*     *
6.5 Truyền kỳ Tiết Liêu trong Nếp Sống toàn Dân.
a. Trở thành Lễ Vật.
Bánh Chưng Bánh Dày trở thành lễ vật cần thiết để cúng tế trong dịp tết lễ.
Tổ Tiên không những đã sống, đã rút kinh nghiệm, đã đúc kết thành Truyền kỳ, mà còn đem biểu tượng những bài học nền tảng đó ứng dụng vào cuộc sống thực tế.
Vào mỗi dịp tết lễ, nhờ chuyên chú làm bánh cho thực ngon, lại vừa nhờ được nhắc nhớ những bài học hàm ẩn, mọi người dân Việt của mọi thời đại, đều được truyền dạy tỉ mỉ về những thực hành để dân an nước thịnh.
Lại nữa, khi đem những cái bánh đó đặt lên bàn thờ, dâng cúng và thông hiệp với Tổ Tiên, chúng ta càng ý thức hơn tính cách quan trọng của những bài học Văn hóa dân tộc.
Khi đem xuống để hưởng lộc, chúng ta lại mang tất cả vào cuộc sống thực tế, như chính cái bánh đang được hấp thụ và tiêu hóa để biến thành sự sống của chúng ta.
- Nhờ vừa làm vừa học vừa cúng vừa ăn như vậy, mà những nguyên tắc nền tảng đã trở thành tiêu chuẩn cho cuộc sống toàn dân, và những ứng dụng thực tế đã trở thành phong tục, truyền thống.
Nhờ có Bánh Chưng Bánh Dày, nên dầu vận nước có hồi suy thoái, những bài học của Tổ Tiên về việc An Dân Thịnh Nước vẫn được lưu truyền nguyên vẹn, và tạo ra những nét đặc thùcho Lịch sử và Văn hóa Việt.
b. Tên gọi.
Tên gọi Bánh Chưng nhắc nhớ ý nghĩa chưng dọn, chưng diện, bày tỏ. Bánh Chưng bày tỏ Cách Sống tốt đẹp, An lạc Tình nghĩa, xứng đáng Cuộc sống Con Người.
Tiếng Dày có nghĩa sát, khít, trong chữ dày đặc, dày khít, lược dày. Bánh Dày nhắc nhớ mọi người đứng sát lại với nhau, sát cánh thành một khối, có Nếp Sống Đồng nhất, để phát triển nếp sống chung tốt đẹp.*10
c. Bánh Tét, Bánh Tổ.
Trên con đường dài của lịch sử, nhiều khi hoàn cảnh không cho phép làm đủ hai thứ Bánh Chưng Bánh Dày. Những khi đó, Tổ Tiên đã không làm một bỏ một, mà hợp cả hai thành Bánh Tét.
Thay vì giã xôi thành bánh dày, các Ngài đã quết đậu làm nhưn, và thay vì làm bánh chưng thịt với khuôn góc, các Ngài gói bánh tét nhưn đậu. Như thế, vừa giản tiện hơn, vừa hợp hoàn cảnh, vừa cất giữ lâu hơn, lại vừa giữ được đầy đủ ý nghĩa.
Dầu vậy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, mọi người lại làm Bánh Dày. Miền Nam gọi bánh dày là Bánh Tổ, để nhắc nhớ thứ bánh Tổ dạy làm. Cũng vậy, Miền Nam gọi loại bánh hợp nhất làBánh Tét, để ghi nhớ sự hiện diện cần thiết của bánh trong Tết Lễ.
d. Nền Chính Trị Việt.
Cuộc thi đã kết thúc. Truyền kỳ Tiết Liêu đã ghi lại tỉ mỉ những nguyên tắc nền tảng cho Người Làm Việc Nước.
Truyền kỳ Tiết Liêu đã đặt nền tảng cho nền chính trị an dân thịnh nước đặc biệt.
Bất cứ ai nhìn vào lịch sử Việt một cách vô tư, và so sánh với lịch sử của các dân tộc khác, đều phải công nhận rằng : dầu không có danh xưng riêng, nền Quân Chủ Việt có đặc tính riêng, và tốt đẹp vượt hẳn những chế độ khác trên thế giới.
[Về khác biệt giữa Việc Nước và Việc Làng, đọc thêm bài 2106 Nếp Sống Làng Thôn, đặc biệt các phần 6 và 7].
*     *     *     *
7. TÓM LƯỢC VÀ SƠ ĐỒ
7.1 Tóm Lược Truyền kỳ Tiết Liêu.
a1. Giới thiệu Việc Nước.
Thi tài để nối ngôi : tiêu chuẩn cho Người Làm Việc Nước.
a2. Phẩm cách Người Làm Việc Nước.
1. Lo việc Thờ kính : có Vị cao hơn : Thân phận con người thừa hành.
2. Thờ Tổ Tiên : tiếp tục sự nghiệp của tiền nhân : mang nặng trách nhiệm.
3. Tìm kiếm : vận dụng tài trí : đủ Tâm đủ Trí.
4. Lễ vật thích đáng : biểu lộ đầy đủ quan niệm Làm Vua : biết rõ công tác.
a3. Tài Làm Việc Nước.
1. Ra đi tìm kiếm : tìm hiểu tài an dân thịnh nước.
2. Anh em đi khắp nơi : vọng ngoại.
3. Tiết Liêu tìm ở nhà : tin tưởng dân nước : căn cứ trên Dân.
4. Cụ Già quắc thước hiện ra chỉ dạy : tuân theo tinh thần và truyền thống Dân tộc.
5. Dùng gạo : thức ăn chính của dân : Biết rõ nhu cầu của người dân.
6. Làm bánh : thơm ngon và cất giữ lâu hơn : cải tiến cuộc sống người dân.
a4. Công Tác Việc Nước 1 : Làm Bánh Chưng.
1. Theo cách Tổ dạy : sống Tinh thần của Dân tộc : phát triển đời sống tinh thần.
2. Làm bằng Gạo : cải tiến thức ăn chính : phát triển đời sống vật chất.
3. Gói bằng lá xanh : ruộng đất xanh tươi, cuộc sống  thanh bình : phát triển cuộc sống an lạc.
4. Nấu mạnh lửa : gạo chảy nhựa, dính nhau, gắn bó : phát triển cuộc sống tình nghĩa.
5. Thành Bánh Chưng : thể hiện cuộc sống An lạc Tình nghĩa.
a5. Công Tác Việc Nước 2 : Làm Bánh Dày.
1. Đồ xôi chín : phát triển theo phương thức tốt nhất.
2. Quết giã cho hột xôi tan ra : xóa bỏ ngăn cách, dùng luật lệ san sẻ của cải và tài năng.
3. Hột xôi quánh vào nhau : cùng nhau chung hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn : an định xã hội.
4. Nhân đậu : thêm thơm ngon : mọi người chung hưởng tinh hoa cuộc sống.
5. Thành Bánh Dày : thể hiện cuộc sống An định Bình đẳng
6. Dẻo thơm và cất giữ lâu ngày : thích đáng là xã hội loài người.
a6. Truyền kỳ Tiết Liêu trong toàn Bộ Truyền Kỳ.
1. Tiết Liêu được Làm Vua : đủ tiêu chuẩn hướng dẫn đời sống Dân Nước : Văn hóa Việt với Phận vụ Làm Việc Nước.
2. Biểu tượng Làm Bánh Chưng : những tiêu chuẩn thể hiện nguyên lý Thân Thương tột cùng, nền tảng Tương Quan giữa Người và Người, với bốn nguyên tắc khai triển ở Truyền kỳ Trầu  Cau..
3. Biểu tượng Làm Bánh Dày : những tiêu chuẩn thể hiện nguyên lý Bình Đẳng tột cùng, nền tảng Sinh Hoạt Chung của con người, với bốn nguyên tắc ở Truyền kỳ Chử Đồng.
4. Hai Nguyên lý Nền tảng của Xã Hội lại bắt nguồn từ biểu tượng Một Bọc Trăm Con của Truyền kỳ Tiên Rồng.
a7. Truyền kỳ Tiết Liêu trong Nếp Sống Việt.
1. Trở thành Lễ vật cúng tế : nhắc nhớ, truyền dạy, thành cuộc sống.
2. Tên gọi : Chưng, Dày.
3. Bánh Tét, Bánh Tổ.
4. Nền chính trị Việt : đặc tính riêng.
*     *
*     *     *     *
8. GHI CHÚ
*1 - Văn hóa Việt buộc người Làm Việc Nước phải thờ cúng Tổ tiên, nhưng vua không độc quyền thờ Trời. Mọi người dân Việt đều trực tiếp với Trời. Mỗi nhà đều có Bàn Ông Thiên để thờ Trời. [Khác với quan niệm Vua Chúa của phương Tây và của Hoa].
*2 - Ngay trong hiện đại, khi mà dân chúng phương Tây ngẩn ngơ trong ảo tưởng tự do dân chủ, thì lịch sử thế giới cũng đậm nét với thành tích của Cộng sản, Quốc xã, Phát xít… của quá khích Hồi, kỳ thị Nam Phi, kỳ thị Mỹ, tài phiệt thao túng, tư bản bóc lột...
- Đọc bài 2106 Nếp Sống Làng Thôn, gc*2. [Người Dân Phương Tây].
*3 - Đây là bài học, nên không cần bàn việc Tổ có thực sự hiện về hay không. Tuy nhiên cũng có nhiều truyền thuyết kể lại nhiều Vị Anh Hùng thời trước còn trở về trợ giúp.
Ở các dân tộc và các tôn giáo, cũng có nhiều chuyện tích ghi lại sự kiện các Vị ở Thế Giới Bên Kia hiện về.
*4 - Đọc bài 2110 Việc Cứu Nước Cứu Người, mục 4.3b.
*     *
*5 - LỆ và LUẬT.
a. Phân biệt Lệ và Luật.
Lệ là những thói quen được một nhóm người đồng ý tuân theo. Lệ có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh sống và tâm tính của từng nhóm. Lệ thiên về tình.
Luật dựa trên lý, và thiên về cưỡng bách tuyệt đối.
b. Mục đích.
Mục đích của lệ là giúp cho cuộc sống chung của Con Người được tốt đẹp hơn, để mọi người cùng góp thêm phần phát triển cuộc sống. Hễ đâu có hai người trở lên là có lệ, dầu dưới những hình thức khác nhau.
Mục đích của lệ bộc lộ rõ ràng nhất nơi những nhường nhịn của hai người yêu nhau, tức là nơi những người muốn phát triển tương quan trọn vẹn giữa Con Người và Con Người.
Dấu hiệu suy thoái của lệ là biến những phương thức phát triển tình thân thương đó thành những tiêu chuẩn của ngăn cấm, của hình phạt, của luật pháp.
Mục đích của luật lại là gìn giữ trật tự xã hội.
c. Chế tài.
Kẻ sai lệ có thể bị xét xử và phạt vạ, nhưng do những người thân thuộc quen biết, tình nghĩa. Người lỗi luật lại bị án mà quan tòa và công tố viện bắt buộc phải là những người xa lạ với bị can, và chỉ được căn cứ trên bằng chứng.
Vì quá chú trọng đến lý lẽ và coi thường tình nghĩa, nên nhiều luật đã trở thành những bất công trầm trọng. Ai cũng như ai có nghĩa là không có tâm tình, không có tâm trạng, không có Con Người thực tại. Con Người bị đối xử như những con vật, những cái máy, những con số.
Tình trạng còn tệ hại hơn, khi nhiều hệ thống luật pháp chỉ còn chú ý đến việc áp dụng luật, khi luật sư coi việc uốn nắn, tìm kẽ hở của luật, quan trọng hơn sự an toàn của xã hội... khi mục tiêu là biện hộ cho phạm nhân bằng mọi giá, bảo vệ phạm nhân hơn là đại chúng vô tội... khi phán quyết của tòa án không còn giá trị thực hành... Xã hội làm sao khỏi rối loạn ?
d. Xã hội không Lệ.
Trong những xã hội đặt nền tảng trên đấu tranh sinh tồnmạnh được yếu thua của ác thú, người dân không được sống theo lệ, mà phải theo luật của chủ nhân, của kẻ mạnh.
Khi mọi người dân bị đề quyết là đã biết rõ và phải tuân hành tất cả mọi điều luật được ghi trong sách vở, khi những nhóm đặc quyền thay phiên đặt luật và sửa luật theo chủ trương riêng, thì dầu mang danh xưng gì, xã hội đó cũng chỉ là một hình thái của xã hội chủ nô, bất công, bóc lột.
Khi phân quyền chỉ còn là hình thức phân công của các nhóm đặc quyền thì pháp lý là của kẻ mạnh, để phục vụ kẻ mạnh, và trở thành dụng cụ của bất công.
e. Vừa Luật vừa Lệ.
Để Con Người được tự do tự chủ thực sự, để Con Người được phát triển trọn vẹn, vừa phải có luật và vừa phải có lệ, vừa phép nước vừa lệ làng.
Vua Lê Thánh Tôn không những đã ban hành Bộ Luật Hồng Đức, mà còn công bố thêm 24 Điều Lệ Nước, để cùng với Lệ Làng, giảm bớt áp dụng Luật.
* Về Định chế Làng-Nước, đọc bài 2106 Nếp Sống Làng Thôn, đb phần 7.
*     *
*6 - Về Bình đẳng, Quyền hành, và Đặc quyền, đọc bài 2104 Nền tảng Sinh Hoạt Chung, ghi chú *2.
*7 - Đọc thêm bài 2103 Nền tảng Tương Quan giữa Người và Người, đoạn 5.4 và 5.5.
*8 - Đọc thêm bài 2104 Nền tảng Sinh Hoạt Chung, đoạn 4.5.
*9 - Đọc thêm bài 2102 Căn cơ Con Người và Xã Hội, đoạn 5.2.
*10 - Hình dạng cái bánh không thuộc phần cốt yếu. Nếu chỉ cần hình tròn và hình vuông, thì không cần phải làm tới hai thứ bánh, với hai cách làm hoàn toàn khác nhau. Có thể dùng bất cứ gì để làm hình tròn hình vuông.
Lại nữa, xưa nay nhiều nơi, kể cả ở vùng ‘Đất Tổ’ Phú Thọ và Cổ Loa, đã làm bánh dày với bất cứ hình dạng gì, cũng không làm bánh chưng hình vuông.
_____________________
Nguyễn Thanh Đức 2013.

Tổng số lượt xem trang