Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

2110 - CÔNG CUỘC CỨU NƯỚC CỨU DÂN

-2110 - CÔNG CUỘC CỨU NƯỚC CỨU DÂN
-danhgiactau-TRUYỀN KỲ PHÙ ĐỔNG
1. DẪN NHẬP
Truyền kỳ PHÙ ĐỔNG ghi lại sự kiện giặc Ân xâm lấn nước ta năm 1218 ttl. Trong nguy cơ, Vua Hùng đã cầu Tổ. Tổ về biểu sai các Sứ đi tìm người cứu nước. Sứ gặp Cậu Bé ba tuổi ở làng Phù Đổng. Cậu xin ngựa và roi sắt. Có ngựa và roi, Cậu Bé vươn vai, lên ngựa đuổi giặc.
Qua Truyền kỳ Phù Đổng Tổ Tiên ta đã ký thác sách lược hướng dẫn từng bước Công cuộc Cứu Nước.

Truyền kỳ khởi sự với việc nêu rõ Nền tảng của việc Cứu Nước, Nhân Sự Cứu Nước, Phương Thức Cứu Nước, rồi việc Thể hiện từng bước, từ việc Vận động Tinh thần, qua việc Phục hồi Sức Nước, tới việc Vận dụng, điều hợp, rồi Vùng lên phá giặc, Tái chiếm lãnh thổ, đến việc Kết thúc cuộc chiến, Tái thiết Quê Hương... Từng giai đoạn, từng công tác, từng hành động.
Có thể nói : Truyền kỳ Phù Đổng là một tuyệt tác của Tổ Tiên.
*     *     *     *
2. TRUYỀN KỲ PHÙ ĐỔNG
Vào Thời Hùng, có giặc Ân xâm lấn nước ta. Vua Hùng làm đủ cách nhưng vẫn không ngăn được giặc.
Nhà vua liền lập đàn cầu xin Tổ về giúp. Trong cơn mưa to gió lớn, và có một cụ già mặc áo đỏ, hình dung cổ quái, đến đùa giỡn với đám trẻ con ở ngã ba đường.
Dầu thấy lạ, Vua Hùng cũng đến xin Cụ chỉ cách để cứu nước. Cụ cười nói : ‘Nhà vua hãy sai sứ đi khắp nơi mà tìm !’.
Theo lời Tổ dạy, Vua Hùng liền sai người chia nhau đi khắp nơi để loan tin Tổ về và tìm người cứu nước.
Đang khi đó, tại làng Phù Đổng, có một em bé đã ba tuổi mà chưa biết nói cười đi đứng. Nhưng khi nghe sứ vua rao tin, Cậu liền bật nói.
Cậu xin sứ cho Cậu một con ngựa sắt và một cây roi sắt để Cậu phá giặc. Sứ vua nghe theo. Từ đó, láng giềng đem gạo vải tới giúp Cậu ăn mặc, và Cậu lớn như thổi.
Khi sứ vua đem ngựa và roi sắt tới, Cậu bé Phù Đổng liền vươn vai thành người cao lớn. Khi Cậu nhảy lên ngựa sắt, ngựa liền cử động và phun lửa.
Với ngựa lửa roi sắt, Cậu đánh bọn giặc một trận tơi bời. Khi roi sắt gãy, Cậu nhổ tre mà đánh. Ngựa cũng phun lửa cháy mất mấy làng.
Giặc tan, Cậu cỡi ngựa lên núi và về trời.
Các gốc tre Cậu đã xử dụng, lại hóa thành tre la ngà.
Vua Hùng phong Cậu là Thần Trời Phù Đổng.
*     *     *     *
DIỄN TRUYỆN
3. CỨU NƯỚC VÀ CẢI HÓA
Theo nội dung, Truyền kỳ Phù Đổng là sách lược cho Công cuộc Cứu Nước Cứu Dân, mà cũng là phương thức hành động cho tổ chức cứu nước, và là chương trình sống cho bất cứ ai quyết tâm phá giặc.
Dưới khía cạnh Con Người và Xã Hội, Truyền kỳ Phù Đổng lại là tiến trình cải hóa từng người, cũng như cải hóa xã hội, cải hóa toàn thể nhân loại, khỏi tất cả mọi thứ giặc.
Trong giai đoạn nầy của dân Việt và của toàn nhân loại, chúng ta cần học hỏi thấu đáo và ứng dụng kỹ càng vừa bài học Cứu Nước Cứu Dân vừa bài học Cải Hóa.
Công cuộc thực to lớn và phức tạp. Cần thực nhiều người tận tâm tận lực, và chung tài chung đức, để khai triển chi tiết mọi bài học thâm sâu và ứng dụng thích đáng cho mọi người.
Ở đây chỉ nhìn đại cương như là sơ đồ của Sách lược Cứu Nước Cứu Dân.*1
*     *     *     *
4. THỰCTRẠNG MẤT NƯỚC
4.1 Giặc Xâm Lấn.
Để dạy cách Cứu Nước Cứu Dân, Tổ Tiên đã khởi đầu với sự kiện nước ta bị giặc Ân xâm lăng.
Theo sử hiện nay, Ân Cao Tôn xâm lấn nước ta năm 1218 ttl. Khi đó, cách đây hơn 3200 năm, dân ta còn có tên là Việt Lạc, và ranh giới phía bắc lên tới Hồ Đồng Đình.
Sau ba năm, dân ta đã đánh đuổi giặc Ân.*2
Do đó, cùng với việc kể đi kể lại chiến tích chống ngoại xâm đặc biệt nầy, Tổ Tiên ta đã gởi gắm thêm nhiều bài học quan trọng cho công cuộc Cứu Nước và Cứu Người.
*     *
4.2 Nhận Chân Thực Trạng.
Trước nạn xâm lăng, nước nhục dân khổ, Vua Hùng đã làm hết cách, nhưng vẫn không ngăn được giặc.
Tuy là bối cảnh của câu chuyện, nhưng đây cũng là yếu tố quan trọng cho việc chuẩn bị cứu nước. Đã làm hết sức, đã tận lực, nhưng thua. Giờ đây nước mất nhà tan, mọi phương thức chống giặc đều vô hiệu, mọi lực lượng đều tan rã, lòng dân phân tán, đồng minh quay mặt... giặc lại thừa thắng, giặc thêm oan nghiệt, giặc gây tang tóc cho đồng bào, cho đất nước, cho giống nòi...
Thực vậy, để có thể thực sự khởi đầu công cuộc cứu nước cứu dân, trước hết phải nhận chân được thảm trạng mất nước. Nếu không lượng định chính xác sức mạnh của giặc và tình trạng yếu kém của ta, ở mọi phương diện, chúng ta hoặc sẽ bám víu vào quá khứ và tương lai hảo huyền của mình, hoặc sẽ nhận định sai lầm về thực lực của giặc.
Đây là điều kiện đầu tiên của Người Cứu Nước, tức là phải nhận chân thực trạng, biết giặc biết ta.
*     *     *     *
5. NỀN TẢNG CÔNG CUỘC CỨU NƯỚC CỨU DÂN
5.1 Sống Lại Hồn Nước.
a. Vua Hùng cầu Tổ.
Trong ngõ bí của thời cuộc, trong phũ phàng của thực trạng mất nước, Tổ Tiên cho bùng lên một vùng sáng hy vọng chói chang : Vua Hùng lập đàn để cầu xin Tổ về giúp.
Việc lập đàn chứng tỏ lòng thành và ý thức của Vua Hùng về tầm quan trọng vượt bực của công cuộc cứu nước cứu dân. Cứu một người đã khó thay, huống nữa là cứu cả một dân, một nước, cả giống dòng, lịch sử.
Tổ là biểu trưng cho Hồn Nước, cho Sức Sống tối cao, cho Tinh Thần, cho Hồn Thiêng Dân Tộc. Ngài là nguồn gốc, mà cũng là sự sống còn, là niềm hy vọng, và là tụ điểm của Toàn Dân.*3
Cầu Tổ là bộc lộ niềm tin bất diệt, niềm hy vọng tuyệt đối vào Sức Sống vô tận và Truyền Thống siêu việt của Dân Tộc.
Đây chính là nền tảng đích thực của công cuộc cứu nước cứu dân. Bất cứ nền tảng nào khác đều đưa đến kết quả là biến dân nước thành vong nô của ngoại bang, của tà thuyết, hoặc của cường quyền bạo lực.*4
b. Tổ đã hứa về.
Ngoài ra, việc cầu Tổ còn nối kết cách tuyệt diệu Truyền kỳ Phù Đổng với Truyền kỳ Tiên Rồng và Truyền kỳ Tiết Liêu.
Ở Truyền kỳ Tiên Rồng, Cha Rồng đã dặn : ‘Khi cần thì gọi, Ta về ngay’. Ở Truyền kỳ Tiết Liêu, khi Tiết Liêu tìm lễ vật thích đáng dâng cúng Tổ Tiên, Tổ cũng đã về giúp, [và chỉ cánh làm Bánh Chưng Bánh Dày].
Thời bình mà Tổ còn thương như vậy, huống chi thời loạn lạc khổ đau. Con cháu có lúc nào cần Tổ thương giúp bằng khi đất nước đại nạn, đồng bào thống khổ ? Con cháu đã khẩn thiết kêu cầu, vua Hùng đã lập đàn cầu Tổ, và Tổ đã về.
*     *
5.2 Bản chất Hồn Nước.
Trong một cơn mưa to gió lớn, bỗng có một cụ già xuất hiện.
Mưa gió chính là điềm báo sự linh hiển của Rồng. Rồng chủ việc mưa gió ở biển cả. Rồng linh thì biển động. Đây chính là phần giới thiệu bản chất Rồng của Cụ Già. Cụ chính là Cụ Tổcủa con cháu Tiên Rồng, là Sức sống của Dân Việt.
Cụ Già lại mặc áo màu đỏ, là màu tượng trưng cho phong tục, cho nếp sống truyền thốngcủa dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm. Từ sáu bảy ngàn năm trước, dân Việt đã dùng màu đỏ và mặt trời làm biểu hiệu của mình.
* Như vậy, Cụ Già đã mang hai dấu hiệu, một thuộc bản chất, một thuộc đặc trưng, chứng tỏ Cụ quả thực là Tổ, là Sức Sống đích thực của Dân Việt. Cụ chính là Hồn Nước, là biểu tượngcủa nền văn hóa, của phong tục, của Sức Sống truyền thống Dân tộc Việt.
*     *
5.3 Hiện trạng Hồn Nước.
Nhưng Cụ lại có hình dung cổ quái.
Sở dĩ Cụ bị coi là cổ và quái, chỉ vì con cháu đã quên Cụ, không còn quen thuộc với Cụ nữa. Ở Truyền kỳ Tiết Liêu, trong thời mọi người đang sống hạnh phúc theo đúng truyền thống Tổ Tiên, thì Cụ Tổ được nhận ra là người quắc thước phi phàm.*5
Đây là lát búa bửa vào đầu chúng ta. Khi mất nước chính là lúc con cháu thường đã xa lạ với Tổ Tiên, đã quên Tổ, đã mất tinh thần dân tộc, mất niềm tin nơi chính mình, đã mất Hồn Nước. Bài học 'Hồn Mất Trước Nước Mất Sau' ở Truyền kỳ Mỵ Châu đã thực rõ ràng và thấm thía.*6
*     *
5.4 Sức sống Hồn Nước.
a. Tổ về với Người Dân.
Nhưng dầu con cháu có xa lạ, Tổ cũng đã về. Cụ về và đùa giỡn với đám trẻ con.
Theo quan niệm truyền thống thì trẻ con, con trẻ, con đỏ, con dân, là biểu trưng của người dân. Họ là những người đơn sơ chân chất, sống theo những bộc phát tự nhiên và thuần hậu của Con Người.
b. Tổ ở giữa Dân.
Ngoài ra, Cụ về ở ngã ba đường chính là nơi dân chúng tụ họp, là chợ chòm hõm của thời xưa.
Như vậy, Cụ đã không về trên đàn, không về với vua quan, nhưng Cụ về giữa đám người bình dân.*7
* Lịch sử cho thấy, xưa cũng như nay, thời suy thoái là lúc giới quyền chức lãng quên Sức sống dân tộc để vọng ngoại và cầu ngoại nhiều nhất. Trong các thời kỳ đó, truyền thống, tinh thần, và ý thức dân tộc, chỉ còn dễ gặp thấy ở giới thường dân, ở đầu đường xó chợ.*8
c. Tổ sống với Dân.
Lại nữa, không phải Tổ chỉ hiện về một cách oai vệ trong giây lát, mà Tổ còn đùa giởn, còn hòa mình với đám trẻ con, với người Dân.
Tổ cùng chung cuộc sống, cùng chung tâm hồn với người dân. Tổ sống với dân, Tổ là Cuộc sống người Dân.
*     *
5.5 Để nhận ra Tổ.
Như vậy, để nhận ra Tổ, để thực sự nhận biết đích xác đâu là truyền thống dân tộc, Truyền kỳ Phù Đổng đã nêu rõ mọi yếu tố, từ bản chất [Rồng], qua nét đặc trưng [mặc áo đỏ], qua chínhphản ứng của chúng ta [Tổ hình dung cổ quái], tới cả hạng người [đám trẻ con, người dân], cả nơi chốn [ở ngã ba đường], và cả cuộc sống người dân [đùa giởn].*9
Do đó, ai muốn gặp Tổ thì phải tìm tới người dân, phải để tâm hồn mình hòa nhập người dân, là người dân, chứ không chỉ hời hợt bên ngoài.*10
* Như vậy, Truyền kỳ Phù Đổng đặt Nền Tảng Công Cuộc Cứu Nước Cứu Dân trên niềm tin tuyệt đối vào Hồn Nước, vào Tinh thần Dân tộc, vào Sức Sống Truyền Thống nơi Đời sống người Dân.*11
*     *     *     *
6. NHÂN SỰ : PHẨM CÁCH NGƯỜI CỨU NƯỚC
6.1 Lột Xác.
a. Tới gặp Cụ.
Người dám đến với người dân để tìm gặp Tổ, chính là Vua Hùng. Vì quyết tâm cứu nước, nên dầu thấy cảnh tượng và hành động bất thường của Cụ Già, Vua Hùng cũng tìm tới gặp Cụ và xin Cụ chỉ dạy.
Vua đã lập đàn để cầu Tổ. Trên đàn có ngai quý để Tổ về ngự, có hương trầm nghi ngút, đèn nến sáng ngời. Vua quan thì thân thanh tâm tịnh, thành tâm thành ý. Dân chúng thì vây quanh khẩn cầu thống thiết.
Nơi đàn uy nghi trang trọng như thế, nên ai ai cũng trông chờ Tổ sẽ linh hiển tại đàn, oai vệ chưa từng thấy.
Ngờ đâu, trên đàn chưa có dấu hiển linh, thì ở ngã ba đường lại có một cụ già tới đùa giởn.
Phải thành tâm cùng tột, tuệ linh ngời sáng như Vua Hùng, mới có thể nhận ra đó không phải là quái nhân quấy rối, mà là chính Cụ Tổ đã về.
Tuy đã lập đàn, đã chuẩn bị mọi sự, tức là đã dự tính nhiều kế hoạch, nhiều chương trình, nhưng Vua Hùng nhất quyết gạt bỏ tất cả để tới ngã ba đường gặp Cụ Già cổ quái, và học cách cứu nước.*12
b. Điểm đột phá.
Đây là điểm đột phá quan trọng cho người muốn cứu nước : Lột xác.
Không vượt nổi điểm đột phá nầy, không lột xác, không bỏ được dự tính và phương thức cũ, không thích ứng nổi với hoàn cảnh và điều kiện mới của người dân nước mất nhà tan, không mở rộng tâm trí để đón nhận những bất ngờ, những cổ quái... thì không thể nghe Tổ nói, tức là không thể nhận ra những phương thức thực sự hữu hiệu cho việc cứu nước.*13
Vượt điểm đột phá nầy, lột xác, thì cơ may cứu nước mới ló dạng, mới được Tổ chỉ cách.
*     *
6.2 Dấn Thân.
a. Tổ dạy sai Sứ.
Bất chấp sự phản đối của đám quần thần kênh kiệu, Vua Hùng đã bỏ đàn, đội mưa gió tới ngã ba đường cầu cứu Cụ Già cổ quái, và đã được Tổ dạy phương thức cứu nước.
Nhưng phương thức của Tổ lại cũng cổ quái. Tổ dạy vua sai sứ đi khắp nơi để tìm người cứu.
Thực là kỳ lạ. Tại sao Tổ không nói rõ vị cứu tinh đó là ai ? Tại sao lại chỉ biểu cho người đi tìm ? Nếu chỉ có thế, thì tại sao Tổ lại phải hiện về ? Vua Hùng đã chẳng đang tìm đó sao ?
b. Ta phải làm.
Nhưng, chỗ kỳ quái đó lại chính là bài học. Tổ nhắc nhở, Tổ chỉ dạy, chứ Tổ không thể làm thay chúng ta. Tổ không giết giặc, Tổ không chỉ huy, Tổ không làm gián điệp, cũng không cho nỏ thần, hoặc thị uy tiêu diệt giặc.
Vấn đề không phải là Tổ làm, mà là chúng ta biết và thực thi ý muốn của Tổ. Khi biết Tổ Tiên, và các Đấng Thiêng Liêng, muốn cứu dân lành, thì chính chúng ta phải tỏ ra là con thảo, là tín đồ thuần thành, bằng cách chính chúng ta ra công phá giặc cứu người, để hoàn thành ý muốn của các Ngài.*14
*     *
6.3 Vua Hùng :  Người Cứu Nước.
Vua Hùng đã được Tổ chỉ cách. Nhưng trước khi vua thể hiện ý Tổ, chúng ta thử nhìn lại giai đoạn qua.
Trước hết, Vua Hùng đã sống với thực trạng mất nước, và khởi công từ thực trạng đó. Vua không nuối tiếc hảo huyền, cũng không mơ mộng viển vông.
Thứ đến, nhà vua tìm về nền tảng của công cuộc cứu nước cứu dân. Nền tảng đó là Tổ, là Sức Sống, là Tinh Thần, là Truyền Thống siêu việt đang tiềm tàng trong nếp sống của người dân.
Và rồi, với quyết tâm cứu nước, vua đã lột xác, sẵn sàng thích ứng và tận dụng mọi hoàn cảnh mới, mọi điều kiện mới.
Cuối cùng là dấn thân, không do dự, không ỷ lại, sẵn sàng biến mọi sự, cả những chướng ngại, thành phương tiện hữu hiệu.
* Đó là Vua Hùng. Nhưng Vua Hùng lại là biểu tượng của người cứu nước đích thực. Vì vậy, những đức tính trên cũng chính là những đặc tính thiết yếu cho bất cứ ai muốn thực sự góp phần vào việc phá giặc cứu nước.
*     *     *     *
7. PHƯƠNG THỨC CỨU NƯỚC CỨU DÂN
7.1 Theo Lời Tổ Dạy.
Vua Hùng đã lập đàn để cầu Tổ và đã được Tổ dạy cách cứu nước.
Lời dạy của Tổ chính là phương thức cứu nước. Lời dạy của Tổ là ý muốn của Tổ, mà cũng là chính Tổ trong hiện thực và sống động cho hiện trạng đất nước.
Vì vậy, Theo Lời Tổ Dạy sẽ là động lực của mọi hành động cứu nước của Vua Hùng. Sở dĩ Vua Hùng sai sứ đi tìm Người Cứu Nước, sở dĩ các sứ chịu đi, và sở dĩ toàn dân sẽ nghe theo họ, cũng chỉ vì Theo Lời Tổ Dạy.
Theo Lời Tổ Dạy trở thành động lực, trở thành Sức Sống, trở thành Hồn Thiêng hình thànhtăng triểnđiều hợp và hoàn mãn Công Cuộc Cứu Nước Cứu Dân.
Sức Sống nầy sẽ từ Vua Hùng truyền qua đoàn sứ nhân, và đoàn sứ nhân truyền qua toàn dân.*15
*     *
7.2 Tổ Chức Cứu Nước.
a. Tổ Chức Cứu Nước.
Đã được Tổ chỉ dạy, đã thấm nhuần Tinh thần Tổ, đã nắm vững sứ mạng Cứu nước cứu dân, giờ đây Vua Hùng mạnh dạn sai sứ lên đường.
Các sứ nhân chính là đại diện, là hiện thân của Vua Hùng. Họ là chính Vua Hùng đi đến với dân.
Như vậy, sứ nhân là Người Cứu Nước lên đường hành động. Họ dấn thân thể hiện sứ mạng, theo Lời Tổ dạy. Họ đem Sức Sống của Tổ đến cho toàn dân. Nhờ họ, toàn dân mới nhận được sứ điệp của Tổ và mới cứu được nước.
Đoàn sứ nhân chính là Tổ chức Cứu nước.
Vai trò của đoàn sứ nhân, của tổ chức cứu nước đích thực, là vai trò nền tảng.
b. Tầm vóc Công Cuộc Cứu Nước Cứu Dân.
Sau khi được Tổ chỉ dạy, vua Hùng trở thành người Cứu Nước theo ý Tổ.
Hai biểu tượng Tổ về và Vua Hùng đã nói lên tầm quan trọng tột bực của Công cuộc Cứu Nước Cứu Dân.
Tổ biểu trưng cho toàn thể sức sống, lịch sử, văn hóa, tinh thần, truyền thống của Dân Tộc.Vua Hùng là hiện thân của toàn thể Dân Tộc trong hiện tại, trong hiện trạng. Quá khứ và Hiện tại của Dân Tộc hiệp nhau tranh đấu cho Tương lai của Dân Tộc.
Đây là công tác bao trùm toàn thể Dân tộc.
* Vì không xác định tổ chức cứu nước chỉ là một thành phần trong việc thể hiện Công cuộc Cứu Nước Cứu Dân, nên chính sự hăng say phục vụ lại làm cho nhiều người quên nhận định tầm độ khả năng và chuyên môn của mình... để rồi dẫm chân nhau, xô đẩy nhau, đánh nhau... thay vì đánh giặc.*16
*     *
7.3 Chia nhau Công tác.
Sứ nhân chia nhau đi. Họ chia nhau đi, không dồn chung một chỗ, không giành nhau một việc. Mỗi người tùy khả năng và hoàn cảnh riêng mà nhận phần trách nhiệm của mình. Có phân nhiệm mới có tổ chức.
Những Tổ chức cứu nước là những sứ nhân theo hiện tình và khả năng linh động, mà chia nhau trách nhiệm hoàn thành những công tác khác nhau của Công cuộc cứu nước cứu dân.
[Đoàn kết không có nghĩa là làm cùng một việc hoặc ở trong cùng một tổ chức, mà là thể hiện cùng một Sứ mạng, và mỗi người, mỗi nhóm, tận tâm tận lực góp phần cho công cuộc chung].
*     *
7.4 Đến Với Toàn Dân.
Đoàn sứ nhân chia nhau lên đường, đến với người dân ở khắp nơi.
Mục tiêu hành động đầu tiên của người cứu nước là Dân, chứ chưa trực tiếp đối đầu giặc. Công tác chính là vận động toàn dân đứng lên chống giặc. Có như thế, thành công mới vững chắc và trọn vẹn.
Họ đi khắp nơi, không bỏ sót, không từ khước bất cứ một nơi chốn hay một phạm vi nào.*17
* Như thế, đoàn sứ nhân cũng cần có những khả năng thích ứng, để có thể phổ biến sứ điệp của Tổ tới cho mọi tầm độ, mọi hoàn cảnh, mọi con người đặc thù.
[Với phương tiện truyền thông hiện nay, công tác của Sứ nhân sẽ hữu hiệu nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, điều kiện thiết yếu vẫn là phương thức trình bày thích đáng với từng loại đối tượng].
*     *     *     *
8. VẬN ĐỘNG TINH THẦN TOÀN DÂN
Khởi đầu công tác Thể Hiện Công cuộc Cứu Nước Cứu Dân, là Vận động Tinh Thần Người Dân.
8.1 Thức Tỉnh Niềm Tin.
Đoàn sứ nhân chia nhau đi khắp nơi để loan tin. Nhưng tin của họ thực đơn sơ : Tổ đã về và sai đi tìm người cứu nước.
Nội dung tuy ngắn gọn, nhưng tác dụng lại hệ trọng. ‘Tổ đã về’ và ‘Tổ biểu đi tìm’ chứng tỏ Tổ đã độ trì cho công cuộc cứu nước cứu dân, Tổ đã cho phương thức, và chắc chắn sẽ có người cứu được nước.
Như vậy, chúng ta đã có sức sốngcó sách lượccó nhân sự... đây là lúc thể hiện ! Dầu giặc đang mạnh, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ thắng !
Có gì khích động và hứng khởi hơn để khơi dậy niềm Tự Tín Dân Tộc bằng nguồn tin tuyệt diệu nầy ? Dầu ai có tuyệt vọng, cũng vụt vui sướng, hăng say !
Như vậy, đoàn sứ nhân đi loan tin khắp nơi, chính là thể hiện công tác đem Tinh Thần dân tộc đến cho toàn dân, thức tỉnh Niềm Tin.
*     *
8.2 Dấn thân chu toàn.
Khi đến với dân, đoàn sứ nhân không chỉ loan tin, mà còn có hành động cụ thể : họ lục lạo tìm kiếm người cứu nước. Hoạt động nầy cũng gây tác dụng thiết yếu.
Khi đã phấn khởi nhờ sống lại niềm tin, mọi người cũng tiếp tay đoàn sứ nhân mà tìm kiếm Người cứu nước. Khi góp phần tìm kiếm, chính là lúc mọi người ý thức nạn nước, thêm thấm thía nạn mất nước.
Do đó, mỗi người sẽ ý thức đích xác về phận vụ của mình trong công cuộc cứu nước. Mọi người sẽ lột xác, nhận lãnh trách nhiệm, và dấn thân chu toàn sứ mạng.
*     *
8.3 Người Dân đích thực.
Như vậy, đoàn sứ nhân loan tin và tìm kiếm, chính là thực hiện công tác Vận động Tinh thần, làm cho người dân Thức tỉnh Niềm tin, Ý thức nạn nước, Nhận lãnh trách nhiệm, và Dấn thân chu toàn.
Đây cũng là công tác làm cho Mọi Người sống trọn nếp sống Việt, trở lại thành Người Dân Đích Thực, trở thành Người Cứu Nước đích thực.
* Nhìn chung với Truyền kỳ Mỵ Châu : vua An Dương làm mất nước, vì đã xa cách dân, loại dân ra khỏi việc nước. Giờ đây Vua Hùng, qua đoàn sứ nhân, đã tìm lại dân, giúp dân ý thức và chung phần việc nước.*18
*     *     *     *
9. PHỤC HỒI SỨC NƯỚC
9.1 Sức Mạnh Dân Tộc.
a. Sức Nước Ở Làng Thôn.
Mọi người đã cùng cố công tìm kiếm, và rồi tại làng Phù Đổng, họ đã gặp được người cứu nước.
Việc gặp thấy người cứu nước tại một làng cũng là nét đặc trưng của Văn hóa Việt. Truyền kỳ nhấn mạnh người cứu nước được tìm gặp ở trong làng, chứ không phải trong cung vua hay nơi đô thị.
Trong nếp sống dân ta, làng giữ vai trò nền tảng. Định chế Làng-Nước đã được Tổ Tiên đặc biệt chú trọng và được lưu truyền trong lịch sử, cũng như qua Truyền kỳ An Tiêm.*19
* Với thể chế và cơ cấu sinh hoạt tự lập trong lũy tre xanh, làng chính là nơi bảo toàn và hun đúc nếp sống thuần túy dân tộc, dầu là ngay giữa thời giặc xâm lăng.
Trong suốt mấy ngàn năm, xa xưa cũng như hiện đại, mọi thứ giặc, từ quân sự cho đến văn hóa, xã hội... dầu tới từ phương bắc, phương tây, hay phương đông, đều chỉ có thể hoành hành ở các đô thị. Trong làng thôn, những cố gắng muôn mặt của giặc vẫn luôn gặp bức tường ngăn cản.
Lịch sử cứu nước của dân tộc là một bảng liệt kê những anh hùng áo vải, ở mọi tầm độ và mọi nơi mọi thời.*20
Dưới khía cạnh quân sự, làng lại là nơi huấn luyện mọi người trở thành nghĩa sĩ chống giặc. Không những hệ thống canh gác nghiêm nhặt luôn bảo đảm lớp người túc trực, mà các lò võ thuật còn đào tạo nhiều vị anh hùng, nhiều cấp chỉ huy.
Làng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc, về mọi phương diện. Vì vậy, trong công cuộc cứu nước cứu dân, làng giữ vai trò then chốt. Sức Nước phải được phục hồi từ làng thôn.*21
b. Sức Nước là Người Dân.
Tại làng, đã xuất hiện người cứu nước. Nhưng nhân vật nầy cũng kỳ lạ. Đây chỉ là một cậu bé ba tuổi.
Tính cách bé bỏng của cậu bé tượng trưng cho người dân. Thời trước, người dân được gọi là con dân, con đỏ (mới sinh). [“Vùi con đỏ dưới hầm tai họa”, Đức Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo].
 Lại nữa, cậu bé lên ba cũng phù hợp với khoản thời gian ba năm mà sử Trung Hoa ghi là Ân Cao Tôn xâm lấn nước ta.
Như vậy, cậu bé ba tuổi nầy chính là biểu tượng cho người dân, cho toàn dân. Vị cứu tinhchính là người dân.
*     *
9.2 Thực trạng Sức Nước.
a. Sức Nước đang Tê Liệt.
Vị cứu tinh không những chỉ mới ba tuổi, mà lại còn tàn tật, không biết nói cười đi đứng.
Như vậy, cậu bé ba tuổi tàn tật chính là dân ta dưới nạn giặc Ân. Trong ba năm với giặc, dân ta đã không thể nói cười đi đứng như những con người bình thường. Đây là hình ảnh phũ phàng của hiện trạng mất nước.
Cậu bé Phù Đổng không những biểu trưng cho toàn dân, mà còn đặc biệt biểu trưng cho Sức Mạnh của dân tộc. Sức mạnh đó đã tê liệt, câm nín dưới ách giặc thù.
Cần chấp nhận thực tế, không mơ mộng, ảo tưởng. Khi đã tê liệt câm nín thì còn nói gì đến vận động, đi đứng, nói năng, sức mạnh, sáng kiến... nói chi tới tinh thần, khí tiết, đoàn kết, đấu tranh...!
** [Đây là bài học quan trọng đặc biệt. Khi tìm anh hùng cứu nước, có thể mọi người đều nghĩ rằng vị nầy phải là một người văn võ song toàn, tài đức trọn vẹn, dáng vóc hiên ngang, diện mạo quắc thước... Ngờ đâu, vị cứu tinh nầy không những chỉ là một em bé ba tuổi, mà còn tàn tật, không biết nói cười đi đứng ! Thực tế thực phũ phàng !
Mỗi lần nghĩ tới các vị anh hùng, chúng ta thường chỉ mơ tới giai đoạn các ngài đã thành công, hoặc ít nhất là đã vươn vai. Nhưng Truyền kỳ nhấn mạnh rằng : cả đến Thần Trời Phù Đổng cũng đã khởi đầu là một đứa bé tàn tật. Phải khởi sự từ đầu, với hiện trạng, dầu phũ phàng].*22
b. Sức Nước Trông đợi Tổ.
Dầu tê liệt câm nín, nhưng Cậu Bé lại nghe tiếng Sứ rao tin.
Sống trong nạn nước, dưới sức mạnh của bạo lực bất nhân, toàn dân, qua Cậu Bé Phù Đổng, phải lặng im bất động.
Tuy nhiên, giặc càng tàn ác, cướp phá, đàn áp... thì mọi người càng nôn nóng mong chờ ngày giải thoát, mọi người càng nao nức trông đợi dịp vùng lên, mọi người càng lắng tai nghe ngóng mọi nguồn tin đem lại niềm hy vọng cứu nước cứu dân.
*     *     *     *
10. SỨC NƯỚC BỘC LỘ
10.1 Bộc lộ Tự Tín.
Càng tê liệt câm nín, Cậu Bé, toàn dân, càng trông đợi Tổ. Vì vậy, khi vừa nghe sứ vua loan tin Tổ về, Cậu Bé liền bật nói.
 Bật nói chính là dám hiên ngang bộc lộ cảm nghĩ, tư tưởng, ý muốn của mình. Dầu mới chỉ bằng lời nói, đây cũng là dấu chỉ của lòng tự tín và phấn khởi. Từ đây người dân đã dám tự hào về mình, dám bộc lộ tự tín, bày tỏ niềm tin tưởng của chính mình. Hết câm nín, hết tê liệt, hết khiếp sợ.
*     *
10.2 Bộc lộ Tinh thần Chiến đấu.
Câu phát biểu đầu tiên của Cậu Bé là đòi ngựa và roi sắt. Cậu đòi phương tiện để phá giặc cứu nước.
Khi tinh thần đã được củng cố, khi ý thức được trách nhiệm với nước, khi thoát khỏi tình trạng câm nín, điều đầu tiên người dân nghĩ tới là phương tiện chiến đấu. Tiếng nói chính đáng của Người Dân là bộc lộ Tinh thần Chiến đấu để cứu nước.
** [Như vậy, khi rao tin Tổ về, phận vụ của các tổ chức cứu nước cũng là nhận ra sức mạnh hiện thực đang tiềm ẩn trong dân nước, rồi theo hoàn cảnh và điều kiện thực tế đương thời, mà linh động ứng biến thành sức mạnh cứu nước hữu hiệu].
*     *
10.3 Nghe Dân.
Thấy Cậu Bé bật nói, và đòi ngựa sắt roi sắt, sứ vua liền nghe theo.
Đây là khúc quanh quyết định. Từ đây, vai trò của sứ nhân đã đổi khác. Trước đây, sứ nhân nói cho dân nghe. Nay dân đã nghe và đã nói, thì sứ vua trở thành người nghe dân.
Thực vậy, khi người dân đã thành tâm tiếp nhận và đã sống đúng tinh thần Tổ, thì tiếng dân trở thành tiếng của Tổ. Tiếng dân là ý Tổ trong hiện trạng của đất nước.
Vì vậy, giờ đây tiếng dân chính là phương thức thiết thực và hữu hiệu cho công cuộc cứu nước.*23
** Khúc quanh nầy đặc biệt quan trọng cho tổ chức cứu nước, không những vì nó quyết định sự thành bại, mà còn thẩm định bản chất của tổ chức. Tổ chức không biến đổi, không trở thành người nghe dân, thì tổ chức đó không phải là của dân.
[Nếu không phải của dân, thì là của danh lợi, của bạo quyền, của thế lực ngoại bang, của tà thuyết, của giặc].
*     *
10.4 Đóng góp Tài Sức.
Từ đó, láng giềng đem gạo vải tới giúp Cậu Bé ăn mặc. Khi đã tự tín, người dân tự động khởi công, tự động quây quần.
Ăn mặc là nhu cầu nền tảng của đời sống con người. Vì vậy, gạo vải biểu trưng cho tất cả những thiết yếu nền tảng của công cuộc cứu nước cứu dân.
Đẹp thay cảnh toàn dân tấp nập góp gạo góp vải. Mọi người tự nguyện góp của góp công,cộng tài cộng đức. Bao thiện chí bấy lâu nung nấu, bao tài năng bấy lâu che đậy, bao sức mạnhbấy lâu bị đè nén, bao phương tiện bấy lâu tích trữ, bao diệu kế bấy lâu ấp ủ... giờ đây tất cả đều bộc hiện, tất cả đều bùng lên.
Khi đã lãnh nhận trách nhiệm, người dân không chỉ đòi hỏi phương tiện chiến đấu, mà còn tự nguyện đóng góp tài sức.*24
*     *
10.5 Vận dụng Điều hợp.
Khi mọi người góp sức, Cậu Bé Phù Đổng lớn nhanh như thổi. Gạo vải thu tích không phải để chất đống, mà tất cả đều được xử dụng để tăng trưởng sức sống của Phù Đổng, tăng triển sức mạnh của toàn dân.
Như vậy, mọi sự phải được vận dụng và điều hợp đúng mức, để sức mạnh toàn dân có thể thực sự tăng trưởng hữu hiệu, để sức mạnh các làng thôn đạt tới tầm vóc quốc gia.
Ở giai đoạn nầy, vai trò và trách nhiệm điều hợp Sức Nước, bao quát mọi Sức Mạnh, đã trở thành quyết định.
* Đây là lúc thành hình Cơ Cấu Điều Hợp đặt nền tảng trên Tinh thần Chiến đấu của Dân tộc, với những khả năng đặc biệt, và chuyên môn... khả dĩ đủ sức nhìn xa thấy rộng để quyền biến với tình thế.
*     *
10.6 Bài học Chung Sức.
Đây là giai đoạn Phục Hồi Sức Dân, mà cũng là bài học Đoàn Kết.
Mọi người vây quanh Cậu Bé Phù Đổng, là vì họ đã sống lại niềm tự tín dân tộc, họ đã ý thức trách nhiệm cứu nước, họ đã tìm ra Cậu Bé, và Cậu Bé đã bật nói.
Đây là những điều kiện thiết yếu để toàn dân chung sức, kết tụ, đoàn kết. Trước hết
1. Phải giúp Dân sống lại tinh thần dân tộc, một cách cô đọng và cụ thể, [tin Tổ về],
2. Giúp mọi người tự tín và dấn thân, [tìm kiếm].
3. Đồng thời, cũng chứng tỏ có kế sách hữu hiệu, [biết chỗ đi tìm và tìm được], và
4. Có kết quả thực tiễn, [làm Cậu Bé bật nói].
Khi không hội đủ các yếu tố nầy, việc đoàn kết chỉ là chòm xóm, giai đoạn, hoặc hời hợt theo các mục tiêu hạn hẹp. [Đoàn kết không có nghĩa là cùng gia nhập vào một tổ chức, nhưng làphân nhiệm trong cùng một sứ mạng].
** [Đây cũng là căn bản của vấn đề góp công, và cả vấn đề trợ giúp của đồng minh. Khi chưa có dấu hiệu khả dĩ thành công mà kêu gào trợ giúp thì chỉ làm trò cười, hoặc bị hiểu lầm là gian manh vụ lợi, hay sẵn sàng bán thân cho đồng minh].
*     *     *     *
11. SỨC NƯỚC VÙNG LÊN
11.1 Sức Mạnh của Tổ Chức.
Sứ vua đem ngựa và roi sắt tới.
Dưới sức mạnh áp đảo, dưới bức hiếp tàn bạo, dưới nạn biến dân nước thành câm điếc... của giặc, việc kiến tạo những phương tiện chống giặc quả thực là khó khăn.
Vì vậy, cần tới các Sứ vua, tức là các Tổ chức Cứu Nước, để cung cấp phương tiện chiến đấu đủ tầm vóc to lớn.
Đây cũng là công tác quan trọng mà mọi người, mọi tổ chức cứu nước, cần theo khả năng mà chuẩn bị, mà đóng góp, ở mọi phương diện.
*     *
11.2 Sức Mạnh của Phương Tiện.
Ngựa sắt và roi sắt chính là sức mạnh và phương tiện chiến đấu.
Roi sắt là sức mạnh quân sự, sức mạnh kỹ thuật, sức mạnh gián điệp... tất cả những gì trở thành ngọn roi sắt đánh thẳng vào quân giặc.
Ngựa sắt là phần sức mạnh ở mọi lãnh vực khác, kể cả tinh thần, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao...
*     *
11.3 Sức Mạnh của Hành Động.
Khi nhận được ngựa và roi sắt, Cậu Bé liền vươn vai thành người cao lớn.
Cậu đã ăn nhiều, đã lớn như thổi, nhưng phải chờ cho tới khi có ngựa và roi, Cậu mới vươn vai vượt tới tầm vóc đúng mức của mình.*25
Trước đây, khi nghe về Tổ, Cậu đã bật nói, đã dám bộc lộ chính mình, đã tự tín. Nhưng nay, có thêm ngựa và roi sắt, Cậu mới vùng dậy, mới hành động.
Dầu mọi người đã thức tỉnh, đã quyết tâm, nhưng phải có phương tiện thì mới có thể ra tay, mới có thể đối đầu với giặc.
*     *
11.4 Sức Mạnh của Toàn Dân.
Thế là, nhờ có sứ nhân trao ngựa và roi sắt, Cậu Bé đã vươn vai. Nhưng khi Cậu nhảy lên ngựa, thì ngựa sắt lại biến thành ngựa thần, sống động và phun lửa.
Để thâm cảm trọn vẹn điểm tuyệt diệu của bài học nầy, chúng ta đối chiếu với Truyền kỳ Mỵ Châu.
Ở Truyền kỳ Mỵ Châu, vua An Dương đã ỷ vào thành ốc và nỏ thần mà để mất dân. Nỏ thần dầu bắn một phát giết cả vạn quân giặc, mà vì không có dân, nên mất hiệu nghiệm, không bằng gỗ đá. Ở đây, khi được sức mạnh dân tộc xử dụng, thì dầu là ngựa sắt cũng hóa thành ngựa thần.
Không có dân, nỏ thần thành nỏ gỗ. Có toàn dân, ngựa sắt hóa ngựa thần ! Toàn dân vươn vai thì mọi sự cũng vươn vai theo. Sức mạnh của toàn dân làm cho mọi phương tiện trở thành hiệu lực cách thần kỳ, trở thành như linh hiển.
Không có hình ảnh nào diễn tả sức mạnh và vai trò của toàn dân một cách rõ ràng và đầy đủ hơn.
*     *
11.5 Lãnh Đạo và Anh Hùng.
Truyền kỳ phân biệt rõ ràng : vai trò lãnh đạo là do vua Hùng và đoàn sứ nhân, tức là do các tổ chức; còn anh hùng cứu nước lại là toàn dân, là Phù Đổng. Tuy giữ nhiệm vụ điều hợp, nhưng đoàn sứ nhân mất hút trong cái vươn vai của toàn dân.
Sự phân biệt nầy ngăn chận lòng tự tôn và lạm dụng của những người thuộc các tổ chức, và bảo đảm cho kết quả của thành công được thực sự là của Toàn Dân.
[Ở các văn hóa chủ nô, giới chủ nhân luôn nắm vai trò lãnh đạo và họ luôn tự nhận là anh hùng, dân chỉ là đám thiêu thân].
*     *     *     *
12. ĐÁNH ĐUỔI QUÂN GIẶC
12.1 Giành lại Đất Nước.
Đã có Hồn Nước, đã có Toàn Dân, Sức Mạnh đã tập trung, đây là lúc giành lại Đất Nước. Với ngựa lửa roi sắt, vị anh hùng Phù Đổng đã oai dũng đánh bọn giặc một trận tơi bời.
Khi Toàn Dân đã có tinh thần, đã có sức mạnh và đã có phương tiện, thì việc đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, cũng là chuyện đương nhiên.
Lịch sử mấy ngàn năm đã nhiều lần minh chứng hùng hồn.
*     *
12.2 Bạo lực Chiến tranh.
a. Với Ngựa lửa Roi sắt.
Phù Đổng đánh đuổi giặc với Ngựa lửa Roi sắt. Ngựa lửa Roi sắt là bạo lực chiến tranh.
Ở Truyền kỳ Mỵ Châu, vua An Dương đã cậy nhờ Thành Ốc và Nỏ thần làm sức mạnh giữ nước. Tuy nhiên, vì ông bỏ Hồn Nước, bỏ Dân Nước, nên Sức Nước đó cũng bị giặc dùng mưu chiếm đoạt.
Ở đây, để cứu nước, Toàn Dân cũng cần Sức mạnh chiến đấu để đánh giặc. Tuy nhiên, thay vì Thành Ốc bất động, thì là Ngựa Thần oai dũng; thay vì Nỏ thần bắn giết, thì là ngọn Roi sửa phạt.
Để phá giặc, không thể không dùng sức mạnh. Có thể cải hóa từng cá nhân mà không cần võ lực, nhưng không thể chỉ dùng lý thuyết mà cải hóa cấp thời một chủ trương giặc, một hệ thống giặc.
Bạo lực chiến tranh là phương tiện bất đắc dĩ, nhưng lại cần thiết. Không có bạo lực chiến tranh, sức mạnh dân tộc không thể bộc phát đúng mức để đánh đuổi giặc.
b. Ngọn Roi nhân thứ.
Phù Đổng dùng roi sắt chứ không dùng gươm giáo. Hình ảnh ngọn roi nói lên lòng nhân thứ của Tổ Tiên.
Gươm giáo luôn là vũ khí chém giết. Roi mang ý nghĩa sửa dạy, đánh phạt. Ngay trong ngôn ngữ, chúng ta cũng luôn dùng chữ ‘đánh’ và ‘đuổi’, dầu là giặc, đánh đuổi giặc. Cương quyết, dũng mãnh, nhưng không tàn bạo.
*     *
12.3 Tận dụng Năng lực.
Tuy dùng ngọn roi nhân thứ, nhưng không vì nhân thứ mà ủy mị, mà thiếu quyết tâm. Vì bọn giặc quá hung bạo và cố chấp, Phù Đổng đã phải đánh đến gảy roi sắt. Khi roi sắt gảy, Phù Đổngnhổ tre để tiếp tục đánh.
Chi tiết nầy lại nhắc nhớ lũy tre làng. Làng thôn là căn bản giữ nước và cứu nước suốt mấy ngàn năm. Nhổ tre đánh giặc nói lên việc tận dụng mọi năng lực, đặc biệt các cơ chế chính trị, kinh tế, và xã hội đặc thù của dân nước. Tận dụng tất cả để phá giặc.
*     *
12.4 Chấp nhận Hy sinh.
a. Cháy lây mấy Làng.
Truyền kỳ còn thêm : trong trận chiến, có mấy làng bị ngựa lửa làm cháy lây. Bạo lực chiến tranh không những phá giặc mà cũng tàn hại một phần đất nước.
Chiến tranh tàn phá, nhưng khi cần thiết, vẫn cứ chấp nhận. Chấp nhận hy sinh, chấp nhận thiệt hại.
** [Tuy vậy, chi tiết trên chứng tỏ Tổ Tiên vẫn không giấu được nỗi đau buồn vì sự tàn phá của chiến tranh. Tận thâm tâm, tận căn cội nếp sống tình người, không bao giờ dân Việt vui sướng trên máu lửa.
Chấp nhận chiến tranh để cứu nước cứu dân, cứu người, chứ không vì hiếu chiến, không vì chủ trương].
b. Chiến đấu để Cứu Nước Cứu Dân.
Có chiến tranh là có máu, có lửa, có giết hại, có tàn phá.
Tuy nhiên, trong chiến tranh, có kẻ hy sinh, có người oan uổng, mà cũng có đứa đền tội. Cũng chết, nhưng tội nhân thì đền tội, người vô tội thì oan uổng, kẻ vì Chính Nghĩa thì hy sinh. Cũng chết, nhưng ác nhân thì chết nhục, người hy sinh thì vinh quang.
Cũng gây đổ máu, nhưng ác nhân càng đổ thêm máu thì càng thêm nợ, tội càng chồng chất, mà kẻ dấn thân phá giặc để cứu người thì càng thêm công phúc.
*     *
12.5 Chiến thắng của Toàn Dân.
Phù Đổng đã trổ sức thần và đánh tan giặc. Phù Đổng lại là biểu tượng của toàn Dân.
Mọi người, và tất cả, đều đã góp phần chống giặc : từ những phương tiện vật chất, gạo, vải, sắt, lũy tre, thú vật... đến hệ thống làng thôn, hệ thống tổ chức quốc phòng, chính trị, xã hội, văn hóa... cho đến tinh thần dân tộc, quá khứ lịch sử, và cả sông núi, Hồn Thiêng... Tất cả đều gom đúc thành Sức Mạnh thần diệu của Dân Tộc, tất cả đều góp phần vào công cuộc cứu nước cứu dân.
Do đó, giờ đây, chiến thắng chính là chiến thắng của toàn thể dân tộc.
*     *     *     *
13. KẾT THÚC CUỘC CHIẾN
13.1 Thăng hoa Phong thưởng.
a. Thăng hoa.
Truyền kỳ đã dạy cách đánh giặc cứu nước. Giờ đây giặc đã tan, nhưng việc cứu nước vẫn chưa xong. Truyền kỳ vẫn còn tiếp : Phù Đổng cỡi ngựa lên núi và về trời.
Núi là nơi của Tiên. Phù Đổng là biểu tượng của sức mạnh tập trung của dân tộc. Giờ đây giặc đã tan, nên Sức Mạnh đó lên núi, tiềm tàng vào sông núi, trở thành phần Tinh Thần, phần Truyền Thống bất diệt, phần Tiên của Dân Tộc.
b. Phong thưởng.
Về trời lại là phong thưởng cao quý nhất trong Văn hóa Việt.
Như Chử Đồng và Tiên Dung, trong Truyền kỳ Chử Đồng, đã về trời sau khi trọn đời chăm lo phát triển dân nước, Phù Đổng cứu được nước nên cũng về trời.*26
Trong Phù Đổng, Tổ Tiên cũng phong thưởng tất cả mọi người đã góp công vào việc cứu nước. Trong Phù Đổng, những kẻ đã hy sinh tính mạng cũng được về trời, được hưởng hạnh phúc toàn vẹn, thành thần thành thánh.*27
*     *
13.2 Chuyển tiếp Thời Bình.
Về phần ngựa sắt, đã thành ngựa thần, nên cũng về trời. Vì là sức mạnh chiến đấu, nên khi xong giặc, ngựa cũng phải thăng hoa. Hết giặc mà ngựa lửa vẫn còn lẩn quẩn, thì sức mạnh chiến đấu đó sẽ trở lại đàn áp dân nước, biến dân nước thành nô lệ cho cường quyền.
Trong suốt lịch sử dân tộc, ở bất cứ thời nào, hễ xong giặc là giảm bớt quân số và chuyển tiếp cuộc sống thời bình. Phần lớn được trở về làng thôn cày cấy phát triển.
*     *
13.3 Sống tốt đẹp hơn.
Giặc tan, các sức mạnh vận dụng chống giặc cũng đã thăng hoa. Nhưng vẫn chưa xong : các gốc tre Phù Đổng đã xử dụng nay hóa thành tre la ngà.
Tre la ngà là loại tre cứng, đẹp và bền hơn loại tre thường. Phù Đổng đã nhổ tre làng để phá giặc, nhưng lại hoàn trả bằng loại tre quý báu hơn.
Qua diễn tiến vận động cứu nước, toàn dân đã sống lại sức sống của dân tộc, đã tận tình cộng tài cộng đức, đã cùng hy sinh chiến đấu bên nhau... nên giờ đây khối người đồng nhất nầy sẽ đồng tâm xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.
*     *
13.4 Biểu tượng vinh quang.
Mọi thứ giặc đã tan, mọi gánh nặng đã cất. Truyền kỳ kết thúc bằng việc Vua Hùng phong tước cho Phù Đổng là Thần Trời.
 Vua Hùng phong tước cho Phù Đổng, chính là để tôn vinh việc đóng góp vô giá của toàn dân, và mở đầu một tương lai huy hoàng của Dân tộc.
Phù Đổng trở thành biểu tượng vinh quang của Dân Việt.
*     *     *     *
14. TÓM LƯỢC VÀ SƠ ĐỒ
14.1 Tóm Lược Truyền kỳ PHÙ ĐỔNG.
Phần 1. DẪN NHẬP
Phần 2. TRUYỀN KỲ PHÙ ĐỔNG
Phần 3. CỨU NƯỚC VÀ CẢI HÓA
Phần 4. THỰC TRẠNG MẤT NƯỚC
     4.1 Giặc Ân xâm lấn.
     4.2 Không ngăn được giặc : mất nước : nhận chân thực trạng.
Phần 5. NỀN TẢNG CÔNG CUỘC CỨU NƯỚC CỨU DÂN
     5.1 Lập đàn cầu Tổ : sống lại Hồn Nước.
                 a. Tổ : Hồn Nước : sức sống, tinh thần, tụ điểm của toàn Dân.
                 b. Tổ đã hứa về, ‘khi cần thì gọi’.
     5.2 Bản chất Hồn Nước :
                 a. Trong mưa to gió lớn : Cha Rồng : Cụ Tổ, Sức sống của Dân tộc.
                 b. Cụ Già mặc áo đỏ : phong tục : truyền thống của Dân tộc.
     5.3 Hiện trạng Hồn Nước : hình dung cổ quái : xa lạ với Hồn Nước.
     5.4  Sức sống Hồn Nước.
                 a. Về với trẻ con : Tổ về với Dân.
                 b. Ở ngã ba đường : Tổ ở giữa Dân.
                 c. Đùa giởn : Tổ sống với Dân.
     5.5 Để nhận ra Tổ.
Phần 6. NHÂN SỰ CỨU NƯỚC CỨU DÂN
     6.1 Vua Hùng tới gặp, xin Cụ chỉ dạy : lột xác - Điểm đột phá.
     6.2 Tổ dạy sai Sứ : dấn thân. - Ta phải làm.
     6.3 Vua Hùng : Người Cứu Nước.
Phần 7. PHƯƠNG THỨC CỨU NƯỚC CỨU DÂN
     7.1 Theo Lời Tổ dạy : động lực, sức sống của Công cuộc Cứu Nước.
     7.2 Sai sứ lên đường : a. Tổ chức Cứu Nước.
                 b. Tầm vóc Công cuộc Cứu Nước Cứu Dân.
     7.3 Sứ nhân chia nhau đi : chia nhau công tác, phân nhiệm.
     7.4 Khắp nơi : đến với Toàn Dân. - khả năng thích ứng.
Phần 8. VẬN ĐỘNG TINH THẦN TOÀN DÂN
     8.1 Loan tin : thức tỉnh Niềm Tin.
     8.2 Tìm người cứu nước : Ý thức Nạn Nước, Nhận lãnh Trách nhiệm, Dấn thân chu toàn.
     8.3 Người Dân đích thực.
Phần 9. PHỤC HỒI SỨC NƯỚC
     9.1 Sức mạnh Dân tộc.
                 a. Tại làng Phù Đổng : Sức Nước ở Làng Thôn - Định chế Làng-Nước.
                 b. Gặp Cậu Bé ba tuổi : Sức Nước Là Người Dân.
     9.2 Thực trạng Sức Nước.
                 a. Không biết nói cười đi đứng : Sức Nước đang Tê Liệt. – Tìm Anh Hùng.
                 b. Nghe Sứ rao tin : Sức Nước trông đợi Tổ.
Phần 10. SỨC NƯỚC BỘC LỘ
     10.1 Cậu Bé bật nói : người Dân bộc lộ Tự Tín.
     10.2 Đòi ngựa và roi sắt : bộc lộ Tinh thần Chiến đấu.
     10.3 Sứ vua nghe theo : nghe Dân - Tiếng Dân.
     10.4 Láng giềng đem gạo vải tới : đóng góp tài sức.
     10.5 Lớn nhanh như thổi :  tăng triển Sức Nước – Cơ cấu Điều Hợp.
     10.6 Bài Học Chung Sức. Vấn đề góp công, đồng minh.
Phần 11. SỨC NƯỚC VÙNG LÊN
     11.1 Sứ vua đem ngựa và roi tới : sức mạnh của Tổ chức.
     11.2 Ngựa sắt Roi sắt : sức mạnh của Phương tiện.
     11.3 Cậu Bé vươn vai : sức mạnh của Hành động.
     11.4 Cậu nhảy lên ngựa, ngựa thành Ngựa thần : sức mạnh của Toàn Dân.
     11.5 Lãnh đạo và Anh hùng.
Phần 12. ĐÁNH ĐUỔI QUÂN GIẶC
     12.1 Phù Đổng đánh bọn giặc : giành lại Đất Nước.
     12.2 Với Ngựa lửa Roi sắt : a. bạo lực chiến tranh.  
                 b. Ngọn Roi nhân thứ : đánh phạt, đánh đuổi.
     12.3 Nhổ Tre đánh giặc : tận dụng mọi năng lực.
     12.4 Cháy lây mấy Làng : a. chấp nhận hy sinh.
                 b. chiến đấu để Cứu Nước Cứu Dân : thêm công phúc.
     12.5 Giặc tan : chiến thắng của toàn dân.
Phần 13. KẾT THÚC CUỘC CHIẾN
     13.1 a. Phù Đổng lên núi : thăng hoa, phần Tiên của Dân tộc.
                 b. Về trời : phong thưởng, được thờ kính.
     13.2 Ngựa Lửa về Trời : chuyển tiếp thời bình.
     13.3 Tre đánh giặc trở thành tre La Ngà : sống cuộc sống tốt đẹp hơn.
     13.4 Phù Đổng được phong là Thần Trời : Biểu tượng vinh quang của Dân tộc.
Phần 14. TÓM LƯỢC VÀ SƠ ĐỒ
Phần 15. GHI CHÚ
*     *
 
*     *     *     *
15. GHI CHÚ
*1 - Phù Đổng : - Phù : nổi, bay. - Đổng, Đồng : cậu bé. - Phù Đổng : chuyện ‘Cậu Bé Vươn Vai’.
Giặc thường được hiểu là quân xâm lăng cướp nước, hoặc những người phá rối nếp sống an thịnh. - Theo nghĩa chung, giặc là tất cả những ai, những gì, làm thiệt hại cuộc sống hạnh phúc của Con Người, ở bất cứ phương diện và mức độ nào.
Đọc bài 2109 Việc Giữ Dân Giữ Nước để thấy rõ phương thức giặc xâm lăng quê hương đất nước, cũng như xâm chiếm xã hội, và xâm chiếm mỗi con người.
*2 - Nhà Ân còn gọi là Nhà Hậu Thương. Đọc thêm bài 1108 Tộc Việt Thời Hùng 3, phần 4.
*3 - Việc Tổ Về, đọc bài 2105 Làm Việc Nước, mục 5.3a và gc.
*4 - Nếu không tự tín tự lập để có những căn bản và sức mạnh tối thiểu, thì dầu có dùng những danh từ hoa mỹ : gọi mình là đồng minh, trên thực tế cũng chỉ là tên đầy tớ; gọi mình làbạn, mà thực sự chỉ là thằng ăn mày; gọi mình là anh hùng, nhưng tựu trung cũng chỉ là con cờ bị lợi dụng.
*5 - Đọc nt, mục 5.3b.
*6 - Đọc bài 2109 Việc Giữ Dân Giữ Nước, đoạn 4.4.
*7 - Dưới khía cạnh văn hóa, việc Tổ về ở ngã ba đường còn nói lên tính cách bình đẳng của Văn hóa Việt. Tổ về với người dân chứng tỏ vua Hùng lập đàn cầu Tổ là vì vua có trách nhiệm, chứ không phải vì vua độc quyền. Bình Đẳng cả trước siêu linh.
Đọc bài 2107 Đời Sống Gia Đình, mục 9.2b.
*8 - Đây là phần tinh thần. Cần phân biệt với kiến thức, hay chuyên môn, kỹ thuật, tài năng... Bài 2109 - Việc Giữ Dân Giữ Nước đã nói chi tiết, từ khởi đầu đến kết cuộc.
- Trong lịch sử, công cuộc phục quốc đuổi ngoại xâm thường chia thành hai giai đoạn lớn. Ở giai đoạn đầu, hầu hết những người lãnh đạo đều là các chức quyền cũ... Giai đoạn hai thì do người mới vươn lên, và đưa tới thành công. [Tiêu biểu : thời Đánh đuổi giặc Minh, 1407-1427 dl, với Nhà Hậu Trần và Đức Lê Thái Tổ].
Lý do thất bại của giai đoạn đầu, một phần là vì giới quyền chức vẫn theo phương thức cũ, chưa thể cách mạng tinh thần và lề lối làm việc cho ứng hợp với tình thế mới.
*9 - Tổ Tiên đã chỉ dạy rất kỹ vì luôn luôn có nguy cơ là con cháu, nhất là khi đã ở thời suy thoái, có thể vì một vài nét hời hợt bên ngoài mà nhận lầm.
Lĩnh Nam Chích Quái là một trong những nguy cơ. - Đọc thêm bài 1401 Nguồn gốc Tiên Rồng, đb đoạn 3.3.
*10 - Về Bài Học Hồn Nước và Bài Học Dân Nước, đọc bài 2109 Việc Giữ Dân Giữ Nước, phần 4 và phần 5.
*11 - Đọc bài 2105 Làm Việc Nước, đoạn 5.3.
*12 - Người dám làm như vua Hùng đều bị những kẻ thủ cựu, tuy rất thành tâm thiện chí, dè bỉu chống báng. Nhiều khi họ chống hơn cả chống giặc.
* Trở ngại nơi đương sự, thường là vì mặc cảm : quá khứ, oai hùng, vẫn đeo đuổi; uy danh, tuy tế vi, còn vây bọc; hiện tại, đã khốn quẩn, thêm phiền phức; sứ mạng, dầu cao cả, chưa xác tín.
*13 - Khi gặp người chưa vượt được điểm đột phá nầy, dĩ nhiên tùy tầm độ, mà nói chuyện cách mạng thì chỉ mất công, thêm gánh nặng hoặc thêm chống đối. - Chỉ có thể kiên trì hướng dẫn tiệm tiến để chính đương sự tự phát.
*14 - Biết bao lần chúng ta đã cầu mong phép lạ điềm linh giết giặc thay chúng ta. Biết bao lần chúng ta như phiền trách các Đấng Thiêng Liêng không tích cực độ trì, để chúng ta khoanh tay nhìn giặc chết ! Cũng vậy, bao lần chúng ta kết tội người khác, vì họ không làm cho chúng ta hưởng.
*15 - Sứ Giả là người dành một số sinh hoạt cho sứ mạng. Sứ Nhân là người sống trọn vẹn cuộc sống vì sứ mạng.
*16 - Cũng vì nhận định khiếm khuyết về Công cuộc Cứu Nước Cứu Dân, nhiều tổ chức đã trở thành tay sai của ngoại bang, nô lệ của tà thuyết, hiện thân của bạo lực.
*17 - Nơi đó có thể là trong hay ngoài nước, nơi thân thiện hay giữa lòng địch... mà cũng là các lãnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, kỹ thuật, giáo dục, văn nghệ, giải trí, truyền thông...
Nơi đó cũng là các cộng đoàn, hội đoàn, chòm xóm, tộc họ, gia đình... hay là trí óc, con tim, cuộc sống, của bất cứ ai... ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh hay sinh hoạt nào của Con Người, cá nhân cũng như cộng đoàn.
*18 - Phương thức có thể khác nhau. Năm 1257 dl, vua Trần Thái Tôn đích thân đến các làng. Năm 1284 dl, Đức Trần Nhân Tôn triệu tập Hội Nghị Diên Hồng. Năm 1417 dl, Đức Lê Thái Tổ với câu : ‘Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần’. Phương thức cho Hiện tại ?
*19 - Trung Hoa và Phương Tây không có định chế nầy. - Đọc bài 2106 Nếp Sống Làng Thôn, phần 7, đb đoạn 7.6.
*20 - Đối với phương Tây, với nền văn hóa chủ nô, với thể chế pháo đài và lính chính quy,chiến tranh nhân dân là một sáng kiến vĩ đại cách đây hơn trăm năm.
 Đối với nếp sống dân ta, toàn dân vi binh đã là chuyện thường tình từ mấy ngàn năm... với hệ thống làng thôn. - Đọc bài 2107 Đời Sống Gia Đình, đoạn 9.1.
*21 - Ý thức tầm quan trọng của võ thuật trong vai trò huấn luyện và hun đúc tinh thần thanh thiếu niên, nên bất cứ giặc xâm lược thời nào cũng cấm đoán hoặc triệt hạ uy tín võ thuật dân tộc.
*22 - Không nên ảo tưởng với sáo ngữ : dân muốn là trời muốn. Dân nào không muốn an vui, trời đâu muốn người khốn khổ. Nhưng trong suốt lịch sử, nhân loại cứ phải quằn quại dưới sự tàn bạo của một số người.
Dân, Trời không thể làm gì được cho Con Người, khi không có những con người quyết làm và làm đúng cách.
*23 - Nghe dân, nhưng chỉ khi nào họ thực sự là Dân. Trước kia, khi đã mất Tổ, nếu họ có nói cũng chỉ là ú ớ, nói kiểu suy thoái, kiểu vong nô, kiểu làm mất nước, hay kiểu của cường quyền bạo lực... Khi đó mà nghe thì...!
*24 - Trong lịch sử, ở bất cứ thời nào, thời Hội Nghị Diên Hồng, thời Đức Lê Thái Tổ, thời Đức Quang Trung... khi hội đủ điều kiện, thì Toàn Dân ùn ùn vùng dậy.
*25 - Có những người, những tổ chức, đã không thực sự chuẩn bị, không được dân cho ăn mặc, mà cũng chờ vươn vai. Nếu có ráng vươn thì cũng sẽ chỉ là bộ xương khô lõa lồ, hoặc là thằng hề đã được ngoại nhân vẽ mặt trát phấn.
*26 - Đọc bài 2104 Nền tảng Sinh Hoạt Chung, đoạn 4.4.
*27 - Dân ta thờ kính tất cả những Vị hy sinh cứu nước. Trên đất nước ta nhan nhản đền thờ các Ngài. Ngày húy của các Ngài cũng là những ngày lễ chính của dân tộc.
Tuy nhiên, dân Việt không có thần Chiến Tranh. Đang khi đó, trong quá khứ lẫn hiện tại, nhiều giống dân không những sùng bái thần Chiến Tranh, mà còn cổ võ chiến tranh tàn sát ngay cả trong nếp sống, trong giáo dục, trong phim ảnh, trong trò chơi.
Nguyễn Thanh Đức 2013.

Tổng số lượt xem trang