-BIẾT NGƯỜI, BIẾT TA: Học giả Trung Quốc phản biện những lập luận của Việt Nam về Công hàm Phạm Văn Đồng (Dân News 29-5-14) -- Nên đọc bài này để bớt "tự sướng" ◄◄◄
Ngô Viễn Phú
-
- -
Kịch bản kiện Trung Quốc (Lữ Giang)
-Đã sáng mắt ra chưa?
Nhân cuộc họp báo quốc tế về tranh chấp biển Đông do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức chiều ngày 23 tháng năm, 2014.
Trong cuộc họp báo này, không chỉ Việt Nam Cộng Hòa được đề cập đến một cách long trọng, mà cả Quốc Gia Việt Nam với Chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Đại do Thủ Tướng Trần Văn Hữu đại diện tại Hội nghị Genève, cũng đã được nhấn mạnh như một thực thể công pháp.
Ngô Viễn Phú
*Bài này Dân News tổng hợp trên các trang mạng. Được biết ông Ngô Viễn Phú hiện là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam (Đại học Dân tộc Quảng Tây), từng là du học sinh của Đại học Quốc gia Việt Nam. Ngô Viễn Phú cho biết ông từng theo học chương trình tiến sĩ luật học tại Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Việt Nam, từ năm 2001 đến năm 2006.
1. Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lí của Trung Quốc, mà không hề thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy, về cơ bản, công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Phản luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lí của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành” với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng không có căn cứ.
Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo lô-gich, là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung của Tuyên bố Lãnh hải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”
Bình luận của Dương Danh Huy: Theo luật quốc tế, có 3 điều có thể làm cho một quốc gia mất chủ quyền mình đã có trên một vùng lãnh thổ, đó là
1. Công nhận chủ quyền của nước khác.
2. Gây ra estoppel không cho mình nói ngược lại điều mình đã nói.
3. Bị cho là đã acquiesced.
The luật quốc tế thì để xét CHPVĐ có bị vướng lỗi (1) và (2) hay không, tòa sẽ xét xem CH PVĐ có nói cụ thể gì về Hoàng Sa, Trường Sa hay không, và nếu có nói thì có phải là trong văn cảnh TQ và VNDCCH thảo luận về Hoàng Sa, Trường Sa hay không. Luật quốc tế đòi hỏi hai điều này. Nếu không nói cụ thể mà chỉ có thể bị/được suy diễn logic thì sẽ không đủ. Nếu nói trong văn cảnh khác với thảo luận về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa thì cũng sẽ không đủ. Trả lời cho 2 câu hỏi này dĩ nhiên là “Không”. Điều đó có nghĩa CHPVĐ chỉ có thể vướng lỗi (3), không vướng lỗi (1) hay (2).
Vấn đề ở đây là TQ và Ngô đã mạo nhận và biến lỗi (3) thành lỗi (1), còn phía VN thì mới chỉ nói 1/2 sự thật khi nói CH PVĐ không vướng lỗi (1), bỏ qua lỗi (3).
Nếu suy diễn logic bình dân thì dễ có ấn tượng sai lầm là lỗi (3) hay lỗi (1) thì cũng như nhau, nhưng trong trường hợp đặc thù của VNDCCH, VNCH, CHMNVN và CHXHCNVN thì lỗi (3) có ít hệ quả hơn lỗi (1). Nếu VNDCCH mắc lỗi (1) hay (2) thì có thể gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý cho chính thể này, và nếu thế thì khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN, CHXHCNVN sẽ phải thừa kế hai điều đối nghịch nhau: một bên là nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý, thừa kế từ VNDCCH, bên kia là chủ quyền đối với HSTS, thừa kế từ CHMNVN. Sự đối nghịch đó sẽ đem lại rủi ro nhất định cho lập luận pháp lý của CHXHCNVN.
Nếu VNDCCH chỉ mắc lỗi (3), và sự thật là như thế, lỗi đó chỉ làm cho VNDCCH mất đi những gì mình có, nếu có, nhưng không gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý cho chính thể này. Do đó, khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN, CHXHCNVN chỉ thừa kế chủ quyền đối với HSTS từ CHMNVN, không có nghĩa vụ tính ràng buộc pháp lý bất lợi từ VNDCCH để thừa kế.
2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập niên 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mĩ là xấu, hạm đội 7 của hải quân Mĩ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước Mĩ không được xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến lãnh thổ.
Phản luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp là sự thực, nước Mĩ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt – Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lí do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán thành” rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu !
Bình luận của Dương Danh Huy: Đúng là luận điểm 2 của Việt Nam riêng nó không hoàn toàn bác bỏ được lập luận của Trung Quốc, và phản biện của Ngô chính xác về một số khía cạnh. Nhưng phản biện của Ngô cũng chỉ nói một phần của sự thật. Phần kia của sự thật là luận điểm 2 của Việt Nam cũng có giá trị pháp lý như sau.
The luật quốc tế thì để xét CHPVĐ có bị vướng lỗi (1) và (2) hay không, tòa sẽ xét xem CH PVĐ có nói cụ thể gì về Hoàng Sa, Trường Sa hay không, và nếu có nói thì có phải là trong văn cảnh TQ và VNDCCH thảo luận về Hoàng Sa, Trường Sa hay không. Lập luận 2 của Việt Nam nói lên điều văn cảnh của CH PVĐ là “hải quân Mĩ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc … Công hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc” chứ không phải là thảo luận về Hoàng Sa, Trường Sa giữa VNDCCH và TQ. Như thế, lập luận đó có tác dụng góp phần chứng minh CH PVĐ không vướng lỗi (1) và (2).
Vấn đề ở đây là phía Việt Nam có người dùng luận điểm (2) một cách quá mức luật quốc tế cho phép, trong khi Ngô thì cũng bác bỏ ý nghĩa của nó một cách quá mức luật quốc tế cho phép.
3. Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho Việt Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc.
Phản luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng.
Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.
Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài.
Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bình luận của Dương Danh Huy: Đúng là luận điểm 3 “của Việt Nam” là vớ vẩn. Nhưng theo tôi hiểu thì Việt Nam không chính thức có luận điểm “để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc”, mặc dù có thể có cá nhân suy diễn như thế. Tôi cho rằng Ngô đang dựng người rơm lên chém. Nhưng người Việt cũng nên lưu ý không nên dùng luận điểm vớ vẩn này.
Bình luận của Dương Danh Huy: Đúng là luận điểm 3 “của Việt Nam” là vớ vẩn. Nhưng theo tôi hiểu thì Việt Nam không chính thức có luận điểm “để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc”, mặc dù có thể có cá nhân suy diễn như thế. Tôi cho rằng Ngô đang dựng người rơm lên chém. Nhưng người Việt cũng nên lưu ý không nên dùng luận điểm vớ vẩn này.
4. Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở thời điểm đó (1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lí của nước Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở ngoài không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc không có quyền xử lí đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa ? !
Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Bình luận của Dương Danh Huy: Nhiều người (kể cả Ngô) lẫn lộn chính phủ/chính quyền với quốc gia. Việc lãnh đạo VNDCCH nói chính phủ VNCH là “Ngụy”, “Bù nhìn” là một động thái chính trị. Nó không có nghĩa VNCH không phải là một quốc gia. Theo Công ước Montevideo, việc VNCH có phải là một quốc gia hay không không tùy thuộc vào lãnh đạo VNDCCH nói chính phủ VNCH là gì. Cũng theo Công ước này, việc TQ công nhận VNDCCH không có nghĩa QGVN/VNCH không phải là một quốc gia.
Khi CPCMLT CHMNVN ra đời thì VNDCCH đã chính thức đã công nhận chính thể đó là đại diện pháp lý duy nhất cho miền Nam, tức là đã chính thức công nhận CHMNVN là một quốc gia khác với VNDCCH.
Không những thế, TQ cũng đã công nhận CPCMLT CHMNVN, tiếp nhận ngoại trưởng của CP đó, tức là đã công nhận miền Nam là một quốc gia khác với miền Bắc.
Việc TQ công nhận CPCMLT CHMNVN, cũng như TQ đã công nhận sự thống nhất là do hiệp thương thống nhất giữa hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN năm 1976, chứ không phải do VNDCCH xâm lăng VNCH/CHMNVN, đã bác bỏ ý kiến của Ngô cho rằng “việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.”
5. Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này được kí kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.
Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.
Bình luận của Dương Danh Huy: Luận điểm này của Ngô, “cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ”, ủng hộ quan điểm VNCH và VNDCCH là hai quốc gia, và như thế thì VNCH sẽ là quốc gia có thẩm quyền lãnh thổ với HSTS, VNDCCH không có. Tức là phản biện này của Ngô ủng hộ phản biện của Việt Nam dựa trên luận điểm “hai quốc gia”.
Bình luận của Dương Danh Huy: Luận điểm này của Ngô, “cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ”, ủng hộ quan điểm VNCH và VNDCCH là hai quốc gia, và như thế thì VNCH sẽ là quốc gia có thẩm quyền lãnh thổ với HSTS, VNDCCH không có. Tức là phản biện này của Ngô ủng hộ phản biện của Việt Nam dựa trên luận điểm “hai quốc gia”.
6. Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật.
Phản luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lí do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich pháp luật, sự thực lịch sử.
Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán thành” chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc”, về cơ bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình.
Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.
Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình quản lí được, đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có “Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960. Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kì của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.
Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội. Chính phủ căn cứ vào qui định của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.
Bình luận của Dương Danh Huy: Luận điểm này của phía Việt Nam là luận điểm sai lầm, không phù hợp với luật quốc tế, và người Việt nên bỏ nó. Tự loại bỏ bới những luận điểm không đứng vững được sẽ giúp chúng ta thấy cần tập trung vào lập luận có thể đứng vững được.
Tướng Thanh nói: "Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia, hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi. Vấn đề là ở chỗ, lãnh đạo cấp cao của các nước nên hết sức bình tĩnh, kiềm chế, đặt lợi ích của quốc gia trong lợi ích của khu vực và quốc tế; lựa chọn giải pháp hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao để giữ gìn quan hệ hữu nghị giữa các nước."
Sao ngày trước không nghĩ đến việc đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên để lựa chọn giải pháp hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao, mà lại mang quân vào lật đổ chính quyền Sài Gòn bằng mọi giá, gây nên cảnh tang thương của không biết bao nhiêu gia đình cả hai miền Nam Bắc trong suốt gần 20 năm? Ngay cả khi cho rằng Mỹ xâm lược, sao không tìm giải pháp ngoại giao trước tiên, mà lại đánh trước, đàm sau, rồi đánh tiếp? Sao không áp dụng cùng phương thức ấy cho Trung Quốc ngày nay? Họ cũng là quân xâm lược đang chiếm đóng các hải đảo của tổ quốc đấy!
Đừng ngụy biện nữa
.
-
- -
Kịch bản kiện Trung Quốc (Lữ Giang)
"...Một câu hỏi được đặt ra: Trước những khó khăn với Trung Quốc và những ve vãn của Mỹ, liệu rồi Đảng Cộng sản Việt Nam có tách xa Trung Quốc và liên kết với Mỹ không ? Câu trả lời là KHÔNG..."
Khi Trung Quốc chuẩn bị đưa giàn khoan HD-918 vào Biển Đông, trong vùng đặc khu kinh tế của Việt Nam, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam biết trước rằng nhân cơ hội này sẽ có hai chiến dịch được phát động để làm cho tình hình chính trị trong nước xáo trộn và có thể đưa tới biến loạn, đó là chiến dịch hô hào biểu tình chống Trung Quốc và chiến dịch đòi khởi kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế.
Để đối phó với hai chiến dịch này, nhà cầm quyền cho đã soạn sẵn những kịch bản để vô hiệu hóa. Đây cũng chỉ là trò tháu cáy trong khi đánh bài xì phé.
Trong bài "Qua một cuộc chiến có bài bản" phổ biến hôm 22/5/2014, chúng tôi đã đề cập đến "kịch bản biểu tình bạo động chống Trung Quốc", được trình diễn khá xuất sắc trong các ngày 12, 13 và 14/5/2014 để tạo lý do ban hành quyết định cấm biểu tình và vô hiệu hóa các thành phần bị coi là nguy hiểm. Các đài phát thanh Việt ngữ quốc tế nổi tiếng như BBC, RFA và RFI đểu bị cho vô cơ. Hôm nay chúng tôi sẽ bàn đến "kịch bản kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế" với mục tiêu vô hiệu hóa chiến dịch đòi hỏi phải đương đầu trực diện với Trung Quốc.
Chúng tôi gọi là "kịch bản" bởi vì nó chỉ được trình diễn để vô hiệu hóa những sự kích động gây rối loạn theo kiểu Ai Cập hay Thái Lan trước đây, chứ không phải là một giải pháp có thể giúp ngăn chận "chiến lược bắp cải"mà Trung Quốc đang thực hiện để từng bước lấn chiếm toàn Biển Đông và Biển Hoa Đông. Chiến lược này vượt lên trên mọi luật lệ quốc tế và mọi quyền lực, kể cả thẩm quyền của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng sẽ nói qua nếu kiện Trung Quốc sẽ gặp những khó khăn nào và trước những khó khăn, liệu Việt Nam có tách ra xa Trung Quốc và đứng gần Mỹ hơn không? Vấn đề "chiến lược bắp cải" mà người Mỹ dịch là "cabbage strategy", hay rõ hơn, "cabbage encirclement strategy" (chiến lược bao vây bắp cải) sẽ được nói trong một bài khác. Đây là một vấn đề rất quan trọng, nều không nắm vững, khó biết được Trung Quốc đang làm gì trên Biển Đông.
Kịch bản kiện Trung Quốc
Hôm 22/5/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói với hãng thông tấn Reuters rằng chính phủ Việt Nam đang cân nhắc "nhiều biện pháp phòng vệ" đối với Trung Quốc, bao gồm các hành động pháp lý. Ngay sau đó, phát ngôn viên của Tòa Bạch Ốc Patrick Ventrell tuyên bố Hoa Kỳ ủng hộ việc Việt Nam xử dụng biện pháp pháp lý với Trung Quốc để giải quyết căng thẳng sau khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển Việt Nam.
Để yểm trợ cho lời tuyên bố của Thủ Tướng Dũng, các báo trong nước, nhất là hai tờ Người Lao Động và Tuổi Trẻ, đã mở chiến dịch tuyên truyền rằng chính quyền đang chuẩn bị đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế. Cũng trong ngày 22/5/2014, dưới đầu đề "Kiện Trung Quốc: Chính phủ kiên quyết, toàn dân ủng hộ!", báo Người Lao Động nhắc lại lời của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng : "Việt Nam không đánh đổi chủ quyền lấy thứ hòa bình, hữu nghị lệ thuộc; Việt Nam xem xét kiện Trung Quốc..." Báo này cho rằng bản tin của hãng Reuter nói trên "đang tạo ra sự ủng hộ mãnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước".
Báo Tuổi Trẻ ngày 25/5/2014, đăng bài "Phải kiện Trung Quốc" của Tiến Sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng Ban biên giới Chính phủ. Ông đã tóm lược nội dung đơn kiện và thủ tục kiện Trung Quốc của Philippines và kêu gọi : "Tranh thủ sự giúp đỡ của các luật sư người nước ngoài, để cùng xúc tiến hoàn thiện quá trình kiện Trung Quốc ra các cơ quan tài phán quốc tế theo đúng thủ tục và nội dung mà Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 đã quy định."
Trên báo Tuổi Trẻ ngày 26/5/2014, Tiến Sĩ Nguyễn Vân Nam cho rằng kiện Trung Quốc "chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ". Ông nói Trung Quốc có thể bất chấp phán quyết của tòa, cậy thế nước lớn, cứ làm theo ý chí của mình. Nhưng theo ông, chính đơn kiện của Việt Nam "sẽ đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược". Đây chỉ là một lối "cường điệu".
Ở hải ngoại, ngày 26/6/2014, Tiến sĩ Lê Trung Tĩnh, được nói là thành viên Nhóm Nghiên cứu Biển Đông tại Pháp, cho biết "Thư yêu cầu lãnh đạo Việt Nam đưa Trung Quốc ra tòa" đề ngày 14/5/2014 do ông soạn thảo đã thu được gần 4.000 chữ ký, và đã được gửi đến các nhà lãnh đạo Việt Nam. Hai đài phát thanh ở Mỹ và Pháp là RFA và RFI đã yểm trợ cho yêu cầu này.
Báo Đời Sống Pháp Luât cho biết trong phiên họp ngày 29/5/2014, Thủ Tướng chỉ đạo 3 giải pháp bảo vệ chủ quyền đó là trên nội địa, trên mặt trận ngoại giao và đấu tranh pháp lý. Sau đó, ông Nguyễn Văn Nên, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ nói với báo chí : "Chúng ta chuẩn bị hồ sơ pháp lý về biển Đông từ lâu rồi. Nhưng lúc nào thực hiện nó, và thực hiện thế nào phải rất cận trọng. Lãnh đạo ta đang cân nhắc, tính toán, chọn thời điểm, thực sự cần thiết mới tính tới giải pháp này".
Nhìn chung, cả Mỹ lẫn người Việt đấu tranh đang đẩy cây cho cộng sản Việt Nam đứng vào thế đối đầu với Trung Quốc, nhưng cộng sản Việt Nam là một con cáo già, rất khó đẩy vào bẩy.
Kiện sẽ thắng hay thua ?
Theo nguyên tắc, tòa xử theo hiện trạng hồ sơ. Hiện nay hồ sơ chưa có, làm sao có thể nói ai thắng ai thua được? Nhưng có một số vấn đề căn bản sau đây cần được lưu ý.
1. Định chế "Res nullius" (vật vô chủ) trong luật cổ La Mã không còn xài được
Luật La Mã được ban hành vào thế kỷ thứ 6 có quy định rằng, đối với các đảo nổi lên trên biển, tiếng Latin gọi là "Insula in mara nata", nguyên tắc"Res nullius fit primi occupantis" được áp dụng, tức quyền sở hữu thuộc về người chiếm trước.
Từ năm 1974 đến nay, cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đã dùng định chế này để xác định chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa. Đa số các"chuyên gia Biển Đông tự xưng" của người Việt hải ngoại đã bám rất chặc định chế này, đưa ra nhiều tài liệu chứng minh Việt Nam đã chiếm Hoàng Sa và Trường Sa trước, nên hai quần đảo này thuộc về Việt Nam.
Nhưng định chế này đã bị hủy bỏ từ lâu vì nó đưa tới các cuộc tranh luận không thể giải quyết được. Một thí dụ cụ thế: Việt Nam tuyên bố đã chiếm Hoàng Sa từ thời vua Tự Đức (1848 - 1883). Nhưng trong cuộc hội thảo tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế ở Washington trong hai ngày 20 và 21/6/2011, ông Tô Hảo đại diện của Trung Quốc đã đưa ra một thùng tài liệu chứng minh Trung Quốc đã làm chủ Biển Đông từ 2000 năm về trước, như vậy Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc.
Ông vừa nói xong thì ông Termsak Chalermpalanupap, Phụ tá đặc biệt của Tổng Thư ký ASEAN đã lên chận họng liền : "Tôi không cho rằng Công Ước Của Liên Hợp Quốc Về Luật Biển (UNCLOS) công nhận lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền". Còn bà Bà Caitlyn L. Antrim, Phó Đại diện Hoa Kỳ trong Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đã bồu tiếp: "Nếu Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền với các đảo từ 500 năm trước, nhưng sau đó lại bỏ trống thì tuyên bố chủ quyền trở nên rất yếu". Ông ta câm họng.
Chúng tôi mong rằng các "chuyên gia Biển Đông tự xưng" ở hải ngoại cũng như trong nước đừng đem "sử liệu" ra đọc lãm nhảm như nhiều năm qua nữa mà phải nghiên cứu quốc tế công pháp để biết rõ muốn chứng minh chủ quyền về các đảo trên biển cần phải có những yếu tố nào và đi tìm các tài liệu cần có để hỗ trợ cho các yếu tố đó.
2. Tài liệu cần có để chứng minh chủ quyền
Phải công nhận rằng Việt Nam đã quan tâm nhiều đến việc chứng minh chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hà Nội đã cho nhiều chuyên viên đi Mỹ và đi Pháp học và nghiên cứu về quốc tế công pháp, nhất là về luật biển, nên họ đã có đủ chuyên viên để phụ trách công việc này. Việt Nam cũng đã mời một số chuyên gia Pháp và Mỹ làm cố vấn về vấn đề biên giới trên bộ cũng như trên biển. Các tài liệu liên quan đến biên giới trên bộ và trên biển được lưu trữ trong văn khố Pháp đều đã được sao chép lại. Các hiệp ước quốc tế, án lệ quốc tế, tục lệ và học lý về chủ quyền trên biển cũng đã được thu thập và nghiên cứu.
Đọc các bài viết trên website ngiencuubiendong.vnở trong nước, chúng ta thấy các chuyên gia của Việt Nam không còn xử dụng định chế "Res nullius" (vật vô chủ) trong luật La Mã ngày xưa nữa mà xử dụng định ước Berlin 1885, các án lệ quốc tế giải quyết các vụ tranh chấp về các đảo trên biển như các vụ tranh tụng về đảo Palmas, đảo Groenland, đảo Minquier và Ecrehous, v.v. Các tục lệ quốc tế và các học lý mới về chủ quyền các đảo trên biển cũng đã được sưu tập khá đầy đủ.
Điều đáng buồn là các "chuyên gia Biển Đông tự xưng" ở hải ngoại vẫn còn bám chặt định chế "Res nullius" mỗi khi nói về Biển Đông. Họ gần như không biết gì đến định ước Berlin và các án lệ quan trọng đã nêu ra trên. Họ tưởng tòa án quốc tế cũng gióng như các cuộc hội thảo trong cộng đồng người Việt, muốn nói gì thì nói.
Công hàm Phạm Văn Đồng : một vấn nạn
Nói thì Hà Nội buồn, nhưng các tài liệu cho thấy năm 1958, để có tài nguyên đủ đánh chiếm miền Nam, Hà Nội đã phải bán Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Do đó, năm 1974, khi Hoa Kỳ vừa rút khỏi miền Nam, Trung Quốc đã vội đem quân chiếm Hoàng Sa để xiết nợ. Chúng tôi đã viết hai bài "Trở lại chuyện bán đất" (15/7/2011) và"Công hàm Phạm Văn Đồng" (2/8/2011) để nói về vấn đề này.
Trong hai bài nói trên, chúng tôi đã bàn về giá trị pháp lý của Công Hàm ngày 14/9/1958. Lúc đầu chúng tôi cho rằng công hàm này không có giá trị pháp lý vì lúc đó hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về miền Nam, và lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề được quốc hội phê chuẩn. Nhưng sau khi nghiên cứu lại các nguyên tắc của quốc tế công pháp, chúng tôi nhận thấy Trung Quốc có thể coi công hàm đó như một lời hứa bán, và dựa vào học thuyết "promissory estoppel" (sự ràng buộc của lời hứa) trong Common Law của hệ thống Anh - Mỹ hay nguyên tắc "Promesse de vente vaut vente" (hứa bán có giá trị như bán) trong Roman Law, để coi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường đã được chuyển nhượng cho họ một cách hợp pháp.
Sự tiên đoán đó không sai. Hôm 20/5/2015, ông Lưu Hồng Dương, đại biện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia đã viết một bài đăng trên báo Indonesia Jakarta Post xác định rằng Tây Sa (Hoàng Sa) và Trường Sa là "lãnh thổ vốn vẫn thuộc về Trung Quốc". Ông cáo buộc "Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc "estoppel" khi thay đổi và từ chối công nhận Tây Sa là của Trung Quốc". Do đó, nếu kiện Trung Quốc, ngoài việc chứng minh về các yêu tố chiếm hữu công khai, hòa bình và liên tục, Việt Nam còn phải đối phó với Công Hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 nữa.
Từ những sự kiện trên, chúng tôi tin rằng kịch bản kiện Trung Quốc sẽ ngừng ở đây. Không thể cãi chày cãi cối hay dùng nón cối để đối phó được. Phải đi tìm các các định chế, các nguyên tắc và các án lệ trong quốc tế công pháp mới có thể nói chuyện được.
Việt Nam sẽ quay về phía Mỹ ?
Một câu hỏi được đặt ra : Trước những khó khăn với Trung Quốc và những ve vãn của Mỹ, liệu rồi Đảng Cộng sản Việt Nam có tách xa Trung Quốc và liên kết với Mỹ không ? Câu trả lời là KHÔNG.
Trong cuốn "Asia’s Caudron - The South China Sea and the End of a Stable Pacific" (Chảo dầu tại Châu Á - Biển Đông và sự kết thúc của một Thái Bình Dương ổn định) mới xuất bản đầu năm 2014, Robert D. Kaplan, người đã từng tham gia vào Hội Đồng Chính Sách Quốc Phòng của Tòa Bạch Ốc, đã phân tích khá tường tận về cái gọi là "Định mệnh Việt Nam".Ông viết :
"Thực tế là, không có quốc gia nào bị đe dọa bởi sự lớn mạnh của Trung Quốc bằng Việt Nam.Hãy nhìn việc Việt Nam tiếp cận ASEAN. Dĩ nhiên là Việt Nam muốn ASEAN mạnh hơn, để làm đối trọng với Trung Quốc, họ đã thực tế, họ nói với tôi như vậy…"
Ông Nguyễn Tâm Chiến, một cựu Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam, đã nói với ông rằng "nước xa không cứu được lửa gần",nên Việt Nam phải nhẫn nhục chấp nhận việc tàn phá môi trường do Trung Quốc khai thác quặng bauxit tại vùng Tây Nguyên… Còn ông Ngô Quang Xuân, Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam đã nhắc lại sự kiện Nixon bán miền Nam cho Trung Quốc năm 1972 và thất vọng nói : "Điều đó có thể lặp lại".
Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, kể cả kiện Trung Quốc, "chiến lược bắp cải"của Trung Quốc cũng sẽ được tiếp tục tiến hành. Không chỉ Việt Nam, mà các nước trong Biển Đông và Biển Hoa Đông đều phải đối phó. Trung Quốc sẽ không tấn công Việt Nam mà giữ Việt Nam như một "tiền đồn" của Trung Quốc. Hoa Kỳ đang đứng ở đâu ?
Lữ Giang (29/05/2014)
-Đã sáng mắt ra chưa?
Ls Lê Công Định
Cần lưu ý, sự công nhận chính thức hay không của nhà nước hiện tại đối với hai quốc gia nêu trên hoàn toàn không quan trọng, bởi lẽ về mặt thực tế (de facto) hai quốc gia ấy đã hiện hữu như một pháp nhân công pháp với tên gọi, lãnh thổ, chính quyền và cư dân của mình; còn về mặt pháp lý (de jure) hai quốc gia đó được rất nhiều nhà nước khác đương thời công nhận về phương diện ngoại giao, thậm chí còn nhiều hơn cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc. Mặt khác, khi cùng tham gia vào hai Hội nghị Genève và Paris, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã lần lượt mặc nhiên công nhận de jure Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa rồi.
Ngày 7/9/1951 Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, đã lên tiếng tái xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao như sau: “Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viet Nam”. Tạm dịch là: “Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam”.
Hình: Lời tuyên bố của Đoàn đại biểu Quốc gia Việt Nam tại Hội nghị San Francisco (1951). (Đăng trong tạp chí France-A’e số 66-67 Novembre-Décembre, 1951). Nguồn và hình: nguoilotgach
Một điểm rất lý thú cần ghi nhận tại cuộc họp báo này, lần đầu tiên một phát ngôn chính thức của nhà nước hiện tại khẳng định sự kiện tại Hội nghị Genève phía Liên Xô đã đề nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, nhưng đã bị đa số quốc gia tham gia hội nghị bỏ phiếu bác bỏ và quyết định trao lại cho Việt Nam Cộng Hòa. Câu hỏi cần đặt ra là tại sao các nước "XHCN anh em" của Việt Nam (Cộng Sản) luôn thể hiện "tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng" một cách khốn nạn và đầy toan tính vụ lợi như vậy? Và cũng xin hỏi thật rằng bấy nhiêu đủ để sáng mắt chưa?