-Son Tran
- Thời khắc lịch sử! Chỉ một con đường lựa chọn Chim Báo Bão (Danlambao)
Lời dẫn: Hôm 10/5, tại hội trường lớn trường ĐH Kinh tế Luật TP.HCM đã diễn ra buổi giao lưu giữa các bạn sinh viên trường ĐHQG TP.HCM và tác giả cuốn sách nổi tiếng “Thế giới phẳng”.Thomas Friedman. Trong buổi giao lưu khi chia sẻ với sinh viên về tình hình biển đông mấy ngày nay đang nóng lên nhân sự kiện TQ đưa giàn khoan HD 981 vào hạ đặt tại biển đông khiến cho tình hình nóng lên. Quan hệ giữa hai nước trở lên căng thẳng. Thomas Friedman đã thẳng thắn chia sẻ, Việt Nam không phải là đối thủ của TQ, ông phân tích trong lịch sử lẫn hiện tại, TQ và VN luôn có sự thù hận, xuất phát từ mưu đồ nhăm nhe xâm lược xuống phía nam của TQ trong suốt chiều dài lịch sử chưa bao giờ ngưng nghỉ. Huống chi bây giờ TQ đang có mưu toan rất lớn nhằm chiếm trọn biển đông, để phục vụ cho tham vọng cả về kinh tế lẫn chính trị của một cường quốc đang trỗi dậy. Sau đó ông nhấn mạnh. nếu VN muốn đối phó với TQ không còn con đường nào khác VN buộc phải tìm kiếm một liên minh lâu bền về mặt quân sự với một hay nhiều nước tại khu vực hay trên thế giới.
Bình luận:
Những nhận định của ông là hoàn toàn xác đáng. Bởi trên thực tế, hiện nay để đối phó với TQ, VN hoàn toàn thua kém TQ về mọi mặt, từ kinh tế lẫn quân sự, huống chi về mặt chính trị VN đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào TQ, lên yếu tố "tự lực tự cường" là không khả thi, một khi trận chiến xảy ra trên biển.
Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào VN đối phó được với TQ khi diễn biến tình hình ngày một xấu đi, một khi TQ đã sắp đặt một kịch bản, thì sẽ có phương án đối phó với những tình huống mà VN bị động để đáp trả, kể cả về mặt ngoại giao lẫn chính trị quân sự, một khi biết rằng không có sự chống lưng của bất kỳ đồng minh nào. Đây là thời điểm mà TQ đang chớp lấy cơ hội, khi biết rằng đồng minh nửa vời, mà VN đang bám giữ là Nga đang phải đối phó với tình hình Ukraina. "Nước xa không cứu được lửa gần". Còn nhớ, khi mối quan hệ Nga Việt còn mặn nồng khăng khít, sự kiện năm 79 xảy ra người Nga khi đó cũng chỉ đưa ra lời hăm dọa. Huống hồ Putin ngay nay sẽ chỉ đưa ra những lời hăm dọa suông mà thôi.
Còn những mối quan hệ khác TQ không bận tâm. Đối với các nước Asean, kể cả khi có sự thống nhất cao, Asean cũng không phải là đối thủ của TQ về mọi mặt, huống chi họ đã thực hiện thành công sự chia rẽ nội bộ khối này.
Cuối cùng đối thủ mà TQ đáng gờm nhất là Mỹ, thì đây là thời điểm thích hợp nhất mà TQ đang tận dụng. Một nước cộng sản độc tài sẽ không bao giờ được Mỹ coi là đối tác chiến lược. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch không những luật pháp Mỹ ngăn cấm, mà hai viện quốc hội của Hoa Kỳ cũng không châp nhận, chỉ trừ khi VN phải chấp nhận hội đủ các điều kiện về cơ chế chính trị của một quốc gia dân chủ toàn diện. Ngay như Mianma hiện nay cũng chưa đủ tư cách làm đối tác chiến lược của Mỹ, khi tiến trình dân chủ vẫn chưa hoàn thiện.
Một bài toán khó!!!Biết được âm mưu của đối thủ, khi chỉ có hai con đường.
Một là sẽ bị lịch sử, bị nhân dân lên án, nếu chấp nhận để TQ xâm chiếm biểm đông. Hay nói một cách khác muốn tồn tại, đảng CSVN phải chấp nhận mất biển đông cho TQ.
Hai là để giữ vừng được đất đai của cha ông để lại và làm tròn trọng trách của lịch sử giao phó, cũng như từng cá nhân con người có trách nhiện trong đảng CSVN buộc phải lựa chọn, thời khắc lịch sử đã điểm, không thể chần chừ được nữa, phải chấp nhận chuyển đổi thể chế, từ chế độc độc tài đảng trị, sang chế độ dân chủ cộng hòa, chuyển giao chính quyền về tay nhân dân càng sớm càng tốt. Khi đó một chế độ do dân cử sẽ thể theo nguyện vọng của nhân dân, vì lợi ich dài lâu của đất nước sẽ có một đồng minh vững mạnh và lâu bền.
Một nước Nhật hùng mạnh là vậy, một Đại Hàn dân quốc giàu tiềm lực kinh tế là vậy, mà vẫn phải lựa chọn cho mình một đồng minh chiến lược, để đối phó với TQ, nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định lâu bền của đất nước họ.
Lời kết: Ban lãnh đạo đảng CSVN lên nhớ đây là thời điểm để TQ chớp lấy cơ hội thực hiện âm mưu bành trướng, khi họ biết rằng, sẽ không bao giờ thực hiẹn được mưu đồ xâm chiếm biển đông, nếu VN thay đổi thể chế. Nếu VN có một đồng minh chiến lược như Hàn, Nhật đã có.
Đây là thời khắc lịch sử, ban lãnh đạo đảng CSVN cần phải ý thức được LỢI ÍCH VÀ TRÁCH NHIỆM của của đảng đối với đất nước, đồng thời đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao của từng cá nhân đối với đảng, đối với vận mệnh của đất nước, gạt bỏ đi lợi ích cá nhân tầm thường, dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế, để có sự lựa chọn sáng suốt. Chuyển từ cơ chế đảng độc tài lấy cai trị làm mục tiêu bấy lâu nay, sang cơ chế đảng tận tụy phục vụ nhân dân theo cơ chế dân chủ làm mục tiêu cho đảng một cách trung thực. Chỉ có một con đường duy nhất đó, để đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử đã giao phó. Lịch sử sẽ phán quyết công, tội rất công minh và rạch ròi. TỔ QUỐC HAY CÁ NHÂN xin hãy lựa chọn.
Hà Nội, 13/5/ 2014
Chim Báo Bão
-Giàn khoan 981 : quá sớm để nói về thành, bại.
Sẽ là quá sớm để nói về thành bại của Việt Nam tại Biển Đông trước thách thức của Trung Quốc, khi nước này đặt giàn khoan khổng lồ 981 trên thềm lục địa của VN, cách đảo Lý Sơn trên trăm hải lý.
Trên quan điểm thuần túy chiến lược, có lẽ phía Trung Quốc đã tính toán sai mà việc này có thể mở ra cho VN một cơ hội bằng vàng để giải quyết nhiều khó khăn nội bộ. Trong quan hệ ngoại giao, sự do dự của VN về việc lựa chọn đồng minh chiến lược - Trung Quốc hay Mỹ - sẽ sớm được quyết định.
Hệ quả điều này sẽ đi đôi với việc dân chủ hóa chế độ. Trung Quốc sẽ mất một đồng minh (đúng ra là đàn em) tin cậy đồng thời tạo ra một quốc gia thù địch quan trọng. Trong khi việc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã đông lạnh từ tháng giêng năm 1974 cho đến nay, thì được hâm nóng lại.
Tình hình của Việt Nam hôm nay không khác tình trạng của Đài Loan sau khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi tại Liên Hiệp Quốc năm 1971, bị cô lập toàn diện. Chiếc ghế đại diện quốc gia Trung Hoa tại Hội đồng Bảo An LHQ dời về Bắc Kinh, Đài Loan trở thành một « tỉnh » của Trung Quốc. Tiếp theo sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn 1975, Đài Loan mong manh như trứng để đầu cối đá, lục địa có thể đem quân « giải phóng » đảo quốc này bất kỳ lúc nào mà không có sự can thiệp của Hoa Kỳ.
(Khi Hoa Kỳ nhìn nhận Bắc Kinh là chính quyền duy nhất đại diện Trung Quốc, Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, thì mặc nhiên nhìn nhận « vấn đề Đài Loan » thuộc về « nội bộ » của Trung Quốc. Nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ nước khác là một trong những điều cơ bản của Hiến chương LHQ.)
Khúc quanh chiến lược Đài Loan chỉ đến vào năm 1979. Sau thất bại quân sự về « bài học » cho tiểu bá Việt Nam, nhà cầm quyền Bắc Kinh lại chịu một sự thất bại khác về ngoại giao lớn lao, mà việc này ít ai nói tới. Đó là việc Trung Quốc đã không thành công ngăn cản được thuợng viện Hoa Kỳ thông qua dự luật Taiwan Relations Act.
Luật « Taiwan Relations Act » là tác phẩm của kiều dân Đài Loan sống tại Hoa Kỳ. « Lobby » của kiều dân Hoa tại Mỹ lại rất mạnh. Nhờ vận động hành lang chính trị, thuợng viện HK thông qua dự luật « Taiwan Relations Act » ngày 10-4-1979, theo đó HK chủ trương việc giải quyết « vấn đề Đài Loan » bằng phương tiện hòa bình (HK tôn trọng ý nguyện, tức sự lựa chọn chính trị của dân Đài Loan), đồng thời cho phép chính quyền Dân Quốc được mua các loại vũ khí của HK để tự vệ. Đổi lại, chính quyền độc tài của Quốc Dân Đảng hứa hẹn dân chủ hóa Đài Loan.
Quá trình dân chủ hóa bắt đầu từ thập niên 80, được sự giúp đỡ quan trọng (làm chất xúc tác) của các học giả thuộc Harvard. Những người này đã tổ chức (trong khuôn viên đại học Harvard) những cuộc tiếp xúc giữa những người ngoài đảng (đảng ngoại, tức không phải là đảng viên Quốc Dân đảng) với các nhân vật lãnh đạo Dân Quốc. Quá trình dân chủ hóa kết thúc vào những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3.
Do đó Đài Loan, mặc dầu bị cô lập (hầu như) toàn diện về ngoại giao, nhưng về chính trị và quân sự lại được sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và các nước dân chủ khác trên thế giới.
Trường hợp Việt Nam hôm nay, mặc dầu có quan hệ ngoại giao với (tất cả) các nước trên thế giới, nhưng không có đồng minh tin cậy về chiến lược. Như đã thấy những ngày qua, biến cố dàn khoan 981 mà TQ đặt tại thềm lục địa VN, cho thấy VN sẽ phải một mình đối đầu với sự hung hãn của Trung quốc. Tức trong chừng mực, VN bị « cô lập » như Đài Loan sau 1971.
Đồng thời lực lượng người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ đến nay cũng đã lớn mạnh, không kém kiều dân Hoa ngày trước. Điều trở ngại, kiều dân Hoa ngày xưa một lòng ủng hộ Đài Loan, thì kiều dân Việt phần lớn chống lại chế độ độc tài toàn trị của Hà Nội. Hầu hết những người Việt này là nạn nhân trực tiếp của chính sách trả thù ác độc cũng như sự cai trị hà khắc của nhà cầm quyền này.
Việt Nam hôm nay cũng mong muốn được mua « vũ khí sát thuơng » của Hoa Kỳ, tương tự như Đài Loan ngày trước, để « tự vệ ». Điều trở ngại, vì hồ sơ nhân quyền u ám, cũng như Hà Nội là một trong vài chế độ độc tài còn sót lại trên thế giới, chính giới Hoa Kỳ không chấp nhận việc bán vũ khí cho VN. (Theo lời của một vị dân biểu tại California, khi mà VN chưa cải thiện về nhân quyền, chưa dân chủ hóa chế độ, thì các quan hệ với Hoa Kỳ sẽ còn gặp nhiều khó khăn).
Về mối bang giao Việt-Mỹ, Hoa Kỳ vẫn chưa hề xem VN là một nước đáng tin cậy. Tuy vậy, Mỹ vẫn thích thấy một VN dân chủ, thân thiện quay lưng với TQ hơn là một nước VN độc tài gắn bó với TQ.
Hành vi của TQ khi đặt dàn khoan 981 trên thềm lục địa của VN đã khơi dậy lòng yêu nước nơi mọi người Việt, bất kể quá khứ cũng như lập trường chính trị. Từ điểm tựa này, nếu có một « chất xúc tác » hữu hiệu (như các học giả thuộc Harvard trong trường hợp Đài Loan), thì rất có thể lực lượng người Việt tại Hoa Kỳ có thể vận động hành lang để chính giới nước này thông qua một luật tương tự « Taiwan Relations Act », theo đó tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết bằng (các phương tiện) hòa bình đồng thời HK bán vũ khí để VN « tự vệ ». Dĩ nhiên với điều kiện, VN phải nhanh chóng dân chủ hóa chế độ.
Cũng không nên đánh giá thấp tiềm năng kinh tế của lớp người Việt hải ngoại. Lớp người này gởi về VN hàng năm trên 10 tỉ đô la. Số tiền này VN có thể mua bất kỳ loại vũ khí tối tân nào của Hoa Kỳ.
Trên các dữ kiện vừa nói, đó là một điều thất sách, một tính toán sai về « chiến lược » của lãnh đạo Bắc Kinh.
Mặt khác, Trung quốc cũng mất đi một đối tác kinh tế có lợi. Quan hệ hai nước Việt-Trung, cán cân mậu dịch luôn thiên về phía TQ.
Sai lầm khác, vị trí giàn khoan còn nằm trong tầm hoạt động của « du kích đại dương ».
Từ « du kích đại dương », tức đánh du kích trên biển, có thể áp dụng cho khu vực ở vùng bờ biển nước Somalie. Khu vực biển này (trong vòng 100km tính từ bờ), cho đến hôm nay, vẫn còn nằm (trong chừng mực) dưới sự kiểm soát của những nhóm cướp biển trang bị vũ khí thô sơ như súng phóng lựu B 40 và tiểu liên AK 47 với những chiếc tàu nhẹ với vận tốc lớn (go fast), có thể lên đến 200km/giờ. Những chiếc tàu thương mại (tàu dầu, tàu chở hàng hóa, du thuyền...) của các nước khi đi ngang khu vực này đều đi vòng cách xa bờ biển để tránh bị ăn cướp.
Trình độ kỹ thuật của VN hôm nay có thể chế tạo hàng loạt loại « khinh tốc đĩnh », những chiếc tàu gọn, nhẹ... nhưng trang bị vũ khí hùng hậu hơn hải tặc Somalie. Nếu hai bên Việt-Trung tuyên bố chiến tranh, với chiều dài bờ biển VN, đội ngũ cảm tử quân này sẽ là những ác mộng cho mọi thuyền bè mang cờ hiệu của TQ.
Tính toán sai lầm khác, hệ quả tiếp nối khi VN hợp tác với Hoa Kỳ. Hiện nay Hoa Kỳ đang thực thi chiến lược « Tác chiến trên không và trên biển », được sự cộng tác (từ lâu) của các nước đồng minh (bao gồm Đài Loan), bao gồm các phương thức « chống tiếp cận, chống phong tỏa » (A2/AD anti-access, area denial). Mô hình để thực hiện chiến lược này là « mô hình tiếp cận và Hoạt động chung » (joint operation access concept - JOAC). Việt Nam là đồng minh lý tưởng, là con cờ chót, để HK hoàn tất chiến lược này. Tức là, Trung Quốc bị bao vây bởi một hàng rào (A2/AD anti-access, area denial) hữu hiệu nhất.
Sai lầm khác, là TQ đã hâm nóng lại vụ tranh chấp quần đảo Hoàng Sa mà nó đã đông lạnh từ bốn thập niên.
Sự hung hăng của TQ tại Biển Đông khiến quốc tế cảm thấy bị đe dọa. Vấn đề hoàng Sa vốn là tranh chấp song phương, sẽ phải giải quyết bằng cách thức đa phương. Đây là điều mà TQ muốn tránh.
Tóm lại, quyết định đặt giàn khoan 981 của TQ trên thềm lục địa của VN là một quyết định sai lầm về chiến lược. Trong nhất thời nó sẽ đẩy lãnh đạo Hà Nội vào thế thụ động. Nhưng áp lực của toàn dân VN, trong và ngoài nước, cũng như sự quan tâm của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, khiến cho hành động hung hăng của TQ bị lên án. TQ neo giàn khoan ở đó càng lâu sẽ càng bất lợi cho TQ. VN sẽ dân chủ hóa chế độ, sẽ mua được vũ khí « sát thương » của Mỹ để tự vệ, đồng thời sẽ bảo vệ được vùng biển của mình. Vấn đề hoàng Sa có thể cũng sẽ được giải quyết bằng một tòa án quốc tế, mà khi VN dân chủ hóa chế độ, thì TQ sẽ không có nhiều phần trăm thắng kiện. TQ không có lợi gì, trong khi mất một đồng minh ý thức hệ quan trọng, một đối tác kinh tế mà phía TQ luôn có lợi.
Son TranNhận định của một chuyên gia kinh tế
đầy tính THUYẾT PHỤC cho Tương Lai VN...
(Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ hoàng / RFA 2014-05-14) -Việt Nam có thể làm gì với Trung Quốc?
- Thời khắc lịch sử! Chỉ một con đường lựa chọn Chim Báo Bão (Danlambao)
Lời dẫn: Hôm 10/5, tại hội trường lớn trường ĐH Kinh tế Luật TP.HCM đã diễn ra buổi giao lưu giữa các bạn sinh viên trường ĐHQG TP.HCM và tác giả cuốn sách nổi tiếng “Thế giới phẳng”.Thomas Friedman. Trong buổi giao lưu khi chia sẻ với sinh viên về tình hình biển đông mấy ngày nay đang nóng lên nhân sự kiện TQ đưa giàn khoan HD 981 vào hạ đặt tại biển đông khiến cho tình hình nóng lên. Quan hệ giữa hai nước trở lên căng thẳng. Thomas Friedman đã thẳng thắn chia sẻ, Việt Nam không phải là đối thủ của TQ, ông phân tích trong lịch sử lẫn hiện tại, TQ và VN luôn có sự thù hận, xuất phát từ mưu đồ nhăm nhe xâm lược xuống phía nam của TQ trong suốt chiều dài lịch sử chưa bao giờ ngưng nghỉ. Huống chi bây giờ TQ đang có mưu toan rất lớn nhằm chiếm trọn biển đông, để phục vụ cho tham vọng cả về kinh tế lẫn chính trị của một cường quốc đang trỗi dậy. Sau đó ông nhấn mạnh. nếu VN muốn đối phó với TQ không còn con đường nào khác VN buộc phải tìm kiếm một liên minh lâu bền về mặt quân sự với một hay nhiều nước tại khu vực hay trên thế giới.
Bình luận:
Những nhận định của ông là hoàn toàn xác đáng. Bởi trên thực tế, hiện nay để đối phó với TQ, VN hoàn toàn thua kém TQ về mọi mặt, từ kinh tế lẫn quân sự, huống chi về mặt chính trị VN đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào TQ, lên yếu tố "tự lực tự cường" là không khả thi, một khi trận chiến xảy ra trên biển.
Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào VN đối phó được với TQ khi diễn biến tình hình ngày một xấu đi, một khi TQ đã sắp đặt một kịch bản, thì sẽ có phương án đối phó với những tình huống mà VN bị động để đáp trả, kể cả về mặt ngoại giao lẫn chính trị quân sự, một khi biết rằng không có sự chống lưng của bất kỳ đồng minh nào. Đây là thời điểm mà TQ đang chớp lấy cơ hội, khi biết rằng đồng minh nửa vời, mà VN đang bám giữ là Nga đang phải đối phó với tình hình Ukraina. "Nước xa không cứu được lửa gần". Còn nhớ, khi mối quan hệ Nga Việt còn mặn nồng khăng khít, sự kiện năm 79 xảy ra người Nga khi đó cũng chỉ đưa ra lời hăm dọa. Huống hồ Putin ngay nay sẽ chỉ đưa ra những lời hăm dọa suông mà thôi.
Còn những mối quan hệ khác TQ không bận tâm. Đối với các nước Asean, kể cả khi có sự thống nhất cao, Asean cũng không phải là đối thủ của TQ về mọi mặt, huống chi họ đã thực hiện thành công sự chia rẽ nội bộ khối này.
Cuối cùng đối thủ mà TQ đáng gờm nhất là Mỹ, thì đây là thời điểm thích hợp nhất mà TQ đang tận dụng. Một nước cộng sản độc tài sẽ không bao giờ được Mỹ coi là đối tác chiến lược. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch không những luật pháp Mỹ ngăn cấm, mà hai viện quốc hội của Hoa Kỳ cũng không châp nhận, chỉ trừ khi VN phải chấp nhận hội đủ các điều kiện về cơ chế chính trị của một quốc gia dân chủ toàn diện. Ngay như Mianma hiện nay cũng chưa đủ tư cách làm đối tác chiến lược của Mỹ, khi tiến trình dân chủ vẫn chưa hoàn thiện.
Một bài toán khó!!!Biết được âm mưu của đối thủ, khi chỉ có hai con đường.
Một là sẽ bị lịch sử, bị nhân dân lên án, nếu chấp nhận để TQ xâm chiếm biểm đông. Hay nói một cách khác muốn tồn tại, đảng CSVN phải chấp nhận mất biển đông cho TQ.
Hai là để giữ vừng được đất đai của cha ông để lại và làm tròn trọng trách của lịch sử giao phó, cũng như từng cá nhân con người có trách nhiện trong đảng CSVN buộc phải lựa chọn, thời khắc lịch sử đã điểm, không thể chần chừ được nữa, phải chấp nhận chuyển đổi thể chế, từ chế độc độc tài đảng trị, sang chế độ dân chủ cộng hòa, chuyển giao chính quyền về tay nhân dân càng sớm càng tốt. Khi đó một chế độ do dân cử sẽ thể theo nguyện vọng của nhân dân, vì lợi ich dài lâu của đất nước sẽ có một đồng minh vững mạnh và lâu bền.
Một nước Nhật hùng mạnh là vậy, một Đại Hàn dân quốc giàu tiềm lực kinh tế là vậy, mà vẫn phải lựa chọn cho mình một đồng minh chiến lược, để đối phó với TQ, nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định lâu bền của đất nước họ.
Lời kết: Ban lãnh đạo đảng CSVN lên nhớ đây là thời điểm để TQ chớp lấy cơ hội thực hiện âm mưu bành trướng, khi họ biết rằng, sẽ không bao giờ thực hiẹn được mưu đồ xâm chiếm biển đông, nếu VN thay đổi thể chế. Nếu VN có một đồng minh chiến lược như Hàn, Nhật đã có.
Đây là thời khắc lịch sử, ban lãnh đạo đảng CSVN cần phải ý thức được LỢI ÍCH VÀ TRÁCH NHIỆM của của đảng đối với đất nước, đồng thời đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao của từng cá nhân đối với đảng, đối với vận mệnh của đất nước, gạt bỏ đi lợi ích cá nhân tầm thường, dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế, để có sự lựa chọn sáng suốt. Chuyển từ cơ chế đảng độc tài lấy cai trị làm mục tiêu bấy lâu nay, sang cơ chế đảng tận tụy phục vụ nhân dân theo cơ chế dân chủ làm mục tiêu cho đảng một cách trung thực. Chỉ có một con đường duy nhất đó, để đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử đã giao phó. Lịch sử sẽ phán quyết công, tội rất công minh và rạch ròi. TỔ QUỐC HAY CÁ NHÂN xin hãy lựa chọn.
Hà Nội, 13/5/ 2014
Chim Báo Bão
-Giàn khoan 981 : quá sớm để nói về thành, bại.
Sẽ là quá sớm để nói về thành bại của Việt Nam tại Biển Đông trước thách thức của Trung Quốc, khi nước này đặt giàn khoan khổng lồ 981 trên thềm lục địa của VN, cách đảo Lý Sơn trên trăm hải lý.
Trên quan điểm thuần túy chiến lược, có lẽ phía Trung Quốc đã tính toán sai mà việc này có thể mở ra cho VN một cơ hội bằng vàng để giải quyết nhiều khó khăn nội bộ. Trong quan hệ ngoại giao, sự do dự của VN về việc lựa chọn đồng minh chiến lược - Trung Quốc hay Mỹ - sẽ sớm được quyết định.
Hệ quả điều này sẽ đi đôi với việc dân chủ hóa chế độ. Trung Quốc sẽ mất một đồng minh (đúng ra là đàn em) tin cậy đồng thời tạo ra một quốc gia thù địch quan trọng. Trong khi việc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã đông lạnh từ tháng giêng năm 1974 cho đến nay, thì được hâm nóng lại.
Tình hình của Việt Nam hôm nay không khác tình trạng của Đài Loan sau khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi tại Liên Hiệp Quốc năm 1971, bị cô lập toàn diện. Chiếc ghế đại diện quốc gia Trung Hoa tại Hội đồng Bảo An LHQ dời về Bắc Kinh, Đài Loan trở thành một « tỉnh » của Trung Quốc. Tiếp theo sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn 1975, Đài Loan mong manh như trứng để đầu cối đá, lục địa có thể đem quân « giải phóng » đảo quốc này bất kỳ lúc nào mà không có sự can thiệp của Hoa Kỳ.
(Khi Hoa Kỳ nhìn nhận Bắc Kinh là chính quyền duy nhất đại diện Trung Quốc, Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, thì mặc nhiên nhìn nhận « vấn đề Đài Loan » thuộc về « nội bộ » của Trung Quốc. Nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ nước khác là một trong những điều cơ bản của Hiến chương LHQ.)
Khúc quanh chiến lược Đài Loan chỉ đến vào năm 1979. Sau thất bại quân sự về « bài học » cho tiểu bá Việt Nam, nhà cầm quyền Bắc Kinh lại chịu một sự thất bại khác về ngoại giao lớn lao, mà việc này ít ai nói tới. Đó là việc Trung Quốc đã không thành công ngăn cản được thuợng viện Hoa Kỳ thông qua dự luật Taiwan Relations Act.
Luật « Taiwan Relations Act » là tác phẩm của kiều dân Đài Loan sống tại Hoa Kỳ. « Lobby » của kiều dân Hoa tại Mỹ lại rất mạnh. Nhờ vận động hành lang chính trị, thuợng viện HK thông qua dự luật « Taiwan Relations Act » ngày 10-4-1979, theo đó HK chủ trương việc giải quyết « vấn đề Đài Loan » bằng phương tiện hòa bình (HK tôn trọng ý nguyện, tức sự lựa chọn chính trị của dân Đài Loan), đồng thời cho phép chính quyền Dân Quốc được mua các loại vũ khí của HK để tự vệ. Đổi lại, chính quyền độc tài của Quốc Dân Đảng hứa hẹn dân chủ hóa Đài Loan.
Quá trình dân chủ hóa bắt đầu từ thập niên 80, được sự giúp đỡ quan trọng (làm chất xúc tác) của các học giả thuộc Harvard. Những người này đã tổ chức (trong khuôn viên đại học Harvard) những cuộc tiếp xúc giữa những người ngoài đảng (đảng ngoại, tức không phải là đảng viên Quốc Dân đảng) với các nhân vật lãnh đạo Dân Quốc. Quá trình dân chủ hóa kết thúc vào những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3.
Do đó Đài Loan, mặc dầu bị cô lập (hầu như) toàn diện về ngoại giao, nhưng về chính trị và quân sự lại được sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và các nước dân chủ khác trên thế giới.
Trường hợp Việt Nam hôm nay, mặc dầu có quan hệ ngoại giao với (tất cả) các nước trên thế giới, nhưng không có đồng minh tin cậy về chiến lược. Như đã thấy những ngày qua, biến cố dàn khoan 981 mà TQ đặt tại thềm lục địa VN, cho thấy VN sẽ phải một mình đối đầu với sự hung hãn của Trung quốc. Tức trong chừng mực, VN bị « cô lập » như Đài Loan sau 1971.
Đồng thời lực lượng người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ đến nay cũng đã lớn mạnh, không kém kiều dân Hoa ngày trước. Điều trở ngại, kiều dân Hoa ngày xưa một lòng ủng hộ Đài Loan, thì kiều dân Việt phần lớn chống lại chế độ độc tài toàn trị của Hà Nội. Hầu hết những người Việt này là nạn nhân trực tiếp của chính sách trả thù ác độc cũng như sự cai trị hà khắc của nhà cầm quyền này.
Việt Nam hôm nay cũng mong muốn được mua « vũ khí sát thuơng » của Hoa Kỳ, tương tự như Đài Loan ngày trước, để « tự vệ ». Điều trở ngại, vì hồ sơ nhân quyền u ám, cũng như Hà Nội là một trong vài chế độ độc tài còn sót lại trên thế giới, chính giới Hoa Kỳ không chấp nhận việc bán vũ khí cho VN. (Theo lời của một vị dân biểu tại California, khi mà VN chưa cải thiện về nhân quyền, chưa dân chủ hóa chế độ, thì các quan hệ với Hoa Kỳ sẽ còn gặp nhiều khó khăn).
Về mối bang giao Việt-Mỹ, Hoa Kỳ vẫn chưa hề xem VN là một nước đáng tin cậy. Tuy vậy, Mỹ vẫn thích thấy một VN dân chủ, thân thiện quay lưng với TQ hơn là một nước VN độc tài gắn bó với TQ.
Hành vi của TQ khi đặt dàn khoan 981 trên thềm lục địa của VN đã khơi dậy lòng yêu nước nơi mọi người Việt, bất kể quá khứ cũng như lập trường chính trị. Từ điểm tựa này, nếu có một « chất xúc tác » hữu hiệu (như các học giả thuộc Harvard trong trường hợp Đài Loan), thì rất có thể lực lượng người Việt tại Hoa Kỳ có thể vận động hành lang để chính giới nước này thông qua một luật tương tự « Taiwan Relations Act », theo đó tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết bằng (các phương tiện) hòa bình đồng thời HK bán vũ khí để VN « tự vệ ». Dĩ nhiên với điều kiện, VN phải nhanh chóng dân chủ hóa chế độ.
Cũng không nên đánh giá thấp tiềm năng kinh tế của lớp người Việt hải ngoại. Lớp người này gởi về VN hàng năm trên 10 tỉ đô la. Số tiền này VN có thể mua bất kỳ loại vũ khí tối tân nào của Hoa Kỳ.
Trên các dữ kiện vừa nói, đó là một điều thất sách, một tính toán sai về « chiến lược » của lãnh đạo Bắc Kinh.
Mặt khác, Trung quốc cũng mất đi một đối tác kinh tế có lợi. Quan hệ hai nước Việt-Trung, cán cân mậu dịch luôn thiên về phía TQ.
Sai lầm khác, vị trí giàn khoan còn nằm trong tầm hoạt động của « du kích đại dương ».
Từ « du kích đại dương », tức đánh du kích trên biển, có thể áp dụng cho khu vực ở vùng bờ biển nước Somalie. Khu vực biển này (trong vòng 100km tính từ bờ), cho đến hôm nay, vẫn còn nằm (trong chừng mực) dưới sự kiểm soát của những nhóm cướp biển trang bị vũ khí thô sơ như súng phóng lựu B 40 và tiểu liên AK 47 với những chiếc tàu nhẹ với vận tốc lớn (go fast), có thể lên đến 200km/giờ. Những chiếc tàu thương mại (tàu dầu, tàu chở hàng hóa, du thuyền...) của các nước khi đi ngang khu vực này đều đi vòng cách xa bờ biển để tránh bị ăn cướp.
Trình độ kỹ thuật của VN hôm nay có thể chế tạo hàng loạt loại « khinh tốc đĩnh », những chiếc tàu gọn, nhẹ... nhưng trang bị vũ khí hùng hậu hơn hải tặc Somalie. Nếu hai bên Việt-Trung tuyên bố chiến tranh, với chiều dài bờ biển VN, đội ngũ cảm tử quân này sẽ là những ác mộng cho mọi thuyền bè mang cờ hiệu của TQ.
Tính toán sai lầm khác, hệ quả tiếp nối khi VN hợp tác với Hoa Kỳ. Hiện nay Hoa Kỳ đang thực thi chiến lược « Tác chiến trên không và trên biển », được sự cộng tác (từ lâu) của các nước đồng minh (bao gồm Đài Loan), bao gồm các phương thức « chống tiếp cận, chống phong tỏa » (A2/AD anti-access, area denial). Mô hình để thực hiện chiến lược này là « mô hình tiếp cận và Hoạt động chung » (joint operation access concept - JOAC). Việt Nam là đồng minh lý tưởng, là con cờ chót, để HK hoàn tất chiến lược này. Tức là, Trung Quốc bị bao vây bởi một hàng rào (A2/AD anti-access, area denial) hữu hiệu nhất.
Sai lầm khác, là TQ đã hâm nóng lại vụ tranh chấp quần đảo Hoàng Sa mà nó đã đông lạnh từ bốn thập niên.
Sự hung hăng của TQ tại Biển Đông khiến quốc tế cảm thấy bị đe dọa. Vấn đề hoàng Sa vốn là tranh chấp song phương, sẽ phải giải quyết bằng cách thức đa phương. Đây là điều mà TQ muốn tránh.
Tóm lại, quyết định đặt giàn khoan 981 của TQ trên thềm lục địa của VN là một quyết định sai lầm về chiến lược. Trong nhất thời nó sẽ đẩy lãnh đạo Hà Nội vào thế thụ động. Nhưng áp lực của toàn dân VN, trong và ngoài nước, cũng như sự quan tâm của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, khiến cho hành động hung hăng của TQ bị lên án. TQ neo giàn khoan ở đó càng lâu sẽ càng bất lợi cho TQ. VN sẽ dân chủ hóa chế độ, sẽ mua được vũ khí « sát thương » của Mỹ để tự vệ, đồng thời sẽ bảo vệ được vùng biển của mình. Vấn đề hoàng Sa có thể cũng sẽ được giải quyết bằng một tòa án quốc tế, mà khi VN dân chủ hóa chế độ, thì TQ sẽ không có nhiều phần trăm thắng kiện. TQ không có lợi gì, trong khi mất một đồng minh ý thức hệ quan trọng, một đối tác kinh tế mà phía TQ luôn có lợi.
Son TranNhận định của một chuyên gia kinh tế
đầy tính THUYẾT PHỤC cho Tương Lai VN...
(Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ hoàng / RFA 2014-05-14) -Việt Nam có thể làm gì với Trung Quốc?
Khi Bắc Kinh đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì người Việt có thể làm những gì? Câu hỏi này đang khiến nhiều người ở trong và ngoài nước cùng thắc mắc. Tiết mục Diễn đàn Kinh tế nêu vấn đề với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa qua phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Là tư vấn kinh tế cho đài Á Châu Tự Do, lại theo dõi tình hình Trung Quốc từ nhiều năm qua, ông đã nhiều lần phân tích động thái của Bắc Kinh trong lĩnh vực an ninh và kinh tế. Điển hình là hai bài liền trong Tháng Bảy năm 2012 khi tập đoàn Dầu khí Hải dương CNOOC của họ tiến sâu vào thềm lục địa và phạm vi 200 hải lý của vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam để mở ra chín lô cho quốc tế thăm dò. Vì vậy, có lẽ ông chẳng ngạc nhiên khi tập đoàn này đưa giàn khoan tối tân nhất của họ vào một khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam và gây căng thẳng trong vùng biển Đông Nam Á từ đầu tháng Năm. Thính giả gần xa của chúng ta nêu câu hỏi là trong hoàn cảnh đó, Việt Nam có thể làm những gì khi kinh tế lại có nhiều quan hệ gắn bó với Trung Quốc? Ông nghĩ sao về thắc mắc này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ đây là vấn nạn nan giải vì ta cần hỏi ngược là Việt Nam nào ở đâu? Nhưng xin hãy nói về bối cảnh, về những gì có thể là mục tiêu của Trung Quốc. Nếu biết họ muốn gì, vì sao, may ra mình sẽ thấy được những khả năng ứng xử. Còn lại, làm được không thì tùy theo vị trí và tầm nhìn xa gần.
Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ khởi đi từ câu hỏi đó. Theo nhận xét của ông thì Trung Quốc muốn gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Từ nhiều năm nay, diễn đàn này nhận định rằng Trung Quốc là xứ đói ăn, khát dầu và cần trao đổi với thế giới bên ngoài, nhưng vì đa nghi và sợ sệt nên đòi kiểm soát sự trao đổi ấy. Nhiều nước Đông Á cũng cần trao đổi buôn bán như vậy mà giải quyết theo cách hoà bình và sòng phẳng. Trung Quốc giải quyết theo lối khác, có thể qua ba bước tuần tự.
Thứ nhất, do yêu cầu kiểm soát vùng biển cận duyên như vùng trái độn quân sự, năm năm về trước, họ mập mờ đưa ra lưỡi bò chính khúc, rồi gọi là khu vực "quyền lợi cốt lõi" để biện minh cho việc can thiệp. Đó là ăn cướp bằng pháp lý ngoa ngụy nếu các nước không phản ứng đồng loạt. Kế tiếp là bước khai thác lợi thế chiến thuật tại nơi họ đã chiếm của xứ khác, như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và mời quốc tế vào khai thác để vì lòng tham mà các nước mặc nhiên hợp thức hóa sự cưỡng đoạt. Việc mở rộng khu vực kiểm soát phòng không năm ngoái cũng nằm trong hướng đó. Bước thứ ba là sẽ còn lặng lẽ nâng cao khả năng quân sự để mở tầm kiểm soát ra khỏi vùng biển cận duyên mà không gây ra phản ứng đồng loạt của các lân bang.
Việc họ đưa giàn khoan tối tân vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không là bất ngờ vì nằm trong bước thứ hai, là khai thác lợi thế chiến thuật đã có sau khi chiếm Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1974, rồi một phần Trường Sa năm 1988 và chiếm Bãi cạn Scarborough của Phi Luật Tân vào năm 2012 mà không gặp sự chống đối chung.
Đó là ăn cướp bằng pháp lý ngoa ngụy nếu các nước không phản ứng đồng loạt. Kế tiếp là bước khai thác lợi thế chiến thuật tại nơi họ đã chiếm của xứ khác, như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và mời quốc tế vào khai thác để vì lòng tham mà các nước mặc nhiên hợp thức hóa sự cưỡng đoạtNguyễn-Xuân Nghĩa
Suy như vậy, mục tiêu của giàn khoan 981 không hẳn là để tìm dầu trong một hạn kỳ có ba tháng. Họ thử xem phản ứng của nước thế nào thì tiến tới bước thứ ba là mở rộng tầm kiểm soát quân sự ra khỏi vùng biển cận duyên mà khỏi đụng với Hoa Kỳ. Qua từng bước, Bắc Kinh khai thác lòng tham và nỗi sợ của các nước để đạt mục tiêu là kiểm soát và nếu được thì thôn tính.
Vũ Hoàng: Phải chăng cũng do lòng tham hay nỗi sợ mà Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á là ASEAN đã không có một lập trường thống nhất về quy tắc hành xử với Bắc Kinh sau hội nghị cấp cao vừa qua tại Miến Điện hoặc như trong thượng đỉnh năm kia tại Cam Bốt?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta bắt đầu bước vào phần tìm hiểu về cách ứng xử của Việt Nam và các nước trong khu vực.
Trước hết, cả vùng Đông Á này đáng khinh và không là gương mẫu vì chọn con đường lý tài hơn lý tưởng và biến người dân thành sinh vật kinh tế. Nếu còn vài ngoại lệ thì đấy là Nhật Bản và Đại Hàn mà thôi, khi lãnh đạo hai xứ này còn nhắc nhở đến những giá trị tinh thần trong các quyết định.
Ngẫm lại thì với tất cả tội ác thời thực dân và những hạn chế ngày nay trong hành động, các nước Âu Châu và cả Hoa Kỳ đều đề cao một số nguyên tắc có giá trị toàn cầu, là tự do kinh tế, xã hội cởi mở và dân chủ chính trị với nhân quyền được tôn trọng. Không chỉ đề cao, họ cố thực hiện điều đó cho xứ khác và kịch liệt đả kích khi có vi phạm trong các xã hội Âu-Mỹ của họ.
Đông Á thì không. Dù có nhiều nền văn hoá cổ xưa với giá trị tinh thần đáng kính, các nước Đông Á ngày nay, nhất là tại Đông Nam Á, đều theo chủ nghĩa thực dụng, coi quyền lợi kinh tế còn quan trọng hơn nhân quyền, hay chủ nghĩa dân tộc và độc lập quốc gia. Vì vậy, các nước mặc nhiên rơi vào cái bẫy "trọng thương" và lý tài của Trung Quốc. Ở xa tầm đạn thì tham, ở gần thì sợ nên tự khuất phục. Người ta quên một khái niệm đã từng làm nên lịch sử là "chính nghĩa", là cái lẽ phải khiến con người có thể hy sinh tài sản lẫn mạng sống.
Việt Nam là nơi mắc bệnh lý tài Đông Á nặng nhất, từ trên đầu xuống, nên khó kêu gọi xứ khác cùng sát cánh trước bạo lực bành trướng. Trong môi trường văn hóa ấy, chủ nghĩa bá quyền và chính sách thực dân mới của Trung Quốc có sự thuận lợi hiển nhiên và Bắc Kinh dễ phân hóa lập trường của tập thể ASEAN.
Vũ Hoàng: Từ một chuyên gia kinh tế, nhận xét về văn hoá này của ông quả là đáng chú ý!
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng từ nếp văn hóa lý tài đó mới có chính sách kinh tế tai hại đấy. Ai cũng biết hệ thống kinh tế nhà nước có vấn đề mà sửa không được thì theo để kiếm chút cháo, mặc cho tư doanh cò con bị chết lâm sàng. Rồi còn viện dẫn thành quả ảo của Trung Quốc làm lẽ biện minh cho hệ thống kinh tế bất công và bất lực đó. Thực tế lại còn thê thảm hơn vậy nữa.
Vũ Hoàng: Ông nói thê thảm hơn là thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta hãy nhìn vào thực tế Việt Nam mà có lẽ người Mỹ cũng biết.
Từ năm năm nay, hải quân của Việt Nam mới gia tăng ngân sách từ hơn trăm triệu lên khoảng 400 triệu đô la vào năm tới. So với bao nhiêu tỷ bạc đã bị thất thoát thì đấy là điều mỉa mai. Thành phần lãnh đạo xứ này sẵn có bãi đáp ở nước ngoài, không Mỹ thì Canada hay Úc. Họ có chân chạy nên tài sản và con cháu đều có chân đứng ở ngoại quốc. Ở dưới, phần tử ưu tú của xứ sở vì tương đối khá giả hơn quần chúng thì cũng mong con cái được học bên Mỹ để có tương lai khá hơn quá khứ 40 năm vừa qua của họ. Như vậy trước mối nguy Trung Quốc thì còn lại những ai? Là người chỉ sợ mất tiền trên thị trường cổ phiếu, những người vừa được phép biểu tình hay những người còn trong tù vì đã biểu tình chống Trung Quốc hay đòi dân chủ?
Một ví dụ là nếu có xung đột và cần võ khí tự vệ, dù mới chỉ là một bích chương cổ động chứ chưa nói tới súng đạn, thì lãnh đạo lại sợ võ khí này sẽ nhắm vào họ! Những người lãnh đạo sợ mất đảng hơn là mất nước nên cột tay đa số ở dướiNguyễn-Xuân Nghĩa
Ngày nay, không thiếu người ở trong nước coi chuyện giàn khoan CNOOC là vở kịch được Bắc Kinh và Hà Nội dàn dựng để trục lợi với Mỹ. Vì lòng dân hoang mang bất định tới mức đó, hồi nãy tôi mới hỏi là Việt Nam nào, ở đâu? Một ví dụ là nếu có xung đột và cần võ khí tự vệ, dù mới chỉ là một bích chương cổ động chứ chưa nói tới súng đạn, thì lãnh đạo lại sợ võ khí này sẽ nhắm vào họ! Những người lãnh đạo sợ mất đảng hơn là mất nước nên cột tay đa số ở dưới.
Vũ Hoàng: Nếu những người có tâm huyết và thiết tha đến tương lai Việt Nam mà muốn làm gì đó, dù chỉ là kêu gọi tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, thì điều ấy có nên chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi ngờ rằng ta sẽ rơi vào cái chủ nghĩa lý tài tai hại, với lý luận bùi tai là nên dàn xếp qua thương thảo, chứ đừng cản trở việc giao lưu buôn bán vì đã làm ăn với nhau thì khó nã súng vào nhau. Lý luận đó chỉ là biện minh cho lẽ cầu an! Cho nên người ta vẫn có thể mở chiến dịch tẩy chay hàng hóa Trung Quốc để huy động lòng dân và để thử lòng người, chứ không nên chờ đợi là gây thiệt hại cho Trung Quốc. Thuần về kinh tế, có lẽ ta nên nhìn khác.
Vũ Hoàng: Thưa ông nhìn khác là như thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc vì lãnh đạo có phân công lao động với Bắc Kinh như các nước chư hầu Đông Âu với Liên Xô thời xưa. Hà Nội chả mắc bẫy giao thương với Bắc Kinh mà đã đẩy cả nước vào cái bẫy đó. Tôi xin giải thích.
Việt Nam bán hàng nhiều nhất là cho các thị trường Âu Châu, Hoa Kỳ, ASEAN, Nhật Bản rồi mới đến thị trường Trung Quốc. Bán hàng gì? Đa số là hàng chế biến với nguyên vật liệu nhập từ bên ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc. Tức là Việt Nam chỉ là trạm trung chuyển các bán chế phẩm của Trung Quốc bán vào các thị trường Âu-Mỹ với phần gia công hay trị giá gia tăng là của công nhân Việt Nam. Hậu quả là Việt Nam nhận đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc, chỉ kém đầu tư của Nam Hàn và Nhật Bản, mà đạt xuất siêu với các thị trường Âu-Mỹ chừng nào thì nhập siêu với Trung Quốc chừng đó. Nôm na thì Việt Nam nhận làm công ty vệ tinh cho đại tổ hợp Trung Quốc và được thế giới nâng đỡ chừng nào thì dâng lại lợi thế đó cho Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Tháng Tám năm ngoái, nói về sự thoái trào của Trung Quốc vì đà tăng trưởng chậm mà lương bổng đắt hơn, ông có gợi ý về một cơ hội mới cho Việt Nam để thu hút đầu tư của thiên hạ và góp phần thay thế vai trò "công xưởng toàn cầu" của Trung Quốc. Thưa ông, liệu rằng vụ tranh chấp hiện nay với Trung Quốc có giúp kinh tế Việt Nam thoát khỏi cảnh ngộ vệ tinh kinh tế của Trung Quốc hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi mong như vậy. Thật ra, hòn đá thử vàng để trắc nghiệm thực tâm của lãnh đạo Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc phải khởi đi từ việc tôn trọng và tin tưởng người dân chứ đừng là công cụ của Trung Quốc để đàn áp người dân của mình. Sau đó, nếu lãnh đạo nói đến chuyển hướng kinh tế để ra khỏi quỹ đạo Bắc Kinh, từ các dự án bô xít Tây Nguyên đến chuyện buôn lậu ở biên giới thì người dân mới tin. Nếu được giải phóng như vậy, người dân sẽ ngăn được nạn đảng viên cán bộ tiếp tay Trung Quốc gieo họa cho kinh tế Việt Nam.
Nếu nhà cầm quyền Việt Nam không làm nổi việc đó thì họ bị đào thải vì người dân sẽ nổi dậy sau khi Việt Nam bị mất chủ quyền vào tay Trung Quốc. Chẳng ai muốn một cơn chấn động như vậy nhưng điều ấy vẫn có thể xảy ra, như đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử của xứ này.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.