-Cần dùng công hàm phủ định công hàm Phạm Văn Ðồng 1958
-Góp ý với BBT trang Bô Xít và các tác giả LS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt.
Nhan Tuan Truong
04.06.2014
Ngày 23/5/2014 Việt Nam đã tổ chức họp báo có đại diện của quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao, để giải thích về Công hàm (công thư) Phạm Văn Đồng năm 1958.
Khó khăn của chính quyền Việt Nam hiện nay khi giải thích về Công hàm PVĐ 1958 là làm sao có thể giải thích khác đi được về nội dung công hàm đã viết rành rọt có lợi cho TQ và bất lợi cho VN về vấn đề toàn vẹn lãnh thổ trong đó có biển đảo. Giải thích đó là công hàm chỉ là sự ủng hộ “chung chung” cho nước đồng minh là TQ của VNDCCH khi cùng chung chiến hào đánh Mỹ, Ngụy vào thời điểm 1958 dễ làm cho người dân thất vọng.
Công hàm ra đời vì lúc đó chờ đợi hai năm chờ tuyển cử nhưng cả hai phía VNCH và VNDCCH đều đổ lỗi cho nhau là lờ đi việc Tổng tuyển cử và chính quyền Miền Bắc do vậy cần viện trợ của Trung Quốc để đổ quân vào miền Nam nhằm thống nhất đất nước Việt Nam bằng vũ lực nên đành phải lấy lòng TQ một cách thiển cận. Công hàm do Thủ tướng Phạm văn Đồng chắc là có sự đồng ý của Bộ Chính trị và ông Hồ Chí Minh vì không thể một mình ông Đồng chịu trách nhiệm do nguyên tắc tập thể lãnh đạo của đảng CSVN lúc bấy giờ. Do vậy về mặt đối nội, giải thích thế nào cũng làm cho đảng CSVN ngày nay mất đi hình ảnh tốt đẹp mà họ đã xây dựng trong hàng chục năm qua. Người dân trong nước thì “ngậm đắng nuốt cay” mà than thở hay lên án là công hàm đã được giới lãnh đạo ở Bắc Việt do “không nhìn xa trông rộng” tưởng rằng Công hàm PVĐ 1958 chỉ ủng hộ chung chung nhưng nào ngờ bị ông bạn vàng TQ diễn dịch công hàm coi như là một sự công nhận cho ông bạn vàng rằng HS, TS đã thuộc về TQ từ khi đó. Cho nên nay không thể nói ngược được vì nguyên tắc Estoppel được dùng trong quốc tế công pháp. Các học giả TQ đã dùng nguyên tắc Estoppel này để lập luận buộc VN không được giải thích khác với những gì mà VN đã xác nhận qua Công hàm PVĐ 1958. Còn về đối ngoại giải thích khác đi đối với cộng đồng người Việt hải ngoại là điều dễ được thông cảm dù rằng họ cũng cay đắng phê phán Công hàm PVĐ 1958 là công hàm “hại cho đất nước”, mà hậu quả là TQ hiện nay đang rêu rao với dư luận quốc tế,diễn dịch sai lạc nội dung và tinh thần của công hàm đó rằng VN đã công nhận chủ quyền TS,HS là của Trung quốc. Còn dư luận quốc tế dù có thiện cảm với VN và biết là TQ đang ngụy biện để cướp đảo của VN nhưng do TQ là nước lớn, quốc gia của họ đang có làm ăn kinh doanh lớn với TQ nên họ cũng chẳng muốn động chạm gì với TQ mà căng mắt chờ cuộc đấu của hai nước cùng ý thức hệ là bạn vàng, đồng minh của nhau trong hàng chục năm qua.
Lập luận nêu trên đã bị học giả nghiên cứu độc lập về biển Đông, ông Trương Nhân Tuấn, đả kích vì như thế VN sẽ “sa lầy “trong việc kiện TQ nếu dùng các” luận cứ của cuộc họp báo 23/5”. Ông tóm tắt và đề xuất trong thư ngỏ gửi Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng là hãy nhanh chóng nói ngược lại các luận điểm nguy hiểm của VN đã trình bày trong cuộc họp báo ngày 23/5- nguy hiểm như thế nào thì như đã phân tách trong phần đầu bài viết này. Ông đề xuất rằng chỉ cần tuyên bố “Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị”.
Lập luận của ông Trương Nhân Tuấn là ĐÚNG nhưng không ĐỦ thuyết phục dư luận và nó sẽ vấp phải nguyên tắc Estoppel mà các học giả TQ đang dùng để buộc VN không thể nói ngược được. Do vậy không nên nói rằng Công hàm PVĐ1958 là khúc xương mà VN phải nuốt trọn do “bút sa gà chết”mà phải lý giải thật tỏ tường như sau.
Các việc cần phải làm để vô hiệu hòa công hàm Phạm Văn Ðồng 1958:
1.Về mặt nội dung, một công hàm mà Chính phủ CHXHCNVN phải chuẩn bị cần có nội dung như sau :
Cần xác định rõ ràng là vào thời điểm 1958, sau Hiệp định Geneve thì trong Hiệp định nêu rõ VN là một nước thống nhất nhưng phải chia cắt làm hai và trở thành hai thực thể chính trị nhưng không phải là hai quốc gia theo đúng nghĩa, phải là thành viên được LHQ công nhận – do không quốc gia nào là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Chính quyền ở Miền Bắc xưng là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn miền Nam cũng có chính quyền là Việt Nam Cộng Hòa. Sau 2 năm chờ thống nhất không được tổ chức nên hai nước tổ chức bộ máy chính quyền như hai đất nước, mỗi bên có những quan hệ với các quốc gia khác và quan hệ đồng minh với Trung Quốc của VNDCCH là điều ai cũng biết. Việc mỗi nước nhận là đại diện cho dân tộc Việt Nam hay Đất nước VN là điều mà mội bên đã làm nhưng riêng đối với vấn đề lãnh thổ thì sự toàn vẹn và thống nhất là vấn đề cốt lõi mà ý chí của một bên đơn phương làm việc gì với một nước thứ ba không thể nào làm tổn hại, ngược lại nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.Do vậy Công hàm PVĐ 1958 công nhận ý đồ của Trung Quốc về lãnh thổ tiếp theo tuyên bố của Thủ tướng Chu ân Lai đã làm phương hại đến lợi ích của nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ của VN” đã được ghi trong Hiệp Định Geneve 1954 mà Trung Quốc là một bên đã ký. Do vậy vấn đề là chính phủ VNCH có biết là Hà nội đã gửi công hàm đó cho Trung cộng hay không? Và nếu biết có phản đối Hà nội hay không? Về điều này thì chính phủ của VNCH vào thời điểm năm 1958 hoàn toàn không được biết nên không thể lên tiếng phủ định Công hàm PVĐ 1958. Nhưng vào năm 1974, khi xảy ra việc dựa vào Công hàm PVĐ 1958, và việc Trung Cộng bắt tay với Hoa Kỳ, nên Trung Quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (xin nhấn mạnh là xâm chiếm Hoàng Sa của nước Việt Nam chứ không phải chỉ là của VNCH) thì chính quyền VNCH, qua tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19/01/1974 đã nêu rõ như sau:
Cần xác định rõ ràng là vào thời điểm 1958, sau Hiệp định Geneve thì trong Hiệp định nêu rõ VN là một nước thống nhất nhưng phải chia cắt làm hai và trở thành hai thực thể chính trị nhưng không phải là hai quốc gia theo đúng nghĩa, phải là thành viên được LHQ công nhận – do không quốc gia nào là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Chính quyền ở Miền Bắc xưng là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn miền Nam cũng có chính quyền là Việt Nam Cộng Hòa. Sau 2 năm chờ thống nhất không được tổ chức nên hai nước tổ chức bộ máy chính quyền như hai đất nước, mỗi bên có những quan hệ với các quốc gia khác và quan hệ đồng minh với Trung Quốc của VNDCCH là điều ai cũng biết. Việc mỗi nước nhận là đại diện cho dân tộc Việt Nam hay Đất nước VN là điều mà mội bên đã làm nhưng riêng đối với vấn đề lãnh thổ thì sự toàn vẹn và thống nhất là vấn đề cốt lõi mà ý chí của một bên đơn phương làm việc gì với một nước thứ ba không thể nào làm tổn hại, ngược lại nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.Do vậy Công hàm PVĐ 1958 công nhận ý đồ của Trung Quốc về lãnh thổ tiếp theo tuyên bố của Thủ tướng Chu ân Lai đã làm phương hại đến lợi ích của nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ của VN” đã được ghi trong Hiệp Định Geneve 1954 mà Trung Quốc là một bên đã ký. Do vậy vấn đề là chính phủ VNCH có biết là Hà nội đã gửi công hàm đó cho Trung cộng hay không? Và nếu biết có phản đối Hà nội hay không? Về điều này thì chính phủ của VNCH vào thời điểm năm 1958 hoàn toàn không được biết nên không thể lên tiếng phủ định Công hàm PVĐ 1958. Nhưng vào năm 1974, khi xảy ra việc dựa vào Công hàm PVĐ 1958, và việc Trung Cộng bắt tay với Hoa Kỳ, nên Trung Quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (xin nhấn mạnh là xâm chiếm Hoàng Sa của nước Việt Nam chứ không phải chỉ là của VNCH) thì chính quyền VNCH, qua tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19/01/1974 đã nêu rõ như sau:
”Nghĩa vụ cao cả của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Chính phủ VNCH cương quyết làm tròn nghĩa vụ ấy, bất luận gặp phải những khó khăn trở ngại có thể gặp phải và bất chấp sự phản đối không căn cứ dầu xuất phát ở đâu. Chừng nào còn một hòn đảo thuộc phần lãnh thổ ấy của VNCH bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy chính phủ và nhân dân nước VNCH còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình. Trong dịp này, chính phủ VNCH cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của VNCH trên những hòn đảo nằm ở ngoài khơi bãi biển Trung phần và bãi biển Nam phần Việt Nam từ trước tới nay vẫn được coi là phần lãnh thổ của VNCH căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý và thực tế không thể chối cãi được. Trung thành với chính sách hòa bình cố hữu của mình, chính phủ VNCH sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy nhưng nhất định không vì thế mà từ bỏ chủ quyền của VNCH trên những phần đất ấy.(tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH đã được báo Thanh Niên đăng trang trọng tại trang nhất ngày 09/01/2014).
Như vậy dù có chậm trễ, đối với vấn đề lãnh thổ biên cương hải đảo của nước VN, Chính quyền nước VNCH đã thể hiện ý chí hoàn toàn khác với Công hàm PVĐ 1958 và điều đó đã mặc nhiên phủ định Công hàm PVĐ 1958 ngay từ thời điểm năm 1974 khi Trung Cộng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa do VNCH cai quản.
Chính phủ VN ngày hôm nay có thể lý giải với dư luận rằng: Do chờ đợi sau hai năm không có tổng tuyển cử nên Hà Nội đã có công hàm gửi TQ, lúc đó cũng là đất nước bị chia cắt chưa thống nhất vì lúc đó Trung Hoa Dân Quốc (Đài loan) là đại diện cho nước Trung Quốc, là một trong 5 thành viên trong Hội đồng Bảo an LHQ. Do hoàn cảnh khách quan vào năm 1958, Hoa kỳ và Đài Loan và Trung quốc xung đột ở biển đảo, do Trung quốc và VN là hai nước đồng minh nên việc tuyên bố có lợi cho “nước bạn” về vấn đề hải phận của TQ là điều mà Công hàm PVĐ 1958 đã làm. Nhưng công hàm này không thể có hiệu lực pháp lý vì một phần đất đai và lãnh thổ của một đất nước được giao cho một nước khác không thể thể hiện trong một công hàm được vì căn cứ theo Quốc tế Công pháp nói một cách tổng quát, việc chuyển giao một phần lãnh thổ của một quốc gia cho một quốc gia không thể thể hiện chỉ qua một công hàm ngắn gọn mà phải là là dưới một hình thức hiệp định để có thể chuyển giao một phần đất đai cho nước ngoài được; sau đó hiệp định này còn phải được hai nước phê chuẩn theo đúng Hiến pháp của hai nước. Do vậy giá trị pháp lý của công hàm không phải là hiệp định nên phía TQ không thể tùy tiện giải thích Công hàm PVĐ 1958 giữa hai quốc gia theo cách thô thiển mà họ ong muốn. Hơn nữa CHXHCNVN đã liên tục ra nhiều tuyên bố tuyên cáo với quốc dân đổng bào và cho toàn thế giới biết sau năm 1975 là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là phần đất đai, thuộc nước CHXHCNVN.
2. Về mặt hình thức, do Công hàm PVĐ 1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai nên nay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cần phải gửi cho người đồng cấp là Thủ tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc một công hàm để phủ định Công hàm PVĐ 1958 với cách giải thích nêu trên để nói rõ cho Trung Quốc biết họ không thể giải thích công hàm đó một cách tùy tiện và đã gây ra rất nhiều trở ngại trong quan hệ hai nước mà cao điểm là hành vi đặt giàn khoan vừa qua trong lãnh hải của nước Việt Nam ảnh hưởng đến an ninh hàng hải quốc tế tại Biển Đông.
Với việc nêu rõ quan điểm của Chính phủ Việt Nam qua đề xuất nói trên sẽ làm cho lập trường của VN trở nên minh bạch và sáng ngời. Dư luận và người dân trong nước sẽ không còn áy náy và hồ nghi gì về Công hàm PVĐ 1958 do ra đời trong hoàn cảnh khách quan và chủ quan đặc biệt như đã giải thích. Còn giá trị pháp lý của Công hàm PVĐ 1958 sẽ bị vô hiệu hóa hoàn toàn do đã không được phía VNCH biểu thị ý chí vào năm 1958. Ý chí đó đã được thể hiện rất rõ nét trong trận chiến năm 1974 và chính quyền VNCH cũng như nhân dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, phản đối hành động của Trung Quốc trước Liên Hiệp Quốc, yêu cầu các quốc gia đồng minh đưa vấn đề Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc.
Không còn chần chừ gì nữa chính quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cần nhanh chóng thực hiện các việc trên trước khi đưa vấn đề giàn khoan của TQ xâm lấn vào thềm lục địa của nước VN ra trước Tòa án Công lý Quốc tế.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.-Góp ý với BBT trang Bô Xít và các tác giả LS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt.
Nhan Tuan Truong
Trang Bô Xít có đăng bài của hai tác giả LS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt mang tựa đề : « Công ước Kế tục Quốc gia của Liên Hiệp Quốc không đòi hỏi thừa kế các hiệp định liên quan đến lãnh thổ »
Công ước ở đây là công ước « Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties 1978 ».
Phần 2 bài viết các tác giả cho rằng :Công ước không đòi hỏi thừa kế hiệp định liên quan đến lãnh thổ
Các tác giả đã dựa vào các điều 8.1, 9.1 và điều 13 để kết luận như vậy.
Tôi cho rằng các tác giả đã sai.
Điều 11 của Công ước ghi :
Article 11
Boundary regimes
A succession of States does not as such affect:
(a) a boundary established by a treaty; or
(b) obligations and rights established by a treaty and relating to the regime of a boundary.
Tạm dịch :
Điều 11
Các chế độ về biên giới :
Việc kế thừa quốc gia không được vi phạm đến :
a) đường biên giới đã được thiết lập bằng một hiệp ước hoặc
b) quyền và nghĩa vụ được xác định bằng một hiệp ước liên quan đến chế độ của đường biên giới.
Tức là, việc kế thừa giữa hai quốc gia không được làm thay đổi đường biên giới được thiết lập trước đó bằng một hiệp ước, cũng như vi phạm đến bất kỳ nội dung điều ước nào có liên quan đến quyền và nghĩa vụ (của quốc gia tiền nhiệm) đã ký kết về chế độ của biên giới.
Trang Bô Xít có viết lời giới thiệu :
hai tác giả Tạ Văn Tài và Vũ Quang Việt đưa ra một văn kiện quan trọng: Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978, theo đó / Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là quốc gia kế tục có thể bác bỏ các hiệp ước về lãnh thổ bất bình đẳng hoặc do sức ép mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải chịu nhận
Lại càng sai.
Công ước Vienne về kế thừa quốc gia (trên phương diện tài sản hay các kết ước) vốn đã hiện hữu trước đó năm 1969 (Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties 1969). Hai điều khoản về « Các chế độ về đường biên giới » của hai công ước (1969 và 1978) không khác một chữ, một hàng. Các công ước này tôi đã nghiên cứu từ năm 2000 khi viết tập sách « Biên giới Việt-Trung 1885-2000 : Lịch sử thành hình và những tranh chấp ».
Ta thấy đường biên giới giữa hai nước Việt Nam và TQ do Pháp và nhà Thanh thiết lập từ năm 1885, đã làm cho VN thiệt hại rất nhiều lãnh thổ, các vùng có tầm kinh tế quan trọng và có tầm chiến lược cao (vùng Móng Cái, biên giới đáng lẽ phải mở ra tới Phòng Thành), vùng Tụ Long, thuộc Hà Giang (có nhiều mỏ đồng, khoảng 700km²), vùng Hải Ninh (khoảng 1.500km²), vùng Đèo Lương, thuộc Cao Bằng (khoảng 300km²)...
Pháp đã nhượng đất đai của VN cho TQ để được lợi nhuận về kinh tế.
Đây là đường biên giới được thiết lập bằng một kết ước « bất bình đẳng ». Đây cũng là một đường biên giới « bội ước », chứ không phải « qui ước », vì Pháp đã phản bội Hiệp ước Patenôtre 1884 (cam kết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của VN).
Nhưng nó vẫn có hiệu lực, làm căn bản cho hiệp ước 1999 phân định về biên giới sau này.
Ta cũng thấy TQ, đã phải nhượng cho Nga hàng triệu Km² do hệ quả của các hiệp ước bất bình đẳng ký vào thế kỷ 18, 19. Đường biên giới này vẫn có hiệu lực, đã làm căn bản cho hai bên phân định lại biên giới sau này.
Ta cũng có thể đưa ra vài chục thí dụ tương tự ở Châu Phi. Đường biên giới ở đây được các cường quốc (Anh, Pháp...) hoạch định trong văn phòng, lấy đường kinh tuyến, vĩ tuyến để phân chia. Việc này làm cho nhiều dân tộc phải chia làm hai, làm ba... sống trên nhiều nước khác nhau. Cũng có khi gom hai ba bộ lạc thù nghịch nhau cho sống chung trong một nước (trường hợp các sắc dân Hutu và Tutsi ở Rwanda), hoặc một dân tộc lớn (như dân Kurde, dân Palestine...) lại không có quốc gia v.v...
Các đường biên giới này vẫn còn hiệu lực.
Vì thế, các tác giả, cũng như BBT Bô Xít, đã sai lầm khi cho rằng « quốc gia kế tục có thể bác bỏ các hiệp ước bất bình đẳng về lãnh thổ... »
-Công ước Kế tục Quốc gia của Liên Hiệp Quốc không đòi hỏi thừa kế các hiệp định liên quan đến lãnh thổ
Tạ Văn Tài và Vũ Quang Việt
(2-6-2014)
Trong vấn đề kế tục quốc gia, một công ước quan trọng của Liên Hiệp Quốc về việc kế tục quốc gia gần như đã bị các nhà nghiên cứu người Việt Nam và người nước ngoài bỏ qua hay chưa nhắc tới. Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978 (Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties 1978).1 Công ước này được soạn xong ngày 23 tháng 8 năm 1978 và có hiệu lực từ ngày 6 tháng 11 năm 1996. Việc kế tục quốc gia (State) khác hẳn với việc kế tục chính quyền dù là việc thay đổi chính quyền mang tính chất thay đổi thể chế, chứ không chỉ có nghĩa là thay đổi người lãnh đạo. Ở đây thay đổi quốc gia là sự thay đổi cơ bản về căn cước pháp lý quốc tế của một quốc gia (state), có thể gồm cả mặt thể chế, chính quyền, công dân và đặc biệt quan trọng là thay đổi lãnh thổ -- qua việc phân chia lãnh thổ, hay sát nhập lãnh thổ của quốc gia trước nó. Bài này sẽ làm sáng tỏ nội dung của Công ước này liên quan đến lãnh thổ và thử áp dụng vào trường hợp Việt Nam, khi ta giả dụ cho cuộc bàn luận này là có một hiệp ước về lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc trước đó.
1. Một số ý niệm cơ bản
Trước tiên cũng cần làm rõ các từ và ý niệm được sử dụng trong Công ước.
1.1 Quốc gia (State)
Quốc gia là một pháp nhân, theo sự mô tả của công pháp quốc tế truyền thống (traditional/customary international law), đã được đúc kết trong Công ước Montevideo,2 nó sẽ được hình thành khi đạt những tiêu chuẩn sau:
a) một khối dân cư thường xuyên,
b) một vùng lãnh thổ được xác định,
c) một chính quyền, và
d) khả năng thiết lập quan hệ với các Quốc gia khác.
Theo định nghĩa trên, Đài Loan hiện nay, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH), Việt Nam Cộng hoà (VNCH), Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) cũng là Quốc gia theo định nghĩa của Luật quốc tế trên tuy rằng CHMNVN được chính phủ CMLT dùng để chỉ cùng một thực tế Quốc gia ở miền Nam vĩ tuyến 17 là nơi có hai chính phủ tranh chấp nhau (xem giải thích về ý nghĩa chữ Quốc gia trong tiếng Việt trong phần Phụ lục). Người Đức, người Đại Hàn và nhất là người Việt Nam trước đây trong cả hai phần đất nước chia đôi của họ, theo như quan niệm lý tưởng của họ, đều coi mình là một dân tộc thuộc về một đất nước, nhưng trên thực tế, và cả trên phương diện luật quốc tế, hai phần của một đất nước đã được đối xử như các quốc gia riêng lẻ, có lãnh thổ, dân và chính phủ riêng và có thiết lập ngoại giao với nhiều Quốc gia khác trên thế giới.
Hiệp định Ngừng chiến ở Việt Nam 20-7-1954 (gọi gọn là Hiệp định Genève)3 thỏa thuận phân chia tạm thời Việt Nam thành hai khu vực: quân đội Nhân dân Việt Nam (tức của VNDCCH) ở phía bắc vĩ tuyến 17, quân đội Liên Hiệp Pháp ở phía nam và sẽ thống nhất qua cuộc tổng tuyển cử 2 năm sau đó. Cùng với Hiệp định này là Tuyên bố cuối cùng Hội nghị Geneva: về phục hồi hoà bình ở Đông Dương 21-7-1954,4 ở đó, “Hội nghị tuyên bố rằng, liên quan đến Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sẽ cho phép nhân dân Việt Nam hưởng các quyền tự do cơ bản, được bảo đảm bởi các thể chế dân chủ, thiết lập như là kết quả của các cuộc tuyển cử tự do bằng phiếu kín.”5 Các cường quốc như Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, và Anh ký kết, tuy nhiên Mỹ và Quốc gia Việt Nam (nằm trong Liên Hiệp Pháp và lãnh đạo bởi Bảo Đại) không chịu ký kết và sau đó không chịu thi hành cuộc tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. Nước Việt Nam (theo nghĩa nation) là một, nhưng tình hình chính trị thế giới và sức ép về chính trị và quân sự của hai cường quốc như thực dân Pháp và Mỹ ủng hộ thực dân Pháp đã tạo ra hai Quốc gia có chủ quyền riêng biệt theo đúng định nghĩa của Công ước Montevedio.
Cho nên, trước khi hai quốc gia đó thống nhất vào năm 1976, bất cứ một quyết định nào liên quan đến lãnh thổ của một trong hai Quốc gia trên, mà không do quyết định của chính quốc gia ấy, là vi phạm đến quyền dân tộc tự quyết được ghi trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Sau khi hai miền hay hai quốc gia Việt Nam thống nhất xong, bất cứ một quyết định nào liên quan đến lãnh thổ chung, Quốc gia Việt Nam thống nhất với tư cách là Quốc gia kế tục các Quốc gia đã có mặt trước đó do việc nước Việt Nam bị chia cắt có quyền sử dụng Công ước Kế tục của LHQ, khi Công ước này có hiêu lực.
Vậy Công ước này đã quy định gì về vấn đề kế tục quốc gia?
1.2 Kế tục (succession)
Một pháp nhân quốc gia này khi kế tục một hay nhiều pháp nhân quốc gia khác trước đó, không nhất thiết phải kế thừa tất cả những hiệp định của pháp nhân quốc gia mà nó kế tục, vì đó là hệ luận hợp lý của nguyên tắc chủ quyền của một quốc gia (state sovereignty) trong hệ thống chính trị thế giới hiện nay, trong đó một quốc gia bình đẳng với các quốc gia khác, cho nên không ai có thể áp đặt cho một quốc gia sự chấp nhận những gì quốc gia đó không muốn, như chính sách nội bộ (domestic jurisdiction) chẳng hạn, ngoại trừ những nguyên tắc có giá trị phổ quát của luật quốc tế.
Những hiệp ước ký kết giữa vài nước với nhau chỉ có giá trị giữa các nước ký kết, không có giá trị phổ quát như luật quốc tế áp dụng toàn cầu, chẳng hạn Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Vi thế, trong sự kế thừa hiệp ước, khi một quốc gia kế thừa lãnh thổ, dân chúng và chính quyền của một quốc gia mà nó thôn tính hay sát nhập, có trường hợp quốc gia mới phải kế thừa những hiệp định hoặc thoả thuận của quốc gia cũ, nhưng cũng có trường hợp quốc gia mới lập coi như bắt đầu từ trang giấy trắng, không cần kế thừa hoặc có thể tự chọn những gì cần kế thừa nếu các quốc gia đối tác đồng ý. Các hiệp ước thoả thuận về vấn đề gì đó giữa các quốc gia, mà không liên quan hay va chạm đến những nguyên tắc luật quốc tế căn bản phổ quát của cộng đồng quốc tế (fundamental, universal principles of law of civilized nations), thì chỉ có hiệu lực khi các bên đối tác có sự đồng ý (vì thế có danh từ “treaties and international agreements”), theo nguyên lý tự do kết ước (freedom of contract); và chính vì thế mà một bên kết ước hay kế thừa hiệp ước có thể tuyên bố chấm dứt hay bãi bỏ hiệp ước đã ký (resiliation hay repudiation/abrogation) khi tình trạng mới không còn hợp cho các sự ràng buộc của hiệp ước nữa, tức là không còn nguyên trạng cũ vốn đã từng làm nền tảng cho hiệp ước nữa (nguyên tắc rebus sic stantibus trong luật quốc tế truyền thống).
Một lý do quan trọng để quốc gia kết ước hay kế thừa hiệp ước có thể viện dẫn để đình hoãn, chấm dứt hay bãi bỏ hiệp ước đã ký cũng đã được nêu ra ở điều 13 trong Công ước 1978; nó nói rằng nguyên tắc luật quốc tế về chủ quyền vĩnh viễn của mọi dân tộc và mọi quốc gia đối với tài nguyên trong lãnh thổ của mình khiến cho không có điều gì trong Công ước này có thể xâm hại đến các nguyên tắc về chủ quyền vĩnh viễn về tài nguyên đó.
Article 13. Nothing in the present Convention shall affect the principles of international law affirming the permanent sovereignty of every people and every State over its natural wealth and resources.
Như vậy, chủ quyền về tài nguyên trong lãnh thổ đã được Công ước dành lại hoàn toàn cho ý muốn hành xử của quốc gia kết ước hay thừa kế hiệp ước.
Chính vì nhằm tạo ổn định trong quan hệ quốc tế, đồng thời nhằm hướng dẫn việc giải quyết vấn đề kế tục mà Công ước được soạn thảo. Hai lý do chính mà Công ước đưa ra để biện minh cho sự tồn tại của nó là: thứ nhất, “có sự chuyển biến sâu sắc do tiến trình giải thực (decolonization) mang đến”; thứ hai, “có các yếu tố khác có thể dẫn đến các trường hợp kế tục trong tương lai.” Chính vì thế mà “cần có sự điển chế (codification) và từng bước phát triển các nguyên tắc liên quan đến việc kế tục quốc gia đối với hiệp định nhằm bảo đảm sự ổn định pháp lý trong quan hệ quốc tế.”6
Như thế Công ước về kế tục không chỉ nhằm giải quyết vấn đề nảy sinh từ việc các quốc gia mới ra đời sau khi chủ nghĩa thực dân bị xoá bỏ mà còn nhằm đối phó với tình hình các nước ra đời sau khi khối xã hội chủ nghĩa tan rã, cũng như vì các lý do khác. Đây là lý do một số nước thoát khỏi chủ nghĩa thực dân như Angola, Niger, Tunisia, v.v. hay các nước như Ukraine, Serbia, Montenegro, Croatia, Czech Republic, Poland sau khi các nước chủ nghĩa xã hội này tan rã, đã phê chuẩn Công ước. Cho đến đầu năm 2014, chỉ mới có 37 nước, hầu hết là các nước có vấn đề biên giới, hoặc mới tách lập, mới phê chuẩn. Những nước vắng mặt là Trung Quốc và Việt Nam.7 Trong khi đó Công ước LHQ về Luật biển đã có 166 nước ký, chỉ còn thiếu 7 nước có biển là không chịu phê chuẩn, trong đó có Mỹ, Eritria, Israel, Peru, Syria, Turkey, Venezuela.8
2. Nội dung: Công ước không đòi hỏi thừa kế hiệp định liên quan đến lãnh thổ
Công ước cho thấy rõ là không có sự thừa kế hiệp định liên quan đến lãnh thổ mà Quốc gia trước đó đã ký, dù Quốc gia trước đó và Quốc gia kế tục đồng ý kế thừa bằng thoả thuận (Điều 8.1) hay qua tuyên bố đơn phương của Quốc gia trước đó về kế thừa (Điều 9.1). Đây là các điều quan trọng nhất trong Công ước vì nó muốn giải phóng các nước bị áp chế trước đây khỏi mọi ràng buộc có thể rất bất hợp lý mà họ phải chịu đựng khi hình thành Quốc gia mới.
Điều 8.1 của Công ước cho rằng: “Trách nhiệm và quyền của Quốc gia trước đó (predecessor) liên quan đến lãnh thổ ghi trong hiệp định đã có hiệu lực vào lúc việc kế tục xảy ra không trở thành trách nhiệm và quyền của Quốc gia kế tục đối với các Quốc gia khác bị ràng buộc bởi hiệp định chỉ vì lý do là Quốc gia trước đó và Quốc gia kế tục đã thoả thuận đấy là trách nhiệm và quyền ủy thác cho Quốc gia kế tục.”
Article 8.1 The obligations or rights of a predecessor State under treaties in force in respect of a territory at the date of a succession of States do not become the obligations or rights of the successor State towards other States parties to those treaties by reason only of the fact that the predecessor State and the successor Sate have concluded an agreement providing that such obligations or rights shall devolve upon the successor State.
Điều 9.1 nhấn mạnh nguyên tắc không thừa kế trong trường hợp Quốc gia trước đó (predecessor) đã tuyên bố đơn phương kế thừa. Cơ bản sự khác biệt giữa điều 9.1 và điều 8.1 là ở chỗ đoạn cuối của Điều 8.1 “Quốc gia trước đó và Quốc gia kế tục đã thoả thuận” được thay bằng “Quốc gia kế tục đã tuyên bố đơn phương” ở đoạn cuối của Điều 9.1.
Article 9.1 Obligations or rights of a predecessor state under treaties in force in respect of a territory at the date of a succession of States do not become the obligations or rights of the successor State or of other Sates parties to those treaties by reason only of the fact that the predecessor Sate has made a unilateral declaration providing for the continuation in force of the treaties in respect of its territories.
Điều 13 của Công ước nói tới ở trên, về chủ quyền vĩnh viễn của quốc gia trên các tài nguyên trong lãnh thổ mà Công ước không thể xâm hại tới, cũng phù hợp với tinh thần các điều 8.1 và 9.1 này.
3. Ứng dụng trong trường hợp Việt Nam sau 1975
Công ước cho thấy rõ nguyên tắc không phải thừa kế hiệp ước về lãnh thổ đối với Quốc gia mới ra đời (dù được tách từ một Quốc gia hay là kết quả nhập từ nhiều Quốc gia trước đó).
Trong trường hợp Việt Nam, Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) là kế tục của Việt Nam Cộng hoà (VNCH) vào năm 1975. CHMNVN thay thế VNCH trong vai trò quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Sau đó vào năm 1977 khi Việt Nam thống nhất, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Quốc gia kế tục của hai Quốc gia trước đó: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) và Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (CHMNVN). Điều 9.1 cho thấy dù Quốc gia trước đó là VNDCCH tuyên bố điều gì về lãnh thổ thì tuyên bố đó vô hiệu, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phải kế thừa, đó là do áp dụng tinh thần của Công ước Kế thừa Quốc gia nhằm mục tiêu giải thực hoặc tương tự. Trong trường hợp Quốc gia kế tục không phải kế thừa về hiệp định liên quan đến lãnh thổ thì các tuyên bố đơn phương lại càng không phải kế thừa.
Tuy vậy, một câu hỏi cần được thảo luận là: Công ước ra đời năm 1978 nhưng có hiệu lực vào 6 tháng 11 năm 1996, vậy Công ước có được áp dụng một cách hồi tố với trường hợp CHXHCNVN ra đời trước đó vào năm 1977 không? Câu trả lời là Công ước được áp dụng mềm dẻo, dĩ nhiên áp dụng cho các tình huống có sau Công ước, nhưng cũng có thể áp dụng cho cả các tình huống có trước Công ước, tuỳ theo vấn đề và thoả thuận của các quốc gia.
Không được hồi tố là nguyên tắc chấp nhận rộng rãi trong luật. Nguyên tắc hồi tố có hiệu lực nếu Quốc gia kế tục đã đồng ý thừa kế các hiệp ước sau khi nó ra đời và trước khi công ước có hiệu lực nhằm tránh việc lợi dụng công ước để xoá bỏ các hiệp ước đã đồng ý thừa kế. Công ước cũng sẽ chỉ không áp dụng cho các sự việc xảy ra trước ngày ban hành luật (không được có ex post facto law).
Tuy nhiên trong trường hợp chưa có sự đồng ý nào về việc thừa kế, thậm chí Quốc gia kế tục đã tuyên bố bác bỏ những hiệp ước hoặc tuyên bố đơn phương đã có trước khi Công ước ra đời thì Công ước phải được áp dụng bởi vì bản chất của Công ước là bảo vệ chủ quyền về lãnh thổ của các Quốc gia bị trị hoặc bị đặt vào thế không thể làm quyết định phản ánh đúng ý chí của Quốc gia đó.
Tuy nhiên trong trường hợp chưa có sự đồng ý nào về việc thừa kế, thậm chí Quốc gia kế tục đã tuyên bố bác bỏ những hiệp ước hoặc tuyên bố đơn phương đã có trước khi Công ước ra đời thì Công ước phải được áp dụng bởi vì bản chất của Công ước là bảo vệ chủ quyền về lãnh thổ của các Quốc gia bị trị hoặc bị đặt vào thế không thể làm quyết định phản ánh đúng ý chí của Quốc gia đó.
Chính vì thế, dù Điều 7.1 của Công ước Vienna qui định áp dụng đối với các Quốc gia ra đời sau khi Công ước có hiệu lực vào ngày 6 tháng 11 năm 1996, thì Điều 7.3 lại cho phép linh hoạt, bởi vì nó cho phép các Quốc gia dù ra đời trước khi Công ước có hiệu lực vẫn có thể giải quyết trên cơ sở của nó, miễn là bên đối tác ra tuyên bố chấp nhận.
Điều 7.1 “...Công ước chỉ áp dụng đối với việc kế tục quốc gia xảy ra sau khi Công ước này ra có hiệu lực trừ trường hợp được đồng ý.”
Article 7.1 “...the Convention applies only in respect of a succession of States which has occurred after the entry into force of the Convention of a succession of States which has occurred after the entry into force of the Convention except as may be otherwise agreed.”
Điều 7.3 “Quốc gia kế tục khi phê chuẩn hay bày tỏ sự đồng ý bị tiết chế bởi Công ước qua một tuyên bố là sẽ áp dụng tạm thời các điều khoản trong Công ước liên quan đến việc kế tục Quốc gia của chính nó khi việc này đã xảy ra trước khi Công ước có hiệu lực; đây là liên quan đến bất cứ Quốc gia nào khác đã phê chuẩn hay giao ước phê chuẩn mà chính các Quốc gia này cũng đã ra tuyên bố chấp nhận tuyên bố của Quốc gia kế tục.”
Article 7.3 “A successor State may at the time of signing or of expressing its consent to be bound by the present Convention make a declaration that it will apply the provision of the Convention provisionally in respect of its own succession of States which has occurred before the entry into force of the Convention in relation to any other signatory or contracting State which makes a declaration accepting the declaration of the successor States;...”
Điều kiện bên đối tác ra tuyên bố chấp nhận, có thể là nhằm giải quyết các hiệp ước không liên quan đến lãnh thổ bởi vì nó đòi hỏi bên đối tác có trách nhiệm. Bài này chỉ nhằm lý giải việc kế thừa Lãnh thổ, trong khi đó Công ước bao trùm cả vấn đề không liên quan đến lãnh thổ như tài sản, nợ, v.v.
Công ước cho thấy rõ ràng rằng quốc gia kế tục không phải thừa kế các hiệp ước liên quan đến chủ quyền lãnh thổ mà quốc gia trước đó đã ký nếu nó không muốn. Kết luận này cho thấy lập luận của Trung Quốc9cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14 tháng 9 năm 195810 là chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị vì ba lý do:
a) Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Quốc gia VNCH và thời gian đó thực sự do VNCH hành xử chủ quyền, chứ không thuộc Quốc gia VNDCCH mà ông Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng; do đó Quốc gia VNDCCH không thể có quyền gì đối với vùng đất mà họ không có chủ quyền và không thực sự hành xử chủ quyền;
b) Sau 1975, CHMNVN thay thế VNCH, và từ 1976 Quốc gia kế tục VNDCCH và CHMNVN là CHXHCNVN hoàn toàn có quyền trên tinh thần của Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978 không kế thừa tuyên bố đơn phương của ông Phạm Văn Đồng, và dù nó là hiệp ước đi nữa thì vẫn có quyền không kế thừa.
c) Khi một đất nước bị phân chia thành nhiều Quốc gia, thì chỉ có quyết định của chính quyền và dân chúng của Quốc gia thống nhất sau đó (trong trường hợp Việt Nam là CHXHCNVN) mới có thể phản ánh quyền dân tộc tự quyết đã được ghi thành nguyên tắc quan trọng trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (điều 1.2). Quốc gia kế tục do đó có thể bác bỏ các hiệp ước về lãnh thổ bất bình đẳng hoặc do sức ép mà các Quốc gia trước đó đã phải chịu nhận.
Một điều cũng không thể bỏ qua là việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa từ tay Quốc gia VNCH vào năm 1974 là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc11 đòi hỏi “[m]ọi thành viên phải giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình nhằm không làm nguy hại hoà bình, an ninh quốc tế, và công lý.”
Phụ lục về ý nghĩa từ Quốc gia trong tiếng Việt
Trong tiếng Anh, hai từ Nation và State không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Nation nói lên một tập hợp lớn dân có cùng nguồn gốc, lịch sử, văn hoá và sống trong một State hay một vùng địa lý nào đó lớn hơn một State. State là một khái niệm pháp lý quốc tế như đã nói trong bài là gồm một chính phủ, một tập hợp dân, một lãnh thổ và có khả năng thiết lập bang giao với nước khác. Tại Âu châu, vì có những states nhỏ hơn một nation trong lịch sử, như city-state tại Hy Lạp thời Thượng Cổ, cho nên về sau này có loại quốc gia tập hợp trong một vùng đất đai một dân tộc với văn hoá riêng, người ta đã dùng danh từ nation-state, và chữ nationalism để chỉ chủ nghĩa quốc gia của dân tộc quy tụ trong nation-state.
Trong tiếng Việt, không có sự phân biệt trên, cho nên người Việt có thể dị ứng với việc gọi VNDCCH và VNCH là hai Quốc gia, bởi vì mọi người Việt đều cho rằng dân tộc Việt Nam là một và nước Việt Nam là một. Theo nghĩa này, Nước có thể dùng cùng nghĩa như Nation và Quốc gia được dùng cùng nghĩa nhưState.
Sự đồng nghĩa trong tiếng Việt và tình cảm đối với từ Quốc gia theo nghĩa Nước xuất hiện chỉ vì trong văn tự lịch sử, vì không có chữ viết riêng, người Việt đã phải dùng chữ Hán, nên phải viết là Quốc 國. Chỉ khi có chữ Nôm thì chữ Nước mới ra đời và được viết匿 đọc theo Hán Việt, là “nặc” và đọc trại đi là “nước”. Có người lại viết Nước là 渃 (Theo Từ điển Thiều Chửu, âm Hán Việt là nhược, chỉ con sông Nhược ở Tứ Xuyên), nhưng Từ điển tiếng Hán không thấy có chữ này, nên cũng có thể coi là kết hợp chữ 著 có âm Hán Việt là “trước”, và bộ thủy bên cạnh để đọc là “nước.”12 Nhưng dù sao chữ Nôm vẫn gần như chưa bao giờ được chuẩn hoá và được coi là văn tự chính thức của người Việt. Cho đến hôm nay, vì thói quen, đối với người Việt, từ Quốc gia đồng nghĩa với từ Nước.
Trong thời kỳ Việt Nam phân tranh đặc biệt là thời Trịnh Nguyễn, giới quan lại đã gọi và coi nhau như trong Hoàng Lê Nhất Thống chí, là dân hai nước khác nhau, qua việc dùng chữ Quốc. Trong văn tự chính thống sau này và trong ngôn ngữ đời thường, người ta đã phải dùng chữ Xứ 處 (nghĩa tiếng Hán là nơi cư trú) thay vì chữ Quốc gia để diễn tả ý niệm của chữ State như Xứ ĐàngTrong, Xứ Đàng Ngoài, Xứ Miên, Xứ Lào để, cũng bởi vì người Việt nào cũng coi mình có cùng dòng giống, có cùng một đất nước.
Tạ Văn Tài và Vũ Quang Việt
Chú thích:
1 http://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/3_2_1978.pdf.
2 http://www.cfr.org/sovereignty/montevideo-convention-rights-duties-states/p15897.
3 http://avalon.law.yale.edu/20th_century/inch001.asp
4 The Final Declaration of The Geneva Conference: On Restoring Peace in Indochina, July 21, 1954
5 http://www.fordham.edu/halsall/mod/1954-geneva-indochina.html.
6 http://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/3_2_1978.pdf
7 https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=XXIII-2&chapter=23&lang=en.
8 Mặc dù phê chuẩn chung nhưng cũng có phần trong Công ước có nước không đồng ý.http://www.un.org/Depts/los/reference_files/chronological_lists_of_ratifications.htm.
9 Bejing Review, China’s Indisputable Sovereignty Xisha and Nansha Islands, số 7, tháng 2 năm 1980, trang 21. http://www.marxists.org/subject/china/peking-review/1980/PR1980-07.pdf. Lập luận của Bắc Kinh đã được các học giả của họ nhắc đi nhắc lại ở nhiều nơi, thí dụ như: Ji Guoxing (Shanghai Insitute for Foreign Studies), The Spratley Islands, China’s Dispute with Vietnam, Indochina Report, July-September 1990.
10 Nguyên văn công hàm Phạm Văn Đồng như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”. Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 105.
“Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”. Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 105.
11 Article 2, paragraph 3: All Members shall settle their international disputes by peaceful means in such a manner that international peace and security, and justice, are not endangered.https://www.un.org/en/documents/charter/chapter1.shtml
12 LM Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, 1998, tự xuất bản.
-Vấn đề kế thừa.
Nhan Tuan Truong
Trong hồ sơ Hoàng Sa, khó khăn nhất của VN hôm nay là chứng minh được quốc gia có tên gọi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã « kế thừa » danh nghĩa chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của thực thế Việt Nam Cộng Hòa.
Bà Monique Chemillier-Gendreau[i]dựa lên thuyết « liên tục quốc gia » để cho rằng VNDCCH có thể kế thừa VNCH để có quyền chủ quyền tại HS và TS :
Le Vietnam aujourd’hui unifié (par la victoire du Nord) doit choisir à qui il succède sur ce point. La logique territoriale renforce une cuccession aux droits et actions du Sud-Vietman, seul compétent d’une point de vue géographique.
Tạm dịch : Nước Việt Nam thống nhất hôm nay (do chiến thắng của miền Bắc) phải lựa chọn bên nào để kế thừa (danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa). Lôgíc về mặt lãnh thổ củng cố sự kế thừa về các quyền và những hành vi của Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý.
Chủ quyền của VN tại HS và TS liên tục từ nhiều thế kỷ, từ chúa Nguyễn chuyển sang triều Tây Sơn, sang triều đại nhà Nguyễn, rồi đến nhà nước bảo hộ Pháp. Năm 1954, quốc gia VN bị phân chia thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, hai quần đảo HS và TS do VNCH quản lý. Nhà nước VNCH, tiếp nối nhà nước bảo hộ Pháp, quản lý liên tục và khai thác HS và TS.
Tức là lập luận của bà học giả M. Chemiller-Gendreau « Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý » là phù hợp với thực tế lịch sử và pháp lý.
Một câu hỏi (chính đáng) đã đặt ra, từ những lần bàn luận trên Facebook : anh đã giết chết người ta thì anh có tư cách gì để kế thừa người ta ?
Từ « giết chết » sử dụng ở đây có thể không phù hợp, nhưng thực tế lịch sử giữa hai thực thể VNCH và VNDCCH, từ năm 1959 đến 1975, đã thể hiện trong chiều hướng như vậy.
Thủ tục « kế thừa » có thể thể hiện (một cách đơn giản như bà học giả M. Chemiller-Gendreau đề nghị) trong một hoàn cảnh lịch sử thế này hay không ?
Nội dung Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 của ông Hồ Chí Minh :
Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Tuyên bố này, trên quan điểm pháp lý, cắt đứt mọi quan hệ giữa nhà nước VNDCCH và nhà nước bảo hộ Pháp. Nhà nước VNDCCH là chính phủ của một Việt Nam mới (không quan hệ gì với nhà nước vương quyền cũng như các nhà nước đã từng hiện hữu trên đất nước VN, đồng thời hay trước đó.)
Nội dung Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Lê Duẩn :
Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… Nó đã xoá bỏ chính quyền Nhà nước của thực dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mớitrong lịch sử phát triển của nước ta…
Bản báo cáo này khẳng định nhà nước VNDCCH là chính phủ của một nước VN mới, đã « xóa bỏ thực dân phong kiến ».
Khi đã « xóa bỏ » thì không có gì còn vướng mắc. Không hiện hữu vấn đề « kế thừa » giữa mình và cái mình đã xóa bỏ, mà chỉ có việc « chiếm hữu » (hay chiếm đoạt) mà thôi.
Nội dung hiến pháp 1959 :
Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Phía VNDCCH luôn gọi VNCH là « bọn tay sai », là « giặc », là « ngụy ». « Ngụy » tức là giả. Khi anh cho rằng bọn đó là « giả », không phải là một thực thể chính trị, thì làm sao hiện hữu vấn đề kế thừa ? Anh không thể kế thừa một cái gì đó không có thật (ngụy).
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 10-9-1960 :
Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước…
Nghị quyết khẳng định chính quyền miền Nam (VNCH) là « bọn tay sai ».
Câu nói hiện nay trên môi những người lãnh đạo VN (và các học giả VN) : « nhà nước CXHCNVN đã kế thừa danh nghĩa chủ quyền HS và TS từ nhà nước VNCH », hay nại việc Thủ Tướng Trần Văn Hữu tuyên bố này kia tại Hội nghị San Francisco năm 1951 nghe thật là lố bịch và chướng tai. Đâu có ai kế thừa cái gọi là « danh nghĩa chủ quyền » từ « bọn tay sai » bao giờ ? Đã là « tay sai » thì chỉ có « tuân lệnh chủ » chứ làm sao có vấn đề « danh nghĩa » ở đây ?
Chiến thắng 30-4-1975, không hề hiện hữu một buổi lễ bàn giao chính quyền giữa VNCH với VNDCCH hay với CPLT MTGPMN.
Không có bàn giao quyền lực thì làm sao có kế thừa ?
Theo ý kiến của bà học giả M. Chemiller-Gendreau, sau khi hiệp thuơng thống nhất đất nước 1976, nước CHXHCNVN có thể « kế thừa » VNCH để khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS.
Nhưng với một thực tế lịch sử và pháp lý như vậy, ta có thể thuyết phục được ai ? Chưa chắc được với một người dân thường huống chi trước những Thẩm phán giàu kinh nghiệm trước một Tòa án, hay trước những học giả dư tài hùng biện của TQ.
Một số học giả VN biện luận rằng « theo luật quốc tế, chủ quyền lãnh thổ thì thuộc về quốc gia » và chủ trương có hai quốc gia VNCH và VNDCCH trong thời kỳ 1954-1975. Mục đích nhằm chứng minh CHXNCHVN đã kế thừa danh nghĩa chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS từ VNCH, thông qua CPLT CHMNVN.
Lập luận này đã sai từ những điều rất cơ bản :
1/ Không có « luật quốc tế » nào (còn hiệu lực) qui định « chủ quyền lãnh thổ thuộc về quốc gia » hết cả. Lý thuyết của các học giả này là lý thuyết « territoire-objet », hiện hữu ở thời kỳ phong kiến, lãnh thổ thuộc về vua chúa. Quan niệm này chấm dứt cùng lúc với chế độ phong kiến quân quyền. Đây là một quan niệm được các nhà Luật học đương thời phê bình là « sai lầm »[ii].
2/ Không hề hiện hữu « hai quốc gia » VNDCCH và VNCH trong thời kỳ 1954-1975.
3/ CHXHCNVN không thể « kế thừa » danh nghĩa chủ quyền HS (và TS) từ VNCH, thông qua CPLT CHMNVN. Lập luận này dựa theo thuyết « Reversion » không hề được công pháp quốc tế nhìn nhận (Xem tranh chấp Erythré và Yemen về chủ quyền các đảo ở Hồng Hải trong bài ở đây).
Khi « lý thuyết » lập nên từ những lập luận nền tảng (đã sai), thì lý thuyết đó không có một giá trị hữu dụng nào.
Học giả khác, (cũng như các học giả nói trên) lập luận trên nền tảng công ước Montévidéo, cho rằng VNCH là một « quốc gia » :
VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc gia (state), gồm : (a) một dân số ổn định ; (b) một lãnh thổ rõ rệt ; (c) có một chính quyền ; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác.
Tác giả không giải thích bằng cách nào danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa từ « quốc gia » VNCH chuyển sang « quốc gia » CHXHCNVN hôm nay.
Nếu các thực thể VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia », thì mối tương quan giữa VNDCCH, VNCH và Trung Quốc là tương quan giữa « quốc gia » với « quốc gia ». TQ chiếm HS từ tay VNCH, được sự « im lặng đồng tình » của quốc gia VNDCCH vào tháng giêng năm 1974, cũng như được sự « đồng thuận » của « quốc gia » này trong quá khứ thể hiện qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng (cùng với nhiều hành vi mặc định khác).
Quí vị lập luận làm sao để thuyết phục mọi người là nước CHXHCNVN hôm nay thụ đắc danh nghĩa chủ quyền tại HS từ tay VNCH ? TQ đã chiếm HS trên tay VNCH chứ đâu phải trên tay CHXHCNVN. Làm sao VNCH có thể chuyển cho CHXHCNVN cái đã bị mất ?
Nếu quí vị không giải thích được việc này, cũng không phản biện được lý lẽ của tôi viết ở đâyvà ở đây, thì làm sao có thể phản biện được những lý lẽ của TQ ? Chưa nói phải biện luận làm sao để thuyết phục các thẩm phán trước một Tòa án (nếu vấn đề tranh chấp đưa ra tòa án phân xử).
Quí vị tự trói buộc quí vị (và Việt Nam) trong những lập luận sai trái. Việc này, nếu chỉ đối với cá nhân của quí vị thì không ai màng đến làm chi. Vấn đề là nó liên hệ đến đất nước và toàn thể quốc dân Việt Nam.
Công ước Montévidéo năm 1933 thực ra là một công ước được ký kết giữa các xứ thuộc Châu Mỹ, lâu ngày trở thành « tập quán » của Luật quốc tế. Nhưng nội dung của nó không đủ để diễn đạt thế nào là một « quốc gia » sau Thế chiến II cũng như trong khung cảnh « Toàn cầu hóa » hiện thời.
Đâu phải hễ có lãnh thổ, dân chúng, một chính quyền và chính quyền này có khả năng giao dịch với các quốc gia thì là « quốc gia » ?
Trường hợp Palestine, Đài Loan… họ cũng có lãnh thổ, dân chúng, có chính quyền và chính quyền này có khả năng « giao dịch » với các nước trên thế giới, sao họ không là « quốc gia » ?
Các tổ chức « ONG », hay các « tập đoàn kinh tế » hiện nay, họ có tư cách pháp nhân trong « Luật quốc tế », có « quan hệ » với các quốc gia, nhưng họ đâu phải là quốc gia ?
Vì thế, Công pháp quốc tế hôm nay bổ túc thêm hai đặc tính « độc lập – indépendant » và « có chủ quyền – souveraineté » vào định nghĩa (điều kiện thành lập) « Quốc gia » theo công ước Montévidéo.
Hai thực thể VNDCCH và VNCH được khai sinh theo Hiệp định Genève 1954 và hiệp định này được quốc tế công nhận (và bảo trợ).
Trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia theo hiệp định Genève thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận VN là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất (được tái xác nhận theo Hiệp định Paris năm 1973). Điều này thể hiện lên thực tế.
Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Quí vị nói rằng VNDCCH và VNCH là « hai quốc gia độc lập, có chủ quyền ». Vậy quí vị thử đưa bằng chứng cho biết quốc gia nào (trên thế giới này) đã cùng lúc công nhận hai quốc gia VNCH và VNDCCH ?
Tôi có viết thư gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, khi thấy một số viên chức VN bị ảnh hưởng bởi lập luận của quí vị, nội dung đại khái :
Trên tinh thần một nước VN « độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ » của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Như thế, không cần phải bóp méo lịch sử, không cần phải biện luận bằng những lý thuyết không còn hiệu lực (như lý thuyết về quan hệ giữa « quốc gia và lãnh thổ » hoặc lý thuyết « đáo hoàn – reversion »), để phản biện công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng cũng như chứng minh CHXHCNVN thụ đắc danh nghĩa chủ quyền HS.
Chỉ cần nhìn nhận một thực tế lịch sử (đã bị chối bỏ từ nhiều thập niên nay). Đó là nhìn nhận hiệu lực của các hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Công hàm 1958 (cùng với các hành vi của VNDCCH có hiệu lực tương tự) trở nên không có hiệu lực.
Vấn đề còn lại chỉ là làm thế nào để « kế thừa » danh nghĩa của VNCH.
Nhiều người có ý kiến : chỉ cần đổi tên nước, đổi quốc kỳ, quốc ca… để trở thành VNCH thì mọi việc đều ổn thỏa.
Theo tôi thì chưa chắc. Những điều đã viết ở trên, khi anh gọi người ta là « ngụy », là « giặc », là « bọn tay sai »… thì anh làm sao kế thừa ?
Bà Joële Nguyên Duy-Tân qua bài « La représentation du VietNam dans les institutions spécialisées »[iii]có đặt vấn đề :
« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch : VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. CHXHCNVN có thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?
Mặt khác, một câu hỏi đã đặt ở trên : anh đã giết chết người ta thì anh có tư cách gì để kế thừa người ta ?
Vì thế, việc đổi tên nước, đổi cờ quạt này kia… là không thuyết phục.
Tôi đã đề nghị giải pháp « kế thừa » thông qua chính sách « hòa giải dân tộc » sau đây. Đề nghị này đã có từ hơn 10 năm nay. Xem ra sau gần 4 thập niên thống nhất đất nước, việc kế thừa vẫn chưa muộn, nếu lãnh đạo CSVN muốn làm việc này.
Tức là, để trả lời một câu hỏi nhức nhối, lẽ thường anh không thể « giết chết » người ta rồi « kế thừa » người ta được. Nhưng trong phạm trù « quốc gia », việc này có thể thực hiện, nếu người lãnh đạo có can đảm chính trị, (như đã thể hiện ở nội chiến Nam, Bắc Mỹ).
Đó là phải « hòa giải dân tộc ».
Biện pháp là :
Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ : Cộng Hòa Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp… thay đổi tất cả những gì dính líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng hòa mới, tổ chức bầu cử tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân ; đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm của VNDCCH.
Thể thức này nhằm đoạn tuyệt với di sản của VNDCCH, tức đoạn tuyệt với công hàm 1958 cùng với những thái độ có thể khiến VN bị vướng Estoppel hay Acquiescement.
Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một bộ luật « hòa giải dân tộc », trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức VNCH nạn nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng « ngụy » đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới ; làm luật phục hồi danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản như vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án « xét lại chống đảng » v.v… Nếu những người này đã mất thì đề bồi cho con cháu của họ. Cho tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt nam bắc, dân tộc kinh, thuợng, không phân biệc cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến với Kampuchia v.v…
Vấn đề « đền bồi » ở đây, trước tình hình đất nước, có thể chỉ là một hình thức nào đó, « tượng trưng » mà thôi. Để tránh những xáo trộn sâu xa trong xã hội.
Thể thức này nhằm « kế thừa » danh nghĩa của VNCH.
Trên căn bản như thế VN đương nhiên có chủ quyền tại HS và TS, như VNCH, từ đó mới có cơ sở giải quyết các tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế, phân định hải phận biển Đông với các nước khác.
Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, VN sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và hải phận của tổ tiên để lại.
[i]Monique Chemillier-Gendreau, « La Souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys », nxb Harmattan, ISBN 2-7384-4061-4, tr 123.
[ii]Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit International Public, L.G.D.J, 8eEdition, tr 456.
[iii] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi : 10.3406/afdi.1976.1996http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
RFA phỏng vấn ô Trương Nhân Tuấn:
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bringing-cn-to-inter-court-on-scs-gm-05292014145545.html
Gia Minh: Ông không đồng ý với một số ý kiến cho rằng Công Hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là vô hiệu, vậy những điểm chính ông muốn nêu ra là gì?
Trương Nhân Tuấn: Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
Theo như lập trường của Việt Nam hôm nay, qua lời tuyên bố của các viên chức bộ ngoại giao phát biểu trong hôm họp báo vừa rồi, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa ngày trước là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền. Trên quan điểm này thì tôi cho rằng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lý ràng buộc.
Vì sao? Tại vì nếu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập có chủ quyền, thì công hàm của ông Đồng là một tuyên bố đơn phương, nội dung nhìn nhận tuyên bố về chủ quyền và hải phận của Trung Quốc.
Để dễ hiểu, tôi lấy thì dụ về cái tuyên bố đơn phương về vùng “nhận diện phòng không của” Trung Quốc hôm 23 tháng 11 năm ngoái 2013. Tuyên bố này, một cách tổng quát, thì phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Nếu không có nước nào lên tiếng phản đối, hay bảo lưu một điều khoản nào, thì tự động tuyên bố “vùng nhận diện phòng không” của Trung Quốc có hiệu lực. Ta thấy Nhật, Mỹ, Nam Hàn cùng nhiều nước khác đồng loạt lên tiếng phản đối. Các nước này phản đối vì chồng lấn vùng nhận diện phòng không của nước họ đã đặt ra từ trước, trong thời chiến tranh lạnh, mặt khác, còn có chồng lấn do tranh chấp chủ quyền giữa Nhật và Trung Quốc tại quần đảo Điếu Ngư. Các nước khác thì phản đối điều khoản mà trong đó Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng vũ lực nếu vùng “nhận diện phòng không” của họ bị xâm phạm. Những nước không lên tiếng, thì tôn trọng tuyên bố này. Mình thấy hôm nay, các hãng hàng không dân sự, kể cả của Nhật hay của Mỹ, cũng hải tôn trọng vùng trời của Trung Quốc.
Trở lại công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Ta biết tuyên bố của Trung Quốc về lãnh thổ và hải phận ngày 4-9-1958 là phù hợp với các công ước quốc tế vềBiển đã được một số nước ký kết vào tháng 4 cùng năm, trong đó có Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan hiện nay. Vì chính quyền Bắc Kinh không phải là đại diện nước Trung Hoa ở LHQ do đó tuyên bố của Trung Quốc là cần thiết. Tương tự như tuyên bố về “vùng nhận diện phòng không” vừa rồi, nếu không ai lên tiếng phản đối, thì tự động nó có hiệu lực.
Tức là, thay vì phản lên tiếng phản đối hay bảo lưu chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại lên tiếng ủng hộ nó.
Hiện nay, các viên chức cũng như học giả Việt Nam cố gắng bào chữa ràng công hàm 1958 của ông Đồng chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, chứ không công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Những lý lẽ bào chữa này không hề thuyết phục. Giả sử rằng công hàm này không có hiện hữu, tức là ông Đồng chưa bao giờ ký công hàm này, thì thái độ im lặng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước tuyên bố đơn phương, công khai của Trung Quốc, được hiểu như là sự “im lặng đồng tình”.
Còn nếu quan niệm rằng, trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia theo hiệp định Genève 1954 thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận Việt Nam là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất. Điều này được tái xác nhận theo Hiệp định Paris năm 1973.
Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Quan điểm này phù hợp với thực tế lịch sử, thực tế pháp lý của hai miền Nam Bắc Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975. Và cũng là một quan điểm có lợi, vì Việt Nam gỡ bỏ được những hứa hẹn, những cam kết mà nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thể hiện với nhà cầm quyền Trung Quốc trong quá khứ. Tôi vừa mới gởi một lá thư không niêm, gởi lên TT Nguyễn Tân Dũng với nội dung tương tự. Hy vọng Việt Nam kịp thời thay đổi lập trường của mình để có một tư thế mạnh hơn, nếu vấn đề tranh chấp được đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử.
Gia Minh: Theo ông biện pháp kiện Trung Quốc từ phía Việt Nam hiện nay cần tiến hành ra sao và kiện ra các tòa án nào?
Trương Nhân Tuấn: Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
Theo tôi biết, năm 2006 Trung Quốc có bảo lưu ở LHQ, là họ không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào, qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước, đối với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của điều 298 của Công ước.
Tức là Trung Quốc không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa liên quan các vụ tranh chấp chủ quyền, cũng không nhìn nhận trọng tài để phân định ranh giới trên biển.
Tức là, trong vụ giàn khoan 981, Việt Nam không thể kiện Trung Quốc ra Tòa về tranh chấp chủ quyền các đảo, cũng không thể kiện để nhờ phân định ranh giới biển, thí dụ giữa đảo Hải Nam và bờ biển Việt Nam. Điều duy nhất mà Việt Nam có thể kiện là về hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Nhưng mà nếu Việt Nam đệ đơn kiện về điều này thì Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi!
Gia Minh: Vụ kiện nếu Việt Nam tiến hành sẽ khác vụ kiện mà Philippines đang kiện Trung Quốc về tranh chấp lãnh hải ở khu vực Biển Đông ra sao?
Trương Nhân Tuấn: Thì nếu kiện, Việt Nam sẽ kiện tương tự như Philippines mà thôi. Có điều Việt Nam sẽ không có được tư thế thoải mái như là Philippines.
Philippines kiện Trung Quốc gồm 10 điều, nội dung đại khái: kiện về yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc, về quyền chiếm hữu các cấu trúc địa lý lúc chìm lúc nổi ở trong hải phận của Philippines, về việc chiếm đóng và xây dựng trên các bãi lúc chìm lúc nổi, về hiệu lực của các bãi đá, về quyền tự do hàng hải…
Còn Việt Nam kiện, xem lại danh sách bảo lưu của Trung Quốc, nếu không lầm thì Việt Nam sẽ chỉ có thể kiện Trung Quốc về hiệu lực các đảo thuộc Hoàng Sa mà thôi. Ở đây là hiệu lực đảo Tri Tôn. Mà khi làm điều này, như đã nói, gián tiếp Việt Nam lại công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa là của mình, thì mắc mớ gì mình đi kiện?
Mặt khác, khi kiện như vậy, Việt Nam cũng làm một cuộc phiêu lưu khác không kém phần nguy hiểm. Là vì Việt Nam cũng chủ trương các đảo Hoàng Sa có hiệu lực tối đa, theo như các bản đồ thấy trên báo chí thế giới hiện nay, hay theo một tuyên bố về hải phận của Việt Nam từ thập niên 80.
Thói thường thì mình đâu thể cấm người khác có chủ trương giống như mình? VN đã từng chủ trương các đảo có hiệu lực tối đa, thì bây giờ đâu thể nào kiện Trung Quốc khi Trung Quốc cũng chủ trương y như vậy được?
Vì thế tình hình Việt Nam hôm nay thật là tiến thoái lưỡng nan.
Vì thế để thoát ra khỏi tình thế này, nhà nước Việt Nam nên thực hành ý kiến của tôi vừa nói ở trên. Tức là tuyên bố Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, vì có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vì đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Sau đó, Tôi nghĩ rằng Việt Nam vẫn còn phương pháp để mà thoát ra khỏi cảnh khó khăn hôm nay.
Gia Minh: Ý kiến người dân trong nước và những cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ có giá trị ra sao khi được đưa vào vụ kiện?
Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, ý kiến của cộng đồng người Việt nước ngoài cũng như dư luận quốc tế sẽ ảnh hưởng đến thái độ của Trung Quốc. Cho dầu thế nào thì Trung Quốc cũng không thể bất chấp dư luận quốc tế, trong khi khu vực biển Đông là nơi vận chuyển hàng hóa khoảng 50% số lượng thế giới. Nếu khu vực bất ổn, kinh tế cả thế giới bị ảnh hưởng, chắc chắn các nước sẽ làm áp lực. Mình cũng thấy Mỹ và Nhật họ cũng ủng hộ Việt Nam, mặc dầu còn trong chừng mực, nhưng là điều tốt.
Theo tôi, việc đi kiện là thiên nan vạn nan, nhưng việc chuẩn bị đi kiện, khua chuông gióng trống lên cho mọi người biết mình đi kiện, sẽ tạo cho Việt Nam một tư thế chính đáng. Quan trọng là việc hóa giải công hàm 1958. Việc này tạo cho Việt Nam một tư thế thoải mái hơn về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Việt Nam có thể có những hành động mạnh bạo hơn trong việc đáp trả những hành vi côn đồ của Trung Quốc, như đâm chìm tàu của Việt Nam. Và đó sẽ là hành động tự vệ chính đáng, được LHQ nhìn nhận.
Gia Minh: Cám ơn ông Trương Nhân Tuấn.
24/05/2014
Một số học giả VN (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), do ý muốn hóa giải công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, chủ trương trong khoản thời gian 1954-1975, hai thực thể chính trị Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Đây là một lập luận rất sai về mặt thực tế lịch sử, cũng là một lựa chọn hết sức vụng về trên phương diện pháp lý chiến lược, nó có thể không chỉ làm cho VN mất vĩnh viễn chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, mà còn bị đe dọa mất Trường Sa.
Khi nhìn nhận VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia » độc lập có chủ quyền được quốc tế nhìn nhận, thì công cuộc « giải phóng đất nước » của phía VNDCCH, thể hiện chính thức từ 1959 đến 1975, chỉ là một nỗ lực sát nhập lãnh thổ của quốc gia VNCH vào quốc gia VNDCCH.
Phía VNDCCH chiến thắng, Quốc gia VNCH giải thể. Lãnh thổ (và của cải – tích sản và tiêu sản) của « quốc gia » VNCH được sáp nhập đơn thuần vào VNDCCH. Không hiện hữu việc chuyển giao quyền lực nhà nước, cũng không hiện hữu việc kế thừa. Quốc gia VN hiện nay (CHXHCNVN) là quốc gia tiếp nối của quốc gia VNDCCH (vì có chung quốc kỳ, quốc ca, cùng một đảng lãnh đạo…). Như vậy trên phương diện quốc tế công pháp, VN không thể chối bỏ những cam kết, những hành vi đã thể hiện trước quốc tế, nhất là đối với Trung quốc, của VNDCCH trước kia.
Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm trên tay « quốc gia » VNCH, dưới sự im lặng (đồng tình) của bên thứ ba là « quốc gia » VNDCCH. Quốc gia CHXHCNVN hôm nay (hoàn toàn xa lạ với VNCH) không có tư cách nào để kiện TQ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.
Tức là, vì muốn « hóa giải » hiệu lực công hàm 1958, các học giả (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) đã đưa VN vào ngõ cụt về pháp lý.
Sai lầm chiến lược vì giải pháp này chặt bỏ mọi khả năng lấy lại Hoàng Sa (bằng các phương pháp hòa bình, kể cả pháp lý) của các thế hệ VN tương lai.
Sai lầm về thực tế lịch sử, vì hai thực thể chính trị VNDCCH và VNCH không hề là hai « quốc gia ». Hai thực thể này chưa hề có tư cách pháp nhân « quốc gia », không có bên nào có ghế đại diện tại Liên Hiệp Quốc. Dân chúng hai miền chưa bao giờ thể hiện ý muốn ly khai thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Hiến pháp hai miền đều khẳng định lãnh thổ của nước Việt Nam trải dài từ Nam Quan đến mũi Cà Mau (hay từ Lạng Sơn đến Cà Mau).
Thực tế lịch sử này, (cũng là một điều may mắn cho dân tộc Việt Nam), hai miền nam và bắc VN chưa bao giờ là « đối tượng » của quốc tế công pháp.
Nếu VNDCCH và VNCH là hai quốc gia, như sự lựa chọn của các học giả VN, các hành vi, các tuyên bố của VNDCCH trước quốc tế, từ 1954 đến 1975, sẽ là một vấn đề thuộc phạm vi « quốc tế ». Công hàm 1958 vì vậy trở thành một vấn đề thuộc công pháp quốc tế. Dĩ nhiên nước VNDCCH sẽ là nước thứ ba, không liên can gì đến việc tranh chấp HS và TS giữa TQ và nước VNCH.
Hồ sơ pháp lý về Hoàng Sa và Trường Sa của VN coi như khóa sổ.
Thực tế lịch sử là từ 1954 đến 1975, VNDCCH và VNCH không hề là « quốc gia », theo định nghĩa của Quốc tế Công pháp.
Hai vùng lãnh thổ Nam và Bắc Việt Nam đều thuộc vào một quốc gia có tên gọi là Việt Nam, chỉ bị phân chia tạm thời theo Hiệp định Genève 1954. Điều này được khẳng định qua Hiệp định Paris năm 1973.
Theo thuật ngữ « quốc tế công pháp », Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975 là một quốc gia bị phân chia.
Có một số trường hợp các quốc gia bị phân chia, tương tự trường hợp quốc gia Việt Nam, đó là Nam, Bắc Hàn và Đông, Tây Đức.
Theo định nghĩa, quốc gia bị phân chia (état divisé) là quốc gia, lúc trước khi bị phân chia đã là một « quốc gia – Etat », được cộng đồng quốc tế nhìn nhận, và lập trường chính trị chung của các bên (sau khi bị phân chia) là mong muốn thống nhất lại đất nước trong tương lai. Đường ranh phân chia chỉ có giá trị tạm thời, không được nhìn nhận là đường biên giới.
Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia, thành hình từ rất lâu, đã tuyên bố độc lập từ thế kỷ thứ X. Hiệp định Genève 1954 phân chia VN bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng lãnh thổ. Đường phân chia này chỉ có giá trị tạm thời (nhằm về tập kết quân sự). Cũng theo qui định của Hiệp định này, việc thống nhất VN sẽ thể hiện bằng một cuộc bầu cử, trễ nhất là năm 1956. Việc bầu cử, do nhiều lý do, đã không diễn ra. Hai miền, từ những năm của thập niên 60, trên thực tế đã hành sử như là « quốc gia ». Nhưng lập trường chính trị của hai bên vẫn là ý muốn thống nhất lại đất nước. Cả hai miền đều quyết định không gia nhập Liên hiệp quốc.
Như vậy Việt Nam là một quốc gia bị phân chia (état divisé – divided country), tương tự trường hợp của Đại Hàn và Đức, ý muốn của họ là trong tương lai thống nhất lại đất nước.
(Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, hoặc Pakistan và Bangladesh, cũng là các nước bị phân chia nhưng tình trạng pháp lý của các quốc gia này hoàn toàn khác với Việt Nam. Sau khi được Anh trả độc lập, đã quyết định phân chia đất nước thành hai vùng lãnh thổ và việc phân chia có tính cách vĩnh viễn. Hai vùng lãnh thổ trở thành hai quốc gia : Ấn Độ và Pakistan, với một đường biên giới được xác định và cả hai đều gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trường hợp Bangladesh ly khai khỏi Pakistan để trở thành một quốc gia độc lập, được quốc tế nhìn nhận. Các trường hợp phân chia này hoàn toàn khác với tình trạng của quốc gia Việt Nam.)
Điều cần nói, Hoa Kỳ cũng đã từng nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia « tạm thời bị phân chia, giống như trường hợp của Đại Hàn và Đức ». Việc này trình bày trong « Biên bản ghi nhớ » của bộ Ngoại giao ngày 4-3-1966. Sau đó Hoa Kỳ cũng nhìn nhận và tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam theo tinh thần Hiệp định Paris 1973, lập lại nội dung Hiệp định Genève 1954. Tức nhìn nhận VN là một quốc gia duy nhất.
Điều đáng ghi nhận khác, liên tục nhiều năm, cho đến năm 1960, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn còn lên tiếng, vào tháng 7, yêu cầu miền Nam tuân thủ hiệp định Genève, trưng cầu dân ý thống nhất đất nước.
Tức là các bên (VNDCCH, VNCH, Mỹ và các nước ký tên cũng như bảo trợ các hiệp ước 1954 và 1973) nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia duy nhất, ý chí của các bên là « thống nhất đất nước ».
Nếu chấp nhận thực tế này, (và chấp nhận giải pháp pháp lý này), công hàm 1958 chỉ là vấn đề « nội bộ » của quốc gia chứ không phải thuộc « công pháp quốc tế ».
Vấn đề thuộc « nội bộ quốc gia » thì sẽ được giải quyết bằng « luật lệ quốc gia ». Nếu thuộc phạm vi « quốc tế » thì sẽ phải giải quyết bằng « công pháp quốc tế ».
Sự lựa chọn của các học giả VN (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), và có thể là lập trường của VN hôm nay, như thế là sụp vào « bẫy » của phía Trung Quốc.
TQ chỉ công nhận thực thể VNDCCH là đại diện chính thức của quốc gia Việt Nam (và không công nhận VNCH), đồng thời luôn quan niệm công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là một văn bản giữa « quốc gia với quốc gia », tức có giá trị quốc tế.
Khi đứng ra cãi « tay đôi » với TQ về nội dung và hiệu lực công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là sai rồi !
Lý ra phải lập luận, các bên VNDCCH, VNCH và Mỹ (và các nước ký tên hoặc bảo trợ các hiệp ước 1954 và 1973, trong đó có Trung Quốc), phải nhìn nhận nội dung các hiệp ước : hai bên VNDCCH và VNCH là hai thực thể chính trị thuộc về một nước Việt Nam duy nhất. Chưa bên nào (VNDCCH hay VNCH) được nhìn nhận là « quốc gia », là đại diện cho Việt Nam tại LHQ. Do đó không bên nào là « đối tượng » của công pháp quốc tế. Bất kỳ tuyên bố của các bên liên quan đến sự toàn vẹn lãnh thổ của VN (trên tinh thần các hiệp định 1954 và 1973 mà các bên ký nhận) đều không có hiệu lực.
Tức là, VNDCCH chỉ là một bên của quốc gia Việt Nam. Mọi tuyên bố, mọi hành vi liên quan đến vẹn toàn lãnh thổ đất nước Việt Nam của thực thể này, như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, đều không có giá trị.
Nhưng hồ sơ pháp lý của VN đến đây chỉ mới có « cái nền ». Còn phải xây dựng lên đây nhiều thứ. Điều phải quyết tâm là phải xây dựng bằng một ý chí xuyên suốt « quyền lợi đất nước và dân tộc là trên hết », chứ không phải vì quyền lợi đảng phái, vì tiếng tăm, vì « sổ lương hay sổ hưu »…
Publié par Nhan Tuan Truong à 22:19
May 19 at 11:07am
Nhân vụ giàn khoan 981, có người đang “vận động” xin chữ ký yêu cầu nhà nước CSVN kiện Trung Quốc ra một tòa án quốc tế (nghe nói đã có đến trên 3 ngàn người ký tên rồi).
Những người đứng sau, và hơi hướng giống như vụ vận động xin chữ ký gởi thư lên LHQ và các định chế quan hệ để thách thức TQ ra một Tòa quốc tế.
Việt Nam có thể “kiện” Trung quốc về các lý do gì và có bao nhiêu phần trăm để thắng kiện?
Theo tôi VN có thể kiện TQ về hai lý do:
- Chiếm Hoàng Sa (tháng giêng năm 1974) bằng vũ lực, và
- Chồng lấn thềm lục địa do khác lập trường về hiệu lực các đảo.
Theo tôi, cả hai lý do, (nếu nhà nước CSVN không dân chủ hóa chế độ và làm thủ tục kế thừa di sản Việt Nam Cộng Hòa), VN sẽ không có bao nhiêu hy vọng thắng kiện.
Còn dựa trên lập trường của nhóm Quỹ Nghiên cứu Biển Đông hiện nay, VNDCCH và VNCH là hai quốc gia độc lập. Ba nước Trung Quốc, VNDCCH và VNCH là ba quốc gia độc lập, có chủ quyền. Vấn đề kế thừa sẽ không đặt ra. Chắc chắn VN sẽ không có một phần trăm nào thắng kiện.
Thử (mở đầu óc hài hước) tưởng tượng diễn tiến vụ án.
Trường hợp 1
Trước hết Tòa sẽ hỏi các bên vụ việc xảy ra như thế nào.
Bên Trung Quốc biện luận:
“Quần đảo Tây Sa (và Nam Sa) từ rất lâu là những vùng lãnh thổ bất khả tranh nghị của TQ (bla bla bla…). Việc này được nhà nước VNDCCH nhìn nhận (nhiều lần), qua các bằng chứng (a,b,c,d…). Lãnh thổ này đã bị Pháp, sau đó VNCH chiếm trái phép (bla bla bla….). Tháng 1 năm 1974 TQ đã tiến hành công cuộc giải phóng, đã đưa hoàng Sa trở về đất mẹ”.
Đến phiên Việt Nam biện luận
“TQ đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa một cách trái phép, do đó Hoàng Sa không thể nhìn nhận là lãnh thổ của TQ được”.
Thì Tòa sẽ hỏi lại Việt Nam, đại khái như vầy:
– Mầy là gì của thằng VNCH?
– Nó là thằng hàng xóm của tôi ạ !
– Thằng đó giờ nó ở đâu mà không đứng tên kiện?
– Dạ, nó “chết” rồi ạ.
– Sao nó chết?
– Dạ, tôi “giải phóng” nó ạ. Cái gì của “nó” bây giờ là “của tôi” ạ.
– Là sao? nói rõ chút coi.
– Dạ, tôi “giải phóng” thằng VNCH, nhà nó tôi ở, vợ nó tôi lấy, con nó tôi sai, của cải nó tôi xài, còn nó thì tôi cho đi tù mút chỉ ạ… Cái gì của nó bây giờ là của tôi đấy ạ.
– Vậy cái “Hoàng Sa” nó có để di chúc gì lại cho mầy không?
– Dạ không ạ.
Quan Tòa sẽ gõ búa cái cộp. Không phải gõ trên bàn để phán quyết, mà gõ trên đầu thằng CHXHCNVN, chửi:
– Mầy là gì của thằng VNCH?
– Nó là thằng hàng xóm của tôi ạ !
– Thằng đó giờ nó ở đâu mà không đứng tên kiện?
– Dạ, nó “chết” rồi ạ.
– Sao nó chết?
– Dạ, tôi “giải phóng” nó ạ. Cái gì của “nó” bây giờ là “của tôi” ạ.
– Là sao? nói rõ chút coi.
– Dạ, tôi “giải phóng” thằng VNCH, nhà nó tôi ở, vợ nó tôi lấy, con nó tôi sai, của cải nó tôi xài, còn nó thì tôi cho đi tù mút chỉ ạ… Cái gì của nó bây giờ là của tôi đấy ạ.
– Vậy cái “Hoàng Sa” nó có để di chúc gì lại cho mầy không?
– Dạ không ạ.
Quan Tòa sẽ gõ búa cái cộp. Không phải gõ trên bàn để phán quyết, mà gõ trên đầu thằng CHXHCNVN, chửi:
- Mầy có tư cách chó gì mà đi kiện? Thằng Trung Quốc nó lấy Hoàng Sa trên tay thằng VNCH. Thằng này không đi kiện thì thôi, mắc mớ gì đến mày?
Trường hợp 2
Tương tự, phía TQ biện luận:
“Dạ thưa Tòa, theo điều 121 của bộ luật biển 1982 thì các đảo Hoàng Sa chúng hội đủ điều kiện để có hiệu lực hải phận như là ở đất liền đấy ạ. Có người sinh sống, có nền kinh tế tự túc trên các đảo này đấy ạ.”
Tòa:
- Mầy đưa giấy tờ, hồ sơ chứng minh cái coi.
- Dạ, đây ạ. Đây là đảo Phú Lâm. Đảo này có đường bay, có đủ thứ tiện nghi để con người sống khỏe và làm kinh tế như du lịch, đánh cá, khai thác dầu khí… đủ các cái đây ạ ! Còn đảo Hoàng Sa, đảo Quang Hòa, đảo bla bla… chúng cũng có người ở, có bến tàu, có căn cứ quân sự, có trạm thủy văn… hội đủ điều kiện để tạo nền kinh tế tự túc đấy ạ.
Đến phiên VN biện luận:
- Dạ, mấy cái cục đất để chim ỉa này không phải đảo ạ. Ngày xưa, năm 1958, tôi nhìn nhận chúng có 12 hải lý thôi ạ. Bây giờ không thể đòi hơn được ạ.
Tòa hỏi:
Tòa hỏi:
- Thằng TQ mầy có ý kiến gì không?
- Dạ có ạ.
- Nói nghe coi.
Dạ, năm nay là năm 2014, luật áp dụng là luật 1982 chứ không phải luật 1958 ạ. Thưa Tòa xem đây ạ.
Thằng TQ đưa văn bản và bản đồ từ thập niên 80, Việt Nam đòi chủ quyền các đảo Hoàng Sa, chủ trương các đảo này có đủ hiệu lực như trên đất liền.
Thưa Tòa, tại sao thằng Việt nó chủ trương thì được, người khác chủ trương (y như nó) thì nó không chịu ạ.
Tòa cũng sẽ gõ búa (trên đầu thằng Việt) cái cộp và vụ án sẽ ngừng lại.
Anh làm sao có thể cấm người khác có chủ trương giống anh?
Vì vậy, vụ xin chữ ký hôm nay cũng sẽ giống nhũ vụ xin chữ ký kỳ trước, sẽ không đi đến đâu. Mà nếu có, thì VN chắc chắn sẽ thua kiện. Xem lại bài ở đây về việc ký tên vào lá thư gởi LHQ.