Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Bắc Kinh không úp mở : Biển Đông là sân nhà của Trung Quốc


--Từ hải chiến Hoàng Sa (1974), Trường Sa (1988) đến căng thẳng ở Biển Đông hiện nay - Đôi điều về chiến lược biển của Trung Quốc và ứng phó của Việt Nam (VHNA 14-3-15)
HỒ KHANG
Thứ bảy, 14 Tháng 3 2015 10:21

    Nhìn từ lịch sử tới hiện tại, một điều dễ nhận thấy rằng, Trung Quốc luôn theo đuổi một chính sách nhất quán: Trỗi dậy, vươn lên trở thành một nước có địa vị thống trị thế giới. Trên con đường tiến tới tới “giấc mơ hoang”, Biển Đôngluôn chiếm giữ một vị trí quan trọng,không đơn thuần là công cụ, mà còn là yếu tố khẳng định giá trị, sức mạnh Trung Quốc – yếu tố nhận dạng quốc gia.Trung Quốc đặt mục tiêu sở hữu bằng được các quyền lợi sống còn của Biển Đông, nhằm mở rộng"không gian sinh tồn", cương vực hoạt động, tạo thêm sức mạnh trong cán cân quyền lực ở châu Á - Thái Bình Dương và giải quyết các vấn đề liên quan đến nguồn lực trước sức ép phát triển.
    1-Nhìn lại lịch sử
    Việc tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc đối với Việt Nam có lịch sử từ trước khi Việt Nam - Trung Quốc đặt quan hệ ngoại giao chính thức. Năm 1909, Trung Quốc bắt đầu có tranh chấp quần đảo Hoàng Sa; năm 1930 tiến đến tranh chấp quần đảo Trường Sa.
    Từ thế kỷ XVII, Triều đình phong kiến Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo đó và cho đến đầu thế kỷ XX, không có bất kỳ nước nào tranh chấp chủ quyền tại đây. Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas) khiến cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên biển Đông. Năm 1921, Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam. Từ đó có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Năm 1935, lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ coi cả 4 quần đảo trên biển Đông của là của Trung Quốc.
    Đến năm 1939, Hoàng Sa và Trường Sa bị biến thành căn cứ hải quân của Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lợi dụng tình hình thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương và Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, năm 1956, CHND Trung Hoa cho quân đội ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa; Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa.
    Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự tạm thời. Theo vị trí địa lý, các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm dưới vĩ tuyến 17, do đó, các đảo này thuộc chủ quyền và sự quản lý hành chính của Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 13-7-1961, Chính quyền Nam Việt Nam ký Sắc lệnh số 174-NV, đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc quản hạt hành chính tỉnh Quảng Nam (thay tỉnh Thừa Thiên). Ngày 13-7-1971, Ngoại trưởng Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố rằng, từ lâu đời, quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày 15-7-1971, Bộ Ngoại giao Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra thông cáo tái xác nhận chủ quyền chính đáng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 6-9-1973, Tổng trưởng Nội vụ Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Nghị định số 420/BNV/HCĐP/26 sáp nhập một số đảo của quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy (Đồng Nai).
    Từ năm 1973, Philippines tăng cường sự hiện diện ở khu vực Trường Sa, cònChính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũngcó những động thái tích cực trong xác định chủ quyền và khai thác tài nguyên. Trong khi đó, tháng 1-1973, Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Mỹ rút quân khỏimiền NamViệt Nam để lại một “khoảng trống quyền lực. Chớp thời cơ, tháng 1-1974, Trung Quốc cho lực lượng ra chiếm đóng và cắm cờ tại các đảo. Để bảo vệ chủ quyền, Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có những động thái kiên quyết (yêu cầu Trung Quốc dừng các hoạt động phi pháp, họp báo phản đối, điều quân nhổ bỏ cờ Trung Quốc trên các đảo của Việt Nam, cho quân đội chiếm lại các đảo….). Cuộc chiến Hoàng sa đã diễn ra hết sức quyết liệt, Trung Quốc quyết tâm tận dụng cơ hội nhằm tạo chỗ đứng vững chắc hơn ở Biển Đông, cuộc chiến này như mô tả của Tân Hoa Xã (2009), do đích thân Mao Trạch Đông phê chuẩn, còn Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh trực tiếp chỉ đạo. Huy động lực lượng áp đảo, kích động tinh thần tử chiến, cuối cùng Trung Quốc đã chiếm nốt phần còn lại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đặt chân vào bờ cõi của Việt Nam.
    Sau đó một thời gian ngắn (từ tháng 6-1974), Bắc Kinh tiếp tục lấn tới trong những yêu sách về Biển Đông: Đòi phần lãnh thổ kéo dài trong vòng 20 dặm dọc theo hầu hết toàn bộ bờ biển Việt Nam cho tới bờ biển Xa-oắc của Malaixia.  Tháng 4-1983, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và sát nhập hai quần đảo vào địa phận Hải Nam (Trung Quốc).
    Tháng 3-1988, Trung Quốc có hành động quyết liệt hơn, gây ra cuộc hải chiến đẫm máugần cụm đảo Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa), tấn công các đảo Gạc Ma, đá ngầm Cô Lin, Len Đao. Trung Quốc hạ lệnh bắn thẳng vào những chiến sĩ Việt Nam đang hòa bình xây dựng đảoGạc Ma. Từ ngày 14 đến ngày 16-3-1988, lực lượng Hải quân Việt Nam anh dũng trụ bám, quyết bảo vệ lãnh hải, chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Với lực lượng hùng hậu hơn hẳn, ngày 16-3-1988, Trung Quốc cưỡng chiếm Gạc Ma và chiếm đóng đến tận ngày hôm nay. Việt Nam giữ vững bãi đá ngầm Cô Lin. Trung Quốc đã bắn cháy, đánh chìm ba tàu của Việt Nam, 64chiến sĩ hy sinh, 11chiến sĩkhác bị thương, bắt giữ9 chiến sĩ khác (sau đã trao trả cho Việt Nam).
    Ngay trong ngày 14-3-1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố, nêu rõ: “Sáng ngày 14-3-1988, các tàu chiến của Trung Quốc đang hoạt động trái phép ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa đã ngang nhiên nổ súng vào hai tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma thuộc khu đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã buộc phải nổ súng để tự vệ. Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ trang tàu chiến của Trung Quốc”[1]. Thay mặt nhân dân và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Ngoại giao “kiên quyết lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà cầm quyền Trung Quốc. Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyển của mình đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa”[2]; đồng thời yêu cầu “nhà cầm quyền Trung Quốc phải chấm dứt ngay các hành động khiêu khích quân sự, rút ngay các tàu chiến của họ ra khỏi vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam”[3].Ngày 15-3-1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm phản đối Trung Quốc, “nghiêm khắc lên án những hành động sai trái của phía Trung Quốc…”. Các tờ báo của Việt Nam như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động, Tuần tin Thanh niên… đồng loạt lên tiếng. Quốc tế lập tức có phản ứng đối với việc Trung Quốc đánh chiếm và chiếm đóng trái phép biển đảo của Việt Nam. Hãng tin Pháp AFP, áo Thụy Điển Xvenxca Đac-blađet, hời báo Ấn Độ, đài tiếng nói Hoa Kỳ…đều có bài, tin tức về vụ việc.
    Tuy nhiên, bất chấp dư luận, Trung Quốc tiếp tục hành động. Tháng 4-1988, khi quân đội Việt Nam đang tiến hành xây dựng trên bãi đá Len Đao, với ý đồ lặp lại kịch bản Gạc Ma, Trung Quốc đưa bảy tàu chiến và nhiều xuồng nhỏ bao vây uy hiếp, hòng cưỡng chiếm thêm bãi đá này. Được chuẩn bị kỹ để đối phó với tình huống, 7 máy bay chiến đấu của Việt Nam lập tức cất cánh, hỗ trợ các chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ xây dựng đánh dấu chủ quyền trên bãi đá. Tàu chiến của Trung Quốc hoảng sợ tản ra và không dám nổ súng, Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ, kết thúc xây dựng trên  bãi đá Len Đao.
    Sau sự kiện 14-3-1988, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần gửi công hàm phản đối đến Bắc Kinh (Công hàm ngày 17 và 23, 26 tháng 3-1988), đề nghị Trung Quốc cử đại diện đàm phán, thương lượng để giải quyết những bất đồng liên quan đến quần đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa; đề nghị Trung Quốc trong khi chờ giải quyết tranh chấp, hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng độ để tình hình không phát triển xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên Hợp Quốc về tình hình này, tuy nhiên, phía Trung Quốc khước từ thương lượng, giữ quan điểm về "chủ quyền không thể tranh cãi" của mình đối với quần đảo Trường Sa (Nam Sa).
    Nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, Ngày 17- 10 -1988, Đảng cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 19/NQ-TƯ Về việc bảo vệ khu vực bãi ngầm trong thềm lục địa phía Nam; ngày 5-7-1989, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 180UT về việc xây dựng cụm dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xác định lại chủ quyền Việt Nam đối với khu vực thềm lục địa khu vực này. Từ năm 1989, Hải quân Việt Nam củng cố lực lượng, tuần tra, canh gác, xây dựng đánh dấu chủ quyền trên các đảo, bãi đá Trường sa.
    2-Trung Quốc leo thang ở Biển Đông và hệ lụy
    Chiếm một số đảo và bãi đá của Việt Nam năm 1988, Trung Quốc  chính thức đặt chân vào Trường sa – điều mà trước đó Trung Quốc luôn nhắm tới và quyết tâm thực hiện bằng được. Tuy nhiên, bấy nhiêu đó chưa là đủ với Trung Quốc,vị trí địa- kinh tế, địa quân sự và địa- chính trị vô cùng quan trọng của Hoàng Sa, Trường Sa và quá khứ 7 lần bị xâm lăng từ biển cũng như tham vọng lãnh thổ lãnh hải vốn ăn sâu trong máu thịt Trung Hoa khiến Trung Quốc không ngừng gia tăng leo thang trên Biển Đông.
    Để thực hiện mục tiêu, Trung Quốc sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau như "vết dầu loang", “tằm thực”, “cắt lát salami”, “bóc cải”…, lấn dần từng bước theo kiểu “gặm nhấm Biển Đông”, tránh tạo ra các bất ổn phá vỡ mối quan hệ với ASEAN và tránh thúc đẩy Mỹ quay trở lại khu vực. Cùng với thời gian, các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông ngày càng quyết liệt hơn, nhất là từ thập niên 90 (XX) đến thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI – thời kỳ Trung Quốc coi là then chốt, dịp may lịch sử để giải quyết “cơn khát” lãnh hải. Cùng với sức mạnh tổng hợp tăng lên nhanh chóng khiến khoảng cách về kinh tế, quân sự, quốc phòng trong tương quan với Mỹ dần thu hẹp, Trung Quốc ngày càng “tự tin” hơn trong các động thái leo thang có tính toán ở Biển Đông, chuyển từ “giấu mình chờ thời” sang cạnh tranh trực diện, lợi dụng mọi cơ hội để thay đổi luật chơi. Từ năm 2009, Trung Quốc khẳng định yêu sách đường lưỡi bò, tăng cường các hoạt động trấn áp các quốc gia khác, khảo sát địa chấn, khoan tìm dầu khí trong các khu vực nước sâu ở lãnh hải và thềm lục địa của các quốc gia láng giềng. Nguy hiểm hơn, Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, buộc tàu thăm dò của Philipin phải rút ra khỏi Bãi Cỏ rong (Reed Bank), công khai mời thầu các lô dầu khí nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông vào mùa đánh bắt cao điểm, kéo dài lệnh cấm đánh bắt. Trung Quốc nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, dùng  tàu ngư chính và tuần duyên đánh chìm các tàu cá, bắt giữ, đòi tiền chuộc nhiều tầu cá của Việt Nam, buộc các ngư dân ký vào các biên bản thừa nhận vi phạm chủ quyền của Trung Quốc… Trung Quốc không lớn tiếng xác định chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ như trước đây mà ra tay trước để tạo nên thực tế không thể đảo ngược về lãnh thổ, lãnh hải; đồng thời, đẩy mạnh các biện pháp nhằm kiểm soát thực tế các vùng biển mà Trung Quốc yếu sách chủ quyền theo hướng chính thức. Bước đi “kịch tính” gần đây nhất là Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoanHYSY 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của Việt Nam, xây cất đảo nhân tạo, mở rộng phạm vi hoạt động.
    Hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc không đơn giản như Trung Quốc tuyên bố mà nằm trong tính toán, lộ trình chiến lược lâu dài trong kế hoạch độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc luôn nhất quán trong mục đích kiểm soát khai thác dầu mỏ, quản lý giao thương hàng hải, tàu thuyền qua lại và chiếm ưu thế địa chính trị trong khu vực. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại khu vực này sẽ là tiền đề để mở rộng hạ đặt giàn khoan ở các khu vực khác trong phạm vi “đường lưỡi bò”, tiến tới hiện thực hóa yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông, tạo căn cứ “pháp lý” và “quản lý thực tế” đối với Hoàng Sa, củng cố lập luận “Hoàng Sa không có tranh chấp”, phá vỡ nguyên trạng Biển Đông”, tạo đột phá trong việc thăm dò, khai thác dầu khí tại các vùng biển có tranh chấp.
    Bên cạnh đó, “sự kiện giàn khoan HYSY-981” còn mang đậm động cơ chính trị, một mặt, nhắn nhủ, đe dọa các nước có tranh chấp, vướng mắc với Trung Quốc ở biển Đông (đặc biệt là Philippinesvà Việt Nam) không ngả sang và thắt chặt quan hệ với Mỹ; mặt khác, thử phản ứng của Barack Obama, thách thức chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Washington (biểu hiện tập trung qua Thỏa thuậnquân sự ký kết ngày 28-4-2014 với Philippines).
    Đưa giàn khoan vào vùng thềm lục địa của Việt Nam, Trung Quốc đồng thời thực hiện chiến thuật “giương Đông, kích Tây”. Hạ đặt giàn khoan giá trị hơn 1 tỷ USD cùng hơn một trăm tàu các loại bảo vệ và hộ tống với chi phí lên đến gần 1.5 tỷ USD/ngày, tập trung sự chú ý ồn ã của dư luận vào sự kiện chính, ở đằng sau, Trung Quốc tiến hành một chiến dịch xây dựng quy mô lớn trên 6 đảo nhân tạo trong vùng quần đảo Trường Sa, mở rộng diện tích, phát triển các cơ sở hậu cần, đường băng dã chiến. Đến khi dư luận hiểu ra và thức tỉnh thì Trung Quốc một việc đã rồi, tiếp tục xúc tiến nốt những việc bên rìa còn lại và hoàn thành mục tiêu chính.
    Hệ lụy những bước leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông là vô cùng to lớn không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước khác trong khu vực cũng như hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương.Sau xung đột ngày 14-3-1988, khu vực hoạt động của tàu thuyền Hải quân Trung Quốc được mở rộng, thậm chí có thể phủ khắp các đảo đá ngầm lân cận củaViệt Nam. Tháng 5-1988, tờ Nhật báoQuân đội nhân dân - tiếng nói chính thức của quân đội Trung Quốc đã có bài viết, trong đó tuyên bố: "Hiện nay Hải quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ Trung Quốc, cả chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa hàng trăm hải lý”. Trung Quốc ngầm tuyên bố lực lượng Hải quân có thực lực bảo vệ biên giới trên biển và hải đảo, cho dù quần đảo Nam Sa cách đại lục Trung Quốc tương đối xa.
    Các lấn chiếm của Trung Quốc trên biển Đông không những sẽ hạn chế khả năng, triển vọng kinh tế của Việt Nam, mà còn làm cho Việt Nam rất dễ bị sức ép của Trung Quốc về phương diện quân sự. Xây dựng các đảo nhân tạo và căn cứ quân sự ở Trường Sa (Gạc Ma và Chữ Thập), Trung Quốc nhằm kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm (Hải Nam) và Tam Sa (Hoàng Sa) mà tính theo đường chim bay căn cứ Du Lâm chỉ cách đặc khu kinh tế Vũng Áng hơn 350km (nơi có hơn 7.000 công nhân Trung Quốc làm việc); đồng thời chiếu đến dự án Đèo Hải Vân tạo ra một gọng kìm chiến lược khống chế và chia cắt 2 miền Bắc, hình thành một tam giác quân sự cả từ hướng biển và đất liền hết sức nguy hiểm.
    Nhìn chung, Trung Quốc đang tiến tới áp đặt một vùng chiến lược độc quyền, kiểm soát khu vực, đặt toàn bộ vùng biển Đông và tất cả các đảo ở đó dưới tầm mắt của mình, mở rộng tuyến phòng thủ chiến lược tới cực Nam biển Đông, lách lưỡi dao vào bên sườn Việt Nam, khống chế Việt Nam từ hướng biển.
    3- Chính sách “xoay trục” của Mỹ và tác động đối với Việt Nam
    Sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc đang đe dọa đến hòa bình, ổn định của khu vực,thế giới, đe dọa trực tiếp đến an ninh các đồng minh của Mỹ và tự do hàng hải cũng như việc sử dụng hợp pháp các vùng biển và vùng trời ở Châu Á – Thái Bình Dương. Mặc dù, Mỹkhông có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông nhưng có lợi ích trong tự do hàng hải và sử dụng hợp pháp vùng biển, vùng trời ở Châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ quan niệm rằng, tự do hàng hải và sử dụng hợp pháp vùng biển, vùng trời không phải là thứ mà quốc gia này có thể ban phát hoặc không ban phát cho quốc gia khác và nỗ lực đơn phương nhằm làm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực cũng như vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là thách thức trực tiếp đối với uy tín của Mỹ với tư cách là chiếc neo an ninh hoặc vị thế người đảm bảo an ninh khu vực. Vì thế, hiện Mỹ đã quyết định tái cân bằng lực lượng toàn cầu theo hướng ưu tiên khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, sử dụng tranh chấp Biển Đông như một công cụ để ngăn chặn sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc.
    Trong thời gian tới, thay vì cân bằng tỉ lệ lực lượng hải quân 50-50 giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương như hiện nay, Mỹ sẽ điều chuyển tới khu vực Thái Bình Dương 60% năng lực hải quân của mình. Mỹ đang tích cực củng cố quan hệ với các đồng minh trong khu vực, chuyển từ chính sách trung lập” sang “điều phối và can dự” trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông. Mỹ đã lần lượt thông qua Nghị quyết 412 (7-2014), Nghị quyết H.Res-714 (12-2014) về Biển Đông và Biển Hoa Đông, trong đó có nêu đích danh vụ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HYSY 981 - đó làsự ủng hộ mạnh mẽ đối với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lấn trên biển.
    Bên cạnh đó, một số nước lớn khác cũng quan tâm đến việc giải quyết vấn đề Biển Đông, điều này tạo ra một tập hợp lực lượng mới khiến Trung Quốc e ngại và không thể không quan tâm và suy tính để điều chỉnh hành động, thái độ cho thích hợp. Cần nói thêm rằng, can dự vào Châu Á - Thái Bình Dương, Đông và Đông Nam Á, Mỹ và các nước lớn khác không hình thành nên thế kiểm soát các vùng biển bằng biện pháp quân sự. Trong bối cảnh các siêu cường không quan niệm tăng ngân sách quốc phòng là tối ưu và tính toán kiểm soát Biển Đông, kiềm chế Trung Quốc sao cho“ít tốn kém” nhất; đồng thời vẫn đảm bảo ổn định của khu vực, Mỹ  nhắm tới mục tiêu quản lý các vụ việc bằng pháp luật, thúc đẩy quá trình đấu tranh hoặc thực thi pháp lý giữa các nước liên quan đến tranh chấp. Nhìn chung, Mỹ ủng hộ việc sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế và luôn nhấn mạnh các yêu sách trên biển cần xuất phát từ các thực thể trên đất liền theo UNCLOS.
    Sự can dự ngày càng tăng của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông ở một chừng mực nhất định phù hợp với lợi ích chiến lược của Việt Nam trong đối phó với Trung Quốc. Là một nước nhỏ, tiềm lực hạn chế hơn Trung Quốc về mọi mặt, Việt Nam có lợi ích trong việc quốc tế hóa giải quyết các tranh chấp, lôi kéo càng nhiều càng tốt sự chú ý quốc tế đối với những leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông. Vị trí địa – chính trị, địa – quân sự của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và khu vực khiến cho vai trò, vị thế của Việt Nam được nâng lên trong các tính toán chiến lược của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á.Sự quan tâm lớn hơn của Mỹ đối với Việt Nam cũng như sự phát triển ấn tượng của quan hệ Việt – Mỹ thời gian qua chính là kết quả những chuyển biến trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc và khu vực.
    Bên cạnh đó, sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ, việc Mỹ gia tăng can dự vào tranh chấp Biển Đông cũng mang lại cho Việt Nam một số rủi ro nhất định. Với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và là một bên tham gia tranh chấp Biển Đông, Việt Nam buộc phải xem xét lại chính sách đối ngoại cân bằng quan hệ và chính sách ngoại giao “ba không” trong điều kiện ràng buộc ý thức hệ vẫn còn đang khá chặt chẽ và những ân oán quá khứ chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Ngoài ra, Trung Quốc chắc chắn sẽ không ngồi yên khi Mỹ tìm cách củng cố quan hệ với các nước nhắm vào việc bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với đặc điểm núi biển liền nhau như môi với răng, có mối quan hệ không thể chia cắt về địa dư, khi muốn răn đe,gây sức ép, Trung Quốc không thiếu lý do và điều kiện thực hiện: Chống phá Việt Nam từ bên trong, bao vây Việt Nam từ nhiều hướng (từ Trung Quốc, từ Lào, từ Campuchia...).Rất có thể Việt Nam sẽ rơi vào thế kẹt giữa hai nước lớn và bị luôn cuốn vào một hình thái chiến tranh không mong muốn, bị vạ lây bởi sự đối đầu giữa hai cường quốc. Tóm lại, sự can dự của Mỹ và các nước lớn mang lại cho Việt Nam những thuận lợi lẫn thách thức mới trong việc xử lý tranh chấp Biển Đông cũng như giải quyết quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng và khu vực. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, thuận lợi lớn hơn thách thức.
    4- Một vài khuyến nghị
    Từ khi CHND Trung Hoa ra đời (1949), đã có ba lần Trung Quốc ra quân lớn đánh Việt Nam: Chiếm quần đảo Hoàng Sa (1974), tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc (1979) và Trường Sa 1988Nhìn lại lịch sử những lần Trung Quốc tấn công, xâm lược hoặc gây hấn đối với Việt Nam (và không loại trừ đối với cả những quốc gia khác), có thể nhận thấy rằng, Trung Quốc thường hành động khi ít nhất hội tụ đủ những yếu tố sau đây:
    Thứ nhất, chọn khiquốc gia - đối tượng trong tình thế có những khó khăn bên trong,  gặp rắc rối hoặc có vị thế yếu trên trường quốc tế, “trong không ấm, ngoài không êm”. Do đó, quốc gia bị Trung Quốc “nhòm ngó” khó có thể chống đỡ, đáp trả hoặc nếu có những quyết định đương đầu mạnh mẽ, dứt khoát, thì tác dụng, hiệu quả cũng bị hạn chế đáng kể - trong điều kiện đó, Trung Quốc đã kịp thời và nhanh chóng chớp lấy thời cơ thực hiện mục tiêu định sẵn.
    Thứ hai,các phản ứng và dư luận quốc tế trước hành động của Trung Quốc chỉ có thể ở mức thấp nhất hoặc xuất hiện khoảng trống quyền lực trong khu vực. Trung Quốc đã phân hóa được quốc gia - đối tượng với các nước khác, trung lập hóa những nước lớn hoặc khối nước - đó là lúc tương quan lực lượng thay đổi theo hướng có lợi nhất cho Trung Quốc, khiến Trung Quốc có thể hành động mà chịu ít rủi ro, thiệt hại nhất song vẫn có thể đạt mục tiêu đã định và đạt ở mức cao nhất.
    Thứ ba, Trung Quốc đang gặp những bất ổn nội bộ (về phát triển kinh tế, về mâu thuẫn quyền lực, về giải quyết vấn đề xã hội…). Trong tình hình đó,  lãnh đạo Trung Quốc muốn hướng sự chú ý trong nước ra bên ngoài, đánh lạc hướng dư luận hoặc khơi dậy tinh thần dân tộc, sử dụng nó như một chất kết dính xã hội, như một phương thức xoa dịu, giải quyết một cách hình thực những vấn đề nội tại.
    Như vậy, nhìn vào những yếu tố nêu trên cộng với phân tích yếu tố mở nước truyền thống, tham vọng mở rộng ảnh hưởng, mở rộng địa bàn hoạt động, mở rộng cương vực sinh tồn, lãnh thổ, đất đai vốn là một nét đặc trưng có tính xuyên suốt, nhất quán của Trung Quốc từ lịch sử tới hiện tại, có thể kết luận rằng, chiến lược “lấn dần”, “chèn ép”, tranh đoạt đất đai, sông biển của láng giềng, nhất là của các nước láng giềng nhỏ và yếu hơn là bất biến. Đặc biệt, khi tuyên bố về “giấc mộng Trung Hoa”, Tập Cận Bình cũng đồng thời kêu gọi xây dựng một quốc gia hùng mạnh với một quân đội hùng mạnh khiến người ta không khỏi không hình dung về sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô vanh nước lớn.
    Tồn tại bên cạnh một láng giềng khổng lồ, có sức mạnh thống trị trong lịch sử thực sự là một áp lực cho Việt Nam. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một thực tế, là một câu chuyện "không bao giờ kết thúc".Có tham vọng lãnh thổ, lãnh hải, song trong tình hình hiện nay, Trung Quốc cố gắng tránh những cuộc chiến tranh hay xung đột “hao người, tốn của” có thể lôi kéo sự tham dự của nhiều nước, nhất là những nước đối thủ mạnh của Trung Quốc. Để nuốt dần đất đai, sông biển Việt Nam, Trung Quốc tích cực sử dụng “quyền lực mềm” bào mòn sức mạnh bên trong và bên ngoài giống như hút dần dinh dưỡng, làm cho Việt Nam rối loạn, chia rẽ và yếu dần. Trong khi luôn cảnh giác với những khả năng gây va chạm, xung đột vũ trang, Việt Nam còn cần phải cẩn trọng gấp nhiều lần trước sự phụ thuộc quá sâu về kinh tế vào Trung Quốc, trước việc Trung Quốc trúng thầu tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… củacác dự án kinh tế Việt Nam trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia và an ninh năng lượng (90% các công trình trúng thầu, tạicác địa bàn xung yếu về quốc phòng – an ninh  như Quảng Ninh, Vũng Áng, Cửa Việt,Tây Nguyên…),trước việcngười lao động Trung Quốc sang Việt Nam lập làng, thâm nhập sâu, thậm chí lấy vợ, sinh con, đồng hóa dân tộc… Trong tương quan giữa Việt Nam và Trung Quốc với các chỉ số so sánh quá cách biệt, mà sức nặng nghiêng về phía Trung Quốc, nếu cú đấm đằng trước đã là hết sức khó khăn để chống đỡ, thì cú đánh đằng sau lưng hoặc thọc ngang mạng sườn còn khủng khiếp hơn nhiều.
    Hoạt động của Trung Quốc thời gian qua cho thấy áp lực dân số và “ước mơ Trung Hoa” – “ước mơ” trỗi dậy một cách nhanh chóng, trở thành siêu cường có khả năng chi phối thế giới đang thúc đẩy Trung Quốc thực hiện chiến lược lấn át láng giềng, chiếm trọn Biển Đông. Nhìn tổng quá, đối với Việt Nam, Trung Quốc đang sử dụng “chiến lược hai gọng kìm”- khống chế Việt Nam cả từ trên bộ, cả từ hướng biển.
    Trong điều kiện bất ổn ở Biển Đông không ngừng leo thang dưới bàn tay đạo diễn của Trung Quốc, Việt Nam đang phải đối diện với những thách thức to lớn,đầy nguy cơ kể từ sau khi kết thúc chiến tranh (1975). Một lần nữa, dân tộc Việt Nam lại phải đối diện với ý đồ xâm lăng rõ rệt, trắng trợn của Trung Quốc trong một cuộc chiến không cân sức trong tình thế khá đơn độc. Việt Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kép không chỉ trên những thách thức kinh tế (khi nền kinh tế bị lệ thuộc quá nhiều và quá sâu vào Trung Quốc), mà còn ở vị thế tại khu vực (khi Trung Quốc thò bàn tay vào công việc các nước láng giềng của Việt Nam, vào quan hệ Việt Nam với láng giềng) và trong những đe dọa chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải. Đây là một giai đoạn lịch sử hết sức nhạy cảm, nếu Việt Nam không có chiến lược, đối sách phù hợp, rất có thể sẽ để lại những tác động bất lợi đối với tiền đồ dân tộc.
    Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, bảo vệ từng tấc đất thấm máu cha ông, thấm máu những anh hùng liệt sĩ, Việt Nam quyết không lùi bước, lùi bước, đớn hèn là có tội với tiền nhân, có tội với lịch sử.Để có thể vượt qua khúc quanh của lịch sử, việc giải quyết tốt hai mặt đối nội, đối ngoại là yêu cầu sống còn nhằm quy tụ tối đa sức mạnh nội lực, quốc tế, tạo ra sức mạnh tổng hợp cần và đủ để Trung Quốc hiểu rằng không thể dễ dàng hành xử theo lối bất chấp và tự viết nên luật lệ của mình.
    Về đối nội, cần ra sức xây dựng, củng cố đồng thuận xã hội,không ngừng xây dựng thực lực đất nước. Lợi ích quốc gia dân tộc được đảm bảo ở mức độ nào, tùythuộc vào đất nước mạnh hay yếu; thành công hay hạn chế trong quan hệ giữa các quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào thực lực mỗi nước. Thực lực của một quốc gia tất nhiên phải được hiểu là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và công nghệ, địa vị, ảnh hưởng quốc tế…. Câu chuyện đầu tiên, trước mắt cấp thiết cần phải làm ngay là thực hiện đoàn kết dân tộc một cách chân thành ở cả trong và ngoài nước không phân biệt chính kiến, ý thức hệ, địa vị, thành phần, giai cấp… - Đó là yếu tố cốt lõi làm nên sức mạnh cất cánh của đất nước. Sự gắn kết bền chặt giữa người Việt với người Việt tạo ra sức mạnh bất khả chiến bại - sức mạnh của tinh thần dân tộc, ý chí dân tộc. Đây cũng là cơ hội để hòa hợp, hòa giải dân tộc, khép lại quá khứ, gạt bỏ hận thù, thành kiến, xóa đi vết sẹo chiến tranh 40 năm nay chưa kịp lên da non. Không có lý gì khi hai cựu thù Việt – Mỹ đã có thể ngồi cùng bàn đối thoại mà đồng bào “máu đỏ, da vàng” cùng chung một đất nước lại không thể nối vòng tay lớn để cùng chấn hưng quốc gia? Cũng muốn nói thêm rằng, điều đó phụ thuộc một phần không nhỏ vào chính sách hòa giải dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
    Về đối ngoại, Việt Nam phải thay đổi căn bản tư duy về quan hệ quốc tế, xem lại chính sách đối ngoại “ba không”. Chính sách “xoay trục” của Mỹ và sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới đối với vấn đề Biển Đông đang tạo ra những thuận lợi nhất định cho Việt Nam. Việt Nam nhất định phải nắm lấy cơ hội, chuyển hóa tranh chấp của mình với Trung Quốc theo chiều hướng có lợi nhất, hóa giải các tác động tiêu cực.Việt Nam cần có cách tiếp cận mới trong việc thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ mọi mặt, kể cả quan hệ quân sự với Mỹ để đối phó với sự đe dọa từ phương Bắc. Cần bước qua những mắc mớ quá khứ và gạt bỏ cơn ám ảnh “diễn biến hòa bình” để nhìn thấy ở Mỹ một đối tác có chung lợi ích cùng ngăn cản một Trung Quốc đang trong“cơn khát” đất, khát lãnh hải và mê sảng quyền lực. Không chỉ có vậy, Việt Nam cũng cần có tư duy mới về bạn – thù, cần nhận thức rõ rằng, nền tảng của mọi mối quan hệ quốc tế đương đại là lợi ích, chỉ có lợi ích là vĩnh viễn,vì thế, Việt Nam cần nhìn nhận chính xác các mục tiêu, hoạt động của các nước Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Mỹ trong khu vực và trong giải quyết vấn đề Biển Đông, không để tư duy bạn – thù cứng nhắc, nỗi lo sợ “diễn biến hòa bình” cản trở những quyết định tỉnh táo.
    Việt Nam cần chủ động tạo nên cục diện các nước lớncó lợi ích kinh tế và an ninh ngày càng gia tăng, quấn bện trong quan hệ với Việt Nam,gắn lợi ích, gắn các chính sách của Việt Nam vào các hoạt động kinh tế và chính trị của mạng lưới khu vực rộng lớn. Việc việc đan xen lợi ích và chính sách như thế, một cuộc tấn công Việt Nam cũng sẽ bị coi như sự xâm phạm lợi ích của các nước khác. Ứng phó với Trung Quốc là cả một nghệ thuật, trong cương có nhu, trong nhu có cương, uyển chuyển giữa đối đầu - đối thoại và không loại trừ chính sách liên minh, tuyệt đối không đồng nghĩa liên minh với bè phái, với mất tự chủ hoặc mất độc lập; đồng thời, ghi nhớ rằng, liên minh không phải để tạo ra một tập hợp lực lượng chống Trung Quốc, mà để tự bảo vệ mình, ngăn ngừa Trung Quốc một cách chính đáng và hiệu quả.
    Một cách tổng quát, một Việt Nam lớn mạnh, dân chủ, phát triển, coi tham nhũng và thiếu nhân quyền là kẻ thù, có sự ủng hộ, hậu thuẫn to lớn của quốc tế chắc chắn sẽ trở thành một pháo đài vững chắc kháng cự mọi thách thức, chép ép, đe dọa từ Trung Quốc.

    [1]Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Báo Nhân dân, 15-3-1988.
    [2]Như trên.
    [3]Như trên. 

    -

    -'Âm mưu mới nhất của TQ trên Biển Đông' bbc
    14 tháng 3 2015
    Từ chỗ tự vẽ ra “Đường lưỡi bò”, rồi liên tiếp gây ra tranh chấp các vùng biển có mỏ dầu của các nước láng giềng trên biển Đông, lấy cớ đó kêu gọi các nước “Gác tranh chấp cùng khai thác” trong chiến thuật “Ba bước lấn tới”, mới đây Trung Quốc tuyên bố thẳng thừng: “Biển Đông là sân nhà của Trung Quốc”.

    Quả thật, với tiền đề 'chủ quyền của ta', Trung Quốc (TQ) chủ động khai thác và tự chủ khai thác hoàn toàn không bài xích hợp tác khai thác hoặc cùng khai thác với các nước khác. Đặc biệt là khu vực giàu dầu khí ở phía giữa và nam Biển Đông, chỉ có hợp tác mới có thể ép đối thủ đến trước bàn đàm phán, cuối cùng thực hiện cùng khai thác” – thủ đoạn đang làm hiện nay của Trung Quốc.


    Đối với những khu vực có tranh chấp lớn (thực tế là TQ cố tình tạp ra tranh chấp để đòi hỏi lợi ích vô lý), độ nhạy cảm cao, có thể có ý thức liên kết với các công ty dầu khí nước ngoài hợp tác khai thác.


    Tin cho hay, qua một cuộc điện đàm Sat-Com của TQ mà hệ thống viễn thông và điều hành vệ tinh tại Mỹ biết được, họ đã được lệnh tấn công chiếm luôn đảo Trường Sa lớn của VN nếu trường hợp có tiếng súng xảy ra tại giàn khoanĐại tá Bùi Văn Bồng

    Ai cũng nhớ rõ: Tháng 5-2014, Trung Quốc cho giàn khoan 981 xâm phạm vùng lãnh hải gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lúc đó, đã có nhiều thông tin cảnh báo rằng: Việt Nam phải xem chừng Trường Sa. Quả nhiên, giàn khoan 981 đã thực hiện mục tiêu “một mũi tên trúng 2 con chim”. Trung Quốc đã kéo dư luận quốc tế và ở Việt Nam chỉ nhằm vào giàn khoan HD-981, để bơm cát, bồi trức đảo đá nhân tạo Gạc Ma và bãi đá ngầm Chữ Thập để xây dựng sân bay quân sự trên quần đảo Hoàng Sa. Nhưng khi ấy, Việt Nam đã không hề lên tiếng về hành động có tính toán chiến lược này.

    Trong khi đó, với giàn khoan HD-981, Trung Quốc đặt ra hai ý đồ: 1- ‘Ngụy trang, đánh lạc hướng’, ‘Dương đông kích Tây’, tập trung dư luận, sự chú ý về giàn khoan HD-981 để rảnh tay ‘cải tạo đảo Gạc Ma, bãi đá Chữ Thập’; đồng thời thăm dò dầu khí vùng nước sâu Hoàng Sa. 2 – Nếu ViệtNam nổ súng phản công tại giàn khoan HD-981 thì Trung Quốc lấy cớ tấn công đánh chiếm đảo Trường Sa Lớn.

    Ngày 12-5-2014, trên nhiều trang mạng đã tiết lộ: Hiện nay nhiều tàu chiến Trung Quốc, 17 tàu hỏa tiễn, 20 tàu đổ bộ đang tập trung phía Bắc quần đảo Hoàng Sa. Hơn 1.000 Lính Trung Quốc đã xuống các tàu đổ bộ.

    Tin cho hay, qua một cuộc điện đàm SAT-COM của Trung Quốc mà hệ thống viễn thông và điều hành vệ tinh tại Mỹ biết được, họ (TQ) đã được lệnh tấn công CHIẾM LUÔN ĐẢO TRƯỜNG SA LỚN CỦA VIỆT NAM nếu trường hợp có tiếng súng xảy ra tại giàn khoan. Hải quân và tàu đổ bộ Trung Quốc đang âm mưu, tìm cớ tấn công. Tại giàn khoan, hiện nay (10-5-2014) có khoảng 79 các tàu Tuần Duyên & Kiểm Ngư Trung Quốc, cùng 3 tàu chiến, máy bay trực thăng, máy may tiêm kích từ Hải Nam bay ra KHIÊU KHÍCH các tàu của Cảnh Sát Biển của Việt Nam. Nếu Việt Nam ‘khai hỏa’ thì Trung Quốc sẽ đổ bộ chiếm luôn các đảo Trường Sa của Việt Nam, đặc biệt là đảo Trường Sa Lớn.
    Mưu đồ 'cùng khai thác'?

    Sau đó 5 tháng, trên trang mạng tuanvietnam.net có đăng bài “Gác tranh chấp, cùng khai thác của Trung Quốc”, dẫn lại bài của tác giả Dương Danh Huy, đăng trên website Nghiên cứu Biển Đông ngày 21/10/2010. Phi lộ đầu bài viết, tác giả nêu: “Gần đây, chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" được Trung Quốc nhấn mạnh nhiều lần như một sáng kiến mang tính xây dựng trong bối cảnh tranh chấp trên Biển Đông vẫn đang căng thẳng. Xét đến tính phức tạp và khó tìm lối ra hiện tại đối với tranh chấp Biển Đông, giải pháp này có thể chấp nhận được nếu các bên cùng "gác tranh chấp, cùng khai thác "một cách công bằng”…Giàn khoan HD-981 là một động thái 'dương đông, kích tây' nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của VN vào một điểm ở trên Biển, theo tác giả.

    Những lời gọi là "phi lộ" trên đây rất cần phải xem lại. Như: "sáng kiến mang tính xây dựng", rồi thì "có thể chấp nhận được...một cách công bằng". Với Trung Quốc, nhìn từ trong bản chất âm mưu, động cơ, ý định chiến lược trong các vụ tranh chấp Biển Đông đừng mất công nói đến cái ý thức "xây dựng", sự "công bằng" với các nước trong khu vực, cả với nhiều nước khác trên thế giới...

    Trong bài viết, tác giả đã dẫn liệu, phân tích: Tại hội thảo quốc tế với chủ đề "Biển Đông: tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực" ở Hà Nội ngày 26-27 tháng 11/2009, GS Ji Guoxing của Đại học Jiaotong, Thượng Hải, nguyên giám đốc bộ môn Châu Á - Thái Bình Dương của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Thượng Hải, nhắc lại chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác" của Trung Quốc. GS Ji Guoxing cụ thể hoá bằng cách đề nghị Việt Nam và Trung Quốc bàn về khả năng cùng khai thác bãi Tư Chính, một khu vực nằm hoàn toàn bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam, không thuộc quần đảo Trường Sa vốn đang trong tình trạng tranh chấp chủ quyền.

    Nhìn lại 5 năm trước, tại buổi họp báo ở Hà Nội ngày 6/1/2010, Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường cũng đề nghị chủ trương "gác tranh chấp, cùng khai thác". Rằng: "Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đã nêu ra một sáng kiến mang tính xây dựng, đó là gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác", và đề nghị rằng Việt Nam và Trung Quốc nên tạm gác lại tranh chấp, đợi điều kiện chín muồi.


    Đây là một thí dụ cho thấy rõ sự từng bước lấn sân bằng đánh, đàm, dụ dỗ không có giới hạn của Trung Quốc. Vùng biển-đảo thuộc chủ quyền các nước trong khu vực đang yên lành, Trung Quốc gây ra tranh chấp rồi đưa ra cái gọi là "gác tranh chấp, cùng khai thácĐại tá Bùi Văn Bồng

    Thực ra, chủ trương "Gác tranh chấp, cùng khai thác" được Trung Quốc chính thức đề nghị lần đầu tiên tại chuyến thăm Nhật, ngày 25/10/1978, Thủ Tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nói với Thủ Tướng Nhật Takeo Fukuda trong văn cảnh tranh chấp chủ quyền quần đảo Shenkaku (tên Nhật) /Điếu Ngư Đài (tên Trung Quốc) giữa Nhật và Trung Quốc. Điều đáng lưu ý là Shenkaku/Điếu Ngư Đài và vùng biển lân cận nằm dưới sự kiểm soát của Nhật, và vùng biển này gần Nhật và Đài Loan hơn Trung Quốc, cho nên Nhật có nhiều khả năng để đơn phương khai thác vùng biển này hơn Trung Quốc. Vì vậy, đề nghị của Trung Quốc để khai thác chung vùng biển này là một đề nghị nằm trong chủ đích lấn chiếm Biển Đông, có lợi cho Trung Quốc hơn là có tính xây dựng cho cả Trung Quốc và Nhật. Cho tới nay, Nhật luôn luôn khước từ tất cả các đề nghị của Trung Quốc để khai thác vùng biển lân cận đảo này.

    Cũng với con bài “cây gậy và củ cà rốt” này, hồi tháng 6/1986, Đặng Tiểu Bình đề nghị với Phó Tổng Thống Philippines Salvador Laurel rằng Trung Quốc và Philippines nên gác tranh chấp Trường Sa, "không nên để vấn đề này cản trở tình hữu nghị của Trung Quốc với Philippines và các nước khác". Tiếp đến, tháng 4/1988, Đặng Tiểu Bình lại đề nghị với Tổng Thống Philippines Corazon Aquino, "Xét quan hệ hữu nghị giữa hai nước chúng ta, chúng ta có thể tạm gác vấn đề này và tiếp cận theo hướng khai thác chung".

    Thế giới vẫn chưa quên sự kiện cồn sóng Biển Đông, vào đầu năm 1988 Trung Quốc chiếm đóng những bãi cạn Đá Chữ Thập, Châu Viên, Gaven, Huy Gơ và Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa và vào tháng 4/1988 máu của các chiến sĩ Việt Nam còn chưa tan hết trên biển Trường Sa sau khi Trung Quốc tấn công Việt Nam để chiếm Cô Lin, Gạc Ma và Len Đao ngày 14/3/1988 và chiếm được Gạc Ma. Đây là một thí dụ cho thấy rõ sự từng bước lấn sân bằng đánh, đàm, dụ dỗ không có giới hạn của Trung Quốc. Vùng biển-đảo thuộc chủ quyền các nước trong khu vực đang yên lành, Trung Quốc gây ra tranh chấp rồi đưa ra cái gọi là "gác tranh chấp, cùng khai thác".
    'Ba bước lấn tới'Tác giả cho rằng Trung Quốc có những tính toán sâu xa với các bước đi 'cụ thể, quyền mưu' để 'thâu tóm' Biển Đông.

    Như vậy, cái gọi là sáng kiến "gác tranh chấp, cùng khai thác" của chính phủ Đặng Tiểu Bình cho tranh chấp Trường Sa không phải do "có tính xây dựng" mà là để phục vụ mục đích đối trọng với các nước để từng bước chiếm đoạt hẳn. Chiến lược "3 bước lấn tới" của Trung Quốc là xông vào vùng chủ quyền lãnh hải của nước láng giềng, nước tiếp cận, gây tranh chấp, rồi đàm phán song phương "gác lại tranh chấp, cùng khai thác", cuối cùng là độc chiếm luôn.

    Dựa theo cái ‘đường lưỡi bò” tự vẽ, tự đơn phương công bố chính thức lần đầu tiên ra thế giới ngày 7-5-2009, không có ý kiến chấp nhận nào của bên thứ 2 hoặc thứ 3, Trung Quốc muốn biến vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và các nước liên quan từng bước đi từ tranh chấp, đến “gác tranh chấp cùng khai thác” rồi cuối cùng sẽ “ẵm” luôn trọn gói.

    Quả nhiên, với chiêu thức thâm độc nhưng khá lộ liễu này của chiến lược "3 bước lấn tới", Trung Quốc lăm le Khu vực 9 lô dầu khí từ lâu, nhân sự kiện QH Việt Nam thông qua Luật biển, TQ đã kêu gọi mời thầu thăm dò khai thác hòng cố tình gây ra tranh chấp để rồi đi đến bước tiếp theo yêu cầu Việt Nam “gác tranh chấp, cùng khai thác”, làm cái nền, cái cớ để tiến tới dùng “lưỡi bò” liếm hết luôn.


    Ở Biển Đông, cạnh tranh dầu khí những năm gần đây ngày càng gay gắt, làm thể nào để bảo vệ quyền thăm dò dầu khí vùng biển Trung Quốc trở thành vấn đề quan trọng không thể tránh khỏiBành Nguyên Chính, Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp dầu khí TQ

    Khu vực này nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Bản đồ công bố trên website của Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) cho thấy cả 9 lô mỏ dầu mà Trung Quốc đang mời chào thăm dò, khai thác đều nằm trong vùng biển thuộc “đường lưỡi bò” nằm trong mưu đồ tính toán đầy tham vọng có tính chiến lược của Trung Quốc. Các lô mỏ dầu này nằm ngoài khơi bờ biển miền Trung của Việt Nam, trải rộng hơn 160.000 km 2. Rìa phía tây của một số lô mỏ dầu nằm cách bờ biển Việt Nam không đầy 80 hải lý, nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, có nơi chỉ cách đất liền 30-50 hải lý, nằm trong vùng nội thủy và thềm lục địa của Việt Nam.

    Việc tuyên bố mời thầu cho thấy một bước đi mới trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm củng cố quyền chủ quyền tại vùng biển này. Thâm hiểm, gian dối, phản trắc, dễ nuốt lời, lấy “Hữu hảo để chen ngang hứa hão” vẫn là bản chất có từ trong máu Đại Hán từ xa xưa. “Gác tranh chấp, cùng khai thác” rất phi lý lại là con bài đưa dần các nước vào tròng, bằng hung hăng đe dọa kết hợp với dụ dỗ, lấn dần. Bắc Kinh đang tìm mọi cách lật lọng để đạt cho kỳ được mục đích của tuyên bố: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trong biển Đông và các vùng biển lân cận; có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và lòng đất của những vùng biển này” (?!).

    Ý đồ này của Trung Quốc đã có từ lâu, rõ nhất là sự trắng trợn trong vụ giàn khoan HD-981 và cải tại đảo Gạc Ma thành sân bay quân sự, đưa cả dân ra ở đó, mở ‘Khu du lịch Gạ Ma’. Tháng 7, giàn khoan HD-981 của Trung Quốc ‘hoàn thành kế hoạch’ rút về. Tờ "Thời báo Hoàn Cầu" Trung Quốc ngày 8/8/2014 đăng bài viết nhan đề "Bành Nguyên Chính: Biển Đông là trọng điểm khai khác dầu khí mới của ta (Trung Quốc)" xuyên tạc về chủ quyền Biển Đông, phản ánh lòng tham cả chủ quyền và tài nguyên cũng như thủ đoạn thâm độc của Trung Quốc. Tác giả Bành Nguyên Chính là phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp dầu khí Trung Quốc. Bài viết cho biết: “Hiện nay Trung Quốc đã hoàn thành lựa chọn địa chỉ xây dựng (trái phép) hải đăng ở 5 đảo, đá ngầm vùng biển Tây Sa”. Theo luận điệu của bài viết: “Ở Biển Đông, cạnh tranh dầu khí những năm gần đây ngày càng gay gắt, làm thể nào để bảo vệ quyền thăm dò dầu khí vùng biển Trung Quốc trở thành vấn đề quan trọng không thể tránh khỏi”.

    "Tập đoàn dầu khí Trung Quốc (CNPC) và CNOOC khoan thành công ở Hoàng Sa (đây là hành dộng trái phép của Bắc Kinh-PV), cho thấy các công ty dầu khí của Trung Quốc có khả năng tiến hanh thăm dò, khai thác nước sâu độc lập, điều kiện phá vỡ bế tắc khu vực tranh chấp đã có”.
    'Nhà và sân Trung Quốc'Nhiều quốc gia trong khu vực gần đây tỏ ra quan ngại về chính sách của Trung Quốc trên Biển trong vùng.

    Tờ báo này ‘đề xuất’ rằng: “Nhà nước (Trung Quốc) cần hỗ trợ trên các phương diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, như đưa ra chính sách ưu đãi khai thác Biển Đông trên các phương diện như vốn đăng ký, thu thuế, thuế quan và tài chính, thiết lập quỹ khai thác rủi ro Biển Đông có tính chất quỹ giá trị chủ quyền, đưa ra chính sách phát triển ngành nghề hỗ trợ cần thiết, để cho khai thác Biển Đông nhanh chóng tiến triển, tạo được quy mô".

    Rõ ràng, từ việc đẩy vấn đề theo hướng tranh chấp, để làm đà đi đến “gác tranh chấp, cùng khai thác”, nhưng vẫn nhằm đích cuối cùng là xâm chiếm. Đó chỉ là các nấc thang mà Trung Quốc đang leo dần. Với mưu đồ tham vọng bá quyền từ lâu đời của Trung Quốc, lúc nào cũng lăm le bành trướng xuống phương Nam, lấn chiếm Biển Đông sẽ không bao giờ có "sáng kiến mang tính xây dựng", và cái gọi là “công bằng” với các nước ASEAN có lãnh hải Biển Đông. Việt Nam và các nước ‘cùng cảnh’ trong khu vực đừng mất cảnh giác mắc mưu Trung Quốc để sau này khỏi phải gánh hậu họa do sự thiếu kiên quyết, do những bước đi, sự nhu nhược nhân nhượng do mềm yếu thiếu bản lĩnh không cứu vãn nổi.

    Mới đây, dựa theo câu hỏi của Tân Văn Xã (China News Service) - hãng tin chính thức thứ hai tại Trung Quốc sau Tân Hoa Xã - theo đó phải chăng là hoạt động bồi đắp các bãi đá và rạn san hô của Trung Quốc ở Biển Đông báo hiệu một sự thay đổi trong chính sách của Trung Quốc đối với Biển Đông và thậm chí đối với cả các láng giềng, ông Vương Nghị đã tại khẳng định là chính sách Trung Quốc không thay đổi.


    Nhà nước (TQ) cần hỗ trợ trên các phương diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, như đưa ra chính sách ưu đãi khai thác Biển Đông trên các phương diện như vốn đăng ký, thu thuế, thuế quan và tài chính, thiết lập quỹ khai thác rủi ro Biển ĐôngBáo Trung Quốc

    Đặc biệt mới đây, thách thức công khai và trắng trợn nhất, tại cuộc họp báo ngày 08/03/2015 tại Bắc Kinh, Ngoại trưởng Vương Nghị đã bác bỏ thẳng thừng những phản đối của nước khác về việc Trung Quốc đang đẩy mạnh các công trình bồi đắp đảo nhân tạo tại vùng quần đảo Trường Sa, nơi có tranh chấp với các láng giềng trong đó có Việt Nam. Ông Vương Nghị đã không ngần ngại khẳng định: Biển Đông là “nhà” và là “sân” của Trung Quốc.

    Rõ ràng, cho đến nay, mưu đồ và hành động của Trung Quốc ngày càng lộ rõ. Trung Quốc đang ‘hợp pháp hóa’ và dồn sức xây dựng ‘hiện đại hóa’ cái gọi là “Thành phố Tam Sa”.

    Tam Sa là một thành phố được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào ngày 24 tháng 7 năm 2012 để quản lý một khu vực mà nhiều nước đang tranh chấp chủ quyền, bao gồm: Quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là quần đảo Tây Sa), Quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là quần đảo Nam Sa), bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là quần đảo Trung Sa) cùng vùng biển xung quanh. Theo phân cấp hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Tam Sa là một địa cấp thị (thành phố cấp địa khu) thuộc tỉnh Hải Nam và có chính quyền nhân dân đặt tại đảo Phú Lâm (Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng).

    Theo chính phủ Trung Quốc, việc thành lập thành phố Tam Sa sẽ giúp tăng cường hơn nữa khả năng quản lý, khả năng phát triển và kiến thiết của quốc gia này đối với những hòn đảo và các vùng nước xung quanh các quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Trường Sa, bảo vệ môi trường biển trong vùng biển Đông. Thực chất, Trung Quốc đang nỗ lực để “cái lưỡi bò” liếm hết Biển Đông.

    Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả, nguyên Đại tá quân đội nhân dân Việt Nam, cựu Trưởng đại diện Báo Quân đội Nhân dân ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.




    --Việt Nam phải làm gì với hành động của Trung Quốc?
    Sáng ngày 8 tháng Ba vừa qua, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói rằng “Trung Quốc đang tiến hành những hoạt động xây dựng cần thiết trên đảo và bãi đá của Trung Quốc. Việc xây dựng này không nhắm hay ảnh hưởng đến ai” . Có thật là việc xây dựng này không ảnh hưởng đến ai hay không? Mặc Lâm trao đổi với nhà nghiên cứu Biển Đông Trương Nhân Tuấn để tìm hiểu thêm về sự kiện này.

    Mặc Lâm: -Thưa ông là người nghiên cứu Biển Đông trong hàng chục năm qua theo ông Trung Quốc đang công nhiên xây dựng trên các bãi đá ngầm tại Trường Sa thì hành động này có đi ngược lại với DOC năm 2002 yêu cầu phải giữ nguyên trạng các vùng đang tranh chấp hay không?
    Trương Nhân Tuấn: Trung Quốc đã lợi dụng việc Phi đi kiện, tháng giêng năm 2013, cho rằng Phi đã vi phạm Tuyên bố chung giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 gọi là DOC, từ đó lấy cớ tiến hành việc xây dựng các đảo nhân tạo tại các cấu trúc địa lý tại Trường Sa.
    Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế  “giương đông kích tây”. Cùng thời điểm đó Trung Quốc đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ như thế mà phía Việt Nam, cả năm sau, hoàn toàn không có một phản ứng nào. Biến cố giàn khoan 981 có thể đã che mắt mọi người, nhưng không thể che mắt nhà cầm quyền.
    Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế “giương đông kích tây”. Cùng thời điểm đó TQ đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ
    Trương Nhân Tuấn
    Trung Quốc đã chiếm các bãi đá của Việt Nam từ năm 1988, sau đó cho xây dựng một số công trình có tầm vóc nhỏ vài trăm mét vuông. Tình trạng đó kéo dài cho đến đầu năm 2014, tức là tuyên bố DOC có hiệu lực được 12 năm. Việc xây dựng hiện nay đã làm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông. Các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng, như công trình trên đá Chữ Thập khi hoàn tất có thể lên đến vài chục cây số vuông. Nếu các đảo đó được quân sự hóa, tương quan lực lượng giữa các bên sẽ thay đổi lớn lao. Trung Quốc, dựa vào các đảo vừa xây dựng, có thể tuyên bố vùng “nhận diện phòng không”, đồng thời phong tỏa để chiếm các đảo khác hiện đang trong tay của Việt Nam và Phi, và có thể cả Đài Loan.
    Hành động này của Trung Quốc dĩ nhiên đi ngược lại tinh thần của Tuyên bố DOC 2002. Nhưng văn bản này vốn không có giá trị ràng buộc. Do đó cũng không nước nào làm gì được Trung Quốc.
    Mặc Lâm: Theo ông thì sự im lặng của Việt Nam có thể được xem là từ bỏ chủ quyền theo luật quốc tế. Có cách nào để sửa sai hay ít ra điều chỉnh lại hay không?
    Trương Nhân Tuấn: Theo một số phán lệ của Tòa án quốc tế, thái độ im lặng trong một số trường hợp có thể được xem là sự “đồng thuận”. Sự đồng thuận có thể “mặc thị” hay “ám thị”. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong luật học, gọi là  “acquiescement “, có hiệu lực tương tự như nguyên tắc “Estoppel “.
    Những hành vi của Việt Nam, có thể xem là các dấu hiệu “acquiescement-đồng thuận”, công nhiên hay mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thứ nhứt là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Thứ hai là thái độ im lặng của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong biến cố 17-1-1974 khi Trung Quốc đưa quân xâm lăng quần đảo Hoàng Sa. Thứ ba, thái độ của Việt Nam vào tháng 3 năm 1988 khi Trung Quốc chiếm một số bãi đá ở Trường Sa.
    Về công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, Việt Nam hiện nay có khuynh hướng diễn giải nội dung chỉ công nhận 12 hải lý về hải phận chứ không có ý nghĩa về nhìn nhận chủ quyền. Tuy nhiên, nội dung tuyên bố của Trung Quốc năm 1958 không phải chỉ nói về hải phận 12 hải lý mà còn nói về chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ta có thể xem là Việt Nam đã “im lặng” trước tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc.
    Theo luật quốc tế, trong những trường hợp đòi hỏi quốc gia liên hệ phải có một thái độ dứt khoát, thì sự im lặng đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo nguyên tắc “acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
    Theo luật quốc tế...thì sự im lặng đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo nguyên tắc “acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa
    Trương Nhân Tuấn
    Trường hợp tháng giêng năm 1974, trước hành vi Trung Quốc xâm lăng lãnh thổ của VN, hai chính phủ Nam và Bắc Việt Nam đều có trách nhiệm như nhau trong vấn đề bảo vệ lãnh thổ chung. Rốt cục miền Bắc, đã không tìm cách can thiệp vào cuộc xâm chiếm đó mà còn từ chối đứng chung với miền Nam để ra một tuyên bố chung chống lại Trung Quốc. Hành vi Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ bắt buộc chính phủ các bên phải có thái độ. Việc giữ im lặng ở đây cũng được xem là dấu hiệu của “acquiescemnt”, mặc nhiên nhìn nhận lý lẽ và hành vi xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc là chính đáng.
    Trường hợp ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc đem quân xâm lăng một số đá, bãi của Việt Nam tại Trường Sa. Dĩ nhiên Trung Quốc đã sử dụng bạo lực. Vấn đề là phía Việt Nam đã không sử dụng quyền “tự vệ chính đáng” được Hiến chương LHQ qui định để chống trả lại. Phía Việt Nam được lệnh là không được nổ súng bất kỳ giá nào. Nhà nước Việt Nam cũng từ chối mọi thủ tục pháp lý có sẵn để tranh đấu chống lại Trung Quốc ở thời điểm đó. Mặc dầu nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc đó có đầy đủ tư cách pháp nhân để thực hiện. Các công hàm phản đối dĩ nhiên không có hiệu lực bằng các phương tiện pháp lý.
    Đá Gạc Ma của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ năm 1988, sau khi cải tạo đất và xây dựng năm 2014 nay đã trở thành đảo nhân tạo nối với cơ sở ban đầu của bãi đá này, có cả 1 sân bay trực thăng và 1 trạm xi măng - Ảnh: Airbus Defe
    Đá Gạc Ma của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ năm 1988, sau khi cải tạo đất và xây dựng năm 2014 nay đã trở thành đảo nhân tạo nối với cơ sở ban đầu của bãi đá này, có cả 1 sân bay trực thăng và 1 trạm xi măng - Ảnh: Airbus Defence & Space/IHS Jane’s
    Nếu đưa ra một trọng tài quốc tế, chắc chắn thái độ của các chính phủ VNDCCH hay CHXHCNVN trong quá khứ chắc chắn sẽ gây bất lợi cho Việt Nam. Việt Nam có thể thua kiện.
    Theo tôi, để Việt Nam hiện nay có nhiều xác suất thắng kiện, nhà nước Việt Nam cần phải thực thi những thủ tục để “kế thừa” di sản của VNCH trước kia. Chỉ khi nào đứng dưới tư cách người thừa kế chính đáng của VNCH thì danh nghĩa chủ quyền của VN mới được củng cố.
    “Liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh, ít ra như Đại Hàn. Vì một Việt Nam nghèo đói sẽ không ngăn cản được TQ mà còn là một gánh nặng cho Mỹ. Chỉ có liên minh với Mỹ về quốc phòng thì VN mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ
    Trương Nhân Tuấn
    Riêng về hiệu lực của công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, theo tôi là không thể giải thích theo lối hiện nay. Vì giải thích thế nào thì cũng nhìn nhận nó có hiệu lực, chỉ nhiều hay ít. Mà cách tốt nhứt phải phủ nhận hoàn toàn hiệu lực của nó, bằng cách dựa vào hai Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Theo nội dung hai hiệp định này thì các nước nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia duy nhứt và lãnh thổ toàn vẹn. Vịn vào đó, các tuyên bố, các hành vi nào của một bên nếu xâm phạm đến sự “toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” thì nó vô giá trị.
    Mặc Lâm: Ông nghĩ thế nào nếu Việt Nam liên minh với Mỹ? ngoài chỗ dựa vào quân sự thì nước Mỹ sẽ giúp cho Việt Nam các phương tiện như luật sư, kinh nghiệm, luật quốc tế để đối phó với Trung Quốc trên mặt trận pháp lý mà điều này thì Việt Nam cần không kém khả năng quân sự?
    Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, mình thấy Việt Nam hiện nay đã đi vào quĩ đạo của Trung Quốc mà việc này dài lâu sẽ giam hãm Việt Nam vĩnh viễn trong nghèo đói và chậm tiến.
    Trên quan điểm địa chiến lược của Trung Quốc, nước này chỉ có thể trở thành “đại quốc” khi các nước chung quanh “yếu”, không thể đe dọa được an ninh cũng như sự phát triển của họ.
    GDP của Trung Quốc hiện nay lên hàng thứ nhì và ngân sách quốc phòng cũng hàng thứ nhì. Ngân sách này chính thức vào khoảng 150 tỉ đô. Số thật sự có thể lên gấp đôi.
    Một cái nhìn khác, Mỹ lại không muốn thấy một “đại cường” Trung Quốc đối trọng với Mỹ trong khu vực. Mỹ không thể tái dựng lại “chiến tranh lạnh” nhằm cô lập Trung Quốc mà chỉ có thể giúp các nước đồng minh như Nhật, Đại Hàn, Phi, Thái Lan… giàu mạnh để thiết lập một hàng rào các nước đồng minh để bao vây Trung Quốc. Việt Nam như thế có hai lựa chọn:
    Một là không liên minh với ai hết như hiện nay. Kết quả là nghèo đói và chậm tiến, lãnh thổ mất lần hồi, vì đó là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc.
    Hai là “liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh, ít ra như  Đại Hàn. Vì một Việt Nam nghèo đói sẽ không ngăn cản được Trung Quốc mà còn là một gánh nặng cho Mỹ.  Chỉ có liên minh với Mỹ về quốc phòng thì Việt Nam mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của quốc gia mình.
    Ngoài ra, về pháp lý, Hoa Kỳ, với một lực lượng luật gia hùng hậu, cũng là nước duy nhất có thể giúp Việt Nam thắng được mặt trận pháp lý đối với Trung Quốc.
    Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà nghiên cứu Biển Đông Trương Nhân Tuấn.


    --Sân bay trên đảo nhân tạo chỉ là ‘lâu đài cát’? (TVN 9-3-15) -- P/v TS Trương Minh Huy Vũ ◄
    “Tác động quân sự (của đảo nhân tạo) có thể là thì tương lai, nhưng tác động tâm lý của nó thì ảnh hưởng ngay hiện tại… Đòn tâm lý này sẽ có những kết quả nhất định, nhưng là hiệu quả hay là hậu quả thì vẫn còn quá sớm để có câu trả lời.”

    LTS: Bồi đắp các bãi ngầm hay rạn san hô, cải tạo đá thành đảo, xây dựng đường bay, cơ sở hạ tầng trên các đảo, đá chiếm đóng được, chiến lược “đảo nhân tạo” đang được Trung Quốc ồ ạt tiến hành phi pháp. Một sự thay đổi về thực thể địa lý tại biển Đông sẽ có tác động thế nào? Sự thay đổi này có thể buộc những tính toán chiến lược và quân sự của các bên được đưa lên bàn cân? Đằng sau những mục tiêu quân sự còn những mục tiêu lồng ghép nào?  
    Trao đổi với Tuần Việt Nam, Tiến Sĩ Trương Minh Huy Vũkhoa Quan hệ quốc tế Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia TP.HCM, nhận định xung quanh khả năng “quân sự hóa” biển Đông của chiến lược đảo nhân tạo và những tác động khả dĩ đến tình hình an ninh khu vực.
    Việc Trung Quốc tăng tốc biến các bãi đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam đang làm cả khu vực lo ngại. Có phải đây là những “pháo đài quân sự” có khả năng thay đổi tình hình và những tính toán chiến lược tại biển Đông?
    Với một diện tích lên tới 3,5 triệu km2, lại là một vùng biển tương đối kín, các nhà quân sự từ lâu đã thảo luận hai cách thức của Trung Quốc nhằm “hùng bá” khu vực biển Đông. Một là trực diện thông qua việc kiểm soát và xây dựng các đảo/đá ngầm thành căn cứ quân sự, hai là đi theo chiều dọc bằng không quân qua việc thành lập các vùng nhận dạng phòng không giới hạn trong một phạm vi địa lý nhất định. Muốn hiện thực hóa hai khả năng này, quân đội Trung Quốc cần những điểm nút chiến lược.
    Tại Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, các đối tượng địa lý ở đây phần lớn là những bãi chìm, đảo san hô không có lợi thế về mặt phòng thủ, cũng như thiếu nước ngọt trầm trọng, trừ đảo Thái Bình (tên tiếng Anh: Itu Aba Island) đang bị Đài Loan kiểm soát. Vì thế nối biển từ đất liền, biến đá ngầm thành vị trí điểm tựa để phát huy khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập (A2/AD) luôn là ưu tiên của Trung Quốc. 
    Với Hoàng Sa, nơi Trung Quốc cưỡng chiếm hoàn toàn từ Việt Nam năm 1974, Bắc Kinh thiết lập nên cái gọi là đơn vị hành chính cấp địa khu Tam Sa. Tại đây, Trung Quốc đã cho xây dựng đường băng trên đảo Phú Lâm dài trên 2,5 km, cho phép các máy bay tiếp tế và chiến đấu như Su-27/30 hay máy bay ném bom JH-7 có thể cất hạ cánh. Trung Quốc cũng xây dựng một cầu cảng dài khoảng 400m và một đê chắn sóng để bảo vệ tàu bè neo đậu.
    Vấn đề ở Trường Sa sẽ khó khăn hơn do khoảng cách, cũng như hạn chế về công nghệ. Chẳng hạn như khả năng tiếp dầu trên không của không quân Trung Quốc vẫn còn hạn chế. Công nghệ này quan trọng trong việc thực hiện A2/AD, vì nó giúp cho các máy bay chiến đấu của Trung Quốc hoạt động liên tục trên chiến trường với khoảng cách xa hơn mà không phải quay về căn cứ tiếp liệu. Điều này sẽ giúp cho tác chiến trên biển được hiệu quả hơn với tầm bay của máy bay và thời gian hoạt động của máy bay được liên tục, không bị ngắt quãng.
    Theo một báo cáo của Uỷ ban Đánh giá An ninh và Kinh tế Mỹ - Trung (xuất bản vào tháng 12, 2014), Trung Quốc vừa mới tiếp nhận máy bay tiếp liệu IL-78 đầu tiên vào giữa tháng 10. Đây được coi là máy bay tiếp dầu đầu tiên bên cạnh 12 máy bay H-6U. Cũng theo báo cáo trên, đội máy bay tiếp dầu của Trung Quốc vẫn còn quá khiêm tốn và chưa có khả năng tiến hành các nhiệm vụ tầm xa với quy mô lớn.
    Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc, đảo nhân tạo, đảo Phú Lâm, Gạc Ma, Mỹ, COC, giàn khoan
    Một tàu trông như là tàu container ở tại khu vực Trung Quốc đổ đất xây đảo nhân tạo tại đá Châu Viên ngày 4.10.2014. Ảnh: Asahi Shimbun
    Như vậy việc bồi đắp và xây dựng các đảo nhân tạo tại khu vực Trường Sa có phải cách thức tốt nhất bù đắp những hạn chế về địa lý và công nghệ trong thời điểm hiện tại?
    Cần có một bức tranh lớn hơn về sự liên kết giữa hải quân và không quân như một cách tiếp cận mới định hình “thế đứng” quân sự của Trung Quốc tại toàn bộ biển Đông. Những nghiên cứu gần đây miêu tả xu hướng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đang cố gắng thúc đẩy cái gọi là “kỹ năng phối hợp” giữa những quân chủng khác nhau. Tác chiến phối hợp hiệp đồng “đa binh chủng” hay tăng cường “kỹ năng phối hợp” giữa các binh chủng với nhau, đặc biệt là không quân và hải quân. Đây là khả năng mà PLA chưa mấy thuần thục sau một thời gian từ 1979 không có những kinh nghiệm chiến trường thực tế.
    Đối thủ chính của Trung Quốc là “sức mạnh bá quyền” của Mỹ tại Thái Bình Dương. Lợi thế của Bắc Kinh so với Washington là địa lý, khi có khả năng tập trung lực lượng quân đội nhanh hơn và hỗ trợ các đơn vị quân sự dễ dàng hơn tại các vùng biển trong phạm vi chuỗi đảo thứ nhất. Trong khi đó, Washington sẽ cần phải gửi quân tiếp viện từ cách xa hàng nghìn dặm, duy trì các đơn vị quân sự qua hệ thống liên lạc hàng không và đường biển, và triển khai hoạt động từ một số lượng nhỏ các căn cứ từ các đồng minh.
    Tứ giác “đảo nhân tạo” hình thành từ các bãi đá Chữ Thập, Vành Khăn, Hoàng Nham và đảo Phú Lâm (thuộc Hoàng Sa) biến biển thành đất, nối đại dương từ đất liền, giúp xây dựng những “thế đứng” cho chiến lược A2/AD. Ít nhất với tính toán trở thành “tiền tiêu” cho các máy bay, tàu chiến và lực lượng quân sự, đảo nhân tạo mở ra thế trận giúp hạn chế của các lực lượng tiên phong, các căn cứ chiến trường; các đội tàu sân bay; cũng như các hệ thống chỉ huy, kiểm soát, điều khiển, vi tính, tình báo, giám sát và trinh sát (C4ISR) của Mỹ.
    Tuy vậy, có nhiều nghi ngờ trong giới quân sự về khả năng “nâng cấp thành công” các đảo nhân tạo thành các “pháo đài quân sự” hoàn chỉnh. Mục tiêu thiết lập thành “tàu sân bay quân sự trên cạn” tại các đảo đã được mở rộng và san lấp là một thí dụ. Thời tiết xấu như bão hay khả năng muối có thể ăn mòn đường cất cánh của máy bay là những khó khăn được viện dẫn đối với việc triển khai các hoạt động không quân.
    Nhưng quan trọng hơn, kết cấu của các sân bay dựa trên nạo vét hàng tấn cát ở dưới lòng biển. Nó không ổn định về mặt kết cấu, và có thể là địa điểm “chết” cho các cuộc không kích và tên lửa tầm xa. Đánh giá của hai học giả quốc phòng của trường Cao đẳng Hải quân Mỹ (US Naval War College) cho rằng những “sân bay” này có thể chỉ là “lâu đài cát” và thay vì tìm những nút thắt để vượt qua các tổn thương chiến lược, thì đây là “những tổn thương chiến lược mới” của Trung Quốc tại biển Đông.
    Theo những phân tích này, việc biến đảo nhân tạo thành “cơ sở nhằm làm bàn đạp khống chế toàn bộ biển Đông không đơn giản. Vậy tại sao lại có một sự quan ngại bùng lên từ nhiều nước khi ảnh chụp vệ tinh kế hoạch cải tạo các bãi ngầm, đá, hay san hô của Trung Quốc được công bố?
    Có lẽ chúng ta đang nói về hai vấn đề song song, nhưng đồng thời cũng mâu thuẫn. Một là đánh giá khả năng quân sự của các đảo nhân tạo như một bàn đạp quân sự của Bắc Kinh trong việc kiểm soát, hay như bạn nói là “khống chế” toàn bộ biển Đông (xin nhấn mạnh từ “toàn bộ”). Những đánh giá này nhấn mạnh nhiều về khía cạnh quân sự, nhưng đề cập đến khả năng trong tương lai, mà không nói đến nhiều về những khó khăn hiện tại mà Trung Quốc đang phải đối mặt. Nó cũng đặt vấn đề ở dạng tĩnh, theo nghĩa lộ trình đó cứ thế mà tiếp diễn, nhưng không đặt ra khả năng là các nước khác, kể cả láng giềng lẫn các quốc gia ngoài khu vực sẽ can thiệp. 
    Luồng quan điểm thứ hai nhìn nhận vấn đề ở mặt ngược lại, đề cập các điểm còn hạn chế (về quân sự) Trung Quốc tại biển Đông trong tương quan sức mạnh với Mỹ. Khoảng cách quyền lực giữa hai bên trong thời điểm hiện tại cho thấy “những tổn thương chiến lược” mà Bắc Kinh phải đối mặt là rất lớn nếu phát động một cuộc chiến với Washington (và các đồng minh). Vấn đề ở đây là so với các nước khu vực có tranh chấp thì khả năng quân sự và kiểm soát thực địa của Bắc Kinh đang ưu thế hơn (và ngày càng vượt trội).
    Sự hiện diện và can thiệp quân sự của Mỹ (nếu muốn) sẽ thay đổi ván cờ. Các chiến lược “áp đặt cái giá phải trả” (cost-imposition strategy), “kiểm soát vùng xám”, “mở rộng tập trận CARAT” hay “nới lỏng xuất khẩu máy bay không người lái” đã được các chiến lược gia Mỹ thảo luận và đề xuất. Nhưng chúng ta thấy rằng trong hồ sơ tranh chấp biển Đông, Mỹ vẫn “loay hoay” đi tìm phương thức tối ưu để ứng xử với một Trung Quốc “xác quyết, nhưng phi quân sự” từ 2009. “Nước Mỹ” vừa đang mâu thuẫn, vừa đang lưỡng lự.
    Ngược lại, nếu “đảo nhân tạo” được xem là một bước đi tiếp theo trong đại chiến lược của Bắc Kinh tại biển Đông thì nó nhấn mạnh vào sự hiện diện mang tính liên tục. Sau cái gọi là Tam Sa, tàu cá, giàn khoan, đường lưỡi bò, đảo nhân tạo tiếp tục thiết lập sự có mặt của Trung Quốc, bền bỉ và ngày càng toàn diện.
    “Hiện diện” trong ý nghĩa địa lý vừa tương đương với khoảng cách, vừa là cảm giác về khả năng can thiệp. Tác động quân sự (của đảo nhân tạo) có thể là thì tương lai, nhưng tác động tâm lý của nó thì ảnh hưởng ngay hiện tại, từ các hoạt động hỗ trợ tàu hải giám, mở rộng ngư trường, khai thác dầu khí, nghiên cứu khoa học đại dương, cũng như ngăn cản khả năng xác quyết chủ quyền hay thực thi quyền tài phán của các nước khác.
    Ngoài ra, đàm phán Bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN (COC) đang diễn ra. Vụ Philippines khởi kiện Trung Quốc tranh chấp Biển Đông ra tòa án trọng tài quốc tế cũng sẽ đi vào những điểm quyết định trong 2015. Trong cách hiểu đàm phán là cuộc chiến chính trị kéo dài từ diễn tiến “thực địa”, những gì kế hoạch xây cất-cải tạo ồ ạt tại Trường Sa là một đòn “tâm lý chiến”. Đòn tâm lý này sẽ có những kết quả nhất định, nhưng là hiệu quả hay là hậu quả thì vẫn còn quá sớm để có câu trả lời.  
    Kỳ vọng gì với chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng? (RFA 8-3-15)
    Vì sao Việt Nam chọn Israel làm đối tác quân sự? (ĐV 9-3-15) 


    -Bắc Kinh không úp mở : Biển Đông là sân nhà của Trung Quốc

    Trong một cuộc họp báo ngày 08/03/2015 tại Bắc Kinh, Ngoại trưởng Vương Nghị đã bác bỏ thẳng thừng những phản đối của nước khác về việc Trung Quốc đang đẩy mạnh các công trình bồi đắp đảo nhân tạo tại vùng quần đảo Trường Sa, nơi có tranh chấp với các láng giềng trong đó có Việt Nam. Ông Vương Nghị đã không ngần ngại khẳng định : Biển Đông là « nhà » và là « sân» của Trung Quốc.


    Dựa theo câu hỏi của Tân Văn Xã (China News Service) - hãng tin chính thức thứ hai tại Trung Quốc sau Tân Hoa Xã - theo đó phải chăng là hoạt động bồi đắp các bãi đá và rạn san hô của Trung Quốc ở Biển Đông báo hiệu một sự thay đổi trong chính sách của Trung Quốc đối với Biển Đông và thậm chí đối với cả các láng giềng, ông Vương Nghị đã tại khẳng định là chính sách Trung Quốc không thay đổi.

    Vấn đề là Ngoại trưởng Trung Quốc đã nhân dịp này đả kích các nước đã phản đối Trung Quốc và nói thẳng Bắc Kinh có quyền làm tất cả những gì mình muốn trong vùng lãnh thổ thuộc về mình. Giới quan sát đặc biệt ghi nhận lời khẳng định rằng khu vực đang xây dựng là « nhà » và « sân » của Trung Quốc.

    Theo bản tin tiếng Anh trên trang web của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, ông Vương Nghị nói nguyên văn : « Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác đã xây dựng trái phép trong nhà của người khác. Và chúng tôi không chấp nhận những lời chỉ trích từ người khác khi mà chúng tôi chỉ xây dựng các cơ sở trên sân riêng của chúng tôi. »

    Tuyên bố không úp mở của Ngoại trưởng Trung Quốc, tại một cuộc họp báo quốc tế, về quan điểm từng bị tố cáo là Bắc Kinh muốn biến Biển Đông thành ao nhà của mình, đã làm dấy lên nhiều chỉ trích. Trả lời phỏng vấn nhanh của RFI qua email, Giáo sư Thayer, chuyên gia tại Học viện Quốc phòng Úc. không che giấu thái độ sửng sốt trước một tuyên bố vừa « thô bạo - brazen », vừa « ngạo mạn - arrogant », vừa phản lịch sử vì chính Trung Quốc mới là nước chiếm đóng nhà của người khác.

    Thayer : "Tôi vô cùng kinh ngạc khi đọc thấy ý kiến ​​của Ngoại trưởng (Trung Quốc). Đưa ra (vài hôm) trước ngày kỷ niệm 27 năm cuộc tấn công của Hải quân Trung Quốc vào tàu hậu cần Việt Nam ở khu vực quanh Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) ngày 14 tháng 3 năm 1988. Nhận xét của ông Vương Nghị vừa thô bạo, vừa ngạo mạn.

    Cần phải nhớ lại rằng, vào thời điểm đó, không có sự hiện diện của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa. Hành động của Trung Quốc tấn công và tàn sát 64 thủy thủ Việt Nam phải bị coi là một hành vi xâm lược trắng trợn nhưng lại không bị cộng đồng quốc tế trừng phạt. Tàu chiến Trung Quốc khi ấy đã được phái đến nơi cùng với một hạm đội nhỏ mà nhiệm vụ trên danh nghĩa là thiết lập một trạm quan sát nhân danh Ủy ban Liên chính phủ về Hải dương học của UNESCO.

    Sau trận hải chiến, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng các rạn san hô và bãi ngầm khác trong quần đảo Trường Sa, một hành động được tiếp tục cho đến ngày nay. Có tin là chỉ huy của đội tàu Trung Quốc đã bị khiển trách vì sử dụng võ lực mà không được lệnh. Tuy nhiên, Trung Quốc đã hoàn toàn sẵn sàng khẳng định chủ quyền trên các thực thể mà họ đã chiếm bằng vũ lực, vi phạm luật lệ quốc tế. Trong thực tế, Trung Quốc đã chiếm « nhà của người khác ».

    Tuyên bố của ông Vương Nghị là một ví dụ về việc Trung Quốc sử dụng chiến tranh thông tin nhằm bóp méo sự thật lịch sử và luật pháp quốc tế".

    RFI : Đây có phải là lần đầu tiên mà một quan chức Trung Quốc cao cấp như vậy cho rằng Biển Đông là « nhà » và « sân » - hay nói cách khác là « ao nhà » - của Trung Quốc ?

    Thayer : "Nếu tôi nhớ không lầm thì đây là lần đầu tiên Trung Quốc mô tả các thực thể địa lý ở Biển Đông như là « nhà » của họ. Cách dùng từ ngữ này cho thấy là Trung Quốc đã leo thang trong hành động biện minh cho các hành động của họ, chuyển từ việc khẳng định « chủ quyền lịch sử » đối với các đảo và « vùng biển tiếp giáp », sang việc tuyên bố quyền sở hữu không hơn không kém đối với với các thực thể như đảo đá, rạn san hô hay các bãi ngầm khác".

    RFI : Với kiểu khẳng định như kể trên, liệu Trung Quốc có sẽ chủ động hơn trong các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông COC với ASEAN hay không ? Bởi vì điều đó có nghĩa chấp nhận « luật nước ngoài » trên sân riêng của mình ?

    Thayer : "Dĩ nhiên Trung Quốc sẽ tiếp tục lôi kéo ASEAN vào một chuỗi các cuộc đàm phán vô tận về một Bộ Quy tắc Ứng xử. Trung Quốc vẫn khăng khăng cho rằng Bản Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) phải được thực hiện tốt theo như ý của Bắc Kinh trước đã. (Có điều) là Bản Hướng dẫn thực thi DOC đã được thông qua từ 4 năm rồi, nhưng chưa hề có một hoạt động hợp tác nào được chấp thuận hay bắt đầu.

    Lời lẽ thô bạo của Ngoại trưởng Trung Quốc là nhằm mục đích cô lập Philippines và Việt Nam, và hù dọa các thành viên ASEAN khác để buộc họ phục tùng. Trung Quốc hy vọng là các thành viên « nhút nhát hay lo » của ASEAN sẽ khuyên nhủ là phải tự kiềm chế, và việc tham khảo sẽ tiếp tục bất tận.

    Thời gian đang đứng về phía Trung Quốc, với từng gàu cát lấy từ biển lên cho phép họ mở rộng diện tích các đảo nhân tạo và tăng cường năng lực kiểm soát – và cưỡng chế nếu cần - của Trung Quốc. Trung Quốc đang thay đổi « thực tế trên hiện trường », qua đó làm cho bất kỳ quyết định nào của Tòa án Trọng tài về đơn kiện của Philippines trở nên vô nghĩa".



    -Trung Quốc tăng tốc xây các đảo trái phép trên Biển ĐôngVNExpress
    Những hình ảnh chụp từ vệ tinh mới được công bố cho thấy Trung Quốc đang ráo riết xây dựng và mở rộng nhiều đảo nhân tạo trong khu vực xảy ra tranh chấp với nhiều quốc gia trên Biển Đông. Trung Quốc bồi đắp đảo mới ở Trường Sa / Trung Quốc ...
    Ảnh vệ tinh vạch trần việc Trung Quốc cải tạo đảo đá ở Trường Sa
    'Trung Quốc đang xây dựng những đảo mới ở Biển Đông'
    Trung Quốc "quân sự hóa" các đảo, Biển Đông thêm phức tạp
    TQ xây đảo nhân tạo làm bàn đạp ở Biển Đông
    BBC Tiếng Việt
    Hãng tin Anh quốc Reuters vừa có bài phân tích về chiến lược phát triển đảo nhân tạo và tham vọng ở Biển Đông của Trung Quốc. Hãng này nói việc xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc diễn ra nhanh chóng nhằm tạo bàn đạp cho Bắc Kinh mở rộng ...
    Thêm xanh biển đảo Việt Nam
    Giáo sư Carl Thayer: Chiến lược ngoại giao của Việt Nam hết sức ...
    Trung Quốc dùng đảo nhân tạo để thể hiện sức mạnh ở Biển Đông
    --Trung Quốc bành trướng các đảo nhân tạo ở Biển Đông: China Expands Island Construction in Disputed South China Sea (WSJ 18-2-15) -- China to project power from artificial islands in South China Sea (Reuters 19-2-15)◄

    -Trung Quốc biến Đá Tư Nghĩa thuộc Trường Sa thành đảo nhân tạo


    Người Việt Tuesday, February 17, 2015 5:07:15 PM
    LONDON (NV) .- Một số hình ảnh do vệ tinh chụp từ Tháng Ba năm ngoái đến nay cho thấy Đá Tư Nghĩa ở quần đảo Trường Sa đang bị Trung Quốc biến dần thành đảo nhân tạo có cả phi trường, cảng biển.
    Đá Tư Nghĩa, tên quốc tế là Hughes Reef, đang bị Trung Quốc biến đần thành đảo nhân tạo có cả phi trường và cảng biển. (Hình: Jane’s Defense)
    Đá Tư Nghĩa, tên quốc tế là Hughes Reef, Trung Quốc cướp của Việt Nam năm 1988 cùng với một nhóm bãi đá ngầm khác, nay đang được cải tạo thành các đảo nhân tạo, góp phần giúp Trung Quốc tăng cường tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

    Theo tin từ tổ chức thông tin an ninh quốc phòng quốc tế Jane’s Defense, phân tích ba tấm hình chụp từ vệ tinh, người ta thấy Đá Tư Nghĩa trong quần đảo Trường Sa, đang dần dần biến thành đảo nhân tạo chứ không còn là một bãi đá ngầm nữa.
    Trước đây, Trung Quốc chỉ xây dựng một tòa nhà hai tầng, một pháo đài nhỏ trấn thủ ở đó, nhưng hình ảnh mới nhất cho thấy chúng đã là một đảo nhân tạo gồm cả sân đáp trực thăng, phi đạo cho các loại phi cơ khác, cảng biển và các cơ sở đang được xây dựng để một lực lượng lớn quân sự đồn trú, phòng thủ.
    Từ khi chiếm Đá Tư Nghĩa, Trung Quốc đặt tên lại là Dongmen Jiao tức Đông Môn Tiêu. Nó là một rạn san hô nằm trong cụm Sinh Tồn, người ta chỉ có thể nhìn thấy khi thủy triều xuống.
    Ba tấm hình do vệ tinh chụp vào các ngày 30/3/2014, 7/8/2014 và 01/30/2015 cho thấy sự khác biệt nhau hoàn toàn của Đá Tư Nghĩa. Tấm hình ngày 30/3/2014 Đá Tư Nghĩa vẫn là một bãi đá ngầm. Tấm hình ngày 7/8/2014 thì nó đã được bồi đắp thành đão nhân tạo. Sau cùng, tấm hình ngày 30/1/2015 thì đã có các cơ sở trên đảo đang được xây dựng.
    Theo Jane’s Defense, trước khi nó được tàu hút cát đá lòng biển bồi đắp, Đá Tư Nghĩa chỉ có một tòa nhà diện tích khoảng 380 m2. Bây giờ, diện tích của nó rộng khoảng 75,000m2. Một số tòa nhà rộng lớn đang xây dựng tiếp giáp với bãi đáp trực thăng và phi trường. Kể từ Tháng 8-2014 đến nay, kè chắn sóng ở mặt phía tây đã hoàn tất và người ta cũng thấy một cầu tàu mới xuất hiện ở phía đông của hòn đảo.
    Song song với các hoạt động làm đảo nhân tạo tại Đá Tư Nghĩa, những tháng gần đây, Jane’s Defense phân tích các tấm không ảnh do công ty Airbus cung cấp thì thấy các bãi đá ngầm khác cũng được biến thành đảo nhân tạo như Đá Gạc Ma, Đá Châu Viên, Đá Vành Khăn, Đá Chũ Thập, Đá Thị Tứ.
    Tấm không ảnh chụp Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) vào ngày 24/1/2015 cho thấy một cơ sở lớn đang được gấp rút xây dựng. Đá Ga Ven, khoảng sau ngày 30 Tháng Ba 2014, biến dần từ bãi đá ngầm thành đảo nhân tạo mà tấm không ảnh ngày 30/1/2015 cho thấy một đường đi được đắp nổi, nối liền pháo đài có sẵn từ trước với đảo mới thành hình, kèm thêm một bãi đáp trực thăng.
    Theo nhận xét của Jane’s Defense, hình dáng cơ sở trên các đảo Ga Ven và Gạc Ma có vẻ rất giống nhau. Mỗi một nơi có một tòa nhà hình vuông có vẻ giống như một pháo đài chống máy bay hoặc là cơ sở radar ở mỗi góc. Điều này khiến người ta suy luận Trung Quốc dùng cùng một mẫu kiến trúc chung cho các đảo nhân tạo.
    Cả Việt Nam và Philippines đều lên tiếng phản đối nhưng Bắc Kinh vẫn lờ đi, biết hai nước nhỏ phía Nam chỉ phản đối suông vì không có khả năng quân sự để ngăn cản.
    Bắc Kinh ngang nhiên vi phạm các cam kết giữ nguyên trạng các khu vực tranh chấp với láng diềng khi ký vào bản Tuyên Bố Ứng Xử Trên Biển Đông (DOC) năm 2002, nhưng vẫn lớn tiếng tuyên bố cùng nhau duy trì hòa bình ổn định trên Biển Đông.
    Mới ngày 11 tháng 2, 2015, trong cuộc điện đàm với tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình được TTXVN thuật lời nói rằng “Đảng, chính phủ và nhân dân Trung Quốc mong muốn cùng với phía Việt Nam tăng cường tin cậy và hữu nghị, đi sâu hợp tác cùng có lợi trên mọi lãnh vực, giải quyết thỏa đáng bất đồng trên cơ sở các nhận thức chung giữa lãnh đạo hai nước, thúc đẩy quan hệ hữu nghị Trung Quốc – Việt Nam phát triển lành mạnh theo phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt”. (TN)

    -Trung Quốc ra sức cải tạo phi pháp, biến 6 bãi đá ở Trường Sa thành đảo
    (Dân trí)02/09/2014 - Chiến dịch của Trung Quốc nhằm khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông có diễn biến mới khi các bức ảnh vệ tinh cho thấy 6 bãi đá ngầm tại quần đảo Trường Sa bị biến thành các đảo nhỏ thông qua việc khai hoang phi pháp của Bắc Kinh trong 6 tháng qua.
    Ảnh vệ tinh cho thấy công tác khai hoang của Trung Quốc tại bãi đá Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa trên Biển Đông.
    Tờ Want China Times của Đài Loan đưa tin, kể từ tháng 2/2014, Trung Quốc đã liên tục cử các đội xây dựng tới các bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam).
    Các nguồn tin cho hay 6 bãi đá ngầm - gồm Gạc Ma, Ga Ven, Châu Viên, Chữ Thập, Huy Gơ và Én Đất - đã bị biến thành các đảo nhỏ. Tất cả các bãi đá ngầm, ngoài Én Đất, đều được giới chức Trung Quốc chọn ngày khai sinh cụ thể trong tháng 7.
    Các bức ảnh vệ tinh chụp bãi Gạc Ma từ tháng 7 cho thấy Trung Quốc đã xây dựng một bến tàu mới và trồng các hàng dừa, cùng các cơ sở hạ tầng mới như đường xá, các tòa nhà, biến bãi đá thành một đảo trắng hình quả táo. Các bức ảnh Google Earth từ cuối tháng 6 đã cho thấy nhiều thiết bị xây dựng có mặt trên đảo.
    Các nhà phân tích cho hay sở dĩ Trung Quốc có khả năng tiến hành các hoạt động khai hoang nhanh chóng ở Biển Đông là do nước này có nguồn lực lớn và khả năng xây dựng.
    Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Malaysia, Brunei và đảo Đài Loan đều có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
    "Trong khi các lãnh đạo chính trị của chúng ta đang bận rộn tranh cãi thì ở ở ngoài kia trên Biển Tây Philippines (Biển Đông), chúng ta đang dần mất từng tấc đất lãnh thổ do sự xâm lược từ từ của Trung Quốc", một quan chức an ninh cấp cao của Philippines nói.
    Tổng thống Philippines Benigno Aquino III hồi tuần trước đã xác nhận rằng các hoạt động khai hoang của Trung Quốc trên Biển Đông đang tiếp diễn và một lần nữa yêu cầu Bắc Kinh giảm căng thẳng tại các vùng biển tranh chấp.
    Ông Aquino cũng cho hay Philippines sẽ tiếp tục thúc đẩy sự phân xử của tòa án quốc tế đối với các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và kêu gọi một bộ quy tắc ứng xử để kiểm soát các hành vi trong khu vực.
    An BìnhTheo Want China Times


    -Kịch bản xấu VN trông thấy khi TQ xây đường băng ở Gạc Ma
    (Kienthuc.net.vn) - "TQ sẽ lặp lại hành động đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa VN, từ Hoàng Sa chuyển sang quần đảo Trường Sa", thạc sĩ luật Hoàng Việt, nhà nghiên cứu Biển Đông cho biết.Truyền thông Trung Quốc mới đây đưa tin nước này đã đang xây dựng đường băng trên đảo Gạc Ma và dự tính xây đảo nhân tạo gần đảo Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nhằm cạnh tranh với Việt Nam và Philippines trong những tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

    Hành động này diễn ra trong lúc Trung Quốc đang đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Vậy, thực chất Trung Quốc xây dựng đường băng và đảo nhân tạo ở đảo Gạc Ma là có mục đích gì?
    Hình ảnh cụm Sinh Tồn tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam từ trên không, trong đó bãi Gạc Ma nằm ở điểm cuối phía nam. Ảnh: NASA.
    Trao đổi với Kiến Thức, thạc sĩ luật Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về biển Đông nhận định: “Theo tôi, Trung Quốc làm vậy để củng cố vị thế của họ trên đảo. Cái quan trọng là hành động đó của Trung Quốc dẫn đến phá vỡ duy trì nguyên trạng ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Không chỉ phá vỡ nguyên trạng, việc xây đường băng ở bãi Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa và xây đảo nhân tạo gần đó còn dẫn đến các kịch bản xấu. Kịch bản thứ nhất là tất cả các quốc gia trong tranh chấp sẽ cũng làm tương tự như Trung Quốc. Kịch bản thứ hai là có thể Trung Quốc sẽ lập lại hành động đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam từ gần quần đảo Hoàng Sa chuyển sang khu vực quần đảo Trường Sa. Nếu việc này xảy ra, sự đụng độ trên quần đảo Trường Sa sẽ rất căng thẳng, điều đó dẫn đến đe dọa lớn cho hòa bình an ninh khu vực cũng như của toàn bộ châu Á.
    Nếu Trung Quốc xây đường băng, xây một đảo nhân tạo lớn thì có nguy cơ họ sẽ xây dựng căn cứ quân sự trên đảo Gạc Ma. Nếu Trung Quốc có căn cứ quân sự, cộng với sự tham lam vô độ vốn có của họ, thì chắc chắn việc này sẽ gây ra nhiều vấn đề tiềm ẩn, trong đó có cuộc chạy đua vũ trang, gây căng thẳng leo thang trong khu vực quần đảo Trường Sa". 
    Theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, nếu Trung Quốc thực sự xây dựng một căn cứ quân sự tại đây, thì điều này có nghĩa là Trung Quốc đang thực hiện việc chinh phục chuỗi đảo thứ nhất để vươn ra Thái Bình Dương.
    “Tôi nghĩ về lâu về dài họ sẽ làm vì mục tiêu của họ là chiếm được vùng biển Đông, tức kế hoạch nước sâu của họ đưa ra từ năm 1982, thời ông Lưu Hoa Thanh. Theo kế hoạch này, họ phải vươn từ chuỗi đảo thứ nhất rồi sang chuỗi đảo thứ hai và từ chuỗi đảo thứ hai và họ vươn ra Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, đe dọa vị trí của Mỹ”, ông Hoàng Việt nói.
    Hình ảnh tàu Trung Quốc hút cát để biến bãi ngầm đá Gạc Ma thành đảo nổi rộng đến 30 hécta. 
    Theo kế hoạch trên, chuỗi đảo thứ nhất mà Trung Quốc muốn vượt qua kéo dài từ Hàn Quốc đến Philippines tức là bao gồm khu vực biển Đông. Chuỗi đảo thứ hai kéo dài từ đảo Honshu của Nhật, đi qua quần đảo Ogasawara, quần đảo Mariana, và quần đảo Palau. Trong hệ thống “mắt xích Thái Bình Dương” do chuỗi đảo hợp thành, Nhật Bản và Hàn Quốc là trung tâm của mắt xích. Đây cũng là những đồng minh quan trọng của Mỹ tại khu vực châu Á Thái Bình Dương.
    Đô đốc Lưu Hoa Thanh của Trung Quốc từ năm 1982 đã đề xuất Trung Quốc cần kiểm soát chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai vào năm 2010 và 2020. Hải quân của Trung Quốc cần sẵn sàng đón nhận những thách thức của quân đội Mỹ tại Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ dương vào năm 2040 và biển Hoa Đông sẽ trở thành sân sau của hải quân quân đội nhân dân Trung Quốc trong thời gian không xa.
    Trước đó, trong cuộc họp báo về tình hình Biển Đông do Hội Luật gia tổ chức tại Hà Nội, trao đổi bên lề cuộc họp báo, khi được hỏi về thông tin Trung Quốc xây dựng đường băng ở đảo Gạc Ma, luật sư Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ cho hay, việc này rất nguy hiểm vì căn cứ ở Gạc Ma rất quan trọng. Nếu Trung Quốc đã đang xây dựng đường băng trên bãi Gạc Ma thì việc này nằm trong một chiến lược lâu dài thực hiện giấc mộng Trung Hoa của họ, trở thành một cường quốc biển trong tương lai. Đây là đường đi ra của Trung Quốc từ căn cứ Hải Nam xuống Hoàng Sa, rồi xuống sâu dưới Trường Sa. Trung Quốc đã tính một lối ra để thực hiện giấc mộng Trung Hoa - cường quốc biển, cường quốc đại dương.

    Tổng số lượt xem trang