Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2014

Kiện Trung Quốc, Việt Nam được gì ngay cả khi thua?

19-6-2014

Nhiều người cho rằng tranh chấp với Trung Quốc về giàn khoan 981 hiện nay là « bế tắc », là « nan giải ».
Đúng vậy, thật là nan giải khi ta đọc lời « giáo huấn » của Dương Khiết Trì (thông qua Tân Hoa Xã), dạy dỗ VN trong cuộc gặp gỡ với Phạm Bình Minh hôm qua :


Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì chỉ rõ, đối với vấn đề trên biển hiện nay, hai bên cần phải xuất phát từ đại cục gìn giữ quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tránh mở rộng, làm phức tạp và quốc tế hoá vấn đề liên quan.
“Điều bức xúc nhất hiện nay là Việt Nam cần phải đình chỉ quấy nhiễu đối với sự tác nghiệp của Trung Quốc, đình chỉ thổi phồng bất đồng, gây ra tranh chấp mới, xử lý và khắc phục tốt hậu quả vụ bạo lực đánh đập, cướp bóc và thiêu đốt xảy ra tại Việt Nam cách đây không lâu, đồng thời bảo đảm an toàn cho các cơ quan, doanh nghiệp và nhân viên Trung Quốc tại Việt Nam.”

Trong khi Phạm Bình Minh cho biết thái độ của VN :

“Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết, Việt Nam sẵn sàng tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai nước về xử lý thoả đáng các vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước, tránh để cho các vấn đề này quấy nhiễu toàn cục của quan hệ hai Đảng và hai nước.”

Nếu vấn đề ngừng ở đây, rồi hết, thì không phải chỉ là « nan giải » và « bế tắc ». Nan giải và bế tắc là khi ta loay hoay tìm mãi mà không ra giải pháp cho một việc khó khăn nào đó. Ở đây mọi việc như thể được « an bài » trong « cẩm nang » mà lãnh đạo hai bên vạch ra từ các đời TBT trước.

Tức là phía VN đã « bó giáo qui hàng », nếu có làm gì thì cũng không ngoài những gì đã được « lãnh đạo » qui định trước.

Vấn đề mà người dân « bức xúc » là :

Cái « đại cục » mà Dương Khiết Trì chỉ ra cho VN là cái « cục » gì mà lại đặt trên quyền lợi của đất nước ?
« Nhận thức của lãnh đạo » là cái nhận thức nào mà xem là quan trọng hơn trách nhiệm bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ ?

Họ Dương ăn nói ngược ngạo, ngậm máu phun người, cho rằng phía VN đã cản trở đủ thứ sự « tác nghiệp » của giàn khoan 981. Lại còn lên tiếng dạy dỗ công an VN  cần phải « xử lý và khắc phục tốt » các vụ biểu tình bạo động chống TQ trong tháng 5 vừa qua.

Việc này không khác ví von thằng hàng xóm hung hăng đem máy cày vào cày nát miếng ruộng của mình, nó còn lên tiếng bảo mình ngồi yên, không được động đậy khi nó cày. Thái độ « hợp lý » của mình là gì ? Là « xếp ve », hứa sẽ « tuân thủ », để không « quấy nhiễu toàn cục » (lại cái « cục » thối tha) của quan hệ hai đảng, hay là mình la làng « bớ hàng xóm » ?. 

Đáng lẽ việc TQ đặt giàn khoan 981 đã mở cho VN nhiều cơ hội bằng vàng. Trong một bài viết gần đây tôi có cho rằng :

« Sẽ là quá sớm để nói về thành bại của Việt Nam tại Biển Đông trước thách thức của Trung Quốc, khi nước này đặt giàn khoan khổng lồ 981 trên thềm lục địa của VN, cách đảo Lý Sơn trên trăm hải lý.
Trên quan điểm thuần túy chiến lược, có lẽ phía Trung Quốc đã tính toán sai mà việc này có thể mở ra cho VN một cơ hội bằng vàng để giải quyết nhiều khó khăn nội bộ. Trong quan hệ ngoại giao, sự do dự của VN về việc lựa chọn đồng minh chiến lược – Trung Quốc hay Mỹ – sẽ sớm được quyết định. Hệ quả điều này sẽ đi đôi với việc dân chủ hóa chế độ. Như thế Trung Quốc mất một đồng minh tin cậy đồng thời tạo ra một quốc gia thù địch quan trọng. Trong khi việc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã đông lạnh từ tháng giêng năm 1974 cho đến nay, thì được hâm nóng lại. »

Không phải là « điều tốt » hay sao, tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa đã « đông lạnh » từ năm 1974 đến nay lại được « hâm nóng » lại ? Việc này tạo cho Việt Nam một cơ hội giải quyết, hay ít nhất là « quốc tế hóa vấn đề tranh chấp ».

Trung Quốc từ trước đến nay một mực phủ nhận mọi hiện hữu về một tranh chấp chủ quyền ở vùng lãnh thổ này. Bây giờ mình thấy TQ đang phân trần vấn đề Hoàng Sa trước Liên Hiệp Quốc. TQ đưa những bằng chứng cho thấy từ lâu VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại Hoàng Sa. Vùng biển giàn khoan 981 mặc dầu nằm sâu trong vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa của VN nhưng nó hoàn toàn thuộc TQ vì hiệu lực (theo điều 121 Luật Biển 1982) của các đảo Hoàng Sa.

Rõ ràng đây là một « cơ hội bằng vàng » để VN đặt lại toàn bộ vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa với Trung Quốc trước dư luận quốc tế.

Bằng vàng, bởi vì phía TQ đã quên một điều quan trọng, là thời điểm phát xuất các « bằng chứng » (VN) công nhận chủ quyền của TQ tại HS, Việt Nam là một quốc gia bị phân chia, có tới hai miền (VNCH và VNDCCH) mà không bên nào có tư cách pháp nhân « quốc gia » trước quốc tế công pháp. Trong khi hiệp định Genève 1954 (khải huyền hai miền VN) mà TQ là một bên bảo trợ, cam kết toàn vẹn lãnh thổ của một nước VN độc lập, có chủ quyền. Hoa Kỳ, bên không ký hiệp định Genève 1954, cũng nhìn nhận nội dung hiệp định này (ít nhất hai lần), qua các giác thư ngoại giao năm 1965 và qua Hiệp định Paris 1973. Trên tinh thần này thì các bằng chứng mà TQ đưa ra không có giá trị pháp lý. Đơn giản vì nội dung của nó đi ngược lại những qui định của các kết ước quốc tế. Phía VNCH là bên quản lý hai quần đảo HS và TS, là bên có « thẩm quyền quốc gia » trên hai quần đảo. Phía VNDCCH vì không có thẩm quyền quốc gia tại hai quần đảo HS và TS, do đó không thể ký nhận bất kỳ văn kiện nào có nội dung liên quan đến hai vùng lãnh thổ này. Bất kỳ các văn kiện (hay dữ kiện) nào, xuất phát trong thời kỳ này (1954-1975), mang nội dung xâm phạm việc toàn vẹn lãnh thổ của VN, (đi ngược lại tinh thần các hiệp định quốc tế), thì chúng đều không có giá trị.

Nhưng nếu VN xem đây là việc « gia đình », (nói theo kiểu Phùng Nguyên soái), cố gắng tập trung vào việc « thuơng lượng » thông qua « đối thoại song phương », giải quyết theo lối « gia đình », chắc chắn sẽ lâm vào bế tắc vì thái độ cứng rắn của Trung Quốc. Giải quyết theo lối « gia đình » như đã thấy từ trước đến nay giữa hai đảng Cộng Sản (VN và TQ), là con phải nhịn cha, là đứa nhỏ phải chịu thua đứa lớn. VN luôn bị thiệt thòi. Lời « giáo huấn » của Dương Khiết Trì đến lãnh đạo VN là quan hệ gì nếu không phải là cha đối với con ?

Tuy vậy, ta có quyền lạc quan hơn khi đọc ý kiến sau đây của TT Nguyễn Tấn Dũng :

trong cuộc gặp ngày 18/6, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã nói với ông Dương Khiết Trì rằng Bắc Kinh đã ‘xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền’ của Việt Nam khi đưa giàn khoan vào vùng biển như hiện nay.

Tuyên bố này cho thấy, ít nhất một vài lãnh đạo VN đã dám nhìn thẳng vào sự thật, dám vượt lên cái bóng của « gia đình », đặt vấn đề quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi của đảng phái. Ở điểm này không ai có thể phản đối TT Nguyễn Tấn Dũng được.

Vấn đề là TT NT Dũng có can đảm nắm lấy (và khai thác) cơ hội đó không ?

Nếu có, thì tôi hoàn toàn ủng hộ TT Dũng.

Câu hỏi đặt ra là VN khai thác cơ hội này như thế nào ?

Từ lúc giàn khoan 981 của TQ đặt trong vùng biển của VN, nhiều tiếng nói cất lên kêu gọi nhà nước VN « kiện » TQ. Dĩ nhiên đây là một ý kiến đúng đắn.

Quan trọng là kiện về cái gì ? kiện ở đâu, kiện lúc nào ? Kiện tụng là một việc phiêu lưu, có thể thắng, có thể thua. Vì thế hồ sơ kiện của VN phải lập thế nào sao cho mọi phán quyết của tòa, trong tình huống tệ nhất, cũng không làm cho VN bị thiệt hại về chủ quyền lãnh thổ.

Hiện nay nhà nước VN chưa công bố hồ sơ pháp lý của VN về Biển Đông như thế nào nên không thể có ý kiến. Nếu dựa lên các giải pháp của các học giả VN đã đề nghị thì tôi thấy có nhiều nguy hiểm.

Đề nghị thường thấy là nhắc trường hợp Phi kiện TQ và thúc đẩy VN làm tương tự. Theo tôi, kiện như vậy là thất sách, sác xuất VN thắng kiện là vô cùng nhỏ. Hoàn cảnh của VN hiện nay là cố gắng hâm nóng lại tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa mà từ bao lâu nay TQ một mực phủ nhận mọi hiện hữu tranh chấp, chứ không phải là tranh tụng về hiệu lực các đảo ở Trường Sa.

Thật vậy, Phi kiện TQ ra Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) gồm mười điều, nhưng nội dung là tập trung vào việc yêu cầu Tòa giải thích hiệu lực của các cấu trúc địa lý trung vùng quần đảo Trường Sa. VN không có lợi ích gì khi đặt tâm điểm vào Trường Sa.

Nếu VN kiện, xem lại danh sách bảo lưu của TQ năm 1996 ở LHQ, VN sẽ chỉ có thể kiện TQ (ở Tòa trọng tài theo phụ lục VII của công ước về Luật Biển 1982, hay một trọng tài khác…), về việc mâu thuẩn của hai bên do cách diễn giải hiệu lực các đảo thuộc Hoàng Sa (theo điều 121 của luật Biển). Điển hình là đảo Tri Tôn mà phía VN gọi là « cấu trục địa lý » lúc chìm lúc nổi.

VN không thể bây giờ theo chân Phi để kiện TQ về về hiệu lực « đường lười bò ». Vị trí giàn khoan 981 nằm trong vùng chồng lấn giữa các đảo Hoàng Sa và thềm lục địa Việt Nam chứ không có liên quan gì đến « đường lưỡi bò ». VN cũng không thể kiện TQ do việc tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa (do TQ bảo lưu không chấp nhận giải quyết tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế).

Nếu VN xúc tiến việc kiện như ý kiến của các học giả VN, thì chỉ có thể kiện :

-      Yêu cầu Tòa tuyên bố các đảo Hoàng Sa quá nhỏ, không được hưởng qui chế đảo (theo định nghĩa của điều 121.3 Luật Biển 1982), chúng chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý mà thôi.
-      Hoặc yêu cầu Tòa giải thích về hiệu lực các đảo Hoàng Sa.

Kiện như vậy Việt Nam có thể bị Estoppel.

Theo tuyên bố của chính phủ CHXHCNVN ngày 12-5-1977, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vùng (ZEE) 200 hải lý. Điều này cũng đúng trên thực tế. Một số đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa hội đủ các yếu tố « đảo » theo điều 121 (có người sinh sống, có nền kinh tế tự túc…) của Luật Biển 1982. VN không thể yêu cầu Tòa tuyên bố ngược lại chủ trương của mình đã (và đang) có. Do mâu thuẩn lập trường, nguy cơ VN bị Estoppel rất lớn.

Nếu VN yêu cầu Tòa giải thích hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Hồ sơ VN cũng có thể bị bác (Estoppel), vì hai bên VN và TQ, dầu không đồng ý với nhau mọi điểm do tranh chấp về chủ quyền HS, nhưng đã có một điểm chung về qui chế pháp lý của các đảo Hoàng Sa.

Các phương cách kiện (của các học giả VN) cho thấy đều thất sách. Kiện theo lối đó thì VN chỉ thua ít đến thua hết.

Tôi có một số ý kiến về kiện tụng, cần nhắc lại sau đây. 

Nếu VN muốn giải quyết tranh chấp theo lối « gia đình », theo ý muốn của đảng, thì cũng phải phân chia theo nguyên tắc. Nguyên tắc đó là nguyên tắc đã được xác định trong trong Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ ngày 30-12-2000 : Lấy bộ luật Biển 1982 làm nền tảng, cùng với các nguyên tắc « công bằng – équitabilité » và « tỉ lệ – proportionnalité » của công pháp quốc tế để phân định vùng biển ngoài cửa vịnh.

Nếu VN muốn đưa ra Tòa giải quyết, thì thời điểm này là một thời điểm tốt. Ta thấy tổ chức Liên Hiệp Quốc, qua phát ngôn nhân, cho biết đã đồng ý làm trung gian để hòa giải tranh chấp hai bên Việt Nam và Trung Quốc. VN cần nhanh chóng nắm lấy cơ hội này, bằng cách :

Đệ đơn đề nghị Tòa Công lý Quốc tế (CIJ) tuyên bố một số điều :

-      Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
-      Việc chiếm hữu các đảo ở Trường Sa (lập danh sách chi tiết các đảo) năm 1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
-      Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.

Ba yêu cầu Tòa tuyên bố hoàn toàn thuộc về quyền của quốc gia Việt Nam, là thành viên các công ước và các nguyên tắc cơ bản của LHQ. Việc giải thích nội dung các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Tòa CIJ. Đặc biệt các yêu cầu này không liên quan đến các bảo lưu của TQ về việc phân giải tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế.

Mục đích việc yêu cầu Tòa tuyên bố, nếu thành công (điểm 3), sẽ đưa quần đảo Hoàng Sa (không có tranh chấp, theo TQ) vào tình trạng « có tranh chấp ». 

Nếu VN thua, tức Tòa không tuyên bố (không có ý kiến), thì VN cũng không có gì để mất. Trong vụ yêu cầu Tòa tuyên bố này không hề nói đến chủ quyền các đảo (HS và TS) là của ai, mà chỉ nói đến việc nhìn nhận hay không nhìn nhận, danh nghĩa chủ quyền nếu việc chiếm hữu thực hiện bằng vũ lực.

Còn nếu thắng, VN được nhiều thứ.

Theo tập quán quốc tế, « đất thống trị biển ». Nếu các đảo Hoàng Sa là lãnh thổ « có tranh chấp » thì vùng biển phát sinh từ nó cũng có tranh chấp. 

Vị trí giàn khoan 981 có thể được xem nằm trong vùng biển « có tranh chấp » mà  tranh chấp này phát sinh từ chủ quyền các đảo HS chứ không phải phát sinh do chồng lấn hải phận (giữa bờ biển VN với các đảo HS, theo như lập luận của TQ hiện nay).

Theo thông lệ quốc tế, nếu lãnh thổ có tranh chấp, việc giải quyết thường là chia hai (hay cộng đồng khai thác), mỗi bên được một phần của lãnh thổ đó. Tức là, quần đảo HS có thể chia hai, thí dụ hai nhóm Nguyệt Thiềm (Croissant) và An Vĩnh (Amphitrite). VN có thể nhận nhóm Nguyệt Thiềm (phía tây) và giao cho TQ nhóm An Vĩnh (phía đông). Hải phận sinh ra do quần đảo này do đó cũng sẽ chia hai.

Đó là cái lợi thứ nhất. 

Cái lợi thứ hai ở Trường Sa. Nếu tòa tuyên bố (chắc chắn 90%), thì TQ không có chủ quyền tại các đảo của VN tại TS. TQ sẽ không thể tuyên bố vùng « nhận diện phòng không » trong khu vực này được. Điều này chắc chắn Hoa Kỳ, Nhật cũng như các nước trong vùng nồng nhiệt ủng hộ.

Cái lợi thứ ba, là VN dành được tính « chính đáng ». Nhiều người cho rằng các phán quyết của Tòa cũng không làm gì, nếu TQ không tuân thủ. 

Theo tôi, phán quyết của Tòa có tầm quan trọng rất lớn. Trong vụ giàn khoan 981, nếu TQ không rút giàn khoan, VN có thể dùng các biện pháp để bảo vệ quyền lợi của mình. Việc « bảo vệ » ở đây mang tính tự vệ chính đáng, được hiến chương LHQ công nhận.

Cái lợi khác, về chi phí, hồ sơ này đơn giản, viện kiện cáo ít tốn kém, đáng lẽ không cần phải đưa ra một tổ hợp luật sư nào. Tuy nhiên, để nắm chắc phần thắng, đơn không bị bác do lỗi thủ tục, VN nên thông qua một tổ hợp luật sư chuyên môn ở HK.


Do vậy, trái banh kiện TQ hay không đang nằm trong chân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nếu ông quyết định nắm bắt cơ hội bằng vàng này để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, những thất bại của ông (về kinh tế xã hội…) trong thời gian qua có thể sẽ được mọi người xí xóa. Mọi người sẽ biết đến ông như một lãnh đạo hiếm hoi xuất thân từ lò cộng sản có quyết tâm vì quyền lợi của đất nước và dân tộc.

Publié par Nhan Tuan Truong à 02:50

-Kiện Trung Quốc, Việt Nam được gì ngay cả khi thua?

Câu chuyện có nên kiện Trung Quốc hay không khi nước này ngày một lấn chân sâu hơn vào chủ quyển biển đảo của Việt Nam, đặc biệt là việc giàn khoan HD 981. Mặc Lâm trình bày lại những ý kiến mà các chuyên gia về Biển Đông cũng như công pháp quốc tế phát biểu về vấn đề này.

Uy tín quốc gia

Vấn đề Việt Nam có nên kiện Trung Quốc hay không vẫn chưa có câu trả lời tuyệt đối vì khi một vụ kiện xảy ra khả năng thắng hay thua mỗi bên không ai biết trước được vì còn tùy theo các yếu tố có chứng minh là thỏa đáng và thuyết phục tới mức nào.

Tuy nhiên nhiều chuyên gia luật pháp quốc tế cũng như về Biển Đông vừa qua cho rằng Trung Quốc mang giàn khoan vào vùng biển mà theo công ước luật biển 1982 của UNCLOS quy định thuộc đặc quyền kinh tế Việt Nam, Trung Quốc đã liều lĩnh với con bài chủ quyền lỏng lẻo khi chủ quan cho rằng Tòa án quốc tế không thể can dự vào vấn đề này vì Bắc Kinh có quyền chọn lựa chấp nhận tham dự vào vụ kiện hay không.
Yếu tố không tham gia đã khiến nhiều người lo ngại đem Trung Quốc ra tòa là tốn công sức và làm vấn đề nặng nề hơn. Tuy nhiên khi nhìn vào Philippines, nước đã mạnh mẽ đưa hành động xâm lăng của Trung Quốc ra tòa quốc tế thì Việt Nam có thể rút ra được nhiều kinh nghiệm nếu nghiêm túc tiến hành những bước cần thiết cho vụ kiện.
Nếu Việt Nam nhận thấy được, về mặt nhà nước, đây là một khúc quanh, một bước ngoặt thì nhà nước hoàn toàn có thể chủ động với đội ngũ luật sư, luật gia của Việt Nam.
-TS Đinh Hoàng Thắng
Khi Philippines chấp nhận mang Trung Quốc ra tòa quốc tế có nghĩa là Manila chấp nhận việc Trung Quốc từ chối. Tuy nhiên Phi cũng hiểu rằng sự từ chối sẽ làm Trung Quốc mất nhiều thứ trong khi Phillipines không hề mất điều gì.
Cái mất nặng nhất thuộc về Trung Quốc đó là uy tín quốc gia. Trong khi nỗ lực và hết sức tốn kém để kiến tạo quyền lực mềm trên khắp thế giới bao gồm tiền bạc và các Viện Không Tử, Bắc Kinh đang khó khăn lắm để đặt nền tảng văn hóa Trung Quốc nhằm chinh phục thế giới với triết lý Đông phương, vốn theo đuổi quan niệm hòa nhã, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nếu không tham gia vụ kiện của một nước nhỏ hơn, Trung Quốc phải đối diện với mất mát to lớn về uy tín đối với các nước khác, đặc biệt là những nước nhỏ, đang dựa dẫm vào kinh tế Trung Quốc để phát triển. Sự tin cậy cần thiết của các nước sẽ không còn khi biết rằng người bạn khổng lồ rất khó để mà đặt lòng tin vào, ngay cả lòng tin của một hợp đồng mua bán.
Các nước lớn hơn như Hoa Kỳ hay liên minh EU, Nhật Bản sẽ đưa ra những ràng buộc có tính kỹ thuật để hàng hóa Trung Quốc gặp trở ngại với lý do trả đũa vì Trung Quốc đã không tuân thủ luật pháp quốc tế. Trong lúc Nhật đã thấy và có biện pháp mạnh với Trung Quốc, hành động bất tuân luật pháp của Bắc Kinh trong các vụ kiện sẽ giúp cho Tokyo có thêm lý do thuyết phục người dân nước họ thay đổi quan niệm về một Trung Quốc hiền hòa vô hại như trước đây họ từng nghĩ.
1_copy-305.jpg
Hội thảo quốc tế về Hoàng Sa-Trường Sa tổ chức tại Đà Nẵng vào ngày 21/6, hội tụ được nhiều học giả, chuyên gia quốc tế về Biển Đông.
Đối với Việt Nam, khi Trung Quốc trưng ra những bằng chứng bất lợi về công hàm Phạm Văn Đồng, bản đồ và sách giáo khoa công nhận Hoàng Sa – Trường Sa là của Trung Quốc có thể là một trở ngại lớn mà nhiều viên chức chính phủ cho là sẽ khó vượt qua. TS Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hà Lan cho biết ý kiến của ông về vấn đề này:
“Do hoàn cảnh khách quan đặc biệt do hai cuộc kháng chiến mà có thể giữa hai nhà nước, hai đảng có những thỏa hiệp, những tactic, gọi là thỏa hiệp mang tính chiến thuật. Những thỏa hiệp ấy có liên quan đến vấn đề biển đảo và do đó bây giờ về phía Việt Nam cũng có những điều khó ăn khó nói.
Tuy nhiên nếu Việt Nam nhận thấy được, về mặt nhà nước, đây là một khúc quanh, một bước ngoặt thì nhà nước hoàn toàn có thể chủ động với đội ngũ luật sư, luật gia của Việt Nam trong nước cũng như nước ngoài kể cả những người yêu chuộng Việt Nam, yêu chuộng hòa bình công lý, hoàn toàn có thể xây dựng bằng được hồ sơ để đưa Trung Quốc ra tòa về hai phương diện thủ tục và nội dung pháp lý.”

Chắc chắn sẽ thắng?

Nhìn chung hoàn cảnh lịch sử và tình trạng về công hàm ấy Giáo sư Luật Erik Franckx, trong Hội thảo "Hoàng Sa-Trường Sa: Sự thật lịch sử" diễn ra tại Đà Nẵng vừa qua, với tư cách là một thành viên của Tòa trọng tài thường trực ông cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đề cập đến việc mở rộng lãnh hải của Trung Quốc chứ không hề nhắc đến Hoàng Sa hay Trường Sa.
Giáo sư Erik Franckx cho biết vào năm 1958 khi công hàm được đưa ra cũng có nhiều nước ra tuyên bố mở rộng lãnh hải 12 hải lý và ông cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng “ủng hộ cho việc mở rộng đó của Trung Quốc” mà không hề đề cập cụ thể đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” vì vậy không thể cho rằng Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa hay Trường Sa.
Nếu kiện vụ giàn khoan thì hầu như chắc chắn sẽ thắng, còn nếu kiện chủ quyền của Hoàng Sa-Trường Sa rất là khó nói.
-GS Phạm Quang Tuấn
Dù sao đây là một ý kiến đáng ghi nhận và phần việc còn lại Việt Nam phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trước khi mang vấn đề này ra tòa quốc tế.
Tuy nhiên nếu xét về luật biển UNCLOS 1982, ngay cả Hoàng Sa-Trường Sa đang tranh chấp đi nữa thì việc đem giàn khoan vào vùng biển ấy cũng khiến Trung Quốc thua kiện trước tòa án quốc tế. Giáo sư Phạm Quang Tuấn, người theo dõi và có nhiều bài viết phản biện về Biển Đông cho biết nhận định của ông:
“Nếu kiện vụ giàn khoan thì hầu như chắc chắn sẽ thắng, còn nếu kiện chủ quyền của Hoàng Sa-Trường Sa rất là khó nói.
Kiện giàn khoan chắc chắn là thắng vì theo luật biển thì luật này có nói rõ ràng khi mà có một vùng biển đang tranh chấp giữa hai quốc gia thì hai bên phải tránh làm bất cứ điều gì có vẻ khiêu khích hay đơn phương hành động mà phải thương lượng với nhau trước đã. Vụ này rõ ràng rằng nước Tàu nó không thương lượng với Việt Nam trước khi nó đem giàn khoan vô vùng đó mà đó là vùng đang tranh cãi giữa hai quốc gia thành ra Tàu nó làm như vậy là chắc chắn trái với luật quốc tế rồi. Đã có những vụ án trong quá khứ xảy ra tương tự như vậy và cũng được tòa xét xử.
Hầu như ai cũng thấy là Tàu nó làm trái luật vì vậy đem vụ này ra kiện vì nó mang giàn khoan vào mà không thương lượng trước với Việt Nam trong vùng tranh cãi là nó đã trái luật.”
GS. Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu hai khóa của Quốc hội cho rằng quốc hội phải yêu cầu chính phủ đưa vụ kiện ra tòa án quốc tế và đồng thời ra nghị quyết về việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam:
“Quốc hội cần phải ra nghị quyết về vấn đề này. Trong nghị quyết đó thì Quốc hội cũng nên yêu cầu chính phủ phải đưa vụ này ra tòa án quốc tế, còn cụ thể chúng ta kiện như thế nào thì việc ấy giao cho chính phủ để tính toán đầy đủ những cái lý lẽ làm sao cho có lợi nhất trong việc bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc.”
Kiện Trung Quốc để giành phần thắng có thể Việt Nam phải gian nan vì những chứng lý mà Trung Quốc đưa ra, tuy nhiên nếu Trung Quốc biết rằng các chứng lý ấy khó thuyết phục tòa án và từ chối tham dự phiên tòa thì Việt Nam đương nhiên hưởng lợi. Thế giới sẽ thấy được hai mặt của vấn đề mà mặt tích cực sẽ được Việt Nam chiếm lấy.
Ngay cả nếu Trung Quốc ra tòa và vụ kiện kéo dài thì cái lợi của Việt Nam còn lớn hơn: Cơ hội để cả nước nhìn lại những gì mà Trung Quốc đã và đang mang tới cho dân tộc.

Tổng số lượt xem trang