Nguyệt Quỳnh
Mấy thủ lĩnh bí cờ
xôi thịt đã dính bẫy Boxite Trung Quốc?
Mẹ đau như xương sống bị đâm, như cột sống bị đè
Ai đã bán chui biên thùy bằng những mật ước?
Ai đã bán vụng lãnh hải Tổ quốc trong canh bạc độc tài?
Mẹ đau như xương sống bị đâm, như cột sống bị đè
Ai đã bán chui biên thùy bằng những mật ước?
Ai đã bán vụng lãnh hải Tổ quốc trong canh bạc độc tài?
(Mẹ Việt Nam
không chỉ nhìn ra biển - Thế Dũng)
Có
lẽ không có gì cay đắng hơn khi phải làm công dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (VNDCCH) nối dài ngày nay. Phải ngồi nhìn sự nhu nhược của lãnh đạo trước từng
tấc đất đã mất, từng tấc biển đang mất dần trong sự hung hăng lấn chiếm của quân
thù. Sự nhu nhược vượt quá mức chịu đựng đến xấu mặt, thể hiện ngay từ các phát
biểu của các tướng lĩnh trong quân đội. Một quốc gia độc lập với một quá trình lịch
sử hào hùng, nay trở thành một nước chư hầu, mất hết cả khả năng phản kháng. Đến
nỗi nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa phải cất tiếng than: “Ôi! tổ quốc ơi, ai làm người chịu nhục.”
Nhưng
điều đáng nói là sự phản bội đã bắt đầu ngay từ những năm tháng, khi người dân đặt
hết niềm tin và ngay cả sinh mạng của mình vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng. Công
hàm Phạm Văn Đồng đã được ký kết vào cái giai đoạn mà đảng được tin yêu nhất.
Giai đoạn 1954-1959 là khoảng thời gian mà dân chúng miền Bắc sẵn sàng chấp nhận
thiếu thốn, sẵn sàng hy sinh mạng sống, dưới ngọn cờ của đảng để bảo vệ độc lập
nước nhà. Những lá đơn của một thời máu lửa vẫn còn nguyên nét tin yêu đó:
Nguyễn
Gia Long, một thanh niên 23 tuổi, viết đơn tình nguyện đi B: “Tôi, một trong những thanh niên của Tổ quốc,
của Đảng, tôi muốn được góp sức mình trong cuộc đấu tranh chống Mỹ
cứu nước của dân tộc…không một khó khăn nào, một trở lực nào ngăn cản được bước
tiến của tôi đi theo cách mạng. Cao thượng nhất đời tôi là được chết cho cách
mạng”. Ông Phạm Văn Minh đã có hai người con lớn theo bộ đội,
viết đơn cho con trai thứ ba: “Tôi
nguyện cho đứa con thứ 3 của tôi đi chiến đấu cho đến khi nào không còn bóng
dáng một tên xâm lược Mỹ nào thì mới thôi, dù con tôi có phải hy sinh đi nữa
nhưng tôi cũng vui lòng và nó cũng đã góp phần công sức vào chống Mỹ giải phóng
đất nước”.
Lòng ái
quốc và niềm tin của họ đã bị phản bội. Trong lúc đưa hàng ngàn thanh niên vào
miền Nam với danh nghĩa chống Mỹ xâm lược, gia đình và những người trẻ đổ xương máu “giành độc lập” này không
hề biết rằng sau lưng họ, cấp trên đã ký tặng những phần đất xương thịt của tổ
quốc. Phạm Văn Đồng đã lẳng lặng ký công hàm công nhận lãnh
hải "lưỡi bò" thuộc về Trung Cộng vào ngày 14/09/1958. Cho đến nay, những
tài liệu gây nhiều ngỡ ngàng đau đớn này đang được Trung Cộng trưng ra làm bằng
chứng trước thế giới. Rõ ràng lãnh đạo CSVN
sẵn sàng đặt lợi ích trước mắt của đảng lên trên mọi điều thiêng liêng và trên
cả danh dự của chính đảng CSVN. Nếu một đảng phái khác làm điều này, chắc chắn
họ đã phê bình và lên mặt dạy dỗ là quá ấu trĩ, là giữa các quốc gia chỉ có quyền
lợi chứ không có cái gọi là "tình nghĩa", hay ngay cả là làm "bù
nhìn" cho các thế lực ngoại bang v.v…
Bảy
năm sau kể từ ngày ông Phạm Văn Đồng đặt bút ký bức công hàm oan nghiệt này, ngày
10/5/1965 báo Nhân Dân lại một lần nữa khẳng định Hoàng Sa là của Tàu; Nguyên văn:
Ngày 9/5/1965, Chính phủ Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra tuyên bố về việc Chính phủ Mỹ lập
"khu tác chiến" của quân Mỹ tại Việt Nam, chỉ rõ: "Việc
Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ
biển Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng
một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ", đây
là đe dọa trực tiếp "đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và nước láng giềng. Bài báo xác định cụ thể và cắt lìa
xương thịt đất nước cho Tàu Cộng này chắc chắn không là bài báo duy nhất. Hẳn là
trước và sau nó còn có nhiều bài báo khác nữa. Chính những bằng chứng đau đớn
trên giấy trắng mực đen này, khi được Bắc Kinh đem ra xử dụng trong những ngày
gần đây, đã biến các luận điệu cãi chày cãi cối rằng "công hàm Phạm Văn Đồng
không nhắc tới Hoàng Sa - Trường Sa" thành loại lý luận trẻ con mà Ban Tuyên
Giáo CSVN quen dùng với người dân Việt Nam.
Tiếp
đến là một tài liệu gây nhiều âu lo nhất cho đến nay, đó là các bản đồ được in ấn
bởi Cục Đo Đạc và Bản Đồ, trực thuộc Văn phòng Thủ tướng nước VNDCCH. Những bản
đồ này cũng ghi rặt các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là Tây Sa và Nam Sa như Bắc
Kinh căn dặn. Chữ viết của công hàm Phạm Văn Đồng nay được diễn đạt bằng hình vẽ
và nhân rộng hàng ngàn, hàng vạn lần, do chính văn phòng thủ tướng in ấn. Cãi làm
sao bây giờ ?!
Chưa hết, chứng tích bán nước
của lãnh đạo đảng còn nằm sờ sờ trên các trang sách giáo khoa lớp 9 do Bộ Giáo
Dục VNDCCH biên soạn mà nay Bắc Kinh đang trưng ra trước cả thế giới. Nguyên văn:
Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến
các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn ... làm thành một bức
"trường thành" bảo vệ lục địa Trung quốc. Điều đau lòng là đã biết
bao thế hệ học sinh non trẻ đã phải nhớ nằm lòng rằng các quần đảo đó là “Tây
Sa” và “Nam Sa”, và là đảo của Trung Cộng. Cha ông ta suốt mấy ngàn năm đổ biết
bao xương máu, thời đại nào cũng căng mình ra để giữ gìn từng tấc đất của tổ tiên
truyền lại. Nay CSVN không chỉ để mất đất, mất biển, mà còn buộc các thế hệ tương
lai phải chấp nhận đó là chuyện đã rồi. Khó mà không gọi đó là những hành động
chủ tâm phản quốc.
----
Hiển
nhiên, đây chỉ mới là một vài tài liệu khởi đầu mà Bắc Kinh tung ra. Năm tháng
của các tài liệu trên cho thấy Bắc kinh đang có cả kho dữ liệu mà chúng đã thu
thập trong nhiều thập niên qua. Điều đó cũng là bằng chứng cho thấy ý đồ xâm lấn
của Bắc Kinh đã có từ rất lâu -- từ thời ông Hồ Chí Minh còn sống dài cho đến
ngày hôm nay -- đặc biệt bao gồm cả giai đoạn mà Hà Nội hí hửng ôm 16 chữ vàng
và 4 tốt.
Đó
là chưa kể tấm bản đồ có hiện rõ 9 vạch khổng lồ được dùng để trang điểm phòng
họp tại trụ sở thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nơi mà hàng ngày đủ loại các quan chức
thượng tầng ra vào họp hành và không ai, kể cả ông Nguyễn Tấn Dũng, cảm thấy có
chút gì khó chịu hay nhục nhã. Bao giờ thì Bắc Kinh sẽ dùng luôn các hình ảnh này
làm bằng chứng chủ quyền của chúng?
Trước
cả khối những văn kiện xé lòng nêu trên, tôi bất chợt rơi lệ lặng nhìn bản sắc
lệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký ngày 13/7/1961, dời thẩm quyền quản trị quần
đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên vào tỉnh Quảng Nam.
Tới
bao giờ việc bảo vệ từng tấc đất giang sơn mới sẽ lại là trách nhiệm tối thượng
nhưng rất bình thường và đương nhiên của mọi chính phủ và mọi người dân Việt
Nam?