-60 năm ký kết Hiệp định Genève - Kỳ 1:
15/07/2014 08:09 (GMT + 7)
TT - Nhân kỷ niệm 60 năm ký kết Hiệp định Genève, Tuổi Trẻ giới thiệu bài viết của nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan nhìn lại và phân tích về sự kiện này.
15/07/2014 08:09 (GMT + 7)
TT - Nhân kỷ niệm 60 năm ký kết Hiệp định Genève, Tuổi Trẻ giới thiệu bài viết của nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan nhìn lại và phân tích về sự kiện này.
>> VN tham gia hội thảo 50 năm Hiệp định Genève
>> Sự thật Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
>> Sự thật Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Như bất kỳ sự kiện lịch sử nào, Hiệp định Genève (ký kết ngày 20-7-1954) cũng có nét đậm, nét nhạt. Thời gian càng lùi xa thì những nét ấy càng nổi rõ hơn nhờ những tư liệu mới được công bố, nhờ những cách nhìn sáng rõ hơn và nhất là được cuộc sống kiểm nghiệm.
Có một thực tế là bên cạnh sự đồng thuận về những kết quả nhãn tiền của hội nghị, suốt 60 năm qua vẫn dai dẳng một số suy tư, thắc mắc. Ta hãy thử nhìn lại xem đó là những điều gì?
Vai trò của Trung Quốc
"Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đàm phán, phía ta từng đưa ra các phương án về khu vực đình chiến và tập kết quân như giới tuyến tạm thời chạy theo vĩ tuyến 13 (khoảng tỉnh Phú Yên) hoặc vĩ tuyến 14 (khoảng Bình Định). Lúc đầu, Trung Quốc đưa ra vĩ tuyến 16 (khoảng dưới Đà Nẵng) nhưng cuối cùng đã lấy vĩ tuyến 17 (Quảng Trị) làm giới tuyến" |
Lúc đầu Hội nghị Genève do các nước lớn là Liên Xô, Anh, Pháp và Mỹ triệu tập để bàn về các vấn đề châu Âu là chính.
Vào đầu những năm 1950, cuộc “chiến tranh lạnh” ở vào đỉnh điểm với cuộc chạy đua vũ trang căng thẳng, nhất là về vũ khí hạt nhân. Hai nhà nước Đức: Cộng hòa dân chủ ở phía đông, Cộng hòa liên bang ở phía tây ra đời; các nước phương Tây lập ra khối NATO, các nước xã hội chủ nghĩa lập ra khối Vacxava...
Nói một cách khác, hình hài cục diện “hai phe, hai cực” đã lộ rõ và an bài. Cũng vào lúc này đã diễn ra hai cuộc “chiến tranh nóng” là chiến tranh Triều Tiên (1951-1953) và chiến tranh Đông Dương (từ năm 1946) phần nào phản ánh sự đối đầu giữa hai phe.
Vào nửa đầu những năm 1950, ở cả hai phe đều diễn ra một số thay đổi quan trọng.
Ở Liên Xô, nhà lãnh đạo tối cao Stalin từ trần vào năm 1953, tình hình chính trị và kinh tế khó khăn, ban lãnh đạo mới chủ trương hòa hoãn với phương Tây, đề ra chính sách đối ngoại “chung sống hòa bình, thi đua hòa bình và quá độ hòa bình” (tức là các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa chung sống hòa bình với nhau, hai bên thi đua hòa bình để phát triển, sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội thực hiện bằng con đường hòa bình).
Pháp chịu thất bại ngày càng nghiêm trọng trong cuộc chiến Đông Dương đưa tới khủng hoảng nội bộ hết sức sâu sắc, đòi hỏi phải tìm ra lối thoát. Nước Anh suy yếu nhiều, lại phải đối mặt với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa của Anh nên cũng có yêu cầu hòa hoãn ở châu Âu.
Riêng Mỹ muốn thao túng Tây Âu, duy trì đối đầu căng thẳng với Liên Xô nhưng cũng không thể đứng ngoài những thu xếp giữa Liên Xô và Tây Âu.
Trong bối cảnh đó, Liên Xô và Tây Âu, sau đó cả Mỹ thỏa thuận triệu tập Hội nghị Berlin (từ ngày 25-1-1954 đến 18-2-1954) để giải quyết các vấn đề ở châu Âu, chủ yếu là vấn đề Đức. Tham gia Hội nghị Berlin có ngoại trưởng Mỹ, ngoại trưởng Anh, ngoại trưởng Pháp và ngoại trưởng Liên Xô.
Tuy nhiên, do lập trường quá khác nhau nên họ không đi đến thỏa thuận nào, bèn quay sang bàn hai vấn đề ở “ngoại vi” là vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương. Sau khi kết thúc Hội nghị Berlin không đạt được kết quả, Liên Xô, Anh, Pháp và Mỹ đã lên kế hoạch tổ chức tiếp Hội nghị Genève.
Và vai trò của Trung Quốc xuất hiện ở đây. Với lập luận không thể thảo luận các vấn đề Viễn Đông nếu không có Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Liên Xô yêu cầu mời Trung Quốc tham dự. Các nước phương Tây cần Trung Quốc để giải quyết vấn đề Triều Tiên.
Riêng Anh có vấn đề Hong Kong và cần thị trường Trung Quốc. Pháp cần vai trò Trung Quốc trong một giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Mỹ miễn cưỡng phải chấp nhận để Trung Quốc tham gia hội nghị nhưng “không bắt tay” với Trung Quốc theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (trưởng đoàn Mỹ John Foster Dulles không bắt tay trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai).
Được chính thức tham dự một hội nghị quốc tế như vậy quả là một món quà vô giá đối với Trung Quốc lúc đó còn bị cô lập về chính trị, chưa lấy lại được vị trí ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nên Trung Quốc chủ trương tích cực tham gia nhằm “tạo thuận lợi cho việc mở ra con đường hiệp thương giữa các nước lớn để giải quyết các tranh chấp quốc tế” như đề án tham dự Hội nghị Genève của ban lãnh đạo Trung Quốc đã xác định.
“Qua các tư liệu có được có thể thấy lúc ấy Liên Xô kiên định ủng hộ ta nhưng chú trọng nhiều hơn tới các vấn đề châu Âu, có phần thụ động và “khoán” các vấn đề Viễn Đông cho Trung Quốc. Như vậy là Hội nghị Genève về Đông Dương xuất phát từ nhu cầu của các nước lớn. Vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia đã được sử dụng để phục vụ những lợi ích và sự dàn xếp của họ”. Nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan |
Nói nôm na thì Trung Quốc tham dự hội nghị để xác lập vai trò nước lớn của mình trong việc giải quyết các công việc quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao và kinh tế với các nước phương Tây.
Nhân đây cần phải nói rằng qua các tư liệu có được có thể thấy lúc ấy Liên Xô kiên định ủng hộ ta nhưng chú trọng nhiều hơn tới các vấn đề châu Âu, có phần thụ động và “khoán” các vấn đề Viễn Đông cho Trung Quốc.
Như vậy Hội nghị Genève về Đông Dương xuất phát từ nhu cầu của các nước lớn. Vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia đã được sử dụng để phục vụ những lợi ích và sự dàn xếp của họ.
Việt Nam bị chia làm 2 miền
Căn cứ vào các văn kiện chính thức và phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đó, có thể thấy ta cũng chủ trương mở ra mặt trận ngoại giao bên cạnh mặt trận quân sự và tiến hành cải cách ruộng đất.
Bài trả lời phỏng vấn ngày 26-11-1953 của Hồ Chủ tịch cho tờ báo Expressen của Thụy Điển đã gây tiếng vang lớn, trong đó Người nói rõ: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút ra được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”.
Sự điều chỉnh sách lược ấy bắt nguồn từ chỗ phân tích tương quan lực lượng trên chiến trường và tình hình quốc tế, trong đó nội bộ nước Pháp chính quyền khủng hoảng sâu sắc, phong trào phản chiến dâng cao, Mỹ lăm le trực tiếp tham chiến ở Đông Dương, Liên Xô và Trung Quốc là hai nước chủ yếu cung cấp viện trợ cho ta muốn “làm tình hình thế giới bớt căng thẳng, đó là lo lắng chính của phe ta hiện nay...” như Tổng bí thư Trường Chinh lúc bấy giờ đánh giá.
Chủ trương đi vào thương lượng, ta kiên trì lập trường “bốn điểm như những cái khâu của một sợi dây chuyền ngoắc vào nhau, không thể tách rời nhau” như Tổng bí thư Trường Chinh nhấn mạnh.
Đó là: “Độc lập là độc lập thật sự và hoàn toàn của dân tộc”, “Thống nhất là thống nhất quốc gia, toàn bộ lãnh thổ nước ta là của ta (Miên, Lào cũng vậy vì Miên - Lào cũng thống nhất trong độc lập và hòa bình)”, “Chế độ dân chủ cộng hòa có tính chất dân chủ, không thể xâm phạm được” và “Hòa bình là hòa bình chân chính”.
Vì sao đất nước bị chia cắt do kết quả của Hội nghị Genève? Có lẽ đây là câu hỏi day dứt nhất khi nói tới sự kiện lịch sử này.
Điều đó cũng dễ hiểu vì tình trạng đất nước bị chia cắt đã gây ra biết bao đau thương, mất mát cho dân tộc ta, chỉ 20 năm sau nước nhà mới thống nhất, giang sơn mới được thu về một mối.
Trong lịch sử, mỗi khi thỏa thuận về một cuộc đình chiến hoặc phân chia vùng ảnh hưởng người ta thường phải thỏa thuận khu vực chiếm đóng của các bên liên quan.
Thực tế ấy đã diễn ra ở nhiều nơi, trong đó có việc chia cắt nước Đức, bán đảo Triều Tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Về Việt Nam lúc bấy giờ có ba phương án được xem xét: một là quân Pháp rút về những vị trí họ đóng quân trước khi nổ ra chiến tranh cuối năm 1946, hai là các bên ở đâu đóng ở đấy với một số sự điều chỉnh và ba là phân chia vùng tập kết.
Các nước lớn chọn phương án theo hình mẫu Triều Tiên, trong đó Trung Quốc đóng vai trò lớn. Bằng chứng là tháng 8-2008, Nhà xuất bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất bản cuốn Chu Ân Lai và Hội nghị Genève của tác giả Tiền Giang công bố rất nhiều tư liệu mới, trong đó tác giả đã trích đăng bức điện ngày 2-3-1954 của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi Trung ương Đảng ta đề nghị: “Nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới tuyến tương đối cố định, có thể bảo đảm được một khu vực tương đối hoàn chỉnh. Trên thực tế, giới tuyến đình chiến hôm nay có thể trở thành ranh giới chia cắt trong ngày mai... Đường giới tuyến này càng xuống phía Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ tuyến 16 độ bắc” (tư liệu này còn được trích dẫn trong cuốn Cuộc đời Chu Ân Lai do Nhà xuất bản Nhân Dân Trung Quốc xuất bản năm 1997).
Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đàm phán, phía ta từng đưa ra các phương án về khu vực đình chiến và tập kết quân như giới tuyến tạm thời chạy theo vĩ tuyến 13 (khoảng tỉnh Phú Yên) hoặc vĩ tuyến 14 (khoảng Bình Định). Lúc đầu, Trung Quốc đưa ra vĩ tuyến 16 như trên đã nói (khoảng dưới Đà Nẵng) nhưng cuối cùng đã lấy vĩ tuyến 17 (Quảng Trị) làm giới tuyến.
Qua những tư liệu trên có thể thấy ý tưởng vạch giới tuyến xuất phát từ đâu và thậm chí ngay từ đầu người ta đã quan niệm đó không phải là giới tuyến tạm thời, mà là ranh giới chia cắt!
(còn nữa)
VŨ KHOAN (nguyên phó thủ tướng)