Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

SỨ MẠNG VIỆT NAM thời Bảo Bình, năm 2000 tới 4000 dl, với MẶT ĐÁ đặc biệt, với NOSTRADAMUS

danhgiactau.com: Xin giới thiệu loạt bài về
SỨ MẠNG VIỆT NAM thời Bảo Bình, năm 2000 tới 4000 dl.
Những bài nầy căn cứ đặc biệt trên một MẶT ĐÁ VÂN Đặc Biệt, được thành hình cách đây hơn Một Trăm Triệu Năm, và trên hai đoạn sấm cách đây hơn Năm Trăm Năm của NOSTRADAMUS.
Mặt Đá được ghi nhận đặc biệt nói về thời đại của chúng ta hiện nay, với 8000 năm vừa qua, với 2000 năm sắp tới, với những nền Văn hóa lớn hiện đại, và với Sứ Mạng của Dân tộc và Đất Nước VIỆT NAM trong 2000 năm của thời Bảo Bình đang tới.
Qua đó, MẶT ĐÁ còn là chứng cứ Vật Chất, bằng Đá,

Tuyên xưng sự Hiện Hữu của Một THẦN TRÍ bao trùm Thời gian và Không gian, thấu suốt mọi Hữu hình và Vô hình... 
Xác chứng sự Quan Tâm và Yêu Thương của Ngài đối với Vũ trụ, đối với Nhân loại, đối với mỗi một cá thể trong Vũ trụ...
Trân trọng.
LỜI MỞ
1. Đây là Mặt Đá Vân, cẩm thạch, được thành hình từ hơn Một Trăm Triệu Năm trước.
Nhưng đặc biệt, Mặt Đá nầy có những hình ảnh ghi lại 4 Tinh Hệ của 8000 năm vừa qua, và Tinh hệ của 2000 năm đang tới. Những hình ảnh tinh hệ nầy mới được Con người Tưởng Tượng cách đây 5000 năm, nhưng đã có trên Mặt Đá cách đây hơn 100.000.000 năm.
Đặc biệt, vì trên Mặt Đá còn có hình ảnh Huyền Thoại về Nguồn gốc của 3 nền Văn hóa lớn hiện đại.
Đặc biệt, vì trên Mặt Đá, 8 hình ảnh trên không nằm lộn xộn, mà mỗi hình, mỗi Tinh hệ, mỗi Huyền thoại, đều ở đúng vị trí thích đáng của nó.
Bốn hình ảnh Tinh hệ của ‘8000 năm vừa qua’ nằm ở 4 góc, quay mặt theo chiều phải qua trái. Tinh hệ của thời Hiện đại lớn gấp 10 lần, nằm chính giữa, theo chiều dài của Mặt Đá, và hướng từ trái qua phải.
Đang khi đó, Ba hình ảnh Huyền thoại lại nằm theo vòng tròn, mỗi huyền thoại nằm đúng vị trí Đông, Tây, Nam của mình, và cùng quay mặt về một hướng.
Nhưng đặc biệt hơn cả, Mặt Đá còn có hình BẢN ĐỒ VIỆT NAM chiếm gần một nửa chiều dài Mặt Đá, và Hình LONG PHỤNG cũng lớn tương đương.
*     *
2. Một Mặt Đá bầu dục với diện tích 1,7 m2, được thành hình từ 100.000.000 năm trước, lại có in dấu của 14 Hình ảnh của Con người hiện đại, hoặc do con người tưởng tượng.
Với tất cả những hình ảnh đó, với vị trí, với chiều hướng, kích thước, góc độ... được bố trí tỉ mỉ và thích đáng; với những chi tiết nhỏ nhặt, đặc thù, đích xác... cho từng hình ảnh.
Và đặc biệt, với Bản đồ VIỆT NAM, và hình LONG PHỤNG, cùng một kích cỡ với Cá BẢO BÌNH, và chiếm gần trọn Mặt Đá...
Ta có thể nói Mặt Đá 100.000.000 Năm nầy chú trọng tới VIỆT NAM và Văn hóa TIÊN RỒNG trong Thời BẢO BÌNH, trong 2000 năm đang tới, từ hiện nay tới năm 4000 dl.
*     *
3. Bạn sẽ tự mình nhận định : đây là một ngẫu nhiên hay là một tiên báo từ 100.000.000 Năm trước.
Tuy nhiên, dầu ngẫu nhiên hay không, những bộc lộ trên Mặt Đá Vân nầy cũng đáng chúng ta quan tâm.
Hơn nữa, nếu quả thực đây là những Tiên Báo về Sứ mạng của Dân tộc Việt Nam trong 2000 năm tới, thì cũng đáng vui mừng và hãnh diện. Đồng thời, cũng cần sẵn sàng cho nhiều trách nhiệm, nhiều công tác, nhiều dấn thân.
*     *
4. Sau đây chỉ là những trình bày vắn tắt, để giúp nhận ra những hình ảnh đã được thành hình trên Mặt Đá từ hơn Một Trăm Triệu Năm trước.

5102. MẶT ĐÁ VÂN VÀ CÁC KỶ NGUYÊN
1. ĐÁ VÂN VÀ CON NGƯỜI
1.1 Đá vân thiên nhiên.
Mặt Đá nầy là một trong hai tấm đá vân thiên nhiên, được mua từ công ty nhập cảng SNB Stone, Pinkemba 4008, Australia, ngày 18.1.2000.
Tấm đá thuộc loại Rosso Levanto Marble.
Theo niên đại địa chất, loại đá vân nầy hình thành thời Jura (Jurassic) và thời Creta (Cretaceous), trong khoảng từ 205 tới 65 Triệu Năm trước.
Ta dùng con số tròn là 100.000.000 Năm.
*     *
1.2 Mặt Đá.
Mặt Đá có kích thước 1904x1120mm, được tính theo bội số tổng hợp 2 thốn, với hình bầu dục tự ý phác họa, để làm mặt bàn. Chân bàn cũng được phác họa.
Việc thực hiện do công ty Marble Works, Sumner Park, 4074, từ ngày 19.1.2000 tới 4.3.2000.
Mặt Đá được cắt theo mẫu làm sẵn. Tấm đá được chọn vì gần chính giữa có chấm trắng, chung quanh chấm có dạng một vòng tròn.
Cả khi đã làm xong, không một ai thấy một hình gì trên Mặt Đá.
Tất cả những hình dạng được trình bày sau đây đã được nhiều người, hầu hết là tình cờ, nhận ra trong vòng 10 năm.
*     *
1.3 Con Người trên Trái Đất.
Theo khảo cổ hiện nay, giống khỉ được coi có thân thể là tiền thân của con người, đã xuất hiện khoảng 7.000.000 năm trước. Tuy nhiên, loại đứng thẳng trên 2 chân xuất hiện vào khoảng hơn 2.000.000 năm.
Con Người Khôn Ngoan, Homo Sapiens, với bộ óc và bộ dạng như hiện nay, chỉ mới xuất hiện cách đây 100.000 năm.
*     *     *     *
2. MẶT ĐÁ VÂN Và 5 KỶ NGUYÊN
2.1 Năm Hình trên Mặt Đá Vân.
Điểm đặc biệt của Mặt Đá Vân thiên nhiên nầy là có hình một con Cá lớn ở giữa. Chung quanh còn có hình hai Người, một con , một con Trừu, và hai con Cá nhỏ.
 

Những hình ảnh nầy nhắc nhớ Vòng Hoàng Đạo.
*     *
2.2 Vòng Hoàng Đạo.
Theo tài liệu, cách đây gần 5.000 năm, dân Babylon đã chia vòng bầu trời quay quanh trái đất thành 12 phần bằng nhau. Các tinh tú trong mỗi phần lại được tưởng tượng thành một hình dạng riêng, gọi là tinh hệ, và theo đó mà đặt tên cho phần trời.
Ví dụ : hình tinh hệ Song Sinh trên bầu trời và hình ảnh tưởng tượng của con người.
   
Vòng Hoàng đạo gồm 12 Tinh hệ.
 
*     *
2.3 Mười Hai Kỷ Nguyên.
Vận hành một vòng của trục Xuân phân được gọi là Năm Thiên văn. Năm Thiên văn dài bằng 25.920 năm của Trái đất.
Năm Thiên văn cũng được chia theo 12 phần, và được gọi là 12 Tháng Thiên văn, hoặc 12 Kỷ Nguyên. Một Kỷ Nguyên dài 2160 Năm Trái đất.
 Tuy nhiên, vì các tinh hệ lớn nhỏ khác nhau, và vì không có ranh giới giữa các tinh hệ, nên các Kỷ Nguyên xê dịch giữa 1800 tới 2300 năm, thay vì 2160 năm.
Vì vậy, và cũng vì thời khoảng đó quá dài đối với đời sống từng con người, nên mỗi Kỷ Nguyên đã thường được đơn giản hóa thành 2000 năm.
Nói cách đơn giản, Kỷ nguyên Song Ngư vừa kéo dài từ năm 1 tới năm 2000 dl.
Từ năm 2000 dl tới năm 4000 dl là Kỷ Nguyên Bảo Bình.*1  
*     *
2.4 8000 Năm vừa qua và 2000 Năm tới.
Theo chiêm tinh, hiện nay chúng ta đang bước vào Kỷ Nguyên Bảo Bình, từ năm 2000 tới năm 4000 dl.*2
2000 năm vừa qua là Kỷ nguyên Song Ngư.
Trước đây 3000 và 4000 năm là thời Dương Cừu.
Trước đây 5000 và 6000 năm là thời Kim Ngưu.
Trước đây 7000 và 8000 năm là thời Song Sinh.
 
*     *
2.5 Ảnh hưởng trên Con Người.
Nhìn tổng quát 8000 năm qua, ta có thể thấy một số ảnh hưởng của các tinh hệ, của các kỷ nguyên, trong các nền văn hóa xưa.
*     *     *     *
3. KỶ NGUYÊN SONG SINH
3.1 Thời Song Sinh, hai người Sinh Đôi, năm 6000-4000 ttl, khoảng 7 và 8 ngàn năm trước. Chúng ta không có nhiều tài liệu về kỷ nguyên nầy.
Tuy nhiên, truyền thuyết của dân vùng Tiểu Á về Hai vị Tổ Loài người Adam và Evà, ở vườn Địa Đàng, có thể cũng đã khởi nguồn từ Kỷ nguyên nầy.
Cũng vậy, truyền thuyết về Hai vị Tổ Tộc Việt, Mẹ Tiên và Cha Rồng, cũng có liên hệ tới kỷ nguyên Song Sinh. Đây là thời Khởi nguyên của Tộc Việt ở vùng Hồ Đồng Đình, thời phát sinh nền Văn hóa Tiên Rồng.*3
 
*     *
3.2 Song Sinh trên Mặt Đá Vân.
Điều kỳ lạ là trên Mặt Đá Vân, thành hình cách đây 100.000.000 Năm, đã có hình Song Sinh.
 
*     *     *     *
4. KỶ NGUYÊN KIM NGƯU
4.1 Thời Kim Ngưu, Bò Vàng, 4000-2000 ttl, cách đây 5 và 6 ngàn năm trước.
a. Ở Ai cập, nhiều tấm đá thời 3100 ttl, vào giữa thời Kim Ngưu, có khắc hình những vị Vua đầu Bò. Đây có thể cũng đã là thời thịnh vượng của kỷ nguyên nầy.
Những con Bò có dấu hiệu đặc biệt cũng đã được dân Ai Cập thờ kính như hiện thân của Đấng Tạo hóa. Sách Thánh Kitô giáo cũng có nhắc tới.
 
b. Đang khi đó, cũng trong kỷ nguyên nầy, Ấn Độ cũng đã thờ Bò, và còn lưu truyền trong đạo giáo và văn hóa tới hiện nay.
 
c. Ở phương Đông, vào thời nầy, dân Tộc Việt đã phát minh ra kỹ thuật dùng trâu kéo cày, cải tiến hoàn toàn nghề trồng lúa nước, và cuộc sống, văn hóa...*4
Dân Việt vùng hạ lưu sông Dương Tử đã dùng hình ảnh Trâu kéo cày để ghi tên mình, thành chữ Hạ 夏, Nhà Hạ.*5
 
Cũng do hãnh diện với kỹ thuật ‘Trâu kéo cày’, dân Việt Lạc Sông Hồng dùng chữ Thuỷ , chữ Ngưu , và hình cái cày , để ghi tên Hồng . Ngưu là bò, thủy ngưu là trâu.*6
 
dNhư vậy, gần như đồng thời, vào giữa thời Kim Ngưu, cách đây 5000 năm, vùng Ai Cập và lân cận ở phương Tây, vùng Ấn Độ ở phương Nam, và vùng Tộc Việt ở phương Đông, cũng đều chú trọng tới Trâu Bò, cũng đều phát triển ngành trồng lúa nước, với cái cày.
* Kỷ nguyên Kim Ngưu là thời phát triển nghề trồng lúa nước và nền văn hóa Lúa nước, với 3 vùng chính trên thế giới.
Dân trồng lúa nước phát triển ở các đồng bằng nhiều nước, nhiều mưa, nhiều nắng ấm. Họ định cư lâu dài, ít di chuyển. Do đó, họ có cuộc sống cộng đoàn, nương tựa nhau, hòa hợp với thiên nhiên, ôn hòa, thích nghệ thuật...*7
*     *
4.2 Kim Ngưu trên Mặt Đá Vân.
Cũng như Song Sinh, hình Kim Ngưu, bò vàng, cũng có trên Mặt Đá Vân.
 
*     *     *     *
5. KỶ NGUYÊN DƯƠNG CỪU
5.1 Kỷ nguyên Dương Cừu là thời của Trừu, Chiên, 3 và 4 ngàn năm trước, 2000-1 ttl.
a. Ở thời Dương Cừu, Trừu trở thành vị Thần bảo vệ các Vua Ai Cập. Hiện nay, tại cố đô Luxor của Ai Cập vẫn còn con đường với hơn 3000 tượng thần Trừu khổng lồ. Đứng dưới đầu Trừu là tượng một vị vua.
 
b. Đang khi đó, vào giữa thời Dương Cừu, thoát ly từ Ai Cập, dân Do Thái thành lập quốc gia, và dùng Trừu làm lễ vật trung gian liên lạc với Thượng Đế.*8
Vào cuối thời Dương Cừu, Đức Giêsu cũng được gọi là Con Chiên của Thiên Chúa, và làm Trung gian Cứu chuộc Nhân loại.
 
c. Cũng thời kỳ nầy, ở vùng Thiểm Tây khô cằn giá lạnh phía tây Hoàng Hà, dân du mục, nuôi dê trừu, đã tụ tập. Năm 1046 ttl, vào giữa kỷ nguyên Dương Cừu, họ thành lập Nhà Chu ở vùng Sông Vị. Họ trở thành tộc Hoa, với nền văn hóa du mục tiêu biểu.
 
d. Kỷ nguyên Dương Cừu là thời cường thịnh của ngành chăn nuôi dê trừu, tăng triển nềnvăn hóa du mục.
Du Mục là dân sống vùng đồng cỏ khô cằn, suốt đời di chuyển theo đoàn súc vật.
Do đó, văn hóa gốc du mục coi trọng sức mạnh, trọng phái nam, thích động, trọng võ nghệ, hiếu thắng, trọng cá nhân... Vì vậy, đưa tới trọng phụ hệ, chuyên chế... với lối suy tư thiên về độc lập, độc tôn, độc tài...*9
*     *
5.2 Dương Cừu trên Mặt Đá Vân.
Hình Dương Cừu của thời cách đây 3 và 4 ngàn năm, cũng có trên Mặt Đá Vân từ Một Trăm Triệu Năm trước.
 
*     *     *     *
6. KỶ NGUYÊN SONG NGƯ
6.1 2000 năm vừa qua là thời Song Ngư, 2 Cá. Theo khoa chiêm tinh, đây là thời của Đức Giêsu, với biểu tượng là Con Cá.*10
Theo giải thích, sở dĩ có biểu tượng con Cá, vì vào thời Kitô giáo phát triển ở vùng ngôn từ Hy lạp, những chữ đầu của Danh hiệu Đức Giêsu ráp lại thành chữ ΙΧΘΥΣ [Íchtuýs]. ΙΧΘΥΣ có nghĩa là con Cá.
 
Viết theo mẫu tự la tinh : Iesous Christos Theou Uios Soter. Nghĩa là ‘Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Tinh’.*11
Nhiều hình ảnh Đức Giêsu cũng được vẽ trong khuôn hình Cá.
Cũng theo khoa chiêm tinh, thời Song Ngư có thêm Đức Maria, Mẹ của Đức Giêsu, với danh hiệu ‘Đồng Công Cứu Thế’. Ngài là con Cá Nhỏ trong Song Ngư.*12
 
*     *
6.2 Song Ngư trên Mặt Đá Vân.
Hình Song Ngư cũng xuất hiện trên Mặt Đá Vân.
 
*     *     *     *
7. THỜI BẢO BÌNH, 2000 NĂM ĐANG TỚI
Chúng ta đang ở vào thời khởi đầu Kỷ nguyên Bảo Bình.
Theo kinh nghiệm, các chiêm tinh gia tiên đoán Kỷ nguyên Bảo Bình sẽ là thời Nhân Loại sống trong quân bình, thịnh vượng, thanh bình, và hạnh phúc.
Hình ảnh thông thường của thời Bảo Bình là Ông Già một tay cầm gậy vua, một tay đổ bình nước chảy thành dòng.
Tuy nhiên, nối kết các sao sáng, dạng của tinh hệ Bảo Bình còn được diễn tả bằng hình Con Cá.
Chính hình con Cá nầy xuất hiện trên Mặt Đá Vân, thành hình cách đây Một Trăm Triệu Năm. 
 
*     *     *     *
8. NHÌN CHUNG
8.1 Nhìn chung 4 Kỷ nguyên qua.
1. Dầu các tinh hệ chỉ do trí tưởng tượng của con người, hình dạng của tinh hệ cũng đã có một số ảnh hưởng tiêu biểu trên các nền văn hóa lớn đương thời.
2. Ở mỗi Kỷ nguyên, một loại văn hóa đã phát triển đồng thời ở nhiều nơi.
3. Thời thịnh vượng tiêu biểu của một Kỷ nguyên ở vào khoảng giữa kỷ nguyên.
4. Ngoài nền văn hóa nổi bật của Kỷ nguyên, nhiều nền văn hóa khác vẫn tiếp tục lưu truyền.
*     *
8.2 Nhìn chung Hình dạng biểu trưng các Kỷ nguyên trên Mặt Đá Vân.
a. Mặt Đá Vân có hình dạng biểu trưng của 5 Kỷ nguyên :
1. Song Sinh, cách đây 7 và 8 ngàn năm.
2. Kim Ngưu, cách đây 5 và 6 ngàn năm.
3. Dương Cừu, cách đây 3 và 4 ngàn năm.
4. Song Ngư, 2 ngàn năm vừa qua.
5. Bảo Bình, 2 ngàn năm đang tới.
 
b. Hình dạng 5 Kỷ nguyên trên Mặt Đá Vân, có một số đặc điểm sau đây :
1. Hình Cá Bảo Bình, biểu trưng của Kỷ nguyên 2000 năm tới, nằm ngay ngắn giữa Mặt Đá, và lớn hơn các hình khác.
2. Bốn Kỷ nguyên của 8000 năm vừa qua, nằm ở 4 góc.
3. Theo thứ tự thời gian, 4 Kỷ nguyên vừa qua còn đối xứng chéo qua tâm Cá Bảo Bình : Song Sinh với Kim Ngưu, rồi Dương Cừu với Song Ngư.
4. Tất cả 5 Hình đều nằm đúng theo cùng một hướng nhìn, kể cả theo góc độ.
5. Các Kỷ nguyên quá khứ quay mặt từ phải qua trái, ngược chiều kim đồng hồ, theo hình bầu dục.
*     *
8.3 Mặt Đá Bảo Bình.
Theo vị trí và tương quan giữa 5 Kỷ nguyên trên Mặt Đá Vân, trung tâm và chính yếu của Mặt Đá Vân là Kỷ nguyên Bảo Bình.
Do đó, từ đây ta gọi Mặt Đá Vân nầy là Mặt Đá Bảo Bình, thành hình từ Một Trăm Triệu Năm trước.
*     *     *     *
9. CÂU HỎI
9.1 Tiền thân của thể xác Con Người xuất hiện xưa nhất cũng không quá 7 triệu năm, nếu không nói là 100 ngàn năm.
Vòng Hoàng Đạo và Hình dạng biểu trưng các Kỷ nguyên là do trí tưởng tượng của Con Người, và được ghi nhận cách đây mới 5.000 năm.
Vậy, do đâu những hình ảnh tưởng tượng của con người mới 5.000 năm qua, lại đã xuất hiệntrên Mặt Đá thành hình từ 100.000.000 Năm trước ?
Do đâu các Hình dạng Tưởng Tượng, mà con người gán cho Bầu Trời, lại có thể ảnh hưởngtới các nền văn hóa, tới Cuộc sống của Nhân loại ?
*     *
9.2 Ngẫu nhiên hay không ?
a. Nếu cho là ngẫu nhiên, xin đọc tiếp các bài sau.
Nếu không do ngẫu nhiên thì do đâu ? Ai là tác giả ?
Không thể do con người, vì con người xuất hiện sau Mặt Đá Vân Một Trăm Triệu Năm. [Số lẻ không đáng kể].
*
b. Không do con người thì do đâu ? do Ai ?
Vị ‘Ai’ nầy là Ai mà có thể biết con người từ Một Trăm Triệu Năm trước, trong khi Con ngườichỉ mới xuất hiện lâu nhất cũng mới mấy triệu  năm ?
Vị ‘Ai’ nầy là Ai mà cách đây 100.000.000 Năm, đã có thể ghi nhận những Hình dạng do Con người tưởng tượng cách đây mới 5.000 năm ?
Vị ‘Ai’ nầy là Ai mà có thể xuyên suốt Một Trăm Triệu Năm, từ khi Mặt Đá Bảo Bình thành hình, cho đến 8000 năm vừa qua, và 2000 năm tới ?
Nếu Vị ‘Ai’ nầy đã có thể xuyên suốt từ Một Trăm Triệu Năm qua tới 2.000 năm nữa, thì ‘tri thức’ của Ngài ở tầm độ nào, thì hiện nay Ngài có còn Hiện Hữu ?
10. GHI CHÚ
* - 5102. : ký số của Bài trong danhgiactau.com.
*1 - Có sự ‘tương đồng’ giữa Tây và Đông. Theo Đông, tiểu vận có 60 năm. Trung vận : 60x3 = 180 năm. Đại vận : 180x3 = 540 năm. Thiên vận : 540x4 = 2160 năm. - Thông thường, Đại vận được tính là 500 năm, Thiên vận 2000 năm.
*2 - Khoa Chiêm tinh nghiệm đoán ảnh hưởng của vận hành các tinh hệ đối với trái đất và đối với cuộc sống của từng con người.
*3 - Đọc thêm bài 1103. Tộc Việt thời Khởi Nguyên, đoạn 2.1.
*4 - Theo khảo cổ hiện nay. - Cũng có truyền thuyết Vua Thuấn được voi giúp cày ruộng, là để lưu truyền phát minh quan trọng nầy.
*5 - Đọc thêm bài 1107. Tộc Việt Thời Hùng 2, đoạn 4.2.
*6 - Đọc bài trên, mục 6.2b.
*7 - Đọc thêm bài 1102. Vài Minh định về Lịch sử Văn hóa Địa lý, đoạn 4.4.
*8 - Dân Do Thái có tích Môisen phá hủy Bò Vàng [thời Kim Ngưu], khởi đầu thời cường thịnh của kỷ nguyên Dương Cừu.
*9 - Đọc thêm bài 1102. Vài Minh định về Lịch sử Văn hóa Địa lý, đoạn 4.4.
*10 - Nơi đây chỉ nói về khoa chiêm tinh, không liên hệ tới tôn giáo. Biểu tượng thực sự của Kitô giáo là cây Thánh Giá, với nhiều ý nghĩa cao siêu, huyền diệu khác.
*11 - Theo truyền thuyết, vào thời kỳ đầu, vì bị ngăn cấm, Kitô hữu đã dùng hình con Cá làm mật hiệu nhận ra nhau.
*12 - Đức Giêsu, con Chiên của Thiên Chúa, đã hy sinh để kết thúc kỷ nguyên Dương Cừu, và sống lại để thiết lập kỷ nguyên Song Ngư.
____________________
Nguyễn Thanh Đức 2013.


 5103. MẶT ĐÁ BẢO BÌNH VÀ BA NỀN VĂN HÓA HIỆN NAY
1. VĂN HÓA NHÂN LOẠI
1.1 Bài trước.
Qua phần tìm hiểu ở Bài trước, Mặt Đá Bảo Bình đề cập tới 10.000 năm thời hiện đại, với trọng tâm là Kỷ nguyên Bảo Bình đang tới, từ năm 2000 dl tới năm 4000 dl.
 
Tuy nhiên, vấn đề ở đây không chỉ là xác định thời gian, mà còn bộc lộ phần nội dung, ý nghĩa của Kỷ nguyên Bảo Bình.
Cũng như các Kỷ nguyên vừa qua đã dự phần thành hình và phát triển những nền văn hóa đặc thù, Bảo Bình cũng sẽ ảnh hưởng tới Cuộc sống của Con Người trên mặt đất, tới vấn đề Văn hóa của Nhân loại.
*     *
1.2 Huyền thoại về Nguồn gốc các nền Văn hóa.
Tiếp tục tìm hiểu Mặt Đá Bảo Bình, ta có thêm 3 hình dạng mới : một con Voi Trắng, một Cô người Âu, và một con Rùa.
 
Ba hình dạng trên nhắc nhớ các huyền thoại về Nguồn gốc của 3 nền Văn hóa lớn hiện nay.
*     *
1.3 Ba nền Văn hóa hiện nay.
Văn hóa là phần tinh thần, nếp sống, cách thức Con Người đối xử với chính mình và với những người chung quanh. Văn hóa làm cho cuộc sống từng người, và xã hội, thành yên vui, hạnh phúc, hoặc vô vị, khốn đốn.*1
Hiện nay trên trái đất có 3 nền văn hóa lớn, ảnh hưởng tới hơn ba phần tư nhân loại.
- Ở phương Nam, nền văn hóa Ấn Độ, sau mấy ngàn năm, đã trở thành nếp sống thiên về Tâm linh. Từ văn hóa Ấn Độ, ta có thêm Phật giáo.
- Từ nền văn hóa phương Tây nay có Kitô giáo. Ngày nay, nền văn hóa phương Tây trổi vượt với nền Văn minh tiên tiến, dẫn đường cho nhiều sáng kiến và tiện nghi của nhân loại.
- Ở Phương ĐôngTộc Việt đã phát triển nền văn hóa quân bình, song hiệp, ứng hợp vớiCuộc sống Con người toàn vẹn.
Tuy nhiên, trong hơn 2000 năm qua, sau khi soán đoạt nền Văn hóa của Tộc Việt, sau khi cắt xén và sửa đổi Khổng học, giới thống trị Thiên triều Trung Hoa đã dùng Khổng học làm mặt nạ che giấu dã tâm tham tàn.
Tất cả những gì hay tốt hiện có của nền văn hóa phương Đông, là nhờ đại chúng Tộc Việt, đông đúc và rộng lớn, đã âm thầm sống theo truyền thống của Tổ Tiên Việt.*2
*     *     *     *
2. NGUỒN GỐC VĂN HÓA PHƯƠNG NAM : VOI THẦN
2.1 Voi Trắng nhắc nhớ Ấn Độ giáo với vị Thần Con Trời có đầu là Voi Trắng Ganesha. Ganesha là vị Thần của Khôn ngoan, Thành công, và Thịnh vượng.
Tuy Ấn Độ giáo có nhiều vị Thần cao cả, nhưng Thần Voi Trắng lại là vị Thần gần gũi với đại chúng Ấn Độ nhất. Thần Voi Trắng được đại chúng Ấn Độ yêu kính và cầu khẩn nhiều nhất.
Vì vậy, có thể nói chính huyền thoại và việc sùng kính Thần Voi Trắng là nguồn gốc hướng dẫn nếp sống của dân chúng Ấn Độ, tạo thành nền Văn hóa Ấn Độ.
Hiện nay, Voi Trắng cũng còn được kính trọng đặc biệt, không chỉ ở Ấn Độ, mà còn ở nhiều nước khác, như ở Lào và Thái Lan. 
 
*     *
2.2 Voi Trắng trên Mặt Đá Bảo Bình.
Mặt Đá Bảo Bình cũng có hình Voi Trắng.
 
Đặc điểm đáng chú ý là huyền thoại vị Thần Voi Trắng của Ấn Độ có ngà bên phải bị gảy. Huyền thoại nầy mới xuất hiện cách đây độ 10.000 năm.
Dầu vậy, cách đây 100.000.000 Năm, Voi Trắng trên Mặt Đá Bảo Bình cũng đã có Ngà bên Phải bị gảy !
 
*     *     *     *
3. NGUỒN GỐC VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY : BÀ TRỜI
3.1 Nền văn hóa phương Tây lại được ghi nhận phát xuất với Huyền thoại Bà Trời.
Theo huyền thoại Ai Cập, nơi phát xuất nền văn hóa xưa cổ và phổ biến nhất phương Tây, Thần ‘Nut’ [Nuýt], Nữ Thần Bầu Trời, là Mẹ mọi vị Thần.
 
Ai Cập còn có nữ thần Isis, vị Nữ Thần cao cả và được người dân Ai Cập yêu quý nhất. Đền thờ lớn nhất của Ai cập cũng là Đền thờ nữ thần Isis.
 
Đây cũng là huyền thoại thuộc nguồn gốc của nhiều nền văn hóa phương Tây.
Các sắc dân trong vùng như Hy Lạp, Assyria, Sumeria... cũng có những vị Nữ Thần tương đương, với các tên Aphrodite, Venus, Suadela, Turan, Ishtar, Artemis, Inanna, Astarte...*3
 
*     *
3.2 Bà Trời trên Mặt Đá Bảo Bình.
Con người với hình dạng hiện có, vừa mới định hình từ 100.000 năm nay.
Đang khi đó, trên Mặt Đá Bảo Bình, thành hình từ 100.000.000 Năm trước, đã có hình dạng của một Cô Gái đứng thẳng, với da trắng, tóc nâu, mũi cao, và vóc dáng... của một Người Đẹp phương Tây... Ứng hợp với huyền thoại phát sinh nền văn hóa phương Tây.
 
Mặt Đá Bảo Bình đã ghi nhận đích xác mọi chi tiết, từ Một Trăm Triệu Năm trước !
*     *     *     *
4. NGUỒN GỐC VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG : RÙA THẦN
4.1 a. Nền Văn hóa phương Đông được coi là khởi nguồn với truyền thuyết Rùa Thần mang Sách Lạc của Tộc Việt.
Sách Lạc Rùa Thần đã có mặt ở truyền thuyết Phục Hy được Rùa Thần, năm 2879 ttl. Nhờ đó Phục Hy đặt ra âm dương, bát quái.
Đế Nghiêu, năm 2196 ttl, được sứ giả Việt Thượng từ Sông Hồng đem tặng Rùa Thần. Trên lưng Rùa có chữ viết, có lịch...
Đại Vũ được Rùa Thần cho Sách Lạc dạy cách phân chia trời đất, và cách an dân thịnh nước. Ông lập ra Nhà Hạ, năm 2070 ttl.
Chu Văn Vương, năm 1100 ttl, học Sách Lạc, và viết Kinh Dịch.
Ngày nay, nhiều bằng chứng lịch sử cho thấy ‘Sách Lạc Rùa Thần’ đã thực sự xuất hiện ở vùng Sông Hồng của Việt Lạc, và được phổ biến lên phía Bắc từ năm 2196 ttl, cách đây hơn 4200 năm.*4
b. Sách Lạc là 9 nhóm từ 1 tới 9 điểm ghi trên lưng Rùa Thần.
 
Hình vẽ Rùa Thần mang Sách Lạc cũng đã trở thành chữ ‘Việt’, chứng tích Sách Lạc là của Việt Lạc.
 
c. Tuy dùng chữ Rùa, nhưng đây là loại ba ba khổng lồ đặc biệt ở lưu vực Sông Hồng và phụ cận. Ngày nay, Hồ Hoàn Kiếm, Tháp Rùa, vẫn nổi tiếng với loại ‘Rùa’ nầy. (Tên khoa học là Rafetus Swinhoei - trong khắp vùng Á Đông, ngoài lưu vực Sông Hồng, hiện chỉ có 2 con ở sở thú Tô Châu).*5
Con rùa hiện đang chưng ở Đền Ngọc Sơn dài 2.1 x 1.2 m.
 
*     *
4.2 Rùa Thần trên Mặt Đá Bảo Bình.
Mặt Đá Bảo Bình cũng có hình Rùa Thần.
 
Hơn nữa, Rùa Thần trên Mặt Đá Bảo Bình có hai mắt nhỏ và gần nhau. Đây là hình dạng của rùa/ba ba ở Hồ Hoàn Kiếm, chứ không phải loại rùa thường hiểu.
 
Từ 100.000.000 Năm trước, Rùa Thần trên Mặt Đá Bảo Bình đã chính xác hơn mọi hình Rùa Thần đang có.
*     *     *     *
5. NHÌN CHUNG MẶT ĐÁ BẢO BÌNH
5.1 Với Biểu trưng của 3 nền Văn Hóa lớn.
1. Mặt Đá Bảo Bình đã có hình dạng biểu trưng các Huyền thoại về Nguồn gốc của ba nềnVăn hóa lớn nhất hiện đại, tiêu biểu cho Nếp sống của toàn thể Nhân loại hôm nay.
2. Mỗi hình biểu trưng có một số chi tiết độc đáo theo đúng huyền thoại : Voi trắng gảy ngà phải, Cô Gái da trắng tóc nâu, Rùa loại ba ba.
3. Mặt Đá Bảo Bình còn đặt từng biểu trưng vào đúng vị trí như trên bản đồ mặt đất.
Nền văn hóa Ấn độ, với Voi Thần gảy ngà, ở phương Nam.
Nền văn hóa Bà Trời ở phương Tây.
Nền văn hóa Rùa Thần ở phương Đông.
 
4. Theo chiều của Mặt Đá, - Rùa Thần, từ nước lên, ở phần dưới và nhìn lên. - Voi Trắng trên đất, ở phần giữa và nhìn ngang. - Bà Trời ở cao nhất và nhìn xuống.
 
5. Các biểu trưng nằm thành vòng tròn quanh Cá Bảo Bình, và cùng quay mặt theo chiều trái qua phải.
 
*     *
5.2 Nhìn chung 3 Văn Hóa và 5 Kỷ Nguyên.
Nhìn chung 3 nền Văn hóa và 5 Kỷ nguyên trên Mặt Đá Bảo Bình, ta có thêm một số đặc điểm khác :
Từ Một Trăm Triệu Năm trước, Mặt Đá Bảo Bình đã có :
1. Năm hình dạng do con người tưởng tượng và ba hình ảnh huyền thoại.
2. Mỗi hình dạng không chỉ chính xác, mà còn ghi nhận những đặc điểm độc đáo.
3. Hình dạng các Con Người và Cá Bảo Bình là nguyên vẹn. Hình dạng các con vật khác chỉ có phần chính.
 
4. Bốn Kỷ nguyên vừa qua : nhỏ,
    Kỷ nguyên đang tới : khổng lồ,
    Ba Văn hóa : bằng nhau.
5. Mặt Đá Bảo Bình hình bầu dục,
    Ba nền Văn hóa nằm theo hình tròn,
    Bốn Kỷ nguyên vừa qua, ở 4 góc, theo chữ nhật,
    Kỷ nguyên hiện đại, Bảo Bình, ở trung tâm, và song song với chiều dài của Mặt Đá.
6. Bốn Kỷ nguyên vừa qua quay mặt từ phải qua trái, theo hình bầu dục.
   Ba nền Văn hóa quay mặt từ trái qua phải, theo đường tròn.
   Cá Bảo Bình quay mặt từ trái qua phải, theo đường thẳng.
7. Trọng tâm của Kỷ nguyên Bảo Bình là vấn đề Văn hóa của toàn thể Nhân loại.
*     *     *     *
6. NHẬN ĐỊNH
6.1 Như vậy,
Trước khi Con Người xuất hiện trên trái đất hàng Trăm Triệu Năm, Mặt Đá Bảo Bình nầy :
1. Đã ghi vào Đá hình dạng Con Người, và các hình dạng do trí Tưởng tượng và do Tâm linh huyền thoại của Con Người.
2. Đã vượt Thời gian 100.000.000 Năm để ghi nhận 5 lần 2000 Năm của thời Hiện đại
3. Đã vượt Không gian, từ những Tinh Hệ đại kỳ vĩ trong vũ trụ, xuống các chi tiết vi ti của từng mảnh ngàcặp mắttừng sợi tócmàu da của sinh vật trên Trái Đất.
4. Đã bố trí tỉ mỉ và chính xác các đường nét chi li, theo từng loại, từng nhóm, theo từng chiều, từng hướng, từng góc nhìn... theo đúng vòng trong, cạnh ngoài, đối xứng, trên dưới, trước sau, tròn vuông... theo đúng tầm cỡ, nội dung, công dụng, thời đại và vị trí đặc biệt của từng hình dạng, từng biểu trưng.
5. Đã tạo thành một bức tranh tuyệt hảovượt Không gian và Thời gian, xuyên suốt Tâm tưởng và Kỳ vọng của Con Người... trong một khung bầu dục chỉ 1904x1120 mm.
 *     *
6.2 Do đâu ?
1. Do đâu Mặt Đá Bảo Bình của Một Trăm Triệu Năm trước, lại có thể ghi nhận đích xác những chi tiết nhỏ nhặt của hình dạng Con Người và thú vật hiện đại ?
2. Do đâu một mảnh Đá Vân của Một Trăm Triệu Năm trước lại có thể ghi nhận những hình dạng do Trí Tưởng Tượng và Huyền Thoại của Con người ?
3. Do đâu mảnh Đá cách đây 100.000.000 Năm đã ghi nhận những hình ảnh tưởng tượng cho từng khoảng thời gian chỉ vỏn vẹn 2.000 năm ?
4. Do đâu lại có thể có hình dạng, có bố trí tỉ mỉ và đích xác mọi chi tiết đặc thù và súc tích, thành một Bức Tranh Tuyệt Hảo về mọi phương diện ?
5. Do đâu Mặt Đá 1,7m2, dày 2cm, lại có thể lách mình từ lòng địa cầu vĩ đại, để xuất hiện một cách nguyên vẹn, toàn hảo ?
 
6. Do đâu mà việc xẻ đục cắt xén... lại vào đúng mặt Bức Tranh, với kích thước, hình dạng, và góc độ chính xác ?
7. Do đâu mà thời gian, không gian, hoàn cảnh... đã trùng hợp chi li, để Bức Tranh, thành hình từ Một Trăm Triệu Năm trước, xuất hiện vào đúng Năm Khởi Đầu Kỷ nguyên Bảo Bình ?
*     *
6.3 Ai ?
Mặt Đá Bảo Bình có quá nhiều chi tiết tinh tế, về mọi phương diện, vượt ra ngoài sự trùng hợp hoàn toàn ngẫu nhiên.
Tất cả đều bộc lộ một Thần Trí Tác Tạo trỗi vượt hơn Con Người hàng trăm triệu lần.
Vậy thì Thần Trí đó là Gì ? là Ai ?
Ai đã sáng tác Bức Tranh siêu tuyệt nầy ?
Ai đã vận dụng mọi điều kiện và hoàn cảnh để Bức Tranh kỳ diệu nầy thành hình, chờ đợi hàng trăm triệu năm, và xuất hiện toàn hảo, đúng ngày giờ ?
*     *
6.4 Bài Ca Tụng.
Mặt Đá Bảo Bình nầy là Bài Ca Tụng
Sự Hiện Hữu của Một Thần Trí
Bao trùm Thời gian và Không gian,
Thấu suốt Hình hài, Tư duy, Cao vọng,
và Tâm linh của Con Người,
Thấu suốt sự Kết hiệp mật thiết
giữa Con người với Vũ trụ,
Thấu suốt Hữu hình và Vô hình !
Mặt Đá Bảo Bình nầy
không chỉ xác chứng sự Hiện Hữu
của Đấng Nguồn Sống, Ông Trời,
mà còn xác chứng
sự Quan Tâm và Yêu Thương của Ngài
đối với Vũ trụ, đối với Nhân loại,
đối với từng chi tiết tế vi
của Cuộc sống và Tâm linh
của mỗi một Con Người,
của mỗi một cá thể trong Vũ trụ.
Trong Ngài,
mỗi một và toàn thể vạn vật,
đều được hưởng nhờ Nguồn Sống,
và Niềm Hạnh Phúc đúng như mình được tạo thành.
7. GHI CHÚ
* - 5103. : ký số của Bài trong danhgiactau.com.
*1 - Khác với văn minh. Văn minh cung cấp tiện nghi, giúp dễ sống. Văn minh tiên tiến mà không có nền văn hóa thích đáng, thì Con Người vẫn khốn khổ, nô lệ. - Đọc bài 1102. Vài Minh định về Lịch sử Văn hóa Địa lý, đoạn 4.1.
*2 - Về Soán đoạt nền Văn hóa Tộc Việt, đọc bài 1110. Việt và Hoa Thời Hùng 4A, đoạn 1.2. - Về Cắt xén Khổng học,  đọc bài 1405. Ảnh hưởng Hạn hẹp của Nho học trên Dân Việt, đoạn 1.2. - Về Dã tâm Trung Hoa, bài 1408. Nguy cơ Đại họa và Tử huyệt của Trung Hoa, phần 2 và 3. - Về Mặt nạ Trung Hoa, đọc bài trên, đoạn 5.2.
Khổng tử, 551-479 ttl, đã cố gắng cải sửa nền văn hóa du mục của Trung Hoa, nhờ nhận thêm những ưu điểm của nền văn hóa Việt. - Đọc bài 1111. Việt và Hoa Thời Hùng 4B-C, đoạn 1.4.
*3 - Gần đây, Đức Maria cũng được thờ kính với danh hiệu ‘Mẹ của Thiên Chúa’.
*4 - Đọc bài 1105. Tộc Việt Thời Hùng 1, đoạn 5.4.
*5 - www Rafetus Swinhoei.
_____________________ 
Nguyễn Thanh Đức 2013.


 5104. MẶT ĐÁ BẢO BÌNH  TỘC DÂN THỂ HIỆN KỶ NGUYÊN BẢO BÌNH
1. THỂ HIỆN KỶ NGUYÊN BẢO BÌNH
1.1 Các Bài trước.
a. Bài 1 : Mặt Đá Bảo Bình với 5 Kỷ nguyên.
Xác định thời điểm 8000 năm qua và 2000 năm đang tới. Hai ngàn năm đang tới, Kỷ nguyên Bảo Bình, là trung tâm, là chính yếu.
 
b. Bài 2 : Mặt Đá Bảo Bình và 3 nền Văn hóa.
Đây là 3 nền Văn hóa lớn nhất hiện đại, biểu trưng cho Cuộc sống Tinh thần của toàn thể Nhân loại hôm nay.
 
c. Trọng tâm của Mặt Đá Bảo Bình là vấn đề Văn hóa của toàn thể Nhân loại ở Kỷ nguyên Bảo Bình.
 
Những chi tiết đích xác về Quá khứ và Hiện tại là bảo chứng cho tiên báo.
Vậy, Kỷ nguyên Bảo Bình, 2000 năm tới, là gì ?
*     *
1.2 Thời Bảo Bình.
Trước đây, đã có nhiều tiên báo tập trung quanh năm 2000 dl, là năm kết thúc Kỷ nguyên Song Ngư và khởi đầu Kỷ nguyên Bảo Bình.
1. Năm 2000 dl, kết thúc thời Song Ngư, và theo nhiều nguồn Kitô giáo, cũng là lúc Đức Giêsu Phục Lâm, xuống thế lần thứ hai. Có nhiều giải thích về truyền thuyết nầy.
Luận điệu thông thường nhất là Đức Giêsu sẽ xuống phán xét loài người. Như thế, có nghĩa là ngày Tận thế. Nhưng đã không xảy ra. Có giải thích Ngài chỉnh đốn cội nguồn Cứu Thế của Ngài. Cũng có giải thích là Ngài sẽ tuyển chọn số tín đồ còn theo đúng đường lối nguyên thủy.*1
2. Hiện nay là thời Đức Phật Di Lặc ra đời. Câu niệm thường nghe là ‘Nam mô Đương lai Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật’. Ngài sẽ đem hạnh phúc và thịnh vượng cho Nhân loại.*2
 
3. Thời của Hội Long Hoa, thời Thượng Nguơn, theo Đạo Cao Đài.*3
4. Thời của Bồ Tát Địa tạng Vương khuyến hóa cho chúng sinh được giải thoát, theo giáng bút của Bồ tát Tuệ Trung.*4
5. Nay cũng là thời Thánh Chúa thịnh trị, theo sấm Đức Trạng Trình.*5
6. Thời của Tân Chủ, theo giáng bút của Thánh mẫu Liễu Hạnh.*6
7. Thời của vị Vua Mới, cách cai trị mới, theo sấm Nostradamus. Theo các nhà giải đoán phương Tây, đây là vị Khai sáng Kỷ nguyên vàng son cho nhân loại.*7
8. Theo khoa chiêm tinh, vì tinh hệ Bảo Bình bắt đầu vào phần dưới của vòng Hoàng Đạo, nên là thời của Nữ giới.
* Tất cả đều tập trung vào thời gian quanh năm 2000 dl, thời khởi đầu của Kỷ nguyên Bảo Bình.
Như vậy, Kỷ nguyên Bảo Bình là thời Nhân loại như được các Thánh Chúa thịnh trị, như được các Giáo Chủ giáo hóa... Như vậy, Kỷ nguyên Bảo Bình chính là thời Nhân loại được hưởng Thanh bình, Thịnh vượng, và Hạnh phúc đích thực.
*     *
1.3 Thành tố Thể hiện Kỷ nguyên Bảo Bình.
a. Kinh nghiệm.
Kinh nghiệm từ các Kỷ nguyên trước, qua các tài liệu hiện có :
Thời khai sáng Kỷ nguyên Dương Cừu ở Do Thái, cách đây hơn 3000 năm, có ông Môisen lãnh đạo người Do Thái thoát ly Ai cập, thành lập nước. Ông phổ biến học thuyết Độc Thần cực đoan, với nghi thức dùng Chiên hy tế, để liên lạc với Đấng Tối Cao, Đấng đã đặc tuyển dân Do Thái.
Thời khai sáng Kỷ nguyên Song Ngư, cách đây 2000 năm, Đức Giêsu đã thành lập một dân ‘Do Thái Mới’, với học thuyết Thiên Chúa là Tình Yêu.*8
* Như thế, đại cương, một Kỷ nguyên được thể hiện với một Tộc Dân, và một Học thuyết mới.
b. Thông thường, một Dân tộc là một nhóm người có chung một nền văn hóa, chung một lịch sử, và sống trong một vùng đất.
Học thuyết mới cũng chính là nền Văn hóa của Tộc dân đó, nhưng lại được trình bày dưới một dạng thức mới, phát hiện một sức sống mới, với những điểm nhấn mới.
Việc thực hiện tạo ra một số cơ chế mới, ứng dụng thực hành Học thuyết mới.
c. Trong phạm vi bài nầy, Tộc dân thể hiện thời Bảo Bình được cứu xét dưới khía cạnh Lãnh thổLãnh hảiVăn hóa, và Lịch sử.
*     *     *     *
2. LÃNH THỔ CỦA TỘC DÂN THỂ HIỆN THỜI BẢO BÌNH : BẢN ĐỒ VIỆT NAM
Điều gây kinh ngạc đầu tiên là Mặt Đá Bảo Bình có hình eo biển vùng Thanh Hoá của Việt Nam.
Điểm kinh ngạc kế tiếp là Đường Cong nầy lại in rập đúng Bờ Biển Việt Nam theo Bản đồ 1/2.000.000 do Nha Địa Dư Quốc Gia Việt Nam in năm 1972.
Mỏ Mông Cái cũng gây ngạc nhiên do hình dạng và vị trí chính xác của nó.
 
Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên hơn cả là Đất Nước Việt Nam với hình dạng như trên bản đồ hiện nay, chỉ mới toàn vẹn từ năm 1759 dl.
Vậy mà, Bản đồ nầy đã được ghi tạc trên Mặt Đá Bảo Bình từ 100.000.000 Năm trước !
 
*     *     *     *
3. LÃNH HẢI VIỆT NAM
Một đường Eo Biển Thanh Hoá thứ hai cũng được nhận ra ở Biển Đông.
Đem ráp đường Bờ Biển Việt Nam vào ‘Eo Biển’ nầy, ta lại có đường ranh Biển Đông bao gồm phần biển có Hoàng Sa và phần có các đảo thuộc Trường Sa của Việt Nam hiện nay.
Nếu theo đường trắng ‘hướng dẫn’ trên Mặt Đá Bảo Bình, ta có đường chính xác từ Trường Sa vòng qua Phú Quốc.
 
Tất cả, từ 100.000.000 Năm trước.*9
*     *     *     *
4. VĂN HÓA VIỆT
4.1 Văn hóa Tiên Rồng.
Nền Văn hóa Việt đặt nền tảng trên Truyền kỳ Tiên Rồng sinh Bọc Trăm Con, 50 theo Mẹ 50 theo Cha. Theo đó, dân Việt có nếp sống quân bình giữa tình và lý, giữa cuộc sống cá nhân với cuộc sống xã hội, giữa tinh thần với vật chất, giữa tài và đức, giữa văn và võ, giữa người và Trời...*10
Trong đời sống thực tế, Tiên và Rồng trở thành hiện biểu phụng và long. Phụng và Long là hình ảnh dễ ghi nhớ của Tiên Rồng. [Nhưng không hội đủ mọi đặc tính của Tiên Rồng, không phải Tiên Rồng].*11
*     *
4.2 Hình Phụng trên Mặt Đá Bảo Bình.
Mặt Đá Bảo Bình có hình Phụng thực lớn, giương cánh, mỏ cong, mắt dài, mào dài, đuôi dài... với mọi đường nét như các hình vẽ.
 
*     *
4.3 Hình Long trên Mặt Đá Bảo Bình.
Đây là một con Long đặc biệt.
a. Đầu Long thon thả, thanh thoát, với mũi lớn, mắt to, bờm dài, 2 sừng chĩa nhánh.
 
b. Bàn Chân Long.
Hình Long trên Mặt Đá Bảo Bình, từ Một Trăm Triệu Năm trước, có Bàn Chân 6 ngón.
 
Đây là điểm đặc biệt chưa từng có.
Tuy hình phụng long của Tộc Việt đã xuất hiện trên đồ gốm đồ đồng từ hơn 4000 năm trước, trong hơn 2000 năm qua, theo ấn định của nhà Hán, hình Long có bàn chân 2 ngón dành cho dân gian, Long 3 ngón dành cho nho sĩ, Long 4 ngón dành cho quan chức, và Long 5 ngón dành cho hoàng đế và hoàng thất.*12
 
Nay, trên Mặt Đá từ 100.000.000 năm trước, Long, biểu trưng cho Văn hóa Việt, có bàn chân6 ngón !
c. Thân Long.
Nhờ bàn chân 6 ngón, ta thấy thêm 3 chân kia, cùng dạng, cùng màu.
Từ vị trí 4 chân và đầu Long, nhận ra Thân Long. Bờm và lông đuôi của Long có cùng màu.
 
Hơn nữa, khác với nhiều hình vẽ long, con Long của Mặt Đá Bảo Bình có 2 chân trước nhỏ hơn 2 chân sau. Nhưng như vậy lại đúng với dạng nguyên thủy của Long, là từ giao long, cá sấu.
 
Hình Long của 100.000.000 Năm trước chính xác hơn nhiều hình long hiện nay.
*     *
4.4 Phụng và Long.
Điểm đặc biệt, chưa từng thấy ở bất cứ nơi nào khác, là Phụng và Long của Một Trăm Triệu Năm trước có phần đầu chung nhauMỏ Phụng cũng là Miệng của Long, Mắt Phụng cũng là Mũicủa Long, Mào của Phụng cũng là Râu của Long.
Phụng Long hiệp nhất, không thể phân chia.
 
*     *
4.5 Với hình Phụng Long to lớn, Mặt Đá Bảo Bình không chỉ xác định nền Văn hóa Tiên Rồngcủa dân Việt, mà còn ghi thêm nhiều nét đặc biệt kỳ diệu chưa từng có.
 
*     *     *     *
5. LỊCH SỬ DÂN VIỆT
5.1 Lịch sử 7.000 năm.
a. Tộc Việt khởi nguyên ở vùng Hồ Đồng Đình cách đây 7.000 năm.*13
Vào đầu Thời Hùng, năm 2879 ttl, các đây gần 5000 năm, dân Việt đã tỏa lan ra khắp vùng phía bắc giáp Sông Hoài Tần Lĩnh, tây giáp sông Cửu Long, đông ra tới Biển, nam tới dãy Hải Vân.
 
* Bản đồ Vùng Đất Tộc Việt năm 2879 ttl, với 3 vùng phát triển chính.
b. Trong thời kỳ nầy, tức là cách đây từ 7000 tới 5000 năm, vùng hạ lưu sông Dương Tử còn là đầm lầy, vùng thượng lưu thì núi non hiểm trở.*14
Vì vậy, từ Hồ Đồng Đình, Tộc Việt phát triển mạnh ở vùng sông Tương, với địa điểm phát triển chính là Trường Sa.
Tiếp đó, theo thượng nguồn sông Tương, dân Việt tới vùng Tây Giang, với thủ phủ Phiên Ngung, nay là Quảng Châu.
Từ Tây Giang, theo thung lũng sông Tả, và nhất là theo đường biển, dân Việt tới định cư và phát triển vượt bực ở vùng sông Hồng, với thủ phủ Việt Trị, nay là Việt Trì.*15
*     *
5.2 Phụng Long Bảo Bình và Vùng Đất Tộc Việt : 5000 năm lịch sử.
Điểm kỳ lạ là, trên Mặt Đá Bảo Bình, hình dạng của Phụng và Long đã khuôn rập với Vùng Đất Tộc Việt năm 2879 ttl, với gần 5000 năm lịch sử.
Mặt Đá Bảo Bình còn có nhiều điểm chính xác đặc biệt :
    
1. Mỏ chim Phụng ở ngay Hồ Đồng Đình, và cũng cong y như hình dạng Hồ Đồng Đình.  
2. Đầu và cổ Long lại cong theo sông Dương Tử ra tới biển.
3. Thân Long uốn khúc thành Bờ Biển xuôi nam.
4. Bờm của Long gợn theo dòng Sông Hoài. Đang khi đó, cánh Phụng có đoạn đổi dạng, đúng tại dãy núi ranh giới Tần Lĩnh.
Hơn nữa, Mặt Đá Bảo Bình còn có đường nối giữa Bờm Long và Cánh Phụng, theo đúng đường ranh Sông Hoài Tần Lĩnh một cách chính xác chưa từng có.*16
5. Phụng nằm ở phía núi, Long theo dòng Dương Tử ra biển. Theo đúng Truyền kỳ Mẹ Tiên ở núi, Cha Rồng ra biển.
6. Đuôi Phụng và đuôi Long bắt ngang đúng đường ranh Hải Vân của Tộc Việt Thời Hùng.
* Vùng Đất của Dòng giống Tiên Rồng đã được xác định từ Một Trăm Triệu Năm trước.
*     *
5.3 Lạc Hồng trổi vượt : 4200 năm lịch sử.
Tộc Việt phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình từ 7000 năm trước.
Tuy nhiên, từ cách đây 4200 năm, dân Việt Lạc Sông Hồng đã trổi vượt. Sự trổi vượt được ghi nhớ với truyền thuyết sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần cho Đế Nghiêu. Lưng Rùa Thần có chữ viết, ghi lịch và những điều cao siêu về trời đất.*17
Đúng như huyền thoại ‘Rùa Thần của Việt Lạc Sông Hồng’ về nguồn gốc của Văn hóa phương Đông, Mặt Đá Bảo Bình cũng ghi nhận Rùa Thần ở vùng Sông Hồng.*18
 
Cách đây hơn 3000 năm, Tổ Tiên Lạc Hồng cũng đã khắc ghi lên Thạp đồng và Trống đồng Đông Sơn toàn bộ các học thuyết về Tiên Rồng, Âm Dương, Ngũ hành, Đạo Đức, Đất Trời...*19
 
*     *
5.4 Quả thực,
Từ Một Trăm Triệu Năm trước, hình Phụng và Long trên Mặt Đá Bảo Bình đã ghi nhận đích xác ranh giới lịch sử của dân Việt, với nhiều chi tiết đặc thù kỳ thú.
 Hình Rùa Thần nằm trên vùng Sông Hồng lại càng tuyệt diệu.
Dân Việt Lạc Sông Hồng, Lạc Hồng, nay là Việt Nam. Hiện nay, dân Việt Nam vẫn là tinh hoa thuần khiết của Tộc Việt, về huyết thống, cũng như về văn hóa, văn minh...*20
*     *     *     *
6. CÁ BẢO BÌNH VÀ ĐẤT NƯỚC, VĂN HÓA, LỊCH SỬ VIỆT
6.1 Nhìn chung,
Cá Bảo BìnhBản đồ Đất Nước Việt Nam, và Phụng Long, là những hình nguyên dạng và to lớn đặc biệt, chiếm hơn một nửa Mặt Đá Bảo Bình.
- Cá Bảo Bình lại nối kết Bản đồ Việt Nam và Phụng Long thành một khối.
- Theo bình thường, Phụng Long và Bản đồ Việt Nam đứng thẳng. Tuy nhiên, trên Mặt Đá, Bản đồ Việt Nam quay qua phải 90º, và Phụng Long quay qua trái 90º... để cùng nằm ngang với Cá Bảo Bình.
 
- Ngoài ra, đo trên Mặt Đá Bảo Bình, một cạnh của Cá Bảo Bình bằng một cạnh của Phụng Long, cạnh kia bằng một cạnh của Bản đồ Việt Nam.
Diện tích Phụng Long lại bằng tổng số diện tích Cá và Bản đồ.
 
* Tất cả đều xác định tính cách toàn khối hiệp nhất của Kỷ nguyên Bảo Bình và Đất Nước, Dân tộc, Văn hóa, Lịch sử Việt Nam.
*     *
6.2 Như vậy,
Từ Một Trăm Triệu Năm trước, Mặt Đá Bảo Bình đã ghi nhận :
Kỷ nguyên Bảo Bình là thời của Đất Nước và Dân Tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam là thành tố thể hiện Thời Bảo Bình.
Trong mấy mươi năm qua, người Việt Nam, với đủ mọi thành phần, đã chia nhau tỏa khắp thế giới, và góp mặt trong mọi sinh hoạt của toàn thể Nhân loại. Đây cũng là dấu chỉ những chuyển biến và thành quả nhanh chóng và phổ cập.
Dân tộc Việt Nam có Sứ mạng đem Sứ điệp của Kỷ nguyên Bảo Bình, đem Tình Người, Thịnh vượng, Thanh bình, và Hạnh phúc, đến cho Nhân Loại Hôm Nay, kéo dài thêm 2000 năm tới.
7. GHI CHÚ
* - 5104. : ký số của Bài trong danhgiactau.com.
*1 - Đây cũng là căn cội của niềm tin và của các tiên báo về đại họa tận diệt vào năm 2000 dl vừa qua. Nhưng tất cả đều đã không xảy ra theo cách con người tưởng tượng.
*2 - Tượng Ngài một tay cầm hồ lô, tượng trưng cho yên lành, một tay cầm viên ngọc, tượng trưng cho thịnh vượng. Miệng và mắt tươi cười, yêu đời. Tai lớn là sống lâu. Bụng lớn là đại phúc, phước lớn. Đứng chân cao chân thấp là thoải mái, không câu nệ...
*3 - Giáng bút của Thánh mẫu Liễu Hạnh cũng có câu : ‘Long Hoa vẫn thuở biên cương, Rồng Tiên con cháu Việt Thường vẻ vang’. - Đọc Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, tr 188. (bài Thiên Cơ).
*4 - ‘Kê khuyển ngộ xà, Địa Tạng tru ma, Bách tính tôn phục, Tứ phương qui gia’. - Đọc Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, do Nam Thiên (bút hiệu của Nguyễn Thanh Đức), nxb Xuân Thu, Los Alamitos CA 1998, tr 216. (bài Kim Ô).
*5 - ‘Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh Chúa, Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày’, bài sấm Rồng Nằm Bể Cạn. Hoặc ‘Đời nầy Thánh Kế vi Vương’. - Đọc Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, tr 104. (bài Rồng Nằm Bể Cạn).
*6 - ‘Chó mừng Tân Chủ rỡ ràng, Gần xa tấp nập lên đường hồi hương’, - Đọc Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, tr 186. (bài Thiên Cơ).
*7 - Đoạn sấm 2/7 : ‘Pour eux neuf Roy, nouvel edict leur forge’. Đối với họ, đây là vị Vua mới, đạo luật mới rèn luyện họ. - Đọc bài 5202. Nostradamus với Việt Nam Thời Bảo Bình, phần 4.
*8 – 1Gioan 4,7-21. ‘Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu’ (câu 8). ‘Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai yêu thương thì ở với Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở với họ’ (câu 16).
*9 - Đảo Hải Nam đã luôn là đất Việt Lạc từ đầu Thời Hùng. - Đọc bài 1103. Tộc Việt thời Khởi Nguyên, đoạn 5.3 và 5.4; và bài 1113. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, đoạn 5.3.
*10 - Đọc bài 2102. Nền Tảng Cuộc Sống Con Người và Xã Hội, phần 8.
*11 - Đọc bài 2204. Tiên Rồng : Biểu tượng Con Người, đoạn 9.2.
*12 - Thái Hậu Từ Hi, Nhà Thanh, (t.1908), cũng có lúc muốn dùng Long 6 móng. Nhưng bị phản đối, bị coi làm phạm thượng.
*13 - Đọc bài 1103. Tộc Việt thời Khởi Nguyên, phần 2.
*14 - Theo truyền thuyết, vùng hạ lưu Dương Tử chỉ phát triển sau khi được Đại Vũ khổ công trị thủy, cách đây 4000 năm. - Đọc bài 1107. Tộc Việt Thời Hùng 2, đoạn 3.1.
*15 - Đọc bài 1103. Tộc Việt thời Khởi Nguyên, đoạn 5.3.
- Người Tộc Hoa mới thành hình nhờ Nhà Chu tụ tập đám du mục ở vùng Thiểm Tây, sông Vị, cách đây mới 3000 năm. - Đọc bài 1110. Việt và Hoa Thời Hùng 4A, đoạn 1.1.
*16 - Đường nối Sông Hoài Tần Lĩnh là đường ranh thiên nhiên phân chia 2 vùng Nam Bắc. Phía Nam là vùng Lúa nước của Tộc Việt, phía Bắc là vùng khô cằn giá lạnh của dân du mục. Sau nầy, nhóm du mục đó tụ tập thành tộc Hoa. - Đọc bài 1102. Vài Minh định về Lịch sử Văn hóa Địa lý, mục 5.2b.
*17 - Năm 2191 ttl, cách đây 4200 năm. Do đó, có truyền thuyết ‘4000 năm văn hiến’. - Đọc bài 1105. Tộc Việt Thời Hùng 1, đoạn 5.4.
*18 - Dân Việt Lạc Hồng còn trổi vượt với ngành vượt biển, cày ruộng bằng trâu, và kỹ nghệ đồ đồng.
*19 - Đọc bài 1303. Văn Minh Văn Hóa Việt Nam trên Thạp và Trống đồng, đoạn 1.3, và các bài về Nguồn gốc Việt Nam của các Học thuyết, các bài 1304 - 1307.
Đang khi đó, cũng chỉ mới cách đây 3000 năm, các nhóm du mục lạc hậu vùng Thiểm Tây mới bắt đầu tụ tập và hình thành tộc Hoa.
*20 - Trong tình máu mủ, dân tộc Việt Nam còn có trách nhiệm cứu giúp mấy trăm triệu đồng bào Tộc Việt hiện đang khốn khổ dưới ách thống trị bạo ngược, điêu ngoa, của bọn người chịu ảnh hưởng văn hóa du mục Hoa. - Đọc bài 1408. Nguy cơ Đại họa và Tử huyệt của Trung Hoa, đoạn 4.1.
 _____________________
Nguyễn Thanh Đức 2013.

 5202. NOSTRADAMUS với VIỆT NAM Thời BẢO BÌNH
(Bài nầy đã được xuất bản trong quyển Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, do Nam Thiên, (bút hiệu của Nguyễn Thanh Đức), nbx Xuân Thu 1998, Los Alamitos CA).
1. NOSTRADAMUS VÀ VIỆT NAM
1.1 Nostradamus là nhà Tiên Tri nổi tiếng nhất phương Tây. Ông sinh năm 1503 tại St Rémy-de-Provence, Pháp, và qua đời năm 1566. Nostradamus là người đồng thời với Đức Trạng Trình, vị Tiên Tri lừng danh của nước ta (1491-1585).
Tác phẩm quan trọng nhất của Nostradamus là quyển Les Prophéties, in xong trọn cuốn năm 1568. Cách chung, Les Prophéties có 10 chương, mỗi chương gồm 100 đoạn văn vần bốn câu.
Cũng như Sấm Trạng Trình, những bài sấm Nostradamus được để lộn xộn chứ không theo bất cứ một tiêu chuẩn nào. Nostradamus cũng dùng ẩn ngữ để ghi lại sở kiến, y như Đức Trạng Trình.
Điều khác với Sấm Trạng Trình là sấm Nostradamus đã được xuất bản từng phần ngay khi tác giả còn sống. Do đó, sấm Nostradamus không bị thất truyền, thất bổn.*1
Trong hơn 400 năm qua, đã có hàng ngàn tác phẩm giải đoán và nghiệm chứng sấm Nostradamus. Cũng đã có nhiều sự kiện lịch sử nghiệm đúng nhiều đoạn sấm của ông.*2
*     *
1.2 Giải Đoán Về Việt Nam.
Sách vở và tài liệu giải đoán sấm Nostradamus thì vô số. Tuy nhiên, hầu hết các nhà giải đoán đều là người phương Tây. Vì vậy, ngoài những đoạn sấm có xác định rõ ràng, các nhà giải đoán phương Tây thường tập trung khám phá và nghiệm chứng của mình vào những dữ kiện và dự đoán cho phương Tây.
Chỉ gần đây, mới có những lời bàn liên tưởng đến Trung Hoa và Nhật Bổn, là hai nước ở viễn đông vừa gây xáo trộn và ảnh hưởng tới dân da trắng.
Tuy nhiên, đối với Nostradamus, nhà tiên tri thấy được chuyện bốn năm trăm năm sau, thì không gì có thể giới hạn tầm nhìn của ông. Vì vậy, việc ông tiên báo những biến cố quan trọng ở Việt Nam cũng không phải là kỳ lạ. Vấn đề chỉ là chưa có ai giải đoán.
Sau đây là hai đoạn sấm về Việt Nam và Thời Bảo Bình.*3
*     *     *     *
2. ĐOẠN SẤM 2.7 CỦA NOSTRADAMUS
2.1 Vị Lãnh Tụ Mới.
Entre plusieurs aux isles desportez,
L'un estre nay à deux dents en la gorge :
Mourront de faim les arbres esbrotez,
Pour eux neuf Roy, nouvel edict leur forge.*4
Dịch :
Trong số nhiều người bị lưu đày ra các đảo,
Có một người sinh tại Hai Răng ở vùng Vịnh :
Họ sẽ chết đói, cây cối bị tuốt trụi lá,
Đối với họ, đây là vị Vua mới, đạo luật mới rèn luyện họ.
Gần đây, đoạn sấm trên đã được nhà giải đoán J.-C. de Fontbrune gợi ý là liên quan tới Việt Nam. Trong phần tựa đặt cho đoạn sấm, ông thêm chữ ‘(Cambodia, Vietnam)’ trong ngoặc.
Thực ra, đoạn sấm đã nêu lên ít nhất là ba hiện tượng ứng nghiệm cho tình trạng đất nước và dân chúng Việt Nam thời nay.
*     *
2.2 Nhiều người bị lưu đày ra các đảo.
Đây là hiện tượng thứ nhất. Trong mấy trăm năm qua, cũng đã có những vụ nhiều người bị lưu đày ra các đảo, (như từ nước Anh tới Úc...). Nhưng chưa có trường hợp nào ứng nghiệm toàn bộ đoạn sấm trên.
Gần đây, từ năm 1975, cuộc vượt biển của gần triệu người Việt Nam đã vang động thế giới. Họ còn được gọi bằng một danh xưng mới là ‘thuyền nhân’.
Họ phải rời bỏ quê hương, bị lưu đày, vì quê hương đã rơi vào xiềng xích cộng sản.
Lại nữa, hầu hết các thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đều chạy ra các đảo.*5
*     *
2.3 Cây cối bị tuốt trụi lá.
Hiện tượng thứ hai nầy cũng ứng hợp với Việt Nam hiện thời. Hẳn nhiên đây không phải là hiện tượng cây rụng lá mùa đông, vì mùa đông lá rụng đều xảy ra hằng năm, nhất là ở các xứ lạnh.
Hiện tượng cây bị tuốt trụi lá chỉ có thể được Nostradamus dùng làm dấu chỉ, khi đó là hiện tượng đặc biệt, đặc thù. Hiện tượng nầy lại mới xảy ra tại Việt Nam, trên một khu vực rộng lớn chưa từng có. Trong những năm 1962-1971, có tới 86.000.000 lít thuốc khai quang đã đổ xuống trên vùng đất 50.000 cây số vuông ở Miền Nam Việt Nam.
Như vậy, do thuốc khai quang, ở nhiều vùng rộng lớn của Miền Nam Việt Nam, cây cối đã bị tuốt trụi lá, như chưa bao giờ xảy ra ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.*6
*     *
2.4 Họ chết đói.
Trước đây, hễ nói đến nạn đói, là mọi người Việt Nam hồi tưởng tới tai họa năm 1945 làm chết hơn một triệu người ở Miền Bắc. Nhưng trong mấy chục năm gần đây, chết đói lại là tình trạng khốn cùng triền miên của đồng bào ta dưới ách thống trị của cộng sản.
Đã gây ra chết chóc thương tật cho hàng chục triệu nạn nhân cuộc chiến, từ năm 1953 Hồ Chí Minh còn phát động các chiến dịch để bần cùng hóa người dân và tạo ra nạn chết đóithường xuyên ở Miền Bắc.*7
Từ tháng 4.1975, nạn chết đói lại tràn vào Miền Nam. Việt cộng đã cưỡng bức hàng triệu người tới những vùng đất hoang vu... trong hoàn cảnh chẳng những không có điều kiện tối thiểu để canh tác, mà còn thiếu cả nhà cửa gạo nước áo quần. Chính sách vùng kinh tế mới của chúng đã làm cho vô số dân lành chết đói.*8
Ngày nay, 1996, sau hơn 20 năm ‘tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa’, bọn Việt cộng tham ô tàn ác càng làm cho Việt Nam ngày một thêm kiệt quệ. Ngoại trừ một số cán bộ, cả nước trở thành bần hàn đói khổ nhất thế giới, hằng ngày luôn có nhiều người chết đói vì kiệt sức.*9
*     *
2.5 Việt Nam.
Với những điểm trùng hợp trên, ‘nạn chết đói, thuốc khai quang, và người tỵ nạn ra biển,’ ta có thể xác định rằng đoạn sấm nầy tiên báo về tình trạng Việt Nam hiện nay.
Chưa hề có ứng nghiệm toàn bộ và đặc thù như thế ở bất cứ nơi nào khác.
*     *
2.6 Có một người sinh tại Hai (Cái) Răng ở vùng Vịnh :
Cho tới nay, câu sấm à deux dents en la gorge được mọi nhà giải sấm phương Tây hiểu là : (Có một người sinh ra) ‘với hai cái răng trong cổ họng’. Nhưng chưa ai có thể giải đoán được ẩn ý.
Thường có những em bé chào đời với vài cái răng trong miệng. Nhưng ‘hai cái răng trong cổ họng’ thì thực khó thấy, khó hiểu.
* Tuy nhiên, theo tiếng Pháp, chữ à và en có nghĩa thông thường là tại nơi. Nếu dịch ‘tại nơi’ thì chữ Deux Dents và Gorge còn có thể là tên riêng của địa phương.
Lại nữa, chữ gorge ngoài nghĩa thông thường là cổ họng, yết hầu, ngực phụ nữ, còn có nghĩa địa lý là thung lũng hẹp và sâu. Ngoài ra, sấm Nostradamus cũng thường dùng rất nhiều chữ theo dạng tự và nguyên nghĩa latin. Theo đó, chữ gorge do từ ngữ latin gurges, để chỉ cáivịnh, nơi biển ăn lõm vô đất.
Đang khi đó, vì đoạn sấm gồm những hiện tượng ứng nghiệm cho Việt Nam, nên các địa danh nầy cũng có thể là tên bằng tiếng Việt Nam và đã được Nostradamus dịch ra tiếng Pháp.*10
Như thế, câu L'un estre nay à deux dents en la gorge có nghĩa : Có một người sinh tại(nơi có tên là) Hai (Cái) Răng ở vùng Vịnh (hoặc thung lũng).
*     *     *     *
3. ĐOẠN SẤM 3/42
3.1 Nơi sinh và Năm sinh.
Đặc biệt hơn nữa, ý nghĩa câu sấm “'L'un estre nay à deux dents en la gorge : còn được lặp lại hầu như nguyên văn ở đoạn 3/42 :
L'enfant naistra à deux dents en la gorge,
Pierres en Tuscie par pluy tomberont,
Peu d'ans après ne sera bled ni orge,
Pour saouler ceux qui de faim failliront.*11
Dịch :
Đứa bé sẽ sinh ra tại Hai Răng ở vùng Vịnh,
Đá sẽ rơi như mưa xuống Trân Châu,
Ít năm sau sẽ không lúa gạo không ngũ cốc,
Để đầy bụng những người kiệt sức vì đói.
Rất hiếm có việc lặp lại nguyên một câu sấm. Đây là dấu chỉ hai đoạn sấm 2/7 và 3/42 liên tục tiên báo cùng một biến cố, và là biến cố đáng quan tâm.
Đoạn 3/42 nầy tiên báo về địa điểm và dấu chỉ thời gian ra đời của nhân vật nầy. Ngoài việc lặp lại nguyên văn câu sấm có hai địa danh của nơi sinh, đoạn sấm nầy còn nói tới hai biến cố quan trọng liên quan tới năm sinh của đứa bé.
*     *
3.2 Không lúa gạo không ngũ cốc.
Ở nhiều đoạn sấm khác, mỗi khi nói tới nạn đói, Nostradamus thường kể rõ nguyên nhân, như mất mùa, hạn hán, lụt lội, chiến tranh. Ở đây, nạn đói lại được ghi nhận là vì không có lúa gạo và ngũ cốc, chứ không nhất thiết là vì các tai ách khác.
Nó nhắc nhớ nạn đói tháng 3 năm 1945 ở Miền Bắc nước ta, với hơn một triệu người chết, do Quân Nhật đã tàn nhẫn trưng dụng phần lớn ruộng đất, không cho dân trồng lúa gạo ngũ cốc, mà buộc trồng thầu dầu và đay gai, để cung ứng cho kỹ nghệ chiến tranh của Nhật.
Đã vậy, quân Nhật còn bắt dân ta nộp lúa gạo. Trong bốn năm, 1941-1944, Nhật đã cướp của Việt Nam 3.600.000 tấn gạo.*12
Như thế, người dân vẫn phải lao tác nặng nhọc để trồng cấy, nhưng không lúa gạo không ngũ cốc, không có ăn, không có gì để đầy bụng những người kiệt sức vì đói.
*     *
3.3 Đá rơi như mưa.
Thời Nostradamus chưa có bom, chưa có phi cơ dội bom, chỉ có máy bắn đá là tàn phá mạnh nhất.*13
Tuy nhiên, ngày nay hình ảnh đá rơi như mưa cho thấy cảnh trọng pháo rót đạn hoặc máy bay rải bom.
*     *
3.4 Tuscie.
Nhưng rồi, tên Tuscie lại rắc rối. Trong tiếng Pháp, chữ nầy không có nghĩa gì. Các nhà giải đoán phương Tây đều cho rằng Nostradamus dùng chữ Tuscie để chỉ vùng Toscane ở miền trung nước Ý. Đây là vùng đã có giống dân Etrusque sinh sống từ thế kỷ thứ 8 tới thế kỷ thứ 3 trước tây lịch, và thời đó người Roma gọi họ là dân Tusci.
Thế nhưng, dầu nếu Tuscie chỉ vùng Toscane, thì từ thời Nostradamus tới nay, vùng nầy cũng chưa hề có nạn đá rơi hoặc mưa bom cách khác thường.*14
Hơn nữa, theo tính cách toàn bộ của hai đoạn sấm, khi tất cả những câu khác đều nói về Việt Nam, thì câu nầy không thể lại đi lạc đến những sự kiện và địa điểm không liên hệ gì tới Việt Nam.
* Như thế, chữ Tuscie có thể là Nostradamus ký âm theo giọng Pháp, địa danh được ký âm theo giọng Mỹ là Kushu, và theo giọng Việt Nam là Trân Chu, hoặc Trân Châu.*15
Đây chính là hải cảng Trân Châu, địa danh đã vang động thế giới vì trận mưa bom do Nhật Bổn gây ra ngày 7.12.1941, trong thế chiến thứ hai.
Chưa tuyên chiến với Hoa Kỳ, Nhật Bổn đột ngột đưa 350 máy bay, và chỉ trong 2 giờ đồng hồ, dội bom tiêu diệt Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đang trú đóng tại hải cảng Trân Châu, ở Hawaii, gần Honolulu.
Chính trận bom rơi như mưa xuống Trân Châu nầy đã khiến Hoa Kỳ tức tốc nhập cuộc chống Nhật, nên đã thay đổi cuộc diện vùng Thái Bình Dương và thế giới, đưa tới sự sụp đổ nhanh chóng của đế quốc Nhật, giúp Việt Nam sớm thoát ách đế quốc Nhật Bổn.*16
*     *
3.5 Ít Năm Sau.
Lại nữa, Nhật đã dội bom cảng Trân Châu vào cuối năm 1941, và Nhật cũng đã gây nạn đói tại Việt Nam vào đầu năm 1945. Đúng là ít năm sau biến cố bom rơi như mưa xuống Trân Châu, lại cũng đã xảy ra nạn đói vì không có lúa gạo ngũ cốc, y như đoạn sấm tiên báo.
*     *
3.6 Toàn bộ đoạn sấm 3/42.
Ngoài câu lặp lại về nơi sinh, toàn bộ đoạn sấm 3/42 đã nói tới hai biến cố (về năm sinh), và hai biến cố nầy không những đều liên can tới Việt Nam, mà lại cũng đều do quân Nhật Bổn gây ra. Kết cấu thực chặt chẽ.
*     *     *     *
4. VỊ VUA MỚI
Đây là câu cuối của Đoạn Sấm 2/7 :
Pour eux neuf Roy, nouvel edict leur forge.
Đối với họ, đây là vị Vua mới, đạo luật mới rèn luyện họ.
4.1 Vua.
Vào thời Nostradamus, vua là từ ngữ chỉ vị lãnh đạo tối cao của một quốc gia. Trong sấm Nostradamus, chữ vua luôn được nhắc tới một cách trang trọng.
Ngày nay, vua còn có thể hiểu là quốc trưởng, tổng thống, vị lãnh tụ... Theo phương Tây, vua còn có nghĩa đặc biệt là giáo chủ.*17
Lại nữa, theo các nhà giải đoán phương Tây, Vị Vua Mới nầy chính là Vị khai sáng Kỷ Nguyên Vàng Son cho nhân loại, kỷ nguyên toàn thể nhân loại được hưởng hàng ngàn năm hạnh phúc an lành thịnh vượng. Đây cũng là Kỷ nguyên Bảo Bình của thời hiện đại.*18
* [Các nhà giải đoán phương Tây thường gom tất cả các câu sấm của Nostradamus vào một Vị Khai Sáng Kỷ Nguyên Mới. Họ luôn có khuynh hướng ‘độc tôn’, chỉ chú trọng tới một nền văn hóa trong một Kỷ nguyên. Trên thực tế, nhân loại luôn có nhiều nền văn hóa song song].*19
[Việc chuyển biến và những đặc điểm của một Kỷ nguyên cũng tuần tự thể hiện, chứ không đột nhiên bùng nổ và tràn ngập, như nhiều người lầm tưởng].*20
*     *
4.2 Đạo luật mới rèn luyện họ.
Chữ edict (édit) thường được hiểu là sắc lịnh của nhà vua. Chữ nầy đã được Nostradamus dùng cách đây hơn 400 năm.
Thời đó, một sắc lịnh của vua có ảnh hưởng không những như một đạo luật, mà còn có thể như một bộ luật, một hiến chương... của thời nay.
Đạo Luật Mới nầy lại gồm những nguyên tắc và ứng dụng thực tiễn để rèn luyện, giáo hóa, giúp mọi người xây dựng một nếp sống mới. Đây là việc cải hóa Con Người và Xã Hội tận nền tảng, ứng hợp với thời khai sáng của Kỷ Nguyên Mới, kỷ nguyên mọi Con Người được sống cuộc sống quân bình, hòa hợp và phát triển toàn diện.*21
*     *
4.3 Thân thế Vị Vua Mới.
Hai đoạn sấm 2/7 và 3/42 đã hợp nhau tiên báo khá đầy đủ về thân thế của Nhân Vật đặc biệt nầy.
1. Đoạn 2/7 lại tiên báo Vị nầy thuộc ‘trong số’ những người Việt Nam vượt biển tỵ nạn tới các đảo.
2. Đoạn 3/42 giúp ta xác quyết Vị nầy sinh tại Việt Nam, vào những năm 1941-1945.
3. Cả hai Đoạn đều nói rõ Vị nầy ‘sinh ra tại Hai (Cái) Răng ở vùng Vịnh’.
4. Vị nầy sẽ là Vị Vua Mới, và sẽ xây dựng một nếp sống mới.
Hầu hết các nhà giải đoán phương Tây, và nhiều câu sấm cũng như nhiều truyền thuyết khác, đều quả quyết rằng đây là Vị Khai sáng Kỷ Nguyên Mới cho Nhân Loại, Kỷ nguyên Bảo Bình.
Tuy vậy, trong Đoạn 2/7, chữ ‘Đối với họ, cho họ, (Pour eux)’ mới chỉ ghi nhận đây là Vị Lãnh Tụ Đặc Biệt cho Dân Việt Nam.
*     *     *     *
5. SẤM NOSTRADAMUS
Hai đoạn sấm 2/7 vả 3/42 của Nostradamus đã ghi nhận những dấu chỉ, cùng với địa điểm và thời gian xuất hiện của Vị Lãnh Tụ Đặc Biệt cho Việt Nam, giúp VIỆT NAM GÓP PHẦN vào KỶ Nguyên Vàng Son của nhân loẠi.
Có thể Nostradamus còn có nhiều đoạn sấm khác, tiên báo Thời VIỆT NAM huy hoàng trong những thế kỷ tới.
Mong thay.
*     *     *     *
6. GHI CHÚ
* - 5202. : ký số của Bài trong danhgiactau.com.
*1 - Sấm Nostradamus gồm : 965 đoạn bốn câu, 58 đoạn sáu câu, 141 câu rời, 2 bức thư, và 1 đoạn bốn câu tiếng latin. - Đọc Nostradamus 1 : Countdown to Apocalypse, do Jean-Charles de Fontbrune, nxb Pan, London 1984, tr xvii-xviii.
Thư viện Quốc gia Paris hiện đang có những bản in đầu tiên : Les Prophéties de M. Michel de Nostradamus, nxb Macé Bonhomme, Lyon 1555 ; nxb Pierre Rigaud, Lyon 1558 ; nxb Benoist Rigaud, Lyon 1568.
*2 - Hiện nay, (1996), nhà giải đoán nổi tiếng nhất là Jean-Charles de Fontbrune, với tác phẩm Nostradamus 1 : Countdown to Apocalypse, nxb Hutchinson, London 1983 ; vàNostradamus 2 : Into the 21st Century, nxb Hutchinson, London 1984. Nguyên bản bằng tiếng Pháp.
Bà Erika Cheetham cũng có nhiều tác phẩm giá trị, như : - The Prophecies of Nostradamus, nxb Spearman, London 1973 ; - The Further Prophecies of Nostradamus, nxb Corgi, London 1985 ; - The Final Prophecies of Nostrada-mus, nxb Warner, London 1989.
*3 - Nostradamus còn có một số đoạn sấm khác nói về Việt Nam thời hiện đại. - Đọc thêmSấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, do Nam Thiên, (bút hiệu của Nguyễn Thanh Đức), nbx Xuân Thu 1998, Los Alamitos CA, tr 27-74.
*4 - Đọc Nostradamus 1, sđd, tr 421 ; - The Final Prophecies of Nostradamus, sđd, tr 112.
*5 - Theo thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, trong vòng bảy năm, từ sau 30.4.1975 tới 30.6.1982 có 493.187 người tỵ nạn Đông Dương đi bằng đường biển tới các trại. Ngoài ra, còn 262.637 người, hầu hết là gốc Hoa, chạy qua Trung Quốc ; và 339.978 đi đường bộ. Thống kê không kể gần 130.000 người tới thẳng các tàu hoặc căn cứ Mỹ vào tháng 4.1975.
- Đọc Exodus Indochina, do Keith St Cartmail, nxb Heinemann, Auckland N.Z. 1983, tr 89-90.
*6 - Đọc The World Almanac of the Vietnam War, sđd, tr 54.
*7 - Đọc thêm Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, các ghi chú *43, tr 64 ; *46, tr 66.
*8 - Đã kiệt sức vì thiếu ăn triền miên, dân vùng kinh tế mới càng không thể chống chỏi với rừng sâu nước độc và với công việc khẩn hoang nặng nhọc.
Đọc thêm Bộ Mặt Thật của Hồ Chí Minh, do Nguyễn Thuyên, nxb Chuông Sàigòn, Melbourne 1990, tr 256.
*9 - Năm 1985 Việt Nam đã trở thành một trong 16 nước nghèo nhất thế giới. Từ năm 1986, Việt cộng áp dụng chính sách 'cởi mở', và 'kinh tế thị trường'... để rồi với 9.945.727.488 mỹ kim do các nước đầu tư, từ 1986 tới 15.11.1994, với gần 500 triệu mỹ kim do người Việt hải ngoại gởi về hằng năm... bọn Việt cộng đã làm cho Việt Nam tệ thêm, trở thành một trong 11 nước nghèo nhất thế giới, trong số 173 nước, năm 1994 (!). - Đọc Báo cáo 29.12.1994 của Ngân Hàng Thế Giới.
* Theo Báo cáo tháng 3.1995, sau một cuộc điều tra sâu rộng kéo dài một năm, do Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc và Ngân hàng Thế giới thực hiện trên cả nước, thì Việt Nam có 51% dân số, tức là 37.000.000 người, thiếu ăn. Trong số, có 25%, tức hơn 18.000.000 người, không có được mỗi ngày một bữa cơm no (!).
* Năm 1996 Việt Nam cũng có hơn 7.000 nhà triệu phú mỹ kim, tất cả đều là cán bộ cộng sản.
Bảy ngàn cán bộ lạm chiếm ít nhất từ 7 tới 10 tỷ mỹ kim trong khi 37 triệu dân đói (!).
*10 - Ở đoạn sấm 8/41, Nostradamus cũng đã dịch tên 'Hồ' thành Renard, con chồn. - Đọc thêm Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, đoạn 3.2, tr 56.
*11 - Đọc Nostradamus 1, sđd, tr 420 ; - The Final Prophecies of Nostradamus, sđd, tr 188.
*12 - Lại nữa, vì đường tiếp tế từ Miền Nam ra Miền Bắc lại bị chận, khiến Miền Nam thặng dư lúa, phải dùng đốt thay than. Trong khi đó 'ngót hai triệu' đồng bào Miền Bắc chết đói. - Đọc Việt Sử Toàn Thư, do Phạm văn Sơn, xb Sàigòn 1960, tr 703.
- Về sự kiện Nhật vô Việt Nam, đọc thêm Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, (bài Rồng Nằm Bể Cạn), đoạn 3.3, tr 97.
*13 - Khinh khí cầu đầu tiên thành công năm 1783, sau Nostradamus hơn 200 năm. Phi cơ đầu tiên thành công năm 1903.
*14 - Về dân Etrusque, đọc Mysteries of The Past, do Lionel Casson, nxb Book Trade, New York 1977, tr 117.
*15 - Về chữ Kushu, đọc Infamy : Pearl Harbor and Its Aftermath, do John Toland, nxb Methuen, London 1982, tr 349. - Đọc thêm Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, đoạn 3.2, tr 56.
*16 - Đọc thêm A Battle History of The Imperial Japanese Navy (1941-1945), do Paul S. Dull, nxb Patrick Stephens, Cambridge 1978, tr 16-18.
*17 - Đức Giêsu còn được gọi là 'Vua các vua', vua của 'Nước Trời'. Giáo chủ Roma cũng là vua, là Giáo Hoàng, và dưới quyền có các Hồng Y là các Vương gia, princes.
*18 - Đọc thêm Nostradamus 1, sđd, tr 441 ; - Nostradamus 2 : Into the 21st Century, do J.-C. de Fontbrune, nxb Hutchinson, London 1984, tr 154.
Ngoài sấm Nostradamus, còn có nhiều truyền thuyết khác, và đặc biệt sấm Trạng Trìnhcũng nói tới Thánh Chúa. - Đọc thêm Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025, sđd, (bàiRồng Nằm Bể Cạn), đoạn 3.8, tr 106.
*19 - Người phương Tây thường cho hai ngàn năm vừa qua là kỷ nguyên của Kitô giáo. Nhưng đồng thời, nhân loại còn có nhiều nền văn hóa khác, và nhân số thuộc các văn hóa nầy lại đông hơn.
*20 - Hiện có nhiều nhóm người đang mong chờ một đột phát, một kỳ tích. Nhưng lịch sử nhân loại không hề có những lạ lùng đó. Trong quá khứ, Kỷ nguyên nào cũng cần vài ba trăm năm để thành hình.
Ngày nay, với những phương tiện thần tốc, việc phổ biến có thể nhanh chóng hơn. Nhưng cũng cần thời gian để thấm nhuần và cải hóa lòng người.
*21 - Đọc Nostradamus 2, sđd, tr 78, 154 ; - Nostradamus and the Millennium, sđd, tr 188-189.
_____________________
Nguyễn Thanh Đức 1998.

Tổng số lượt xem trang