-Son Tran
MỜI ĐỌC tiếp:
Ý kiến: tính chính danh và quan hệ Việt–Mỹ
Luật sư Vũ Đức Khanh và Bác sỹ Võ Tấn Huân12 tháng 5 2015
Trong khi Hoa Kỳ đã phần nào thành công trong việc hợp tác và củng cố mối quan hệ ngoại giao lẫn quân sự với các quốc gia cựu thù, liệu Hà Nội có sẵn sàng thay đổi để tiến xa hơn với Washington?
Các mối đe dọa an ninh toàn cầu đã giúp nhiều nước xích lại gần nhau hơn. Vào thời điểm ngày 8 tháng 12 năm 1941, một ngày sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng tại Hawaii, thế giới – đặc biệt là người Mỹ và người Nhật – không bao giờ ngờ được rằng hai nước một ngày nào đó sẽ trở thành đồng minh thân cận.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe chắc hẳn phần nào đã hài lòng khi quay về lại Tokyo sau chuyến thăm Washington gần đây với bài diễn văn mang nhiều nội dung chiến lược trước Quốc hội Hoa Kỳ, và mối quan hệ quốc phòng mới Mỹ–Nhật đã được mô tả là đang có “nhiều biến đổi" trong những ngày sắp tới.
Tương tự, Đức cũng từng là một nước cựu thù của Hoa Kỳ nhưng hiện là thành viên quan trọng trong khối NATO và Hoa Kỳ hiện là đồng minh hàng đầu của Đức ngoài những nước trong khối Liên minh châu Âu.
Với trọng tâm hiện nay của Washington là Trung Đông và châu Á–Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có thể nghĩ rằng họ cần thúc đẩy những nước cựu thù trở thành trọng tâm trong các chính sách ngoại giao của mình.
Ở khu vực châu Á–Thái Bình Dương, Hoa Kỳ đang có những đồng minh chiến lược quan trọng nhằm củng cố chính sách “trục châu Á” như Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc và Philippines.
Tuy nhiên, ngoài việc hợp tác chặt chẽ với các đồng minh cũ, Hoa Kỳ cũng đang tìm cách nâng cấp mối quan hệ đối tác đầy tiềm năng với Việt Nam. Hiện nay, có lẽ không có nước nào trong khu vực có nhiều sự ngờ vực cũng như lo lắng về sự trỗi dậy của nước láng giềng Trung Quốc như Việt Nam – nước từng có hơn nghìn năm lịch sự chiến tranh chống lại sự xâm lăng địa lý, văn hóa, kinh tế lẫn tư tưởng với phương Bắc. Trong bối cảnh đó, liệu Hà Nội có sẵn sàng thay đổi để tiến xa hơn với Washington?
Trung Quốc: Mối đe dọa chủ quyền Việt Nam
Trong thời gian tới, bất kỳ sự tiến bộ nào liên quan đến quan hệ kinh tế, an ninh và quốc phòng, giữa Washington và Hà Nội cũng đều dựa trên quyết định cải cách chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoa Kỳ có thể đã từng là kẻ thù của Việt Nam, nhưng đó chỉ theo cách suy nghĩ và áp đặt của những người trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù vậy, các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cũng thừa hiểu rằng nước cựu thù của họ hiện đang là siêu cường quốc duy nhất có thể kiềm chế và kiểm soát một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự.
Sự trỗi dậy mãnh liệt của Trung Quốc từ nhiều năm qua luôn là mối đe dọa nghiêm trọng không những đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam mà còn ảnh hưởng chung đến nền hoà bình, an ninh và thịnh vượng của toàn khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, tạo dựng mối quan hệ mang tầm chiến lược sâu xa hơn với Hoa Kỳ đòi hỏi ở những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tính chính danh lẫn tầm nhìn về lợi ích quốc gia. Nó sẽ tạo dựng một chính quyền đáng tin cậy, và từ đó làm cơ sở để tạo dựng lòng tin với những đối tác chính trị quốc tế.
Đã hai năm trôi qua kể từ tháng 7 năm 2013 nhưng biểu tượng “Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt–Mỹ” vẫn chưa tiến xa như nhiều người mong đợi.
Việc nâng tầm quan hệ đối tác toàn diện đã tạo cơ hội để hai nước hợp tác sâu rộng hơn trong nhiều lĩnh vực, và điều này chắc hẳn nhiều người Việt Nam cũng đang mong muốn.
Tuy nhiên, xét về phương diện chính trị, thực tế Việt Nam vẫn chưa thực sự tôn trọng và cam kết các nguyên tắc cơ bản trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc – nền tảng cốt lõi nhằm tăng cường mối quan hệ với Hoa Kỳ.
Thậm chí, để đánh dấu ngày kết thúc cuộc chiến tranh tàn khốc năm 1975, Hạ viện Hoa Kỳ đã tìm cách đưa một vài dự luật nhằm tôn vinh những người đã ngã mình trong trận chiến – dù là ở chiến tuyến nào. Trong khi đó, thủ tướng Việt Nam đã chỉ trích Hoa Kỳ gây ra “các tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát” cho Việt Nam.
Những từ ngữ gay gắt chẳng những không giúp thay đổi mối quan hệ giữa hai nước mà thậm chí còn thể hiện ý thức ngoại giao kém của một lãnh đạo quốc gia. Nếu người lãnh đạo không có cái nhìn khách quan và đúng đắn về lịch sử thì không thể tạo được lòng tin cho người dân và đối tác.Thủ tướng Việt Nam đã chỉ trích Hoa Kỳ gây ra “các tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát” cho Việt Nam
Nền tảng tính chính danh của lãnh đạo
Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cần bước qua những rào cản ý thức hệ để hội nhập vào thực tiễn đòi hỏi của xã hội. Kêu gọi xây dựng “lòng tin chiến lược”, ngăn chặn những người “tham vọng quyền lực” vào chính quyền trước hết đòi hỏi Việt Nam một cơ chế chính quyền có tính chính danh, trong sạch và hiệu quả, phục vụ cho lợi ích quốc gia để tránh được các quốc nạn mà Việt Nam đang vấp phải từ nhiều năm nay.
Có như vậy, những người lãnh đạo mới tạo dựng niềm tin đối với nhân dân và trở thành một đối tác đáng tin cậy của quốc tế. Và có như vậy lãnh đạo Việt Nam mới hết tuyên chiến với chính người dân của mình.
Thiết nghĩ, cuối cùng, nền móng bền vững cho mối quan hệ giữa lãnh đạo quốc gia và người dân cũng như giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phải được dựa trên những giá trị cốt lõi cơ bản mà các bên đều đồng ý: tự do, dân chủ, nhân bản, pháp trị và pháp luật chuẩn mực.
Trong thời gian tới, bất kỳ sự tiến bộ nào liên quan đến quan hệ kinh tế, an ninh và quốc phòng, giữa Washington và Hà Nội cũng đều dựa trên quyết định cải cách chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam.
Cải cách đó cần bắt đầu ngay lập tức từ nền tảng tính chính danh của chính quyền với một Hiến pháp thực sự tự do, dân chủ và đầy đủ trọn vẹn quyền làm chủ của người dân.
-Chính quyền Việt Nam: nhũn với quốc tế, rắn với dân
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 30 tháng 8, 2014
Sau khi toà phúc thẩm y án tù và tăng đôi số tiền phạt đối với Ls. Lê Quốc Quân, chị Dương Hà, vợ anh Cù Huy Hà Vũ, nhắn qua Skype cho tôi, tỏ ý lo rằng đây là dấu hiệu chính quyền Việt Nam đang cứng rắn hơn và có thể sẽ không trả tự do cho anh Vũ như đã hứa hẹn với Hoa Kỳ từ nhiều tháng trước.
Tôi nhắn lại: “Hai chuyện khác nhau. Hoàn toàn không ảnh hưởng đến trường hợp của anh Vũ.”
Trong thâm tâm, tôi nghĩ việc y án đối với Lê Quốc Quân báo hiệu anh Vũ sắp ra khỏi tù.
Hai bản mặt
Chính quyền Việt Nam đang ở trong thế phải cầu cạnh một số quyền lợi từ quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, nên muốn tỏ vẻ “biết điều”: Chúng tôi sẵn sàng đáp ứng mối quan tâm của quý vị. Cùng lúc, với dân, nhất là thành phần đấu tranh nhân quyền và dân chủ, họ phải tỏ ra “cứng rắn” để giữ thế độc tôn: Chế độ không lùi bước trước áp lực quốc tế; chớ tưởng bở mà làm mạnh. Mỗi hành động “biết điều” với quốc tế đều phải được cân bằng bởi một thể hiện “cứng rắn” để dằn mặt dân trong nước.
Một hồ sơ có công dụng “dằn mặt” nếu hội đủ 2 yếu tố: (1) Đang được các thành phần trong nước lên tiếng yểm trợ mạnh mẽ; (2) Có sự vận động ầm ĩ ở hải ngoại nhưng chưa có hậu thuẫn quốc tế, nên không đe doạ đến các quyền lợi mà chính quyền đang mưu cầu từ quốc tế.
Đối nội, hồ sơ như vậy có tác dụng đánh phủ đầu các thành phần tranh đấu, chứng tỏ rằng họ càng làm mạnh thì càng phản tác dụng, và đừng trông chờ gì vào sự can thiệp quốc tế vì chính quyền Việt Nam bất chấp. Đối ngoại, chính quyền không lo phản ứng bất lợi của quốc tế vì hồ sơ không là điều kiện để đổi lấy quyền lợi; quốc tế cùng lắm sẽ phản đối suông, và tâm lý bất lợi nếu có sẽ được giải toả khi chính quyền trả tự do cho số hồ sơ đang được quốc tế quan tâm.
Hồ sơ của Lê Quốc Quân nằm đúng vào trường hợp này: Ở trong nước có nhiều buổi thắp nến cầu nguyện, nhiều đợt biểu tình đòi trả tự do và đông người ở các nơi kéo về dự phiên toà; ở ngoài thì Mẹ đi lặn lội đến nhiều quốc gia cầu cứu cho con trong nhiều tháng trời, nhưng hồ sơ chưa được quan tâm đáng kể bởi chính giới quốc tế (thậm chí, lúc ấy chưa có một dân biểu nào “đỡ đầu”) và không gắn liền với bất kỳ quyền lợi nào mà chế độ đang cầu cạnh từ quốc tế. Đó là hồ sơ lý tưởng để chính quyền dùng vào mục đích “dằn mặt” dân.
Kế hoá giải
Tháng 7 năm 2013, BPSOS đề ra chiến dịch Đòi Tự Do Cho Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam. Chúng tôi vận động để gắn liền việc trả tự do vô điều kiện cho tất cả TNLT với việc cho Việt Nam tham gia TPP. Đó là về chiến lược.
Về chiến thuật, chúng tôi lập 3 danh sách:
(1) Danh sách 1 gồm khoảng 20 TNLT ở mức ưu tiên tối cao và gắn liền với các quyền lợi mà Việt Nam đang cầu cạnh từ Hoa Kỳ.
(2) Danh sách 2 gồm khoảng 200 TNLT đã được quốc tế phối kiểm.
(3) Danh sách 3 gồm khoảng 200 TNLT có tên nhưng chưa được quốc tế phối kiểm và công nhận.
Chúng tôi giữ Danh sách 1 tương đối ngắn để tập trung được sự chú ý và can thiệp của quốc tế. Danh sách này gồm những TNLT tiêu biểu như Ts. Cù Huy Hà Vũ, Blogger Điếu Cày, Blogger Tạ Phong Tần, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Tiến Trung, Lm. Nguyễn Văn Lý, Ms. Dương Kim Khải, Ông Nguyễn Văn Lía (PGHH), Trần Huỳnh Duy Thức, Ls. Lê Quốc Quân…
Chúng tôi vận động quốc tế, thật mạnh nhưng thật im ắng, cho Danh Sách 1. Và rồi cứ mỗi TNLT trong đó được tự do thì chúng tôi lại đôn người từ Danh Sách 2 lên. Chẳng hạn, sau khi Đỗ Thị Minh Hạnh được tự do thì chúng tôi đôn Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương thay thế; khi Nguyễn Tiến Trung tự do thì Ms. Nguyễn Công Chính thế chỗ. Như thế Danh Sách 1 lúc nào cũng có khoảng 20 TNLT ở mức ưu tiên tối cao.
Tương tự, khi một TNLT trong Danh Sách 3 được quốc tế phối kiểm và công nhận thì chúng tôi đưa vào Danh Sách 2.
Với phương cách này, chính quyền Việt Nam không thể chỉ trả tự do cho một ít hồ sơ đang được quốc tế quan tâm, vì tất cả TNLT đều sẽ tuần tự được đưa vào Danh Sách 1. Nếu muốn thoát áp lực quốc tế, chính quyền không những phải trả tự do cho tất cả TNLT mà không bắt giam thêm.
Im lặng là vàng
Giới lãnh đạo Việt Nam độc tài và có thể độc ác nhưng đủ thông minh để toan tính lợi hại. Nếu lợi ít mà hại nhiều thì họ không làm. Do đó, khi thực hiện chiến dịch Đòi Tự Do Cho TNLT Việt Nam, chúng tôi giảm công dụng “dằn mặt” và đồng thời tăng tổn hại nếu chính quyền không trả tự do cho TNLT, mà ưu tiên là những người trong Danh Sách 1. Chẳng hạn, khi chị Dương Hà sang Mỹ tháng 7 năm ngoái, chúng tôi sắp xếp để chị gặp nhiều dân biểu và thượng nghị sĩ, giới chức Bộ Ngoại Giao, và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế nhưng hoàn toàn kín tiếng. Tôi căn dặn chị Hà tránh mọi phát biểu hay gây tiếng ồn khi về nước. Sự im ắng ở cả ngoài và trong nước làm cho hồ sơ không có tác dụng “dằn mặt”. Không những vậy, dùng nó để “dằn mặt” có thể phản tác dụng hoàn toàn vì sự tổn hại không thể giấu giếm: Hoa Kỳ cho biết là nếu không trả tự do sớm cho anh Vũ thì sẽ ảnh hưởng đến việc thảo luận hợp tác nguyên tử lực giữa 2 quốc gia.
Trường hợp Đỗ Thị Minh Hạnh thì khác. Chúng tôi cần vận động công khai để tranh thủ sự yểm trợ của các công đoàn Hoa Kỳ cho hồ sơ, mà kết quả là nó đã được gắn chặt với triển vọng TPP cho Việt Nam. Để giảm công dụng “dằn mặt”, chúng tôi căn dặn thân nhân tuyệt đối im ắng ở trong nước. Đồng thời giúp cho chính quyền Việt Nam hiểu rằng nếu dùng hồ sơ này vào mục đích “dằn mặt” thì sẽ tự gây tổn hải khôn lường: trên 150 dân biểu Hoa Kỳ chính thức lên tíếng chống TPP cho Việt Nam vì vi phạm quyền lao động và bắt giam những người tranh đấu cho quyền lao động mà Đỗ Thị Minh Hạnh là điển hình và nổi bật nhất.
Cùng thời gian Mẹ của Đỗ Thị Minh Hạnh vận động cho con gái Hoa Kỳ, thân nhân của 3 TNLT khác cũng đến Hoa Kỳ và rồi đi nhiều quốc gia khác để vận động. Chuyến đi này của họ đã được đưa tin rất nhiều về trong nước bởi giới blogger. Điều này đã giúp hồ sơ Đỗ Thị Minh Hạnh bị "chìm" đi ở trong nước, nghĩa là giảm công dụng “dằn mặt”.
Các hồ sơ của 3 TNLT này (Ls. Lê Quốc Quân, Trần Huỳnh Duy Thức và Đinh Nguyên Kha) vừa thật nổi ở trong nước vừa không được cài vào quyền lợi nào mà Việt Nam đang cầu cạnh quốc tế cho nên trở thành lý tưởng cho chính quyền Việt Nam dùng để thị uy với dân.
Thấy vậy, chúng tôi quyết định tạm thời án binh bất động về hồ sơ Lê Quốc Quân và Trần Huỳnh Duy Thức dù họ ở trong Danh Sách 1. Khi tình hình tạm lắng, chúng tôi bắt đầu vận động trở lại, mà khởi đầu là vận động được 2 dân biểu Hoa Kỳ “đỡ đầu” cho 2 hồ sơ này.
Kết luận
Theo phân tích như trên, án tù rất nặng vừa mới đây cho Bà Bùi Thị Minh Hằng cũng là đòn của chính quyền “dằn mặt” dân. Hồ sơ này hội đủ cả 2 tiêu chuẩn cho công dụng “dằn mặt”. Còn Ông Nguyễn Văn Minh và Cô Nguyễn Thị Thuý Quỳnh bị kéo theo vì cùng vụ án. Tuần rồi, tôi có bàn với văn phòng DB Christopher Smith, Chủ Tịch tiểu ban về nhân quyền ở Hạ Viện Hoa Kỳ, là nên chuyển trọng tâm: thay vì tập trung vào Bà Hằng thì nên đôn trường hợp của Ông Minh lên đầu vì nó gắn liền với vấn đề tự do tôn giáo: cả gia đình theo Phật Giáo Hoà Hảo và nay cả 3 người đàn ông trong nhà đều là TNLT. Tự do tôn giáo đang là mũi nhọn quốc tế vận có thể đưa Việt Nam vào danh sách CPC và chặn đứng TPP. Nhưng phải chờ sự xôn xao ở trong nước lắng xuống thì mới có thể bắt đầu đẩy mạnh ở ngoài này.
Và cũng theo nhận định của tôi, án tù dành cho 3 người này báo hiệu đợt trả tự do sắp đến cho một số TNLT. Nó nằm trong kế cân bằng giữa “biết điều” với thế giới bên ngoài và “dằn mặt” dân ở trong nước. Biết kế của đối phương rồi thì chúng ta cũng biết mình phải làm gì, cách nào và khi nào.
Bài liên quan:
Lộ Trình Tranh Đấu Cho Tù Nhân Lương Tâm
http://machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=2716
-Son Tran -Tin Không Lề
"Việc kết án này dường như không phù hợp với quyền tự do ngôn luận và những nghĩa vụ của Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị, cũng như các cam kết thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế. Chúng tôi kêu gọi chính phủ hãy thả vô điều kiện ba cá nhân này, cũng như các tù nhân lương tâm khác, và cho phép mọi người VIệt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ".
-
"... Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cần bước qua những rào cản ý thức hệ để hội nhập vào thực tiễn đòi hỏi của xã hội. Kêu gọi xây dựng “lòng tin chiến lược”, ngăn chặn những người “tham vọng quyền lực” vào chính quyền trước hết đòi hỏi Việt Nam một cơ chế chính quyền có tính chính danh, trong sạch và hiệu quả, phục vụ cho lợi ích quốc gia để tránh được các quốc nạn mà Việt Nam đang vấp phải từ nhiều năm nay.
Có như vậy, những người lãnh đạo mới tạo dựng niềm tin đối với nhân dân và trở thành một đối tác đáng tin cậy của quốc tế. Và có như vậy lãnh đạo Việt Nam mới hết tuyên chiến với chính người dân của mình..."
MỜI ĐỌC tiếp:
Ý kiến: tính chính danh và quan hệ Việt–Mỹ
Luật sư Vũ Đức Khanh và Bác sỹ Võ Tấn Huân12 tháng 5 2015
Trong khi Hoa Kỳ đã phần nào thành công trong việc hợp tác và củng cố mối quan hệ ngoại giao lẫn quân sự với các quốc gia cựu thù, liệu Hà Nội có sẵn sàng thay đổi để tiến xa hơn với Washington?
Các mối đe dọa an ninh toàn cầu đã giúp nhiều nước xích lại gần nhau hơn. Vào thời điểm ngày 8 tháng 12 năm 1941, một ngày sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng tại Hawaii, thế giới – đặc biệt là người Mỹ và người Nhật – không bao giờ ngờ được rằng hai nước một ngày nào đó sẽ trở thành đồng minh thân cận.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe chắc hẳn phần nào đã hài lòng khi quay về lại Tokyo sau chuyến thăm Washington gần đây với bài diễn văn mang nhiều nội dung chiến lược trước Quốc hội Hoa Kỳ, và mối quan hệ quốc phòng mới Mỹ–Nhật đã được mô tả là đang có “nhiều biến đổi" trong những ngày sắp tới.
Tương tự, Đức cũng từng là một nước cựu thù của Hoa Kỳ nhưng hiện là thành viên quan trọng trong khối NATO và Hoa Kỳ hiện là đồng minh hàng đầu của Đức ngoài những nước trong khối Liên minh châu Âu.
Với trọng tâm hiện nay của Washington là Trung Đông và châu Á–Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có thể nghĩ rằng họ cần thúc đẩy những nước cựu thù trở thành trọng tâm trong các chính sách ngoại giao của mình.
Ở khu vực châu Á–Thái Bình Dương, Hoa Kỳ đang có những đồng minh chiến lược quan trọng nhằm củng cố chính sách “trục châu Á” như Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc và Philippines.
Tuy nhiên, ngoài việc hợp tác chặt chẽ với các đồng minh cũ, Hoa Kỳ cũng đang tìm cách nâng cấp mối quan hệ đối tác đầy tiềm năng với Việt Nam. Hiện nay, có lẽ không có nước nào trong khu vực có nhiều sự ngờ vực cũng như lo lắng về sự trỗi dậy của nước láng giềng Trung Quốc như Việt Nam – nước từng có hơn nghìn năm lịch sự chiến tranh chống lại sự xâm lăng địa lý, văn hóa, kinh tế lẫn tư tưởng với phương Bắc. Trong bối cảnh đó, liệu Hà Nội có sẵn sàng thay đổi để tiến xa hơn với Washington?
Trung Quốc: Mối đe dọa chủ quyền Việt Nam
Trong thời gian tới, bất kỳ sự tiến bộ nào liên quan đến quan hệ kinh tế, an ninh và quốc phòng, giữa Washington và Hà Nội cũng đều dựa trên quyết định cải cách chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoa Kỳ có thể đã từng là kẻ thù của Việt Nam, nhưng đó chỉ theo cách suy nghĩ và áp đặt của những người trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù vậy, các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cũng thừa hiểu rằng nước cựu thù của họ hiện đang là siêu cường quốc duy nhất có thể kiềm chế và kiểm soát một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự.
Sự trỗi dậy mãnh liệt của Trung Quốc từ nhiều năm qua luôn là mối đe dọa nghiêm trọng không những đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam mà còn ảnh hưởng chung đến nền hoà bình, an ninh và thịnh vượng của toàn khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, tạo dựng mối quan hệ mang tầm chiến lược sâu xa hơn với Hoa Kỳ đòi hỏi ở những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tính chính danh lẫn tầm nhìn về lợi ích quốc gia. Nó sẽ tạo dựng một chính quyền đáng tin cậy, và từ đó làm cơ sở để tạo dựng lòng tin với những đối tác chính trị quốc tế.
Đã hai năm trôi qua kể từ tháng 7 năm 2013 nhưng biểu tượng “Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt–Mỹ” vẫn chưa tiến xa như nhiều người mong đợi.
Việc nâng tầm quan hệ đối tác toàn diện đã tạo cơ hội để hai nước hợp tác sâu rộng hơn trong nhiều lĩnh vực, và điều này chắc hẳn nhiều người Việt Nam cũng đang mong muốn.
Tuy nhiên, xét về phương diện chính trị, thực tế Việt Nam vẫn chưa thực sự tôn trọng và cam kết các nguyên tắc cơ bản trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc – nền tảng cốt lõi nhằm tăng cường mối quan hệ với Hoa Kỳ.
Thậm chí, để đánh dấu ngày kết thúc cuộc chiến tranh tàn khốc năm 1975, Hạ viện Hoa Kỳ đã tìm cách đưa một vài dự luật nhằm tôn vinh những người đã ngã mình trong trận chiến – dù là ở chiến tuyến nào. Trong khi đó, thủ tướng Việt Nam đã chỉ trích Hoa Kỳ gây ra “các tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát” cho Việt Nam.
Những từ ngữ gay gắt chẳng những không giúp thay đổi mối quan hệ giữa hai nước mà thậm chí còn thể hiện ý thức ngoại giao kém của một lãnh đạo quốc gia. Nếu người lãnh đạo không có cái nhìn khách quan và đúng đắn về lịch sử thì không thể tạo được lòng tin cho người dân và đối tác.Thủ tướng Việt Nam đã chỉ trích Hoa Kỳ gây ra “các tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát” cho Việt Nam
Nền tảng tính chính danh của lãnh đạo
Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cần bước qua những rào cản ý thức hệ để hội nhập vào thực tiễn đòi hỏi của xã hội. Kêu gọi xây dựng “lòng tin chiến lược”, ngăn chặn những người “tham vọng quyền lực” vào chính quyền trước hết đòi hỏi Việt Nam một cơ chế chính quyền có tính chính danh, trong sạch và hiệu quả, phục vụ cho lợi ích quốc gia để tránh được các quốc nạn mà Việt Nam đang vấp phải từ nhiều năm nay.
Có như vậy, những người lãnh đạo mới tạo dựng niềm tin đối với nhân dân và trở thành một đối tác đáng tin cậy của quốc tế. Và có như vậy lãnh đạo Việt Nam mới hết tuyên chiến với chính người dân của mình.
Thiết nghĩ, cuối cùng, nền móng bền vững cho mối quan hệ giữa lãnh đạo quốc gia và người dân cũng như giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phải được dựa trên những giá trị cốt lõi cơ bản mà các bên đều đồng ý: tự do, dân chủ, nhân bản, pháp trị và pháp luật chuẩn mực.
Trong thời gian tới, bất kỳ sự tiến bộ nào liên quan đến quan hệ kinh tế, an ninh và quốc phòng, giữa Washington và Hà Nội cũng đều dựa trên quyết định cải cách chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam.
Cải cách đó cần bắt đầu ngay lập tức từ nền tảng tính chính danh của chính quyền với một Hiến pháp thực sự tự do, dân chủ và đầy đủ trọn vẹn quyền làm chủ của người dân.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của các tác giả, hiện đang làm việc và sống tại Canada.
-Chính quyền Việt Nam: nhũn với quốc tế, rắn với dân
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 30 tháng 8, 2014
Sau khi toà phúc thẩm y án tù và tăng đôi số tiền phạt đối với Ls. Lê Quốc Quân, chị Dương Hà, vợ anh Cù Huy Hà Vũ, nhắn qua Skype cho tôi, tỏ ý lo rằng đây là dấu hiệu chính quyền Việt Nam đang cứng rắn hơn và có thể sẽ không trả tự do cho anh Vũ như đã hứa hẹn với Hoa Kỳ từ nhiều tháng trước.
Tôi nhắn lại: “Hai chuyện khác nhau. Hoàn toàn không ảnh hưởng đến trường hợp của anh Vũ.”
Trong thâm tâm, tôi nghĩ việc y án đối với Lê Quốc Quân báo hiệu anh Vũ sắp ra khỏi tù.
Hai bản mặt
Chính quyền Việt Nam đang ở trong thế phải cầu cạnh một số quyền lợi từ quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, nên muốn tỏ vẻ “biết điều”: Chúng tôi sẵn sàng đáp ứng mối quan tâm của quý vị. Cùng lúc, với dân, nhất là thành phần đấu tranh nhân quyền và dân chủ, họ phải tỏ ra “cứng rắn” để giữ thế độc tôn: Chế độ không lùi bước trước áp lực quốc tế; chớ tưởng bở mà làm mạnh. Mỗi hành động “biết điều” với quốc tế đều phải được cân bằng bởi một thể hiện “cứng rắn” để dằn mặt dân trong nước.
Một hồ sơ có công dụng “dằn mặt” nếu hội đủ 2 yếu tố: (1) Đang được các thành phần trong nước lên tiếng yểm trợ mạnh mẽ; (2) Có sự vận động ầm ĩ ở hải ngoại nhưng chưa có hậu thuẫn quốc tế, nên không đe doạ đến các quyền lợi mà chính quyền đang mưu cầu từ quốc tế.
Đối nội, hồ sơ như vậy có tác dụng đánh phủ đầu các thành phần tranh đấu, chứng tỏ rằng họ càng làm mạnh thì càng phản tác dụng, và đừng trông chờ gì vào sự can thiệp quốc tế vì chính quyền Việt Nam bất chấp. Đối ngoại, chính quyền không lo phản ứng bất lợi của quốc tế vì hồ sơ không là điều kiện để đổi lấy quyền lợi; quốc tế cùng lắm sẽ phản đối suông, và tâm lý bất lợi nếu có sẽ được giải toả khi chính quyền trả tự do cho số hồ sơ đang được quốc tế quan tâm.
Hồ sơ của Lê Quốc Quân nằm đúng vào trường hợp này: Ở trong nước có nhiều buổi thắp nến cầu nguyện, nhiều đợt biểu tình đòi trả tự do và đông người ở các nơi kéo về dự phiên toà; ở ngoài thì Mẹ đi lặn lội đến nhiều quốc gia cầu cứu cho con trong nhiều tháng trời, nhưng hồ sơ chưa được quan tâm đáng kể bởi chính giới quốc tế (thậm chí, lúc ấy chưa có một dân biểu nào “đỡ đầu”) và không gắn liền với bất kỳ quyền lợi nào mà chế độ đang cầu cạnh từ quốc tế. Đó là hồ sơ lý tưởng để chính quyền dùng vào mục đích “dằn mặt” dân.
Kế hoá giải
Tháng 7 năm 2013, BPSOS đề ra chiến dịch Đòi Tự Do Cho Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam. Chúng tôi vận động để gắn liền việc trả tự do vô điều kiện cho tất cả TNLT với việc cho Việt Nam tham gia TPP. Đó là về chiến lược.
Về chiến thuật, chúng tôi lập 3 danh sách:
(1) Danh sách 1 gồm khoảng 20 TNLT ở mức ưu tiên tối cao và gắn liền với các quyền lợi mà Việt Nam đang cầu cạnh từ Hoa Kỳ.
(2) Danh sách 2 gồm khoảng 200 TNLT đã được quốc tế phối kiểm.
(3) Danh sách 3 gồm khoảng 200 TNLT có tên nhưng chưa được quốc tế phối kiểm và công nhận.
Chúng tôi giữ Danh sách 1 tương đối ngắn để tập trung được sự chú ý và can thiệp của quốc tế. Danh sách này gồm những TNLT tiêu biểu như Ts. Cù Huy Hà Vũ, Blogger Điếu Cày, Blogger Tạ Phong Tần, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Tiến Trung, Lm. Nguyễn Văn Lý, Ms. Dương Kim Khải, Ông Nguyễn Văn Lía (PGHH), Trần Huỳnh Duy Thức, Ls. Lê Quốc Quân…
Chúng tôi vận động quốc tế, thật mạnh nhưng thật im ắng, cho Danh Sách 1. Và rồi cứ mỗi TNLT trong đó được tự do thì chúng tôi lại đôn người từ Danh Sách 2 lên. Chẳng hạn, sau khi Đỗ Thị Minh Hạnh được tự do thì chúng tôi đôn Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương thay thế; khi Nguyễn Tiến Trung tự do thì Ms. Nguyễn Công Chính thế chỗ. Như thế Danh Sách 1 lúc nào cũng có khoảng 20 TNLT ở mức ưu tiên tối cao.
Tương tự, khi một TNLT trong Danh Sách 3 được quốc tế phối kiểm và công nhận thì chúng tôi đưa vào Danh Sách 2.
Với phương cách này, chính quyền Việt Nam không thể chỉ trả tự do cho một ít hồ sơ đang được quốc tế quan tâm, vì tất cả TNLT đều sẽ tuần tự được đưa vào Danh Sách 1. Nếu muốn thoát áp lực quốc tế, chính quyền không những phải trả tự do cho tất cả TNLT mà không bắt giam thêm.
Im lặng là vàng
Giới lãnh đạo Việt Nam độc tài và có thể độc ác nhưng đủ thông minh để toan tính lợi hại. Nếu lợi ít mà hại nhiều thì họ không làm. Do đó, khi thực hiện chiến dịch Đòi Tự Do Cho TNLT Việt Nam, chúng tôi giảm công dụng “dằn mặt” và đồng thời tăng tổn hại nếu chính quyền không trả tự do cho TNLT, mà ưu tiên là những người trong Danh Sách 1. Chẳng hạn, khi chị Dương Hà sang Mỹ tháng 7 năm ngoái, chúng tôi sắp xếp để chị gặp nhiều dân biểu và thượng nghị sĩ, giới chức Bộ Ngoại Giao, và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế nhưng hoàn toàn kín tiếng. Tôi căn dặn chị Hà tránh mọi phát biểu hay gây tiếng ồn khi về nước. Sự im ắng ở cả ngoài và trong nước làm cho hồ sơ không có tác dụng “dằn mặt”. Không những vậy, dùng nó để “dằn mặt” có thể phản tác dụng hoàn toàn vì sự tổn hại không thể giấu giếm: Hoa Kỳ cho biết là nếu không trả tự do sớm cho anh Vũ thì sẽ ảnh hưởng đến việc thảo luận hợp tác nguyên tử lực giữa 2 quốc gia.
Trường hợp Đỗ Thị Minh Hạnh thì khác. Chúng tôi cần vận động công khai để tranh thủ sự yểm trợ của các công đoàn Hoa Kỳ cho hồ sơ, mà kết quả là nó đã được gắn chặt với triển vọng TPP cho Việt Nam. Để giảm công dụng “dằn mặt”, chúng tôi căn dặn thân nhân tuyệt đối im ắng ở trong nước. Đồng thời giúp cho chính quyền Việt Nam hiểu rằng nếu dùng hồ sơ này vào mục đích “dằn mặt” thì sẽ tự gây tổn hải khôn lường: trên 150 dân biểu Hoa Kỳ chính thức lên tíếng chống TPP cho Việt Nam vì vi phạm quyền lao động và bắt giam những người tranh đấu cho quyền lao động mà Đỗ Thị Minh Hạnh là điển hình và nổi bật nhất.
Cùng thời gian Mẹ của Đỗ Thị Minh Hạnh vận động cho con gái Hoa Kỳ, thân nhân của 3 TNLT khác cũng đến Hoa Kỳ và rồi đi nhiều quốc gia khác để vận động. Chuyến đi này của họ đã được đưa tin rất nhiều về trong nước bởi giới blogger. Điều này đã giúp hồ sơ Đỗ Thị Minh Hạnh bị "chìm" đi ở trong nước, nghĩa là giảm công dụng “dằn mặt”.
Các hồ sơ của 3 TNLT này (Ls. Lê Quốc Quân, Trần Huỳnh Duy Thức và Đinh Nguyên Kha) vừa thật nổi ở trong nước vừa không được cài vào quyền lợi nào mà Việt Nam đang cầu cạnh quốc tế cho nên trở thành lý tưởng cho chính quyền Việt Nam dùng để thị uy với dân.
Thấy vậy, chúng tôi quyết định tạm thời án binh bất động về hồ sơ Lê Quốc Quân và Trần Huỳnh Duy Thức dù họ ở trong Danh Sách 1. Khi tình hình tạm lắng, chúng tôi bắt đầu vận động trở lại, mà khởi đầu là vận động được 2 dân biểu Hoa Kỳ “đỡ đầu” cho 2 hồ sơ này.
Kết luận
Theo phân tích như trên, án tù rất nặng vừa mới đây cho Bà Bùi Thị Minh Hằng cũng là đòn của chính quyền “dằn mặt” dân. Hồ sơ này hội đủ cả 2 tiêu chuẩn cho công dụng “dằn mặt”. Còn Ông Nguyễn Văn Minh và Cô Nguyễn Thị Thuý Quỳnh bị kéo theo vì cùng vụ án. Tuần rồi, tôi có bàn với văn phòng DB Christopher Smith, Chủ Tịch tiểu ban về nhân quyền ở Hạ Viện Hoa Kỳ, là nên chuyển trọng tâm: thay vì tập trung vào Bà Hằng thì nên đôn trường hợp của Ông Minh lên đầu vì nó gắn liền với vấn đề tự do tôn giáo: cả gia đình theo Phật Giáo Hoà Hảo và nay cả 3 người đàn ông trong nhà đều là TNLT. Tự do tôn giáo đang là mũi nhọn quốc tế vận có thể đưa Việt Nam vào danh sách CPC và chặn đứng TPP. Nhưng phải chờ sự xôn xao ở trong nước lắng xuống thì mới có thể bắt đầu đẩy mạnh ở ngoài này.
Và cũng theo nhận định của tôi, án tù dành cho 3 người này báo hiệu đợt trả tự do sắp đến cho một số TNLT. Nó nằm trong kế cân bằng giữa “biết điều” với thế giới bên ngoài và “dằn mặt” dân ở trong nước. Biết kế của đối phương rồi thì chúng ta cũng biết mình phải làm gì, cách nào và khi nào.
Bài liên quan:
Lộ Trình Tranh Đấu Cho Tù Nhân Lương Tâm
http://machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=2716
-Son Tran -Tin Không Lề
"Việc kết án này dường như không phù hợp với quyền tự do ngôn luận và những nghĩa vụ của Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị, cũng như các cam kết thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế. Chúng tôi kêu gọi chính phủ hãy thả vô điều kiện ba cá nhân này, cũng như các tù nhân lương tâm khác, và cho phép mọi người VIệt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ".
-