Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Mỹ vẫn che giấu lệnh hạ sát ông Diệm

Ông Ngô Đình Diệm cùng Thứ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Donald Quarles tại Washington hồi năm 1957
Về nền tổng thống chế ở VN nhân 51 năm đảo chính ông Diệm


Nguyễn Tiến Hưng Cựu Tổng trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Mỹ.
Bầu không khí trong phòng họp thật nặng nề. Các thành viên đến họp đều đã biết rõ sẽ có những tranh luận hết sức gay go.

“Ông Diệm không phải là một giải pháp tốt. Pháp và Mỹ đã cố gắng chứng minh ngược lại, nhưng chúng ta đã thất bại.


"Lợi dụng lúc (Đại sứ Mỹ) Collins đi vắng, ông ta đã cho nổ súng và đã thắng thế nhưng cũng chẳng đóng góp gì được cho một giải pháp lâu dài. Quan điểm chống Pháp của ông ta là cực đoan, Diệm không những bất tài mà còn là một người điên (Fou).”

Đây là lời phát biểu của Bộ Trưởng Các Quốc Gia Liên Kết, ông Henri Laforet. Chỉ trích việc Mỹ luôn luôn thay đổi lập trường đối với ông Diệm, Laforet tiếp tục: “Hai bên Mỹ-Pháp chúng ta đã đồng ý với nhau là chỉ ủng hộ ông Diệm một thời gian cho tới tháng giêng vừa qua (tháng 1, 1955), lúc đó nếu ông Diệm vẫn cứ thất bại thì ta phải kín đáo tìm người thay thế. Nhưng điều này đã không xảy ra,” Mỹ đã không tìm người thay thế ông Diệm.

“Vấn đề là trước tình thế hiện nay ta phải làm gì,” Ngoại trưởng Foster Dulles trả lời, “và tình hình hiện nay là đang có một phong trào cách mạng dấy lên ở Việt Nam.”

"Cách mạng gì đâu, Laforet cãi lại, “Chính cái gọi là ‘Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia’ lại đang bị Việt Minh chi phối vì Phó Chủ tịch Hồ Hán Sơn là một sĩ quan cũ của Việt Minh.”

Dulles phản biện: “Nếu ông cho rằng một người trước đây đã cộng tác với Cộng sản thì bây giờ vẫn là Cộng sản thì chưa đủ lý do để kết luận…vì nếu lý luận theo kiểu ấy thì chính ông Bảo Đại cũng có thể là Cộng sản.”


Nếu ông cho rằng một người trước đây đã cộng tác với Cộng sản thì bây giờ vẫn là Cộng sản thì chưa đủ lý do để kết luận…vì nếu lý luận theo kiểu ấy thì chính ông Bảo Đại cũng có thể là Cộng sản.
Ngoại trưởng Mỹ nói với người tương nhiệm phía Pháp hồi năm 1955

Thấy hai bên căng thăng quá, Ngoại trưởng Anh Harold MacMillan xen vào và đề nghị ‘Thôi ta hãy hoãn cuộc họp lại để nghỉ ngơi đã rồi sẽ bàn tiếp.” Đó là đối thoại trong một cuộc họp tay ba Pháp-Mỹ-Anh ở Paris bắt đầu từ ngày 7 tháng 5, 1955 sau khi Ủy Ban Cách Mạng họp tại Dinh Độc Lập ngày 29 tháng 4 ủng hộ Thủ tướng Diệm.

Tới lúc này, sau khi ông Diệm ổn định được tình hình ở Sàigòn thì Mỹ mới dứt khoát ủng hộ.

Trước đó, ngay từ khi ông Diệm vừa về nước, Pháp đã thuyết phục được Mỹ cũng đồng ý để loại trừ ông đi.

Chỉ một tuần lễ trước cuộc họp này, Đại sứ Mỹ ở Sàigòn còn làm áp lực để Ngoại trưởng Dulles ký mật điện dẹp ông Diệm (như đề cập dưới đây). Pháp muốn bám víu vào Miền Nam nhưng lại gặp phải một ông thủ tướng có tinh thần siêu quốc gia nên chắc chắn là phải tìm mọi cách loại bỏ để thay thế bằng một người lãnh đạo thân Pháp.

Hoàn cảnh ở Miền Nam thì lại thuận lợi: Quốc trưởng Bảo Đại vẫn còn ở Cannes, quân đội Việt Nam còn nằm trong Liên Hiệp Pháp, và Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội, Tướng Nguyễn Văn Hinh (con trai của cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm) là một sĩ quan cũ trong Không quân Pháp. Cảnh sát thì do Bình Xuyên nắm giữ; ngay cả lực lượng an ninh ‘Sureté’ cho văn phòng phủ Thủ Tướng Diệm cũng do Cảnh sát gửi đến. Như vậy là ông Diệm đang ở trong hang cọp rồi.

Pháp, Mỹ và Ngô Đình Diệm

Trong một tài liệu mật ghi số 1691/5 (ngày 15 tháng 4, 1955), Bộ Quốc Phòng Mỹ thẩm định là có hai yếu tố làm căn bản cho tất cả những tính toán của Pháp ở Việt Nam, đó là Pháp nhất quyết:

Giữ vai trò lịch sử lâu dài của mình tại Việt Nam; vàBảo vệ những đầu tư quá lớn của Pháp về kinh tế, tài chính tại nơi đây.

Bởi vậy, Bộ nhận xét rằng: vấn đề quyền lợi của Pháp là yếu tố quyết định cho tất cả những diễn tiến chính trị tại nơi này. Pháp toan tính hành động ra sao?

Bằng hai biện pháp:Tổng thống Ngô Đình Diệm (1901-1963) cùng Tổng thống Carlos Carsia và phu nhân tại Philippines hồi năm 1958



Tìm cách loại trừ ông Diệm hoặc bằng một cuộc đảo chính, hoặc bằng cách thuyết phục ông Bảo Đại truất chức ông Diệm; và bất hợp tác với Mỹ trong việc huấn luyện quân đội Quốc Gia Việt Nam

Pháp ‘lobby’ Đại sứ Mỹ tại Paris và Sàigòn

Muốn dẹp ông Diệm thì cũng không khó vì lực lượng của Pháp rút từ Miền Bắc vào Nam còn rất hùng hậu. Chỉ có một trở ngại, đó là chính sách của Mỹ đối với ông này.

Tuy nhiên, vào lúc ấy thì sự ủng hộ của Mỹ đối với ông Diệm cũng chưa có gì là rõ ràng. Bởi vậy, Pháp tin rằng mình có thể tìm cách hạ uy tín ông Diệm. Dễ nhất là ‘lobby’ với Đại sứ Mỹ ngay tại Paris và Sàigòn.

Tại Paris

Ông Diệm chấp chính tháng 7 thì tháng 8, Đại sứ Mỹ ở Paris là Douglas Dillon đã đánh điện về Washington báo cáo về cuộc họp với ông Guy La Chambre, Bộ trưởng Các Quốc Gia Liên Kết. La Chambre nêu ra ba đặc điểm sau đây để phê phán ông Diệm. Đại sứ Dillon báo cáo:

Paris, Ngày 4 tháng 8, 1954

Kính gửi: Ngoại Trưởng

“Cuối tuần qua tôi có nói chuyện với ông La Chambre một cách hết sức thẳng thắn. Ông ta cho rằng tương lai của chính phủ Việt Nam sẽ tùy thuộc vào ba yếu tố sau đây:

Chính phủ ấy phải thực sự đại diện nhân dân; Phải tổ chức cải cách điền địa cho sớm; và Phải sửa soạn truất phế ông Bảo Đại để thành lập một nước Cộng Hòa trong mấy tháng tới.

“Ông La Chambre nghĩ rằng chính phủ Diệm không (“tôi xin nhắc lại là không”) đủ khả năng để thi hành bất cứ điểm nào trong ba điểm này...”

DillonPhủ Tổng thống với hình ông Diệm trong ảnh chụp hồi đầu thập niên 60

Dillon báo cáo thêm: (i) về điểm thứ nhất: ông La Chambre lưu ý Hoa Kỳ là theo thông tin nhận được thì ông Diệm sẽ không thể có khả năng đại diện nhân dân vì ông ấy không có được sự cộng tác và ủng hộ của các phe phái Miền Nam; (ii) về điểm thứ hai và thứ ba: “vì quá trình của ông Diệm là quan lại, nên ông ta sẽ phản đối cả việc cải cách điền địa cả việc truất phế ông Bảo Đại.”

Bởi vậy, La Chambre đề nghị “Để Miền Nam có được một cơ may thắng thế trong kỳ tổng tuyển cử toàn quốc thì cần phải có ngay một chính phủ mới.” Đề nghị này là ‘gãi đúng chỗ ngứa’ của Mỹ vì Mỹ đang lo ngại về cuộc tổng tuyển cử Bắc-Nam (1956) theo như Hiệp Dịnh Geneva 1954. Ông La Chambre đề nghị ông Nguyễn Văn Tâm làm Thủ Tướng.

Tại Sàigòn

Ngày 26 tháng 8, Đại sứ Mỹ Donald Heath được mời dùng bữa tiệc tại nhà một người triệu phú Pháp tên là Jacques Raphael-Leygues. Tới nơi ông ta mới biết rằng thực ra đây chỉ là một cuộc hội họp chính trị.

Tham dự, ngoài Tướng Nguyễn Văn Hinh, có lãnh đạo của các lực lượng giáo phái và một số quan chức Pháp. Trong bữa tiệc, mọi người tố cáo ông Diệm là người bất tài lại không chịu điều đình với các giáo phái.

Một người đã hỏi thẳng ông Đại sứ Heath: “Nếu chúng tôi xúc tiến để thay thế chính phủ Diệm thì ông có đồng ý hay không?” Ngay ngày hôm sau, ông Heath đánh điện về Washington: “Chúng ta phải để ý theo dõi tìm một lãnh đạo khác.”

Tổng Tham Mưu Trưởng công khai chống Thủ Tướng

Tháng 8 thì như vậy, tới tháng 9 thì ‘hầu như ngày nào cũng có tin đồn về đảo chính.’

Cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA báo cáo liên tục là có dư luận tại Việt Nam là Pháp đang đứng đằng sau một âm mưu lật đổ ông Diệm.

Tướng Hinh công khai chống lại Thủ Tướng Diệm, và còn khoe “Tôi chỉ cần nhấc cái ống điện thoại lên là có thể dẹp được Diệm rồi.”

Nghe vậy, ngày 11 tháng 9 ông Diệm đi tới một quyết định táo bạo: chỉ thị cho Tướng Hinh ‘đi nghỉ để nghiên cứu’ trong sáu tuần và phải xuất ngoại nội trong hai mươi tư giờ.

Mặc dù đã có lệnh, Tướng Hinh bất chấp, ‘ông mặc áo sơ-mi đi chiếc xe môtô thật bự ngang nhiên chạy vòng quanh đường phố Sàigòn.’

Một tuần sau, ông cho phổ biến lời tuyên bố về việc ông bất tuân lệnh ông Diệm và một điện tín ông đã gửi thẳng cho Quốc trưởng Bảo Đại yêu cầu can thiệp.

Cùng ngày, ông Diệm tuyên bố là ông Hinh đã nổi loạn. Ông Hinh cho xe thiết giáp bảo vệ tư dinh của mình, đồng thời phái một lực lượng tới bao vây Dinh Độc Lập. Trong thời gian sáu tuần tiếp theo, tình hình đi tới chỗ bế tắc.

Ngày 20 tháng 9, có tới 15 ông Bộ Trưởng trong nội các ông Diệm đồng loạt từ chức. Quân đội của ông Hinh cũng đã sẵn sàng chờ lệnh để tấn công.

Trước sự cương quyết của ông Diệm, Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ gửi một công điện chỉ thị cho Đại sứ Heath và Tướng O’Daniel là phải “nói không úp mở (với Pháp và Tướng Hinh) rằng Hoa Kỳ sẽ không dự trù hoặc triển hạn những viện trợ lâu dài cho quân đội Việt Nam nếu còn một chút nghi ngờ gì về sự trung thành của vị Tổng Tham Mưu Trưởng và các sĩ quan cao cấp.”

Tướng Hinh ra đi ngày 13 tháng 11, 1954.

Đại sứ Mỹ: “Chỉ ủng hộ ông Diệm vài tuần nữa thôi”

Nhưng chưa xong. Tướng Hinh ra đi tháng 11 thì tháng 12, Tổng Thống Eisenhower cử ông Joseph Lawton Collins (một danh tướng trong Đệ Nhị Thế Chiến) làm Đặc sứ tại Việt Nam.

Vừa tới Sàigòn, ông Collins đã được Tư lệnh Pháp là Tướng Paul Ély thuyết phục chống ông Diệm. Collins là chiến hữu của Ély trong thế chiến.
Tổng thống Eisenhower cử danh tướng Collins tới làm Đặc sứ ở Nam Việt Nam

Bây giờ hai ông tướng lại gặp nhau trên chiến trường Miền Nam. Ngày 6 tháng 12, 1954, Collins gửi công điện ‘Sàigòn 2103’ về Washington nói về sự “nản lòng của tôi đối với tình hình đen tối tại nơi đây.” Ông cho rằng “khả năng của ông Diệm yếu kém” và đề nghị “Mỹ chỉ nên ủng hộ ông ta thêm vài tuần nữa thôi, sau đó nếu tình hình không tiến bộ, Mỹ nên có những biện pháp khác.”

Đề nghị năm bước để loại bỏ ông Diệm.

Ngày 9 háng 4, 1955 ông Collins gửi Ngoại Trưởng Dulles một điện văn dài, đề nghị giải quyết toàn bộ cuộc khủng hoảng tại Sàigòn.

Đề nghị này: thứ nhất, sắp xếp việc ông Diệm ‘từ chức;’ thứ hai, thẩm định hậu quả của việc từ chức, được tóm tắt như sau:

Mật Điện số 4448

Ngày 9 tháng 4, 1955

…..

Thứ nhất, việc sắp xếp cho ông Diệm từ chức gồm 5 bước đi:

Giải quyết vấn đề rút Cảnh sát và Công an ra khỏi tay Bình Xuyên, hoặc bằng một nghị định do ông Diệm ký rồi ông Bảo Đại, Pháp, Mỹ ủng hộ; hoặc cho ông Bảy Viễn một cơ hội để chính ông ta tự nguyện đề nghị như vậy;

2. Thuyết phục ông Diệm từ chức, và nếu ông này không chịu thì yêu cầu ông Bảo Đại truất chức; Tìm người thay thế ông Diệm làm Thủ tướng, rồi ông Bảo Đại gọi người này sang Paris để tham khảo.

Khi trở về Sài Gòn, người này sẽ tham khảo với mọi phía để thành lập tân chính phủ;

Đi tới một thỏa thuận về một giải pháp đối với các giáo phái; và sau cùng,Vận động để các giáo phái chấp nhận giải pháp trên.

(Vì giới hạn của bài này, chúng tôi không viết về phần thứ hai, “thẩm định hậu quả của việc ông Diệm từ chức”).

Đề nghị xong, ông Collins lên đường về Washington để thuyết phục TT Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles dẹp ông Diệm.

Ai thay ông Diệm

Ngày 22 tháng 4, 1955 ông Collins dùng bữa ăn trưa với Tổng thống. Sau đó ông gặp Ngoại trưởng Dulles cùng với các đại diện Bộ Quốc Phòng và Trung Ương Tình Báo để thuyết phục.Tổng thống Diệm duyệt binh mừng độc lập hồi năm 1962, một năm trước khi ông bị ám sát

Ông nhắc lại quan điểm của ông một cách mãnh liệt và cứng rắn hơn trước là Mỹ phải thay thế ông Diệm và phải có kế họach hành động ngay tức khắc. Collins đề nghị ông Phan Huy Quát lên thay thế ông Diệm. Trước áp lực mạnh mẽ của Collins, vừa là đặc ủy của Tổng Thống, vừa là đại sứ, lại là chứng nhân có mặt tại chỗ để nhận xét, nên sau cùng ông ta đã thắng thế.

Mật điện thay thế Thủ Tướng Diệm

Không phải đợi tới ngày 24 tháng 8, 1963 mới có mật điện ủng hộ các tướng lãnh đảo chính mà ngay từ tám năm trước đó cũng đã có mật điện sắp xếp việc dẹp ông Diệm:

Bộ Ngoại Giao

Ngày 27 tháng 4, 1955

“Tướng Collins và Ely phải thông báo cho ông Diệm biết rằng vì lý do ông không thành lập được một chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng rãi và ông bị người Việt chống đối, chính phủ Hoa kỳ và Pháp không còn đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ chức. Những đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt Nam, và chúng ta hy vọng rằng ông sẽ hợp tác với bất kỳ chính phủ mới nào được chỉ định…

“ Chúng tôi tạm đề nghị một tân chính phủ như sau:

1) Về Nội Các: quyền hành pháp đầy đủ sẽ được trao cho ông [Trần Văn] Đỗ hoặc ông [Phan Huy] Quát làm thủ tướng và phó thủ tướng;

2)Thành lập một Hội Đồng Tư Vấn từ 25 tới 35 người đại diện cho các phe nhóm gồm cả các Giáo Phái…và

3)Thành lập một Quốc Hội Lâm Thời, một cơ chế gần như một Quốc Hội Lập Pháp….”

Dulles

Nhưng với sự may mắn lớn lao, mật điện này lọt ra ngoài, Thủ tướng Diệm biết đuợc nên trong khoảnh khắc đã cho lệnh tấn công Bình Xuyên (lúc ông Collins còn đang trên đường về Sài gòn), và đã lật ngược được thế cờ.

Tháng 5, 1955: cuộc họp nảy lửa tại Paris

Giải quyết được vấn đề Bình Xuyên cũng chưa xong.

Tình hình tiếp tục căng thẳng. Ba cường quốc quyết định họp lại ở Paris để bàn tính như trích dẫn ở phần đầu.

Tranh luận thật là gay go, kéo dài tới 5 ngày ( từ 7 tới 12, tháng 5, 1955). Để kết thúc, đến lượt Thủ tướng Pháp Edgar Faure hỏi thẳng Ngoại trưởng Dulles: “Ngài nghĩ thế nào nếu Pháp rút hết và triệt thoái Quân đội viễn Chinh ra khỏi Đông Dương sớm nhất có thể?”

Để xoa dịu, ông Dulles bình luận rằng “Việt Nam không đáng để Hoa kỳ cãi nhau với Pháp, cho nên nếu như rút lui và cắt bỏ viện trợ cho Việt Nam mà giải quyết được vấn đề thì Hoa kỳ sẵn lòng.”

Mỗi ngày họp xong, ông Dulles đánh điện tín về Washington để thông báo kết quả. Ông viết cả việc Thủ tướng Faure gọi ông Diệm là người điên, và mở ngoặc chữ “Fou”.Ông Diệm về sau này bị ám sát dưới thời Tổng thống Kennedy, người sau đó cũng bị ám sát

Về việc ông Faure hăm dọa sẽ rút hết quân đội Pháp khỏi Việt Nam, trong lúc nghỉ giải lao ông Dulles gọi điện thoại về Washington để tham khảo ý kiến.

Ông cho rằng “Ông Faure đã đưa ra một tối hậu thư, và như vậy, bây giờ Mỹ phải lựa chọn giữa việc tiếp tục ủng hộ ông Diệm và việc Pháp rút quân sớm.”

Lúc ấy quân đội Quốc Gia Việt Nam còn non yếu, vậy nếu Pháp rút hết và Bắc Việt tấn công thì làm sao đây? Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ trả lời: “Chính phủ Diệm có khả năng lớn nhất để có thể thiết lập được ổn định nội bộ, một điều cần thiết cho an ninh Việt Nam. Bởi vậy, việc Pháp rút lui tuy tuy rằng sẽ làm cho Miền Nam bớt ổn định, nhưng rồi các biện pháp của Mỹ trong khuôn khổ SEATO sẽ giúp cho Miền Nam được an toàn cũng không kém gì sự có mặt tiếp tục của quân đội Pháp.”

Ủy Ban Kế Hoạch của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia bình luận thêm “Việc Pháp rút lui lại giúp cho Hoa Kỳ hết bị dính vào dấu vết của thực dân (‘taint of colonialism’) và chấm dứt khả năng nguy hiểm là Pháp sẽ làm một sự đổi chác với Việt Minh.”

Khai sinh nền Cộng Hòa

Như vậy, nếu như tháng Tư năm 1975 đã thật đen tối thì tháng Tư năm 1955 cũng hết sức gay go (cách nhau đúng 20 năm).

Về thời điểm này, tác giả nổi tiếng Joseph Buttinger là người có mặt tại chỗ đã viết lại: “Kể cả trong những tuần lễ trước cuộc đảo chánh và ám sát ông vào năm 1963, TT Diệm cũng đã không bị gian lao, cay đắng bằng trong tháng 4, 1955.”

Ngoài khủng hoảng Bình Xuyên và sự việc là cả hai tư lệnh Pháp - Mỹ đã cấu kết để dàn dựng loại bỏ ông, Thủ tướng Diệm còn trăn trở hơn nữa về một vấn đề lương tâm.Quốc trưởng Bảo Đại muốn thay thế ông Diệm nhưng bất thành

Khi Quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh cho ông sang Pháp để tường trình thì ông đã sửa soạn ra đi nhưng mọi người ủng hộ ông đã nhất quyết can ngăn.

Theo một báo cáo của Đại tá Edward Landsdale (sau này lên Tướng), người cố vấn và rất gần gũi Thủ tướng Diệm thì có ba lần chính Landsdale đã chứng kiến cảnh đau đớn dằn vặt của ông Diệm (“he cried over my shoulder”).

Một trong ba lần đó là khi ông Diệm phải miễn cưỡng chấp nhận việc truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Theo như Tướng Trần Văn Đôn (người trong cuộc) thì ông “Bảo Đại dự định khi Ngô Đình Diệm ra khỏi nước thì cách chức liền, đưa Lê Văn Viễn, tư Lệnh Bình Xuyên lên làm Thủ tướng” (Việt Nam Nhân Chứng, trang 124).


Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đã coi như là vô vọng.

Sau cuộc họp quan trọng tại Paris, quân đội Pháp bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Sự chiếm đóng của quân lực Pháp từ Hiệp ước Patenôtre năm 1884 tới đây đã hoàn toàn chấm dứt.

Sang Thu 1955 Thủ tướng Diệm ở vào cái thế mạnh. Đối nội, ông đã chấm dứt được sự đe dọa của Cảnh sát, và Quân đội Quốc Gia đã tuân lệnh ông quét sạch lực lượng Bình Xuyên. Sau đó ông được Đại Hội các đoàn thể chính đảng bầu ra nhất mực ủng hộ.

Thêm nữa, ông có hậu thuẫn mạnh mẽ của gần một triệu người di cư. Đối ngoại thì ông Diệm đã cương quyết chống trả và khuất phục được kế hoạch dẹp tiệm của cặp Ély-Collins, bây giờ lại được Washington nhất mực ủng hộ.

Ngày 26 tháng 10, Thủ tướng Diệm tuyên bố thành lập một chế độ ‘Cộng Hòa,’ và trở thành Tổng Thống đầu tiên.

Tên chính thức của nước Việt Nam đổi từ ‘Quốc Gia Việt Nam’ sang ‘Việt Nam Cộng Hòa,’ nhưng bài quốc ca và quốc kỳ không thay đổi. Sau này, chính TT Eisenhower còn nhắc lại về những gian lao trước lúc khai sinh Nền Cộng Hòa Việt Nam:

Thưa Tổng Thống,

"Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ quá là nhanh chóng...” (Thư TT Eisenhower gửi TT Diệm ngày 22 tháng 10, 1960).
***
[Trong khuôn khổ hạn hẹp, bài này không thêm phần ghi chú]
Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng cũng là tác giả cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy.









--Ngô Đình Diệm và kinh nghiệm tắm máu
HenryCabotLodge_TTNgoDinhDiem


Trong hơn 50 năm qua, cứ mỗi lần sắp đến ngày mồng 2 tháng 11, ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát, “cuộc chiến” giữa hai phe phò Ngô và chống Ngô thường trở nên quyết liệt hơn. Cả hai phe thường nói theo cảm tính, tức theo ý muốn của mình, không cần biết tài liệu lịch sử đã nói gì. Hoặc nếu có đọc một số tài liệu đi nữa, thì chỉ chọn phần tài liệu nào hợp với ý mình để trích dẫn, còn phần tài liệu bị coi là “không hợp” đều loại đi. Nói cách khác, họ chỉ dùng một nữa sự thật. Đây là trường hợp của Vũ Ngự Chiêu và nhóm Thư Viện Hoa Sen của Tâm Diệu Nguyễn Xuân Quang.


Giới luật của nhà Phật coi những lối viết trái với sự thật hay chỉ dùng một nửa sự thật là VỌNG NGỮ. Nhưng nhóm Thư Viện Hoa Sen của Nguyễn Xuân Quang đã coi việc truyền bá VỌNG NGỮ chống Ngô Đình Diệm ngang với việc truyền bá kinh Phật. Nếu sự thật về biến cố trước đài phát thanh Huế tối 8.5.1963 đúng như Nguyễn Xuân Quang, Nguyên Giác và Nguyễn Kha đã viết, Đặng Sĩ đã bị Tòa Án Cách Mạng Bi Trí Dũng đem ra bắn năm 1964 rồi! (Chúng tôi đã dẫn chứng nhiều lần).


Nhìn chung, đa số không phân biệt được sự khác biệt giữa sử liệu (historic document) với thông tin (information), tin đồn (rumour), quan điểm, (opinion)… Tệ hơn nữa, một số còn coi những thứ người này nhổ ra người kia liếm lại đều là “sử liệu” và trích dẫn búa xua! VỌNG NGỮ đã trở thành “con đường giải thoát” còn lại của những người, những tổ chức vi phạm sai lầm trong lịch sử.


MẶT TRÁI CỦA LỊCH SỬ


Ngồi đọc lại mấy trăm ngàn trang tài liệu do Bộ Ngoại Giao, Bộ Quốc Phòng và CIA Hoa Kỳ tiết lộ, mặc dầu còn một số văn kiện đang được che dấu, chúng ta sẽ thấy rằng các diễn biến lịch sử trong 20 năm của cuộc chiến Việt Nam do Mỹ điều hành phần lớn khác với những gì đa số đã tưởng.


Tài liệu cho thấy Mỹ đã không can thiệp gì vào việc Bảo Đại chỉ định ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng năm 1954, nhưng khi ông Diệm mới về chấp chánh ngày 7.7.1954 (thường được gọi là ngày Song Thất) thì ngày 4.8.1954 Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (HĐANQG Hoa Kỳ) bắt đầu họp để “Duyệt xét lại chính sách của Hoa Kỳ ở Viễn Đông”, sau đó đưa ra các nghị quyết mang số NSC 5429/1, NSC 5429/2 và NSC 5429/3 ấn định chính sách của Hoa Kỳ sau Hiệp Định Genève. Cho đến nay toàn văn của 3 nghị quyết này vẫn chưa được công bố. Bộ Ngoại Giao chỉ cho biết tổng quát các nghị quyết nói trên gồm 6 điểm chính sau đây:


(1) Pháp phải trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam

(2) Truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai)

(3) Bầu cử quốc hội và soạn thảo hiến pháp.

(4) Thành lập một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government).

(5) Kết hợp việc cải cách ruộng đất với việc định cư người tỵ nạn.

(6) Xây dựng những lực lượng quân sự có thể bảo đảm an ninh quốc nội.(01)


Những quy định trong các nghị quyết này đều là những lối chơi cha trên đầu của cả Pháp lẫn VNCH. Căn cứ vào các nghị quyết đó, chính phủ Hoa Kỳ đã đẩy chính phủ Ngô Đình Diệm đi. Ông Diệm, ông Nhu và các tổ chức chính trị tại miền Nam không hay biết gì hết!


Việc thi hành các điểm 1, 3, 5 và 6, nhiều người đã biết rõ. Nhưng điềm 2 (truất phế Bảo Đại) và điểm 5 (thành lập chế độ độc đảng) gồm nhiều bí ẩn lịch sử, nếu không đọc sử liệu không thể biết được!

TRUẤT PHẾ BẢO ĐẠI HAI LẦN!


Ngày 29.4.1955 đại diện 18 đảng phái, đoàn thể và 29 nhân sĩ có tên tuổi đã đến dự cuộc họp tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ. Đến 4 giờ chiều, dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng (HĐNDCM), hội nghị đã đưa ra một bản tuyên cáo tuyên bố truất phế Bảo Đại kể từ ngày 29.4.1955 và ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập một chính phủ lâm thời quốc gia Việt Nam kể từ ngày 29.4.1955.


Mặc dầu chưa có sự đồng ý của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, ngày hôm sau, 30.4.1955 HĐNDCM đã tổ chức một cuộc họp tại Phòng Khánh Tiết Tòa Đô Chánh Sài Gòn, trình bày diễn biến cuộc họp ngày hôm trước, tố cáo Bảo Đại là bù nhìn, không xứng đáng đại diện cho Việt Nam và công bố bản tuyên cáo của Hội Đồng. Trong không khí sôi sùng sục, một số người đã trèo lên Tòa Đô Chánh gỡ chân dung Bảo Đại ném xuống đường giữa trời mưa.


Được tin này, ngày 3.5.1955, Tướng Collins đến gặp ông Diệm lúc 20 giờ và cho biết: Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói rằng nếu truất phế Bảo Đại theo yêu cầu của HĐNDCM, tình hình sẽ rất nguy hiểm.(02)


Các đoàn thể trong HĐNDCM không hay biết năm 1954, HĐANQG Hoa Kỳ đã ra nghị quyết phải truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai), nên mới làm như trên và bị Mỹ phản đối. Ông Ngô Đình Nhu phải trình ông Diệm triệu tập một tổ chức khác có căn bản pháp lý hơn để thay thế HĐNDCM, đó là Hội Nghị Đại Biểu Các Hội Đồng Tỉnh, Thành Phố và Thị Xã. Trong cuộc họp ngày 6.5.1955 tại Dinh Độc Lập, khoảng 100 đại biểu đã đưa ra một bản kiến nghị yêu cầu Quốc Trưởng Bảo Đại tạm thời trao quyền cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ổn định tình thế và triệu tập Quốc Dân Đại Hội trong vòng 6 tháng.


Ngày 26.9.1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thông báo cho Đại Sứ Reinhardt biết sẽ tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Đại vào ngày 23.10.1955 và biểu quyết hiến pháp vào ngày 27.11.1955.


Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955, có 5.838.907 cử tri đi bầu, 5.721.735 cử tri đồng ý truất phế Bảo Đại và suy tôn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc Trưởng. Như vậy Bảo Đại đã bị truất phế đến hai lần!


TRANH LUẬN VỂ ĐẢNG CẦN LAO


Đại Tá Không Quân Edward Lansdale, người có nhiều kinh nghiệm chống loạn quân Cộng Sản Huk ở Philippines trong thập niên 1950s đã được chính phủ Hoa Kỳ cử cầm đầu Phái Bộ Quân Sự Saigon để giúp Việt Nam ổn định tình hình. Không có ông, chính phủ Ngô Đình Diệm khó bình định được các lực lượng giáo phái và thành lập chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông được thăng lên Thiếu tướng.


Tướng Lansdale đã tranh luận rất gay gắt với ông Reinhardt, Đại Sứ Hoa Kỳ tại VNCH (1955 – 1957) về việc thành lập Đảng Cần Lao. Ông cho biết khi ông trình bày, mặt ông Đại Sứ có vẻ lạnh lùng. Sau khi ngập ngừng, ông Đại Sứ đã nhỏ nhẹ nói rằng một quyết định về chính sách của Hoa Kỳ đã được định đoạt rồi (a U.S. policy decision had been made). Người Mỹ chúng ta phải giúp đỡ những gì chúng ta có thể giúp được vào việc xây dựng một đảng quốc gia mạnh để ủng hộ ông Diệm. Vì ông Diệm nay là Tổng Thống được bầu, ông ấy cần có một đảng riêng của ông. Tướng Lansdale cho biết thêm: “Ông Reinhardt nói với tôi một cách cương quyết rằng quyết định về chính sách của Hoa Kỳ đã được ấn định và tôi phải hướng các hành động của tôi theo nó.”


Ông Lansdalle cho biết ông không tranh luận với các viên chức sứ quán nữa mà trở về Washington để trình bày vấn đề. Ông đã nói chuyện với hai ông John Foster Dulles, Bộ Trưởng Ngoại Giao, và Allen W. Dulles, Giám Đốc CIA, vì hai nhân vật này có tiếng nói trong quan hệ với Việt Nam. Họ đã có cái nhìn thân thiện về các quan điểm của ông, nhưng cho rằng quan điểm của ông quá xa vời và ảo tưởng (too visonary and idealistic).(03)


Trong báo cáo mang số 279 ngày 2.3.1959 gởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ông Elbridge Durbrow, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa (1957 – 1961), nói rằng tổ chức Cần Lao đã gần như theo mô thức của một đảng Cộng Sản, với các chi bộ, cán bộ, v.v., và cũng có thể so sánh với Quốc Dân Đảng của Trung Hoa (Can Lao organization is based largely on the model of a Communist party, with cells, cadres, etc., and is also conparable to the Kuomintang).(04)


Đầu năm 1961, Tướng Edward Lansdale được Bộ Quốc Phòng cử trở lại Việt Nam. Ngày 17.1.1961 ông có làm một tờ phúc trình, trong đó ông nói rõ Đảng Cần Lao không phải là ý kiến của nhà Ngô; “trước tiên nó được đề xướng bởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ” để loại bỏ cộng sản ra khỏi đất nước (the CLP was not their idea; it “was originally promoted by the U.S. State Department” to rid the country of communists).(05)


Như vậy, Đảng Cần Lao đã được thành lập theo quyết định của Washington để giúp chính phủ Ngô Đình Diệm loại bỏ cộng sản.


KHI HOA KỲ ĐỔI GIỌNG


Như đã trình bày trên, Washington muốn ông Diệm thành lập tại miền Nam một chế độ gióng các chế độ chuyên chế của Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc ở Đài Loan, của Park Chung Hee ở Nam Hàn, của Sukarno và Suharto ở Nam Đương và của Lý Quang Diệu ở Singapore để loại bỏ cộng sản khỏi đất nước (to rid the country of communists). Nhưng khi thấy Trung Quốc và Hà Nội chuẩn bị đánh chiếm miền Nam, Hoa Kỳ đề nghị ông Diệm cho Mỹ đổ quân vào miền Nam, nhưng ông Diệm từ chối. Hoa Kỳ liền bắt đầu đổi giọng.


Ngày 2.3.1959, Đại Sứ Durbrow gởi về Bộ Ngoại Giao một bản báo cáo mang số 279, dài 27 trang, phê rằng Đảng Cần Lao, gióng như Trung Hoa Quốc Dân Đảng, đã thiết lập một tổ chức cầm quyền theo khuôn mẫu của Cộng Sản. Ông liệt kê nhiều vụ bê bối và lạm quyền trong Đảng Cần Lao, đề nghị loại bỏ ông Nhu, đòi thực hiện dân chủ để được lòng dân và thắng cộng sản, và nói rằng nếu vị thế của ông Diệm không còn thích hợp, cần tìm một lãnh tụ khác để có thể hoàn thành mục tiêu của Hoa Kỳ.


Năm 1960 Đại Sứ Durbrow đã yểm trợ thành lập Khối Tự Do Tiến Bộ, thường được gọi là nhóm Caravelle, do ông Phan Khắc Sửu làm Trưởng Khối, để vận động thay thế ông Diệm.


Trước đây Đại Tá Lansdale là người chống thành lập Đảng Cần Lao, nhưng sau khi đọc các báo cáo của Đại Sứ Durbrow về Đảng Cần Lao và chế độ Ngô Đình Diệm, ông đã viết một giác thư (memorandum) dài đề ngày 20.9.1960 phân tích những báo cáo và đề nghị sai lầm của Đại Sứ Durbrow.(06) Lúc đó ông không biết Đại Sứ Durbrow đang thực hiện một sứ mạng mới là lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm để đổ quân Mỹ vào miến Nam.


Một cuộc đảo chánh đã xảy ra ngày 11.11.1960, có nhiều thành phần của nhóm Caravelle tham dự. Cuộc đảo chánh thất bại. Hôm 4.12.1960 Đại Sứ Durbrow đã phải cho Luật sư Hoàng Cơ Thụy ngồi co gối trong thùng ngoại giao (valise diplomatique) để đưa ra khỏi Việt Nam.


Vì Đại Sứ Durbrow có nhiều bất đồng với chính phủ Ngô Đình Diệm và tai tiếng trong vụ đảo chánh ngày 11.11.1960, ngày 15.3.1961, Tổng Thống Kennedy đã quyết định cử ông Federick E. Nolting làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thay thế Durbrow. Nhưng ngày 17.8.1963 Bộ Ngoại Giao đã cử ông Henry Cabot Lodge đến làm đại sứ tại Sài Gòn để tổ chức lật đổ và giết Tổng Thống Diệm.


Tóm lại, khi cần hình thành một chính phủ mạnh để loại bỏ cộng sản, Hoa Kỳ bảo ông Diệm phải hình thành một chế độ theo mô thức của Đài Loan, Nam Hàn, Nam Dương, Singapore lúc đó. Nhưg khi muốn loại bỏ ông Diệm để đổ quân vào, Hoa Kỳ đòi ông Diệm phải “thực thi dân chủ để được lòng dân và thắng cộng sản”. Miệng kẻ sang có gang có thép, nói xuôi nói ngược gì cũng được.


Bỏ ra ngoài “cuộc chiến” gay cấn do Mỹ tạo ra giữa phe phò Ngô và phe chống Ngô để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm mà hậu quả còn kéo dài đến ngày nay, chúng ta thấy lịch sử chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa của Việt Nam có thể được tóm gọn lại trong một chương: “Hoa Kỳ đã xây dựng rồi phá sâp chế độ Ngô Đình Diệm như thế nào?” Đó là một chương bi thảm và là một kinh nghiệm tắm máu, nhưng người Việt đấu tranh cho đến nay vẫn chưa học được gì nhiều.


Tuần tới, chúng tôi sẽ nói về Kịch Bản Điều Cày trong chiến lược quay lại Việt Nam của Mỹ.


© Lữ Giang


Ghi chú:


1.- [William C. Bibbons, The U.S. Goverment and The Vietnam War, Part I, 1954 – 1960, tr. 267 – 269. NSC 5429 4 August 1954, FRUS 1952 – 1954, Vol XII, Phần 1, tr. 716 – 733. NSC 5429/1 12.8.1954, FRUS 1952-1954, Vol. XII, Phần 1, tr. 719 – 723].

2.- FRUS, 1955 – 1957, Vulume I, trang 359 – 360.

3.- Edward G. Lansdale, In the Midst of Wars, Fordham University Press, New York, 1991, tr.341 – 344.

4.- FRUS, 1958 – 1960, Vol. I, document 56, tr. 146.

5.- United States-Vietnam Relations, 1945 – 1967, Book 11, tr. 1 – 12.

6.- FRUS, 1958 – 1960, Vol. I, tr. 579 – 585.











Mỹ vẫn che giấu lệnh hạ sát ông Diệm
ngodinhdiem00Lữ Giang
Trong bài “The Assassination of Ngo Dinh Diem” (Vụ ám sát Ngô Đình Diệm) đăng trên Real Clear History ngày 2.11.2011, sử gia Peter Kross viết rằng ba tuần sau cái chết của ông Diệm và ông Nhu, Tổng Thống Kennedy bị ám sát tại Dallas ngày 22.11.1963. Mặc dầu đàng sau hậu trường, Hoa Kỳ dính líu đến cái chết của ông Diệm, nhưng Phúc Trình về Vụ Ám Sát kết luận: “Các chi tiết về cái chết của ông Diệm và ông Nhu không được biết. Không một chi tiết nào trong các nguồn được cung cấp cho thấy có sự dính líu trực tiếp hay gián tiếp của Hoa Kỳ.[01]

Tuy nhiên, các tài liệu được tiết lộ sau này cho thấy có ba nhân vật quan trọng của chính phủ Hoa Kỳ lúc đó đã dính líu trực tiếp đến việc ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đó là Averell W. Harriman (1891 – 1986), Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách về chính trị; Henry Cabot Lodge(1902 – 1985), Đại Sứ Hoa Kỳ tại VNCH lúc đó và Lucien E. Conein (1919 – 1998), đặc vụ của CIA tại Việt Nam. Trong ba nhân vật này Harriman là người đóng vai trò chỉ đạo và quyết định. Tổng Thống Kennedy đã bị khủng hoảng sau khi được tin ông Diệm bị giết.
I.- VAI TRÒ CỦA HARRIMAN
Trong cuốn “The Secret History of the CIA”, Joseph J. Trento cho biết Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh cho ông William R. Corson, một nhân viên CIA cao cấp tại Sài Gòn năm 1963 điều tra xem việc gì đã xẩy ra và ai có trách nhiệm. Trả lời của ông Corson như sau:
Mọi chỉ thị từ Averell Harriman... Các lệnh đưa đến cái chết của ông Diệm và bào đệ của ông ta phát xuất từ Harriman và được phụ tá quân sự của Henry Cabot Lodge thực hiện.”[02]
Phụ tá quân sự của Đại Sứ Henry Cabot Lodge được ông Corson nói ở đây không ai khác hơn là Trung Tá Lucien Conein.
Theo ông Corson, năm 1963, Harriman đã điều hành Việt Nam không cần hỏi ý kiến của Tổng Thống hay Tổng Trưởng Tư Pháp. Ông Corson cho biết Tổng Thống Kennedy bắt đầu nghi ngờ rằng không một ai trong toán an ninh quốc gia là trung thành. Ông nói:
Kenny O’Donnell (người được Tổng Thống Kennedy chỉ định làm thư ký) tin rằng McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia, nhận lệnh từ Đại Sứ (?) Averell Harriman chứ không phải từ Tổng Thống. Kennedy đặc biệt lo lắng về việc Michael Forrestal, một người trẻ trong nhân viên Toà Bạch Ốc phụ trách về liên lạc giữa Việt Nam và Harriman.”
Trưởng Trạm CIA tại Saigon là “Jocko” Richardson được thay thế bằng một toán không tên (no-name team). Nhân vật chính là một sĩ quan của Đội Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Army), đó là John Michael Dunn, nhận mệnh lệnh không phải từ hệ cấp CIA thông thường mà từ Harriman và Forrestal.
Theo Corson, John Michael Dunn được biết như là người tiếp xúc với những người âm mưu đảo chánh”,mặc dù vai trò của Dunn không bao giờ được công khai hoá trước công luận. Corson tin rằng Richardson bị cất chức để Dunn, một người được Đại Sứ Cabot Lodge chỉ định cho “các công tác đặc biệt” (special operations) có thể hành động không bị trở ngại.[03]
Đại Sứ Henry Cabot Lodge cho biết Giáo Sư Patrick J. Honey của Đại Học London đã giới thiệu cho ông một đại tá có nghị lực và thông minh khi đó đang làm việc tại sứ quán, đó là John M. Dunn.[04] Dunn được ông Lodge chọn như là cánh tay phải của ông ta tại Sài Gòn. Đại Tá Dunn được bổ nhiệm làm bí thư điều hành (executive secretary) của phái bộ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Cũng như Đại Sứ Lodge, Đại Tá Dunn có vai trò như là một sứ giả đặc biệt của Tổng Thống có sứ mạng giải quyết bế tắc giữa ông Diệm và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Đặc biệt, về sau Ngoại Trưởng Rusk đã ngầm đồng ý vai trò nổi bật của Đại Tá Dunn trong sứ quán tại Sài Gòn. Đại Sứ Lodge đã tạo cho Đại Tá Dunn một vị thế trong sứ quán với quyền lực trên cả phó trưởng phái bộ.[05]
Mặc dầu có sự xác nhận về vai trò đặc biệt của Đại Tá Dunn trong thời gian tiến hành cuộc đảo chánh, nhưng thật khó mà tìm ra được các hoạt động của ông liên quan đến cuộc đảo chánh, vì đây là những hoạt động hoàn toàn bí mật.
II.- VAI TRÒ CỦA ĐẠI SỨ CABOT LODGE
Trong cuốn hồi ký “The Storm Has Many Eyes” (Bảo Tố Có Nhiều Con Mắt), Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã tìm cách thanh minh cho trách nhiệm của mình đối với cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Ông kể lại rằng một nhân viên tình báo cao cấp và hiểu biết rất rõ về Việt Nam đã nói với ông trước ngày ông đi Sài Gòn rằng trừ khi họ rời đất nước của họ, không có một quyền lực nào trên trái đất có thể ngăn cản việc ám sát Thổng Thống Ngô Đình Diệm, người em của ông ta là ông Ngô Đình Nhu và người em dâu của ông ta là bà Nhu.” (unless they leave the country there is no power on the earth that can prevent the assassination of President Diem, of his brother Ngo Dinh Nhu, and of his sister-in-law Madam Nhu). Theo ông, sự tiên đoán này đã trở thành chính xác một cách bi thảm.[06]
Trên đây là tiền đề ông Lodge đưa ra để giải thích rằng cái chết của ông Diệm và ông Nhu là chuyện đương nhiên, không phải do trách nhiệm của ông.
Hôm 28.6.1964, khi ra phi trường Tân Sơn Nhứt để trở về Washington, Đại Sứ Lodge có nói với các ký giả: “Khi từ giả Việt Nam, tôi chỉ ân hận có một điều là không cứu sống được ông Diệm.” Đây chỉ là một cách nói đãi bôi. Sau khi ông Lodge qua đời năm 1985, Đại Tá Mike Dunn, Phụ Tá Đặc Biệt (Special Assistant) và là bạn thân của Đại Sứ Lodge đã tiết lộ một sự kiện quan trọng trong một cuộc phỏng vấn:
Sau khi đầu hàng, ông Diệm có gọi điện thoại cho ông Lodge một lần nữa vào lúc 7 giờ sáng ngày 2.11.1963 trước khi ông bị bắt và bị hạ sát. Ông Diệm xin ông Lodge giúp đỡ trong giờ cuối cùng của ông ta, ông Lodge bảo ông ta “giữ máy” (put on hold) rồi bỏ đi một lúc. Khi trở lại, ông Lodge đề nghị cho hai anh em được tỵ nạn, nhưng không hứa sẽ sắp xếp việc ra đi cho đến ngày mai.
Khi đó Đại Tá Dunn tình nguyện chính ông ta đi cứu hai anh em khỏi tay các nhà lãnh đạo cuộc đảo chánh. Ông Lodge đã từ chối một cách thẳng thừng: “Chúng ta không thể can dự vào việc đó.”
Cũng trong cuộc phỏng vấn nói trên, ông Dunn cho biết khi ông Lodge bảo ông Diệm “giữ máy”, ông liền thông báo cho Lucien Conein tại bộ chỉ huy của cuộc đảo chánh về ông Diệm đang ở đâu. Về sau Conein đã mạnh mẽ chối bỏ việc khám phá ra ông Diệm ở nhà thờ Tàu.[07]
Đại Tá Dunn nói:
Tôi thật sự ngạc nhiên chúng ta không làm gì hơn cho họ”. [08]
Ông Lodge không hề báo cáo cho Washington về cuộc nói chuyện với ông Diệm nói trên.
Ông Lodge cũng đã từng nói với ký giả David Haberstam, người đã viết nhiều sách về chiến tranh Việt Nam:
Chúng ta phải làm gì với họ nếu họ còn sống? Bất cứ Đại Tá Blimp [09] nào trên thế giới đều có thể xử dụng họ.”[10]
Lời tuyên bố này chứng tỏ theo quan điểm của ông Lodge, ông Diệm và ông Nhu phải bị giết.
Tướng Trần Văn Đôn, người phụ trách tổ chức đảo chánh ông Diệm, cho biết trong khi Lucien Conein rời Bộ Tổng Tham Mưu về nhà riêng, Tướng Minh đã ra lệnh đi bắt họ Ngô và ngầm ra lệnh giết cả hai ông. Các tướng có mặt lúc đó cũng ngầm đồng ý. Thật ra, ý định giết hai anh em họ Ngô của Tướng Minh đã được sự đồng ý ngầm của Lucien Conein trước khi ông ta rời Bộ Tổng Tham Mưu”, [11] mặc dầu sau này Lucien Conein phủ nhận.
Tướng Đôn còn xác quyết: Tất cả những sự việx xẩy ra đều có sự tiếp tay của Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge.”[12]
Tuy nhiên, rất khó tìm được bằng chứng chứng minh Đại Sứ Cabot Lodge đã trực tiếp ra lệnh giết ông Diệm. Trong cuốn “Lodge in Vietnam” bà Blair cho biết lúc 5 giờ sáng ngày 2.11.1963, ông Lodge đã leo lên một bao lơn (balcony) để quan sát thành phố và ở đó cho đến khi cuộc chiến đấu chấm dứt vào lúc 7 giờ. Không có nơi nào ghi lại những quyết định hay mệnh lệnh của ông trong những giờ đó.[13]
III.- VAI TRÒ CỦA LUCIEN CONEIN
Công điện đề ngày 5.10.1963 do Trạm CIA ở Sài Gòn gởi cho cơ quan CIA trung ương (tên người gởi cũng chưa được tiết lộ) đã cho biết Lucien Conein báo cáo rằng hôm 5.10.1963, ông ta đã họp với Tướng Dương Văn Minh trong 1 tiếng 10 phút tại bản doanh của Tướng Minh ở đường Lê Văn Duyệt. Tướng Minh có giải thích rằng những người nguy hiểm nhất ở miền Nam Việt Nam là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Trọng Hiếu. Tướng Minh nói rằng Ngô Trọng Hiếu trước đây là một người cộng sản và hiện nay vẫn còn là cảm tình viên của Cộng Sản. Khi Lucien Conein lưu ý rằng Đại Tá Lê Quang Tung là một người nguy hiểm hơn, Tướng Minh bảo rằng “nếu loại bỏ được Nhu, Cẩn và Hiếu, Đại Tá Tung sẽ qùy trước tôi.”[14]
Cuộc đối thoại này cho thấy Lucien Conein đã đồng ý loại bỏ ông Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn và ông Ngô Trọng Hiếu. Ông ta chỉ gợi ý giết thêm một người thứ tư là Đại Tá Lê Quang Tung.
Tuy nhiên, về trường hợp của ông Ngô Trọng Hiếu chúng tôi thấy có nghi vấn. Ông Ngô Trọng Hiếu chỉ là Bộ Trưởng Công Dân Vụ và sau đó kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao sau khi ông Vũ Văn Mẫu từ chức, ông không có hành động nào chứng tỏ ông là người nguy hiễm. Chúng tôi nghi rằng Trạm CIA đã ghi lầm tên Dương Văn Hiếu với Ngô Trọng Hiếu. Lúc đó ông Dương Văn Hiếu đang là Phó Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia đặc trách về Cảnh Sát Đặc Biệt và là người lãnh đạo Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cơ quan mật vụ của ông Nhu. Chính Dương Văn Hiếu đã cho theo dõi và khám phá ra Tướng Minh liên lạc với Việt Cộng làm Tướng Minh bị thất sủng, nên Tướng Minh thù Dương Văn Hiếu.
Năm 1961 Lucien Conein đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gòn làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ của VNCH, nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết để tổ chức đảo chánh lật đổ ông Diệm. Trong cuốn “Việt Nam 1954 - 1975, những sự thật chưa hề nhắc tới” do Hoàng Lạc và Hà Mai Việt xuất bản năm 1990, ở trang 247 có nói về vai trò của Lucien trong ngày 1.11.1963 như sau:
“Lucien ngồi trên ghế bành lớn của Đại Tướng Tỵ, gác chân lên bàn, bên cạnh là khẩu Magnum 44, dưới chân bàn là hai xách tay trong đựng sáu triệu đồng bạc Việt Nam. Số tiền này sau được phát cho Tướng Đôn ba triệu, phần còn lại chia cho các Tướng khác.”
IV.- PHÓ TỔNG THỐNG VÀ TỔNG THỐNG BÓ TAY
Trong cuộc họp vào lúc 11 giờ ngày 31.8.1963 tại Bộ Ngoại Giao, khi nhắc lại âm mưu lật đổ ông Diệm được Hoa Kỳ đưa ra vào tuần trước, Phó Tổng Tống Johnson tin rằng không có lãnh tụ nào khác để làm tổng thống ở Nam Việt Nam. Khi Ngoại Trưởng Dean Rusk hỏi ông có góp phần gì được không, ông nói: “Chúng ta phải ngưng ngay trò chơi cảnh sát và kẻ cướp” và “Chúng ta phải nói chuyện thẳng với ông Diệm.” Ông nhấn mạnh: “Một lần nữa phải lo thắng cuộc chiến.”[15]
Ông nói tiếp: “Chắc chắn Hoa Kỳ không thể tự mình rút ra khỏi một cuộc đảo chánh và chắc chắn có những tình hình xấu ở Nam Việt Nam. Tuy nhiên cũng có những tình hình xấu ở Hoa Kỳ. Khó mà sống với Otto Passman[16] [937] nhưng chúng ta không thể rời khỏi ông ta.”[17]
Sau này, ngày 1.2.1966, Tổng Thống Johnson đã gọi điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay nhắc lại chuyện chính quyền Kennedy tổ chức giết ông Diệm để có thể tham chiến ở Việt Nam:
Johnson: ... Nhưng ngài nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm.
MacCarthy: Có chứ.
Johnson: (Rằng) ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất cả chúng ta đã họp lại với nhau và XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA để hạ sát ông ta. Bây giờ, chúng ta thật sự không có sự ổn định chính trị [ở Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.
Tổng Thống Kennedy gần như không kiểm soát được gì hết. Ông đã nói về công điện ra lệnh đảo chánh lật đổ ông Diệm của nhóm Harriman gởi đi ngày 24.8.1963 như sau:
Theo sự xét đoán của tôi, bức điện đó đã được soạn thảo tồi tệ. Bức điện đó phải không bao giờ được gởi vào hôm thứ bảy. Tôi phải không bao giờ biểu đồng tình nếu không được bàn luận bàn tròn.”
Mặc dầu nhận thấy như vậy, ông đã không ra lệnh ngưng thi hành công điện đó!
Sau khi lật đổ và giết ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Kennedy không còn tin tưởng vào cuộc chiến thắng tại miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày 14.11.1963, Tổng Thống hỏi:
Bạn có chào thua tại miền Nam Việt Nam không?”
Rồi ông tự trả lời câu hỏi của chính mình:
Chương trình quan trọng nhất, dĩ nhiên là cho nền an ninh của chúng ta, nhưng tôi không muốn Hoa Kỳ đưa quân tác chiến sang đó.”
Sau đó ông nói:
Giờ đây mục tiêu của chúng ta là đưa quân nhân Hoa Kỳ về nước, cho phép Việt Nam tự duy trì lấy nước mình như là một quốc gia độc lập.”[18]
Trong khi đó, các thế lực tư bản đứng đàng sau muốn mở rộng chiến tranh và đổ quân vào Việt Nam. Vì thế, ông đã bị giết ngày 22.11.1963 tại Dallas.
Khi hay tin Tổng Thống Kennedy bị ám sát, Phó Tổng Thống Lyndon Baines Johnson chỉ vào bức hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang treo trong nhà ông và nói: Chúng ta đã nhúng tay vào việc giết ông ta. Bây giờ chuyện đó lại xẩy ra ở đây.”[19]
Còn lâu lệnh giết Tổng Thống Diệm và Tổng Tống Kennedy mới được chính thức đưa ra ánh sáng.
Ngày 23.10.2014
Lữ Giang
Ghi chú
[02] Joseph J. Trento, “The Secret History of the CIA”, Carrrol & Graf Publishers, New York, 2005, p. 334.
[03] Joseph J. Trento, sách đã dẫn, tr. 334 – 335.
[04] Henry Cabot Lodge, “The Storm Has Many Eyes, Norton & Company, New York. 1973, tr. 207.
[05] Anne Blair, Lodge in Vietnam, a patriot Abroad, Vail Ballou Press, New York 1995, tr. 10, 15, 19 vaø 124.
[06] Henry Cabot Lodge, sách đã dẫn, tr. 207.
[07] Francis X Winters, The year of the hare: America in Vietnam, 25 January 1963 – 15 February 1964, University of Georgia Press, Athens & London, tr. 104.
[08] Mark Moyar, sách đã dẫn, tr. 272.
[09] Đại Tá Blimp là một nhân vật trong chuyện biếm hoạ của David Low, thường có những quan điểm lỗi thời hay cực kỳ bảo thủ.
[10] Mark Moyar, sách đã dẫn, tr. 272.
[11] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 273 – 274.
[12] Trần Văn Đôn, sách đã dẫn, tr. 274.
[13] Anne Blair, Lodge in Vietnam, a patriot Abroad, Vail Ballou Press, New York 1995, tr. 70.
[14] FRUS 1961 – 1963. Volume IV, tr. 365 – 367. Document 177.
[15] William J. Rust, Kennedy in Vietnam, Da Copo Press, Inc. New York 1985, tr. 129.
[16] Otto Ernest Passman là một dân biểu bảo thủ thuộc đảng Dân Chủ, bang Luisiana, thường chống lại ngoại viện. Ông phục vụ trong Quốc Hội từ 1947 đến 1977.
[17] FRUS 1961 – 1963. Volume IV, tr. 74. Document 37
[18] Robert S. McNamara, In Retrospect, the Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage Books, New York 1996, tr. 86.
[19] Ellen J. Hammer, Death in November, Oxford University Press, New York, 1987, tr. 309.

Tổng số lượt xem trang