Dân Việt không cần có Nhân Quyền
Nguyệt Quỳnh
Tôi
thích những định nghĩa về tự do của John Adams và yêu thơ Tagore. Cả hai đều
khơi dậy cái sức mạnh tiềm ẩn bên trong con người. Điều lạ lùng là dù ở hai vị
trí rất khác nhau, một chính khách và một nhà thơ; song họ lại gặp nhau ở một
điểm rất chung. Tôi có thể mượn cái quan niệm của John Adam để nói về Tagore. Cả
hai đều cho rằng không có sự ưu việt nào bằng sự ưu
việt của linh hồn và không có sự giàu có nào bằng sự giàu có của con tim.
Tôi nhắc đến
hai nhân vật lẫy lừng trên, chỉ để được nói về hai thiếu niên vô danh và một thế
hệ ưu việt về tâm linh, giàu có về tình yêu và lòng ái quốc. Nhưng trước hết,
xin được trở lại với cái định nghĩa về tự do của John Adams. Ông bảo:
“Tự
Do là quyền lực tự quyết trong một thực thể có tư
duy. Nó đưa đến suy nghĩ, lựa chọn và sức mạnh”
Từ định nghĩa
đó, rõ ràng dân ta ngày nay thiếu hẳn các tố chất quan trọng và cần thiết để quyết
định cho sự tự do của chính mình. Và sự tồn vong của đất nước. Điều này đi ngược
lại hoàn toàn với truyền thống các thế hệ cha anh mà Nguyễn Trãi đã ghi lại
trong Bình Ngô Đại Cáo: “Từ Triệu,
Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập/Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên
xưng đế một phương”.
Ngày này có ai đọc lại câu thơ của Nguyễn
Trãi mà không khỏi thấy ngậm ngùi!
Mới đây, ông Nguyễn
Điểu, giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường TP Đà Nẵng, đã lên tiếng cảnh báo về
hiện tượng người Trung Quốc mượn tay người Việt dồn dập mua nhiều lô đất ở ven
biển Đà Nẵng. Cũng tại đây, đã thấy xuất hiện những
biển quảng cáo bằng tiếng Trung Hoa của một số nhà hàng, khách sạn dùng để lôi
kéo khách hàng.
Tại sao lại có tình trạng núp bóng người Việt?
Tại sao dân ta lại thờ ơ coi rẻ vận mệnh quốc gia? Nếu nguy cơ mất nước nằm
ngay ở người dân, thì một chính quyền hùng mạnh nhất cũng phải sụp đổ nói gì đến
lãnh đạo CSVN hiện nay.
Theo
dự đoán của công ty địa ốc Knight Frank,
VN là quốc gia có tốc độ tăng số lượng người
siêu giàu nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, xã hội chúng ta là một xã hội
mất phương hướng, một xã hội thiếu
bản sắc. Từ người thật giàu cho đến người nghèo khó, dường như đa
số đều hướng về vật chất, hướng về những cái hời hợt bên ngoài. Dân ta có nhiều
người giàu, nhưng chẳng giúp ích gì cho những phúc lợi xã hội. Dân số ta đông,
nhưng coi rẻ lợi ích quốc gia. Nhiều học giả, nhiều trí thức, nhưng vắng bóng
những hành động của trí tuệ. Chúng ta đánh mất nền tảng, chúng ta gãy đổ, không nối kết được chính mình với
quá khứ.
Nên
nhớ lịch sử VN đâu chỉ được viết nên bởi một
Quang Trung, Hưng Đạo hay các hổ tướng tên tuổi lẫy lừng. Lịch sử còn được viết
bởi những con người rất bình thường và vô danh.
Xin
được kể câu chuyện về hai thiếu niên ở Gò Công, mà thái độ của họ đã khắc một
nét thật sâu trong lòng hai viên sĩ quan cao cấp của thực dân Pháp.
Chuyện được kể
lại qua lời của thiếu tướng hải quân Réveillère, người có mặt trong cuộc hành
quân quy mô, nhằm truy quét phong trào kháng Pháp của Trương Công Định. Năm
1863, thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn tái chiếm lại Gò Công. Hôm đó, họ
bắt được hai thiếu niên người Việt, hai anh em ruột. Viên sĩ quan chỉ huy cuộc
hành quân là thiếu tá Vergne giao hẹn với cả hai rằng họ sẽ được tha mạng nếu
thực tâm dẫn đường cho quân đội Pháp truy lùng các căn cứ của nghĩa quân. Tuy
nhiên, hai thiếu niên này đã lừa dẫn quân Pháp đi vòng vo trong rừng. Không có
một lãnh tụ nghĩa quân nào của Trương Công Định bị sa lưới ngày hôm đó. Có lẽ
chính nhờ hai thiếu niên này họ đã tìm được thời gian trốn thoát.
Chiều tối hôm
đó, thiếu tá Vergne đã buộc lòng phải xử bắn cả hai, sau khi bày tỏ sự hối tiếc
của ông với thiếu tướng Réveillère: “Họ
là những anh hùng. Ở Hy Lạp có lẽ người ta đã tạc tượng để thờ các người ấy.
Còn tôi, tôi phải xử bắn họ.” Thiếu tá Vergne đã phải đối mặt với sự lựa chọn
khó khăn, nhưng ông đã làm tròn nhiệm vụ của một sĩ quan chỉ huy quân đội Pháp.
Riêng hai thiếu niên người Việt, cho đến tận ngày hôm nay chúng ta vẫn không biết
họ là ai. Nhưng chúng ta biết rất rõ sự lựa chọn và sức mạnh của họ là lý do
cho sự tồn tại của đất nước này.
John
Adams nói rằng: “Không thể bảo vệ tự do
trong khi nhân dân không nhận thức được nó”. Là một người dẫn đường cho sự
độc lập của nước Mỹ, ông xiển dương sức mạnh về tinh thần và ý thức của người
dân. Điều này đi ngược lại hoàn toàn với chủ trương của
lãnh đạo nước ta. Bộ chính trị chỉ có thể yên tâm về chiếc ghế của mình, nếu
Ban Tuyên Giáo dẫn dắt được đàn cừu đi đúng hướng.
Trong buổi
trò chuyện với báo chí Nhật Bản ngày 12/9 vừa qua, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng
đã rất tự tin khi trả lời những chất vấn của báo giới truyền thông Nhật. Đại
khái ông Trọng cho rằng thể chế độc tài tại nước ta sẽ còn sống rất lâu bền vì
nó đáp ứng đúng với nguyện vọng của nhân dân VN. Dù ông Trọng bị nhiều chỉ
trích, tôi vẫn thấy điều ông nói phản ánh khá đúng với thái độ của đại đa số quần
chúng và đó là thực tế đớn đau của đất nước chúng ta. Cứ so sánh con số các nhà
hoạt động nhằm thay đổi thể chế đất nước trên tỉ số 90 triệu dân thì biết. Và
hãy nhìn xem những nổ lực hết sức của họ đã được đám đông đáp ứng ra sao.
Ý thức tạo nên số phận. Một đàn sư tử mà riu ríu sợ roi thì chẳng
khác gì một bầy cừu. Không phải không có cơ sở khi ông Trọng phát biểu như thế.
Không phải không có lý do mà các Đại biểu Quốc Hội dám phát biểu rằng vì dân
trí ta thấp cho nên luật “trưng cầu dân ý” có khi gây hại.
Ngày nào chúng ta còn im lặng trước những trái ngang của luật pháp
khi đề nghị mức án cho trẻ em lên đến 15 năm tù; ngày nào chúng ta còn làm ngơ
trước tiếng thét oan khuất của người phụ nữ dân oan trước vành móng ngựa; ngày
nào chúng ta chưa trở thành thành viên của một tổ chức xã hội dân sự hay một hỗ
trợ viên của nhóm Lương Tâm TV; … ngày đó, chúng ta không cần có tự do.
Tự do đã bị bóp nghẹt bởi chính cá nhân của mỗi người, khi chúng
ta không dám làm điều thiện, điều đúng với lương tâm của
mình. Và nhân quyền lại là một điều rất dư thừa, vô bổ. Không ai cần đến nhân
quyền khi chúng ta sẵn sàng chịu bị xéo như một con giun.
***
Tôi nghĩ đến
câu thơ của Tagore và hai thiếu niên vô danh ở Gò Công. Bất giác, tôi muốn viết
câu thơ này lên tấm bia mộ vô hình của thời gian“Họ đã hôn cõi đời này với chân tay và
đôi mắt của họ – Họ đã ôm nó vào lòng, xiết chặt nó vào lòng – Họ đã cho ý nghĩ
của họ tràn ngập cả ngày và đêm của nó” (Bài 53 – Hái quả).
Tiếc rằng chúng ta không mang nổi thông điệp của họ đến các thế hệ
tương lai. Hãy quên họ đi. Hãy coi họ như hai người anh hùng của một đất nước
Hy Lạp nào đó xa xôi!
********************
Chúng Ta chọn đứng bên nào của Sự Thật
Nguyệt Quỳnh
Sau một loạt các trấn áp của lãnh
đạo CS nhắm vào các trang mạng xã hội, bằng cách liên tiếp bắt giam các blogger
Ba Sàm, Bọ Lập, Nguyễn Ngọc Già … báo lề dân vẫn tiếp tục mọc rễ và vươn cành.
Các blogger khác vẫn ngoan cường, cứng cỏi, tuyên bố sẵn sàng đối mặt với tù
tội.
Nhà văn Phạm Đình Trọng gọi thời
đại này là Thời Ngục Tù. Ông viết: “Năm
tháng qua đi nhưng thời ngục tù đau đớn này sẽ còn mãi trong trang sách lịch
sử”. Thân phận lầm than của đất nước, thân phận bèo bọt của người dân, thực
tế nhức nhối của xã hội đã không thể câm lặng mãi trong tâm hồn nhạy cảm của
các nhà văn, dù họ biết họ có thể là nạn nhân kế tiếp. Viết, đối với nhà văn
Phạm Đình Trọng và đối với các blogger vừa như là sự đòi hỏi của cái riêng, vừa
là trách nhiệm với cái chung.
Để mong tô đậm thêm nữa tác động
khủng bố lên các nhà văn, ngày 14/01/15 ông thứ trưởng Bộ Thông Tin Trương Minh
Tuấn và Phó chủ nhiệm Văn Phòng Quốc Hội Nguyễn Sỹ Dũng cùng xuất hiện trên
truyền hình VTV1. Họ cảnh báo rằng hàng trăm trang mạng có máy chủ ở nước ngoài
đang sử dụng chiêu bài nguy hiểm nhằm xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu Đảng, Nhà
nước và các cấp lãnh đạo, gây chia rẽ, làm giảm sút niềm tin của dân đối với
Đảng.
Nhưng những nhà hoạt động Việt
Nam lại nhìn khác. Khi những con người chỉ với cây bút và bàn phím trong tay,
bằng tất cả mọi nỗ lực trong cô đơn, kể cả chịu bị đánh đập đến đổ máu, chịu tù
tội, đã buộc cả guồng máy tuyên truyền khổng lồ của nhà nước phải xôn xao đối
phó, thì các blogger và sự thật đã chiến thắng. Khi Ban Tuyên Giáo Đảng phải
công khai chỉ thị cho đội ngũ chuyển sang hướng "minh bạch để giành trận
địa thông tin", thì rõ ràng báo lề
dân đã thắng hiệp 1.
Đề cập đến mức ảnh hưởng của làng
dân báo ông Trương Minh Tuấn vừa thú nhận vừa cố tình đánh hỏa mù:
"Có thể gọi chung đây là tội phạm không gian ảo, vi phạm pháp luật
VN. Loại tội phạm này có thể bị xếp vào những nguy cơ đe dọa an ninh lớn nhất
cho đất nước. Như ở Anh tội phạm này bị xếp ngang hàng tội phạm tấn công khủng
bố, thảm họa hạt nhân...".
Ông Trương Minh Tuấn quen lối phát biểu xem thường dư
luận, xem thường trí tuệ của người dân. Trong khi ba ngày trước đó, những thông
tin trên khắp các trang mạng xã hội cho thấy Thủ tướng Anh, ông David Cameron
đang cùng 40 vị lãnh đạo thế giới dẫn đầu đoàn tuần hành ở Pháp để cổ vũ cho
quyền tự do ngôn luận. Ông Tuấn tiêu biểu cho giàn lãnh đạo CSVN, vẫn muốn tiếp
tục chính sách ngu dân bằng bưng bít thông tin. Vẫn muốn cai trị dân bằng bạo lực
nên phải lấy dối trá làm phương châm hàng đầu. Quả thật, đây chính là cuộc chiến
cam go mà người dân VN phải đối mặt. Cuộc chiến giữa sự thật và dối trá, giữa
lương tâm và họng súng.
Nhà văn Pháp Emile Zola bảo rằng:
“Nếu anh bịt miệng sự thật và chôn nó
xuống đất, nó sẽ phát triển, và tập hợp sức mạnh dữ dội của chính nó để một
ngày khi nó mọc lên, nó sẽ thổi bay mọi thứ”.
Sự thật bị chôn dấu hàng bao lâu
nay đang chứng tỏ sức mạnh dữ dội của chính nó. Và làng dân báo, càng ngày càng
lớn mạnh với hàng trăm những con người chịu vác thập tự để được đem sự thật đến
với cuộc đời. Dù cô thế, dù thiếu phương tiện so với lực lượng báo đài của
đảng, báo lề dân đang trở thành nỗi lo sợ lớn của lãnh đạo CS. Nỗi lo sợ đó bao
gồm những sự thừa nhận sau đây:
- Đảng đã phải thừa nhận chính
sách bưng bít thông tin từ ngày lập đảng đến nay đã thất bại, dù với bao nhiêu
công an mạng đi chăng nữa. Đặc biệt vì hiện có rất nhiều chuyên gia điện toán
trên thế giới luôn nghĩ ra các cách vượt rào cản để tặng không cho nhân dân các
nước đang bị độc tài cai trị.
- Đảng đã phải thừa nhận lực
lượng 80 ngàn Dư Luận Viên hàng ngày đi chửi bới, cố đánh lạc hướng dư luận
cũng đã thất bại. Tệ hơn nữa, hàng ngũ này chỉ tạo thêm các tác động ngược.
Người dân ngày càng khinh rẻ cả Dư Luận Viên và những kẻ thuê mướn họ.
- Đảng đã phải thừa nhận hiện
tượng người dân đang lũ lượt bỏ mặc báo đài công cụ và kéo nhau đi nơi khác tìm
thông tin. Từ các nguồn quốc tế đến các nguồn do chính dân chúng tự tìm hiểu,
tự dịch thuật, tự tổng hợp, tự nhận định, tự thực hiện -- tức làng dân báo.
Không những thế, người dân nay còn định ra công thức chung: cứ chuyện gì Ban
Tuyên Giáo ra chỉ thị cho báo đài chối cãi càng căng thì chuyện đó càng chính
xác theo chiều ngược lại. Đơn cử một thí dụ như trường hợp ông Nguyễn Bá Thanh
thì rõ.
Nhưng có lẽ phải đọc các phát
biểu của thứ trưởng Tuấn cùng với nhiều bài vở khác của Ban Tuyên Giáo gần đây
cũng như các dặn dò của ông Nguyễn Tấn Dũng với công an mới thấy đủ chính sách
"minh bạch" của đảng. Đó là phải làm chủ thông tin bằng cách không
chặn tin nữa nhưng chủ động tung tin theo chiều của Đảng; hoặc chủ động minh
bạch phần tin nào không hại cho đảng. Nếu thế thì cũng chẳng mới là mấy. Ai
cũng biết cách đó sẽ chỉ cứu vãn tình hình trong một thời gian ngắn thôi, vì
hiện có nhiều nguồn khác cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác, tức minh bạch
100%. Một khi người dân nhận ra đảng chỉ "minh bạch một phần" hay
"minh bạch một chiều" thì số người kéo đi sang báo lề trái còn đông
và nhanh hơn nữa. Có ai muốn phí thời giờ đưa óc mình cho đảng rót các thông
tin nghiêng lệch, cắt xén vào không?! và như thế thì có khác gì mấy tình trạng
hiện giờ ?!
Dù chính sách tuyên truyền kiểu mới của đảng chỉ vừa
bắt đầu, nhiều người dân Việt đã bày tỏ thái độ chán chường về cái "lòng
thành nửa mùa" đi kèm đủ thứ hăm dọa trên báo đảng. Điều dân khao khát là
sự thật, là quyền được biết về những chính sách của chính phủ, những sự việc có
liên quan trực tiếp đến quyền lợi của đất nước và của chính họ, kể cả những dữ
kiện thuộc loại tối kỵ như nội dung Hội nghị Thành Đô, các bản đồ biên giới Việt
Trung, ... Ngày nào những đòi hỏi đó chưa được đáp ứng, ngày đó Đảng còn tiếp tục
phải đối mặt với làng dân báo. Cái trận địa mà Đảng gọi là “chiến tranh thông
tin truyền thông” đó chẳng ở đâu xa, chẳng phải từ lực lượng phản động nào cả.
Họ là dân, nơi mà rất nhiều người đã từng hết lòng yêu Đảng và từng đặt hết niềm
tin vào Đảng. Niềm tin đưa Đảng lên ngôi đó đã cạn, đã chết lịm khi người ta biết
Đảng đã bịt mắt để xử dụng họ như lừa, ngựa suốt bao nhiêu năm qua.
Đến nước này Đảng chỉ còn có hai chọn lựa:
·
hoặc là phải mở
tung hẳn cánh cửa truyền thông ra. Bỏ hẳn cái trò "800 báo đài với một ban
biên tập" đi.
·
hoặc phải chấp
nhận đứng nhìn cảnh: toàn dân chỉ dùng báo đài công cụ làm phương tiện giải trí
hay giấy gói hàng; còn khi cần các tin tức đúng đắn, mọi người sẽ chỉ đọc các
nguồn do báo lề dân cung cấp.
Nhìn những gì vừa xảy ra
trên "mặt trận thông tin", ai còn dám bảo người dân “tay không” thì
không thể tạo áp suất đổi thay. Khi phương pháp Đấu Tranh Bất Bạo Động được đủ
số đông cùng áp dụng, thế lực độc tài sẽ bị dồn vào chỗ bí. Họ buộc phải thay
đổi hay phải bỏ chạy. Nhiều dân tộc đã khám phá ra công thức này trước chúng
ta.
Cuộc đọ sức hiện nay - dù muốn hay
không - vẫn ảnh hưởng đến và bao gồm tất cả mọi người dân Việt. Một là ta góp
mặt dũng cảm cho sự đổi thay. Hai là ta chấp nhận trở thành nạn nhân, dự phần
cùng những bóng đen câm lặng trong sự tụt hậu của đất nước mình. Chúng ta chọn
đứng bên nào của Sự Thật ?