Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Ăn 5.000 tỉ đồng, sao còn bắt dân làm “con tin”?

-Ăn 5.000 tỉ đồng, sao còn bắt dân làm “con tin”?
Vì sao 90 triệu người dân Việt Nam phải mua đường với giá cao gấp rưỡi, thậm chí có thời điểm gấp đôi so với thế giới? Vì sao ngành mía đường ì ạch, không ngóc đầu lên nổi? Vì sao người nông dân trồng mía quá khổ?

Câu trả lời đã có từ hàng chục năm trước: Do ngành mía đường được bảo hộ, được nuông chiều nên chẳng khác nào một đứa bé “bố mẹ bế mãi trên tay nên không biết đi”.


Vì được bảo hộ bằng đủ cách, từ hàng rào thuế quan, lãi suất ưu đãi đến hạn chế tối đa nhập đường…, nên ngành đường trong tâm thế ỉ lại, thụ động, không chịu đổi mới. Hệ quả tất yếu mà ai cũng thấy: Công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, giá thành cao, không có vùng nguyên liệu ổn định và bức xúc nhất là người dân, doanh nghiệp luôn phải mua đường với giá cao ngất ngưởng.

Trên báo Thanh Niên, một chuyên gia trong ngành đường tính toán, người dùng trong nước luôn phải mua đường với giá đắt hơn từ 3.000 - 5.000 đồng/kg so với giá đường thế giới.

“Với mức tiêu thụ năm 2014 khoảng 1,3 triệu tấn đường, người tiêu dùng nội địa phải trả thêm cho khoản chênh lệch giá này lên tới hơn 5.000 tỉ đồng”, chuyên gia này nói.

Hệ quả rõ rành rành, nhưng vì sao nghành mía đường liên tục đòi được bảo hộ và được bảo hộ? Mỗi khi giá mía, giá đường giảm, ngành này lại thuyết phục Nhà nước rằng cần bảo hộ để “bảo vệ nông dân, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ doanh nghiệp trong nước”. Có điều, thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú có lý khi nói thẳng “các nhà máy đường chưa quan tâm chia sẻ lợi ích khi giá cao, lúc giá xuống thì gánh nặng lại dồn hết lên vai nông dân”.

Quả thật, điệp khúc chặt mía, mía chết khô trên đồng, đốt mía, phá mía, nông dân khóc bên cánh đồng mía…không còn là điều xa lạ. Những khi nông dân trồng mía rơi vào thảm cảnh, doanh nghiệp trồng mía ở đâu, sao không thấy “bảo hộ” mà để nông dân một mình bơ vơ trong cơn bỉ cực?

Người hưởng lợi thực sự từ chính sách bảo hộ không khác là một nhóm lợi ích tham gia vào ngành mía đường chứ chắc chắn không phải là những đối tượng mà ngành này luôn đưa ra làm “lá chắn”, làm “con tin” biện minh cho việc bảo hộ.

Chỉ còn khoảng 3 năm nữa, năm 2018, theo cam kết hội nhập chung của các nước ASEAN, thuế nhập khẩu đường sẽ không còn. Thế nên, con đường duy nhất để ngành mía đường tồn tại là phải cạnh tranh lành mạnh thay vì trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Nếu tiếp tục thụ động, ỉ lại chắc chắn sẽ bị đào thải.

Và cũng đã đến lúc Nhà nước không nên dùng ý chí để can thiệp mà hãy để thị trường thực hiện chức năng “bàn tay vô hình” của nó, nhằm tạo sức ép buộc doanh nghiệp phải “đổi mới hoặc là chết”. Nếu tiếp tục để ngành mía đường lấy nông dân làm “con tin” cho các yêu sách phi lý của mình, thì họ sẽ không bao giờ lớn nổi, và giá đường sẽ luôn cao đến mức phi lý.

Bài học thành công của nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành không phải do được Nhà ước o bế bảo hộ, nuông chiều mà là nhờ cạnh tranh sòng phẳng, năng động trong cơ chế thị trường. Và câu chuyện bảo hộ ngành ô tô xe máy nhưng nó cứ mãi èo uột vẫn còn mang tính thời sự.

Đình Long


GS. Võ Tòng Xuân cho rằng, không sớm thì muộn cũng phải bỏ bảo hộ ngành mía đường, cho nên bỏ luôn bây giờ là tốt nhất và cũng nên cho phép nhập khẩu đường để thay đổi tư duy của doanh nghiệp mía đường hiện nay.

>> “DN mía đường nên ăn ít thôi, phải phần cho người dân nữa”

Liên quan đến việc bảo hộ hay không bảo hộ ngành mía đường, Một Thế Giới đã có cuộc trao đổi với chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp - GS.TS Võ Tòng Xuân về vấn đề này.

Hiện nay đang có nhiều tranh luận xoay quanh việc có nên bỏ cơ chế bảo hộ mía đường trong nước hay không? Theo lập luận của Hiệp hội mía đường thì không nên và không thể. Vậy quan điểm của GS về vấn đề này như thế nào?

Nếu chúng ta không bỏ bảo hộ thì trong vòng 4 năm nữa chúng ta cũng phải bỏ. Vì thế bây giờ chúng ta phải tập bỏ dần dần bảo hộ để chúng ta có thể thích nghi với việc cạnh tranh với đường nước ngoài trong môi trường không có bảo hộ trong tương lai. Trước mắt, chúng ta phải hạ được giá thành sản xuất cây mía của mình và nâng cao hiệu quả của các nhà máy đường để có được hiệu suất cao nhất.

Ở nước ta, chi phí sản xuất 1 tấn mía lên đến 45-55 USD trong khi ở Thái Lan chỉ 30 USD, của Hoàng Anh Gia Lai tại Lào chỉ từ 25-30USD. Chi phí sản xuất cao môt phần vì nông dân chưa nắm được kĩ thuật tiên tiến, năng suất trung bình cả nước chỉ đạt hơn 60 tấn/ha, trữ đường cũng dưới 10.

Tất nhiên ở một số vùng nguyên liệu, nông dân trồng mía vẫn đạt năng suất trên 100 tấn/ha nhưng số này quá ít ỏi, chưa phổ biến. Các nhà máy đường cũng chưa thể giúp cho nông dân nâng cao năng suất cây mía.

Vì vậy chúng ta nên bỏ bảo hộ, tất nhiên là bỏ từ từ. Các nhà máy đường cũng cần phải sống, nên chúng ta cũng cần phải có lộ trình. Bên cạnh đó chúng ta cần phải tái cấu trúc lại ngành mía đường, tập trung đầu tư cho khoa học kĩ thuật về giống, cách chăm bón một cách bài bản.
Không thể nào cứ nói chung chung, khuyến cáo chung chung dẫn đến người nông dân làm không đúng, vẫn tốn nhiều phân, nhiều thuốc nhưng trữ đường vẫn thấp.




GS.TS Võ Tòng Xuân

Hiệp hội mía đường lại cho rằng, bảo hộ ngành mía đường chính là bảo hộ người nông dân trồng mía, phải đứng trên góc độ, lợi ích của người nông dân. Ông nghĩ sao về điều này?

Trong mấy chục năm nay thì điều đó là đúng. Vì bảo hộ chủ yếu là bảo hộ giá, để cho nông dân của mình có thể sống được. Nếu không bảo hộ thì ta phải có sức cạnh tranh nhưng những năm vừa qua năng lực cạnh tranh của ta chưa đủ.

Tuy là được bảo hộ nhưng thực tế nông dân trồng mía vẫn không có lãi. Nông dân được bán mía với giá cao nhưng chi phí đầu vào cũng khá cao, cao hơn nhiều nước khác. Tôi thấy trồng mía còn không hiệu quả bằng trồng khoai mì (sắn).

Sâu xa hơn thì có thể phân tích thành 3 khía cạnh. Thứ nhất là phải có kĩ thuật nông nghiệp cao để nông dân có thể hạ giá thành. Bộ Nông nghiệp cũng chưa có nghiên cứu cơ bản trên từng loại đất, từng điều kiện khí hậu sẽ phù hợp với giống mía nào, cách thức bón phân ra sao… Cái đó người nông dân còn chưa được biết.

Nhà máy đường chưa hỗ trợ gì về kĩ thuật cho nông dân, dường như chỉ có hỗ trợ, ứng trước tài chính để mua sắm nguyên liệu, phân bón.

Thứ hai nữa là nông dân trồng mía manh mún, không có kĩ thuật, hiểu biết về thị trường dẫn đến chi phí sản xuất mía cao.

Thứ ba là chính sách cho cây mía còn nhiều bất cập, mới chỉ mới có chính sách bảo hộ chứ những chính sách liên quan chưa có nhiều đột phá. Ta chưa quy hoạch được vùng trồng mía nên nông dân muốn trồng gì thì trồng.

Hiện nay chúng ta cũng chưa tập hợp được người dân lại để thành lập các hội trồng mía, thành cánh đồng lớn để cơ giới hóa sản xuất…

Vậy theo ông, việc xóa bỏ bảo hộ ngành mía đường và cho phép nhập khẩu đường sẽ thu lại những lợi ích gì?

Vấn đề này đã có nhiều chuyên gia lên tiếng phân tích nên tôi cũng không nói lại nữa, chỉ bổ sung thêm một vài điểm. Khi chúng ta cho phép nhập khẩu đường sẽ đặt các doanh nghiệp mía đường trước áp lực cạnh tranh khi giá đường xuống thấp.

Điều đó buộc các doanh nghiệp phải vận động, đầu tư khoa học kĩ thuật, đầu tư nghiên cứu giống cây mới, buộc phải quan tâm người dân trồng mía hơn nữa để phát triển vùng nguyên liệu.

Nếu cứ bảo hộ mãi thì doanh nghiệp sẽ không thực hiện việc đầu tư cần thiết để nâng cao chất lượng, năng suất cây mía và đời sống người dân tiếp tục khó khăn như trước.

Rất nhiều nông dân chặt cây mía trồng cây khác là bài học nhãn tiền. Chắc chắn rằng, cho nhập đường thì tư duy về cây mía của doanh nghiệp cũng sẽ khác trước đây.
Xin cảm ơn ông!
-

Tổng số lượt xem trang