-
Chương 3. Đệ tử của Stalin
Năm tôi mười một tuổi tôi rời nước Đức và đi Moscow và thêm
mười một năm tôi mới trở về Đức. Có người thường gọi đùa tôi có “nửa máu Nga”,
hàm ý có vẻ khen nhưng đôi khi cũng soi mói, nhưng tôi không hề coi đó là một
lời mắng nhiếc, việc bảo trợ của người Nga là một yếu tố thiết yếu trong sự
nghiệp của bản thân tôi. Các bạn đồng chí Cộng sản Đức biết cuộc đời niên thiếu
của tôi được nhào nặn tại Liên Xô cùng với tinh thần sâu xa của dân tộc Nga.
Việc tiếp cận khắng khít với Liên Xô cho phép tôi có một thẩm quyền hiểu biết
mà tôi có thể dùng để áp đảo trong những cuộc tranh luận.
Khi tôi trở lại thăm viếng Moscow sau này trong những chuyến
công tác, tôi gỡ bỏ mau chóng căn cước chính thức quốc tịch Đức của tôi để hoà
nhập vào dáng dấp quen thuộc của một người dân Moscow, lang thang trên đường
phố và trò truyện với mọi người một cách thân thuộc hơn cả đối với thành phố
Berlin và người Berlin. Tôi tiến đến căn nhà cũ của chúng tôi tại Đại lộ Nizhny
Kizlovsky, bây giờ có bảng ghi dấu tưởng nhớ cha tôi và em tôi, và tôi thăm
viếng rất nhiều bạn bè cũ tại khu phố Arbat. Tôi sẽ cùng với ông bạn Alik, mất
một chân vì chiến tranh và nay là Giáo sư dạy tiếng Đức, đi dạo ngang qua phố
láng giềng cũ đến đường Gorky, bây giờ được gọi trở lại là Tverskaya như hồi
trước Cách mạng. Khi còn là sinh viên, chúng tôi đứng xếp hàng cả giờ để kiếm
ghế ngồi tại Nhà hát nghệ thuật Moscow xem tài nghệ diễn xuất của đại kịch gia
Tarasova trong vở Anna Karenina, hoặc xem Michoels, một ngôi sao sáng của kịch
trường Do Thái, nằm bên cạnh trường học chúng tôi.
Chúng tôi yêu thích văn học cổ điển Nga và các nhà văn hào châu
Âu thế kỷ thứ mười chín - Heine, Balzac - cũng như Galsworthy, Roger Martin du
Gard và cú pháp chặt chẽ và mạnh mẽ của Hemingway. Khi chúng tôi có một buổi
họp vào hè năm 1941, chúng tôi chèo ghe đến dưới một vòm cầu hẻo lánh của sông Moscow và ngâm những câu
thơ của Aleksandr Blok và Sergei Yesenin.
Mấy năm nay, mỗi khi tôi rời Moscow, tôi đau quặn lòng vì
nhớ quê nhà, nhưng khác với các bạn Đức của tôi đã định cư tại đây, tôi chẳng
bao giờ muốn ở lại Moscow cho đến mãn đời tôi. Nước Đức vẫn là Heimat (Tổ quốc)
của tôi, và đây là nơi tôi được mời về để thi thố những gì Quốc tế Cộng sản đã
đào luyện cho tôi và áp dụng kinh nghiệm phát tuyến tôi đã học hỏi. Tôi tròn
hai mươi ba tuổi và là một thanh niên khôn ngoan và nhiều tham vọng nhưng đầu
óc vẫn còn khờ dại khi tôi trở về lại Đức đối diện những thực tế tôi phải đương
đầu. Việc huấn luyện chúng tôi đặt rất nặng trên nền tảng ý thức hệ và chú tâm
đến chiến dịch tẩy sạch những vùng lãnh thổ Quốc Xã bị đánh bại. Chúng tôi
không thể hình dung được sức chấn động nội tâm khi chúng tôi đối diện với các người
đồng hương sau khi thế giới của họ sụp đổ, một cuộc bại trận to lớn của một quốc
gia và màn kết thúc nhục nhã của tên độc tài đã làm cho họ say mê.
Chúng tôi, thanh niên Cộng sản từ Moscow trở về, cảm nhận mình là những bó đuốc
chính trị soi sáng, minh chứng bằng chính gương sáng của chúng tôi cho thấy phe
Tả tốt lành hơn phe Hữu. Lệnh ban đầu chúng tôi nhận được là không áp đặt cơ
cấu Cộng sản trên những vùng chiếm đóng của Xô viết trên nước Đức, nhưng tạo
nên một liên minh rộng lớn chống phát-xít do chính chúng tôi thành lập. Đây
không phải đơn thuần là một chiến thuật mà đối với chúng tôi và tất cả các đảng
viên cộng sản, đó là một nhu cầu. Chúng tôi học hỏi kinh nghiệm từ Hitler làm
thế nào để tiêu diệt cánh Tả. Stalin, trên thực tế và thoạt tiên không hy vọng
có cơ may xây dựng được một chính quyền theo kiểu Xô viết trên phần đất của Đức
và muốn có những chọn lựa mở ngỏ với Đồng minh phương Tây.
Chúng tôi trở về nước Đức tiếp cận thực tế tàn nhẫn và khó
chịu hơn hẳn những gì chúng tôi dự đoán. Em tôi, Koni, phản ánh sự kiện này mấy
năm sau trong một bộ phim diễn tả tâm trạng các thanh niên phải đối đầu với
những cảnh tượng man rợ không bút nào tả xiết “Tôi Tròn Mười Chín Tuổi”. Em tôi tô đậm nét tương phản giữa hình
ảnh tuổi thơ của trang thiếu niên anh hùng với một xã hội hỗn loạn, trong đó
các thị trưởng thành phố vội vã thu cất lá cờ Quốc Xã - hoặc đôi khi chỉ cắt
vòng tròn và chữ vạn đen ở trung tâm lá cờ - khi Hồng quân tiến đến gần.
Trong khi Koni, với trách nhiệm của một sĩ quan lãnh đạo của
quân đội Xô viết, góp sức thiết lập nền tảng guồng máy hành chính hậu Quốc Xã
trong vùng chiếm đóng của Liên Xô, tôi được lệnh đến Berlin tháp tùng bộ tham
mưu Đảng. Ông Walter Ulbricht, với đầu óc sắc bén và khuôn mặt râu rậm, hiện
thân là lãnh tụ của Đảng cộng sản Đức lưu vong, đã rời Moscow để đến Berlin hồi
tháng 4 cùng với khuôn mặt khả ái của Whilhelm Pieck và một nhóm nhỏ tiên phong
của đảng. Phần còn lại trong nhóm của chúng tôi bay về Đức một tháng sau, vào
ngày 27-5-1945, trên chuyến phi cơ quân sự Douglas DC-3 ; tất cả chúng tôi đều
mặc quần áo dân sự mới cắt chỉ. Từ trên không trung, chúng tôi nhìn xuống chỉ
thấy những tàn phá của chiến tranh.
Đoàn chúng tôi rất là hỗn tạp - Cộng sản cũ và tù binh Đức
con cái của những đảng viên cộng sản cũ. Không ai có một chút ý niệm gì về
những gì sẽ diễn ra và chúng tôi nói chuyện và bàn bạc về những gì chúng tôi có
thể sẽ gặp. Chúng tôi cũng không biết rõ Đảng cộng sản có được phép hoạt động tại
Đức không. Không thấy ai đề cập đến ý thức hệ để xây dựng một nước Đức mới.
Công việc đầu tiên chúng tôi phải làm là một công việc căn bản: tổ chức lại
cuộc sống thường ngày để người Đức sinh sống.
Emmi cùng đi với tôi, lần đầu tiên chúng tôi sống chung với
nhau như vợ chồng. Đối với cả hai chúng tôi, hành trình trở về quê nhà vừa phấn
khởi vừa đau đớn khi chúng tôi nhìn thấy cảnh thảm não và tan nát của các thị
xã và thành thị Đức. Chúng tôi cũng đã thoáng nhìn cảnh tàn phá của Warsaw trên
đường bay về Berlin. Nó hoàn toàn bị tàn phá, khói nghi ngút bay lên từ những
đống gạch vụn như thể trong nhà táng. Phi cơ của chúng tôi là chiếc đầu tiên
đáp xuống phi trường Tempelhof vừa mới mở lại; phi trường này ba năm sau đã
được dùng làm trạm liên lạc không vận của Đồng minh khi Berlin bị bế môn phong toả. Sự tàn phá của Berlin hầu như toàn diện
không ai nghĩ có thể tái thiết lại được.
Vì chúng tôi là những đứa con của Quốc tế Cộng sản, chúng
tôi có tinh thần quả quyết rất cao. Chúng tôi muốn gột rửa cho nhân dân vết nhơ
quá khứ Quốc Xã và hết lòng tin tưởng vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa chúng tôi
được nuôi dưỡng để có thể rửa sạch và tái tạo nước Đức. Tôi không ngờ việc hoà
nhập sống chung với những người đã từng tung hô Hitler và Goebbels khó khăn hơn
tôi nghĩ. Phần đông hầu như không có khả năng hoặc không muốn hiểu những gì Quốc
Xã đã làm với sự trợ giúp của họ hoặc nhân danh họ. Chẳng có mấy ai cảm thấy có
tội hoặc có trách nhiệm với những gì đã xảy ra. Emmi có lần nghe trộm một nhóm
phụ nữ bàn thảo về báo cáo tội ác chiến tranh của Đức do đài phát thanh do tôi
điều khiển loan truyền. Họ nói và dùng những ngôn ngữ của nhóm quốc gia cực
đoan Hitler mà họ đã nghe từ mười hai năm nay “Người Đức không bao giờ làm một
việc như vậy”.
Dưới nhãn quan của nhiều người Đức và của phần đông thế
giới, chúng tôi trở lại từ phía Đông mang theo với chúng tôi một chế độ độc tài
khác. Nhưng chúng tôi không tự xem chúng tôi là những người thay thế chế độ độc
tài Nâu bằng một chế độ độc tài Đỏ, như Tây Âu sau này vẫn nhìn chúng tôi.
Chúng tôi người Cộng sản Đức có lẽ là những người ngoại quốc mù tịt nhất về
những tội ác của Stalin, vì chúng tôi đã được Liên Xô cứu khỏi cái chết hoặc tù
tội tại Đức. Tất cả những mối nghi ngờ về những gì đang xảy ra bị che lấp bởi
những biến cố dưới chế độ hung bạo của Hitler, và tôi không thể nào nhìn thấy
hệ thống xã hội chủ nghĩa là một chế độ độc đoán. Đối với tôi và đối với thế hệ
Cộng sản chúng tôi, đó là một lực lượng giải phóng. Có thể phương pháp của họ
mạnh bạo, nhưng chúng tôi luôn luôn cảm thấy đó thực sự là một lực lượng lương
thiện và những cố gắng để thuyết phục tôi phải thay đổi suy nghĩ hầu như vô
hiệu.
Nếp suy nghĩ này quyết định não trạng của chúng tôi trong
suốt thời gian Chiến tranh Lạnh. Điều này có nghĩa mỗi lần chúng tôi nghe mô tả
một hình ảnh không đẹp đẽ của phía chúng tôi, câu hỏi xuất hiện đầu tiên trong
đầu óc không phải là “Điều này có đúng không?” mà là “Bọn họ đang tìm cách che
đậy gì đây khi họ tố cáo chúng ta điều này?”. Một khi hệ thống phòng thủ trí
não đã được hoàn chỉnh, ít lời chỉ trích nào có thể làm suy xuyển nổi tinh thần
chúng tôi.
Chúng tôi cũng còn ngây thơ. Tôi hy vọng sẽ có thêm nhiều
người Đức, sau khi bị chấn động vì bại trận, tỏ ra biết ơn được cởi bỏ ách của
Hitler và ôm chầm đoàn quân Xô viết như đoàn quân giải phóng. Thực tế có phần
hơi khác. Nơi cư xá tôi ở, tôi nghe trộm các người láng giềng cãi cọ xem ai là
người sẽ được dời đến những căn phòng rộng rãi và thông thoáng nằm đối diện với
căn phố chúng tôi, nơi đây một gia đình Quốc Xã bị trục xuất. Sự sụp đổ của
nước Đức, một cường quốc thế giới, đã không huỷ diệt ước vọng của người dân
mong muốn có được “Lebensraum” (Không gian sinh tồn) (Lời dịch giả: Thuyết “không gian sinh tồn” được Quốc Xã sử dụng để biện
minh cho chính sách bành trướng lãnh thổ của nước Đức).
Tôi cảm thấy đau xót vì vấn nạn này. Tôi tức điên tiết khi
tôi nghe người khác kể lại gia đình đòi căn phố này dựa trên chứng cớ họ không
là đảng viên của Quốc Xã, nhưng thực ra họ bị ghi trong sổ hộ tịch địa phượng
là “những kẻ tố cáo”, họ đã tố giác năm đảng viên cộng sản cho chính quyền.
Làm sao tôi có thể ngu muội trước cảnh mỉa mai của lời kêu
gọi của chúng tôi nhằm thiết lập một trật tự nhân bản và yêu chuộng hoà bình?
Tôi chỉ có thể trả lời là một phần con người của tôi trải qua những năm tháng tại
Liên Xô đã trở thành nửa Nga và nhìn nhận phần nào khát vọng trả thù vì những
kinh hoàng mà Quốc Xã đã gieo rắc. Tôi thiết nghĩ sau một cuộc tháo chạy tán
loạn như vậy khát vọng trả thù sẽ lắng dịu và sau đó chúng tôi có thể xây dựng
mối liên hệ Đức Nga, không chút tham vọng chế ngự lẫn nhau.
Một vài ngày sau khi chúng tôi đến, chúng tôi được lệnh
trình diện Ulbricht từng người một. Ngắn gọn, ông vạch rõ vai trò hành chính
của chúng tôi trong vùng kiểm soát của Liên Xô. Tôi được chuyển sang Đài phát
thanh Berlin làm biên tập viên; đây là một công thự đồ sộ tại Charlottenburg,
nằm trong vùng kiểm soát của Anh, trước đây là Đài phát thanh của Josef
Goebbels nay rơi vào tay của quân đội Xô viết. Lúc đầu tôi cự nự lệnh của
Ulbricht, vì tôi được huấn luyện để trở thành kỹ sư hàng không và tôi không
biết gì nhiều về kỹ thuật xách động - mặc dù khi tôi còn nhỏ tôi sống trong
khung cảnh đó, nhưng đây là một chương tình huấn luyện để chống lại chủ thuyết
Quốc Xã. Khi tôi hỏi ông Ulbricht đến khi nào tôi được phép hoàn tất học vấn về
hàng không tại Moscow ,
ông quát mắng “Anh thi hành công tác của anh đi. Chúng ta có nhiều việc phải lo
toan hơn là làm tàu bay”. Mặc dù lo sợ lúc ban đầu, nhưng khi tôi làm phóng sự
và bình giải chính sách ngoại giao (với bí danh là “Michael Storm”) tôi cảm
thấy công việc hấp dẫn. Nằm xa khu vực kiểm soát Xô viết, ngay trong khu vực Anh,
đài phát thanh của chúng tôi đúng là tiền đồn trong cuộc Chiến tranh Lạnh bắt
đầu khởi sự. Khoảng cách giữa Bộ tham mưu Đảng tại Berlin với nơi chúng tôi làm việc cho phép
chúng tôi hoạt động có ít nhiều phần độc lập. Tôi có một tập nhỏ do Ulbricht
viết khi còn ở Moscow chỉ thị đường hướng của Đảng và nhấn mạnh công cuộc đấu
tranh chung chống phát-xít, nhưng, trong thuở ban đầu, đó là tất cả chỉ thị
chính trị mà tôi nhận được.
Đôi khi tôi đụng độ với Ulbricht. Trong một chương trình tôi
điều khiển gọi là “Diễn đàn dân chủ”, ông là phát ngôn viên của Đảng Thống nhất
Xã hội chủ nghĩa (SED) (lúc này là Đảng cộng sản, được thành lập do sự phối hợp
của đảng viên cộng sản với đảng viên Dân chủ Xã hội trong vùng chiếm đóng của Xô
viết năm 1946). Giọng the thé pha trộn với tiếng dân miền Saxon của ông tạo nên
một cảm giác không lấy gì làm thú vị cho thính giả. Với lòng cương trực nguy
hiểm của tuổi niên thiếu, tôi đề nghị ông nên để một xướng ngôn viên đọc bài của
ông đồng thời ông nên trau dồi luyện giọng. Ông tỏ ra khó chịu ra mặt. Thật là
một chuyện lạ, sự nghiệp tôi vẫn thăng tiến tại Berlin với một bước đầu thật là vụng về.
Chúng tôi cố gắng đưa đài phát thanh đến gần quần chúng một
cách sống động bằng cách trả lời những câu hỏi về những vấn đề xem như cấm kị
chẳng hạn như số phận của trăm ngàn tù binh Đức giam giữ tại Liên Xô, số phận
của các công chức nhỏ của Quốc Xã được xét xử như thế nào và biên giới mới thâu
ngắn của nước Đức trên dòng sông Oder và Neisse; điều đáng ngạc nhiên, những đề
tài này không cấm kị đối với các sĩ quan Xô viết giám sát đài phát thanh. Cuộc
tranh đấu gay go của chúng tôi là chống lại lệnh các sĩ quan Xô viết phải phát
thanh giờ này sang giờ khác những bài diễn văn chán ngấy. Có một bài diễn văn
hầu như dài vô tận đọc tại Liên Hiệp Quốc của Bộ trưởng ngoại giao Andrei
Vishinsky, rêu rao những cọ sát trong môi tương quan giữa Moscow và Đồng minh
phía Tây. Tuyên truyền loại này đưa đẩy thính giả vào tay của đài phát thanh
mới thành lập RIAS (Radio in American Sector) đài phát thanh trong vùng kiểm
soát của Hoa Kỳ.
Cũng có những vấn đề khác nữa. Chúng tôi không được phép tự
do thông tin về mối tương quan giữa nhân dân Đức với quân đội chiếm đóng Xô
viết, cũng không được nói về những vụ hãm hiếp và cướp bóc diễn ra cùng với
bước tiến của Hồng quân vào Berlin. Chiến dịch đối xử bạo tàn đối với đám quần
chúng bại trận, đặc biệt tại Đông Phổ (East
Prussia ) không còn là một bí mật nữa. Như mọi người
dân Đức, chúng tôi khiếp đảm vì những tin này, và chúng tôi cảm nhận phương
cách duy nhất để dân Nga và dân Đức xích lại gần nhau là công khai nói về mọi
tội ác chiến tranh. Cấp lãnh đạo Cộng sản Đức tỏ ra phẫn nộ vì cách hành xử của
đám quân tồi tệ của Hồng quân khiến cho việc thu hút nhân tâm về phía chúng tôi
càng trở nên khó khăn thêm. Chúng tôi cũng có ý kiến của chúng tôi nhưng chúng
tôi không thể phát biểu công khai, và các sĩ quan Xô viết có trình độ văn hoá
cao hơn cũng âm thầm nhìn nhận những trò thô bạo như vậy không được phép xảy ra.
Nhưng chính ngay từ ngữ “Nga” đã được bộ máy tuyên truyền của Quốc Xã liên tục
sử dụng không ngừng nghỉ để khơi động lòng căm thù sơ đẳng, nay một lần nữa
được gán ghép với sự sợ hãi.
Là đảng viên của Đảng cộng sản Đức, chúng tôi không lên
tiếng phản đối những lối hành xử tàn ác này mà đáng lý ra chúng tôi phải lên
tiếng vì hai lý do chính. Thứ nhất một người Đức tỏ ra bất nhã khi chỉ trích
người Nga về tính thô bạo, so với những tàn phá của Quân đội Đức đã gieo trên
đất của Liên Xô khi họ chiếm đóng. Trong lòng chúng tôi, những người trốn chạy
nước Đức của Hitler, có lẽ vẫn còn một chút hận thù đối với chính những người
dân đã chấp nhận trở thành công cụ của Đệ Tam Quốc Đức (Third Reich). Lý do thứ
hai đơn giản là chúng tôi gạt bỏ những mối nghi ngờ về hành vi của quân đội Nga
vì đề vấn đề ý thức hệ.
Có người hỏi tại sao tôib một thanh niên có giáo dục trong
một gia đình có văn hoá lại có thể gạt bỏ ra khỏi trí tuệ bao nhiêu những biến
cố bất ổn định như vậy. Tôi cũng tò mò muốn biết những nhận định này, nhưng
những từ ngữ chỉ thoáng lướt qua trong đầu óc của tôi, bởi vì chúng được gạn
lọc bởi một màng lưới ý thức hệ. Vào thời kỳ đảo lộn của thời hậu chiến, lòng
thù hận mong muốn báo thù pha lẫn với lòng đố kị, nơi đâu cũng có bất công cả,
tuy nhiên chúng tôi chú tâm đến việc ngăn chặn không cho chủ thuyết Quốc Xã
tiêm nhiễm trở lại nước Đức. Thực vậy, phần đông các thính giả viết thư cho
chúng tôi đều quan tâm đến việc xoá bỏ những tàn dư của Quốc Xã hơn là số phận
của một vài người có thể bị thương tổn trong quá trình của sự việc.
Khi các viên chức chiếm đóng Xô viết tổ chức bắt giam hàng
loạt các cựu đảng viên Quốc Xã và các thành phần chống đối Stalin, hàng ngàn
đảng viên Dân chủ Xã hội chống đối Quốc Xã cũng bị càn quét và một vài người bị
đưa vào trại lao động, được chính Quốc Xã vừa mới xây dựng
xong một cách trớ trêu. Chúng tôi biết rất ít về những sự kiện này, và những gì chúng tôi biết
chúng tôi cho đó là trò tuyên truyền gian ác của phương Tây. Ví dụ, tờ báo của
Đảng Dân chủ Xã hội tại Tây Berlin, tờ Telegraph, đăng một câu chuyện nói rằng tại
một căn phòng của một ngôi nhà tôi ở, có người bị một biệt đội cảnh sát K-5
thẩm vấn và tra tấn. Tôi công khai phủ nhận hoàn toàn điều này và tố cáo tờ báo
đã bịa đặt không những cảnh tra tấn mà ngay cả sự hiện hữu của biệt đội K-5.
Mãi sau này, khi tôi được bổ nhiệm làm việc tại Bộ An ninh quốc gia, tôi mới
khám phá đội K-5 có thật và họ đã tra tấn những người tình nghi ngay dưới hầm
căn nhà đó.
Trong suốt sự nghiệp của tôi, tôi bỏ qua, tôi cho là tiểu
tiết hoặc tôi biện luận về những giai đoạn như vậy, và tôi chỉ biết nhắc nhở
độc giả rằng tâm tính của tôi được huấn luyện để chống chủ nghĩa phát-xít;
chúng tôi cảm nhận đối với một địch thủ độc đoán như vậy, hầu hết mọi phương
tiện chống lại nó đều tốt. Trong tiến trình suy luận, chịu ảnh hưởng của bài Báo
cáo mật Nikita Khrushchev đọc trước Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô năm
1953, trong đó ông tiết lộ những tội ác của Stalin cho các đảng viên cộng sản
ủng hộ Stalin và sau đó tiết lộ cho thế giới, tôi bắt đầu có những cảm nhận
khác. Nhưng vào lúc đó và trong hầu hết quãng đời của tôi, tôi tin tưởng chúng
tôi, những người Cộng sản, đứng về phía đổi mới và công bằng xã hội. Điều này
giúp châm chước cho Moscow về những kịch án thanh trừng, và bây giờ những bắt buộc của
tình thế Chiến tranh Lạnh khiến cho chúng tôi bỏ qua những hành vi tấn công
Đảng Dân chủ Xã hội Đức, một đảng vẫn còn tồn tại sau Quốc Xã. Trong những
trường hợp cá biệt, tôi xoay xở trong phạm vi khả năng của tôi, nhưng tôi không
gặp nhiều những trường hợp này. Có lẽ tôi cảm thấy tôi miễn nhiễm với một số
tiêu chuẩn đạo đức, một cảm nhận được hỗ trợ bởi lòng tin rằng guồng máy Cộng
sản sẽ không bao giờ quật ngược lại tôi, vì tôi là một đứa con của guồng máy.
Tôi không bao giờ nghĩ tôi có thể là nạn nhân. Cả cha tôi cũng vậy, và có lẽ đó
là một lý do chúng tôi còn tồn tại. Cha tôi có lần đã viết cho Stalin năm 1945,
than phiền là ông không trở về được nước Đức trên danh nghĩa một người Do Thái, và
khi cao trào tố cáo “bọn bác sĩ mưu đồ” vào những năm cuối của Stalin nhằm tạo nên
cớ bài miệt Do Thái tại Liên Xô, cha tôi và tôi không bị ai đụng chạm đến. Cũng
như vào lúc tình trạng bất an toàn diện và mối đe doạ trước chiến tranh, trong
sự hỗn loạn sau chiến tranh, tôi không cảm thấy có nhiệm vụ làm suy yếu những
người đứng cùng phía với tôi để đấu tranh chống lại ác độc.
Lẽ cố nhiên tôi biết rất nhiếu về những tội ác kinh khủng
vào thời Stalin ngay cả khi chúng còn trong vòng dự mưu thực hiện. Người nào
nói không biết gì cả là một thằng nói láo. Có nhiều điều tôi nhìn lại tôi cảm thấy
không hãnh diện chút nào. Có lúc tôi đề cập đến vấn đề này với các cấp lãnh đạo
Cộng sản Đông Đức. Nhưng trong quá khứ cũng như hiện tại, tôi không bao giờ đem
tội ác của chế độ Cộng sản lên bàn cân so sánh với tội ác của Quốc Xã. Điều
khiến tôi đoán chắc không thể nào cân bằng hai thể chế đó là những sự kiện ghê
rợn nổi bật trong những vụ xét xử tội ác chiến tranh của các cấp lãnh đạo Quốc
Xã tại Nuremberg .
***
Tháng 9-1945, tôi được đài phát thanh phái đến toà án xét xử
tội ác chiến tranh Nuremberg
để làm phóng sự. Chúng tôi chỉ được biết những sự kiện xảy ra tại Quốc Xã Đức
qua bộ máy tuyên truyền của Xô viết, chú trọng đến số phận của các đảng viên
cộng sản Đức. Chúng tôi cũng được biết một số chuyện do lời kể của chính gia
đình chúng tôi đến tai chúng tôi tại Moscow và từ những thư từ của cha tôi nói
về những sự kiện khai mào sau này mọi người được biết là diệt chủng
(Holocaust). Tuy nhiên mãi sau này chúng tôi mới khám phá chiều sâu độc nhất vô
nhị thảm cảnh tàn sát dân Do Thái nằm trong căn gốc của chủ nghĩa Quốc Xã.
Nhưng tại toà án, tương tự như trên bàn giải phẫu, bộ mặt thật của chủ nghĩa
Quốc Xã được phơi bày rõ rệt và tất cả thảm cảnh diệt chủng dân Do Thái lần đầu
tiên hiện ra trước mắt tôi.
Vì tôi là một người con của một gia đình Do Thái Cộng sản,
tôi rùng mình khi tôi ngồi đối diện những khuôn mặt đại diện còn sống sót của
thời kỳ Quốc Xã. Lang thang trên nhưng đổ nát của thành phố Nuremberg, trước
đây được xem là “hộp quý trang của nước Đức” nhưng nay bị gắn liền với những
luật pháp kỳ thị chủng tộc mà hàng triệu dân Do Thái là nạn nhân, tôi bất chợt,
lạnh lùng bừng tỉnh và nhận định chúng tôi đảng viên cộng sản và các đối thủ
khác của Hitler đã hoàn toàn thất bại trong việc ngăn ngừa cảnh tàn sát này, và
tôi nguyện thề không để tình trạng này tái diễn một lần nữa trên đất nước Đức.
Chính vì lý do đó tôi thấy lòng căm phẫn của người Đức bại
trận đối với quân đội chiếm đóng Xô viết khiến cho tôi tức giận thêm hơn. Tôi
viết thư cho cha mẹ tôi một cách ngây ngô cho rằng “lòng hảo tâm của Hồng quân
coi như quần chúng đương nhiên được thụ hưởng mà quần chúng vẫn luôn than vãn.
Hình như họ không nhìn thấy được tầm mức thảm hoạ Hitler đem đến cho nước Đức.
Họ không hiểu cơ may một trang sử mới đang đến với họ”.
***
Nước Đức chính thức chia ra làm hai thực thể chính trị sau
cuộc cải cách tiền tệ năm 1948 tại ba vùng chiếm đóng của Tây Âu đưa đến sự
củng cố nước Cộng hoà Đức (Bundesrepublik) hay là Liên bang Đức. Để trả lời,
nước Cộng hoà Dân chủ Đức được chính thức thành lập tháng 10-1949 cùng với sự diễu
hành đêm đuốc, diễu hành của đông đảo quần chúng và những bài ca ái quốc. Đối với
một số thành viên có nhiều cảm tình với xã hội chủ nghĩa , tất cả những cảnh này
giống y hệt hoạt cảnh cũ của chính quyền Quốc Xã một cách khó chịu. Nhưng tôi
thấy đây là giây phút lịch sử của mối bang giao Đức-Nga. Không bao lâu tôi được
Trung ương Đảng vời về và tôi được thông báo tôi là người chịu trách nhiệm giúp thắt
chặt tình hữu nghị này. Ngày 1 tháng 11, tôi được lệnh trở về Moscow với chức vụ Tham vụ cho Toà đại sứ
Đông Đức tại đây. Để nhận nhiệm vụ này tôi phải từ bỏ quốc tịch Xô viết của tôi
và một lần nữa tôi chính thức trở thành người Đức. Chúng tôi đến Moscow vào ngày 3 tháng 11
năm 1949.
Vẻ sang trọng và tính khoan thái của ngành ngoại giao mở
lòng chúng tôi sau những ngày sống trong cảnh hoang tàn của Berlin ,
và chúng tôi an hưởng trọn vẹn đời sống gia đình tại Moscow . Đúng là một đời sống gia đình ấm
cúng: Trong khi tôi làm phóng viên tại Toà án Nuremberg năm 1946, đứa con đầu
lòng của tôi, tóc vàng, mắt xám, được đặt tên là Michael, ra đời, sau đó là em
bé gái tên Tatiana, sinh năm 1949. Emmi, không ưa thích vẻ bề ngoài của không
khí trong Toà đại sứ, được cơ hội chìm đắm trong văn học Nga và khởi sự học
trình lấy bằng tiến sĩ về Dostoyevsky.
Với tư cách đệ nhất tham vụ của Toà đại sứ nước Cộng hoà Dân
chủ Đức, cuối cùng tôi được gặp Stalin, một biến cố đáng ghi nhận đối với tôi
mặc dù bao năm đã qua. Nói chuyện với các bạn bè cùng thế hệ, tôi thấy Stalin
vẫn đôi lúc xuất hiện trong giấc mơ của chúng tôi, có lẽ do một thoáng hồi nhớ
cảnh diễu hành quần chúng chúng tôi chứng kiến tại Quảng trường Đỏ, vào lúc đó
nhiệt độ thờ phụng của quần chúng che lấp tất cả những cảm giác khác, hoặc nhớ
lại những hình ảnh và tượng đài của Stalin - đã biến mất từ lâu khỏi thành phố
Moscow - tất cả những điều này khiến cho chúng tôi có cảm giác đang sống với
một vị á thần.
Thực ra, cho dù tôi cố chú tâm với hiểu biết của con người
trưởng thành để khách quan đánh giá những tội ác của ông, khía cạnh gần như
huyền bí trong tâm trạng của tôi đối với Stalin không thể nào xoá nhoà được.
Hình ảnh không thể xoá nhoà hoàn toàn này có thể có ích cho tôi, vì điều này
luôn nhắc nhở tôi hấp lực của kẻ độc tài vẫn quan trọng và mạnh mẽ, vẫn tồn tại
ngay cả sau khi những bất công y gây ra đã được phơi bày.
Ấn tượng sống động nhất trong cuộc đời nghề nghiệp của tôi tại
Toà đại sứ là buổi tiếp tân khoản đãi lãnh đạo Trung Quốc ông Mao Trạch Đông tại
đại sảnh tròn của khách sạn Metropol vào tháng 2-1950. Tôi đang đứng lưng quay
ra cửa ra vào, thình lình tôi nghe tiếng xôn xao trong phòng. Quay trở ra, tôi
thấy Josef Vissarionovich Stalin đứng cách tôi vài thước. Ông mang bộ Litevka
nổi tiếng với cổ áo may cao. Ông không đeo một huy hiệu hoặc huy chương nào cả.
Với vóc dáng thấp bé và tròn trịa lạ lùng, ông có đầu hói bóng lưỡng. Những chi
tiết này hoàn toàn trái ngược với hình ảnh của Vozhd, “Vị lãnh tụ vĩ đại”, được
nuôi dưỡng trên phim ảnh và trình diễn trên những bức chân dung. Tôi choáng
váng trước tiên vì thất vọng nhưng sau đó vì hãnh diện. “Thì ra ông cũng như
một người bình thường”, tôi nghĩ. “Tất cả những câu chuyện để tôn vinh cá nhân
ông đã được thêu dệt nhưng ông không được biết đến”.
Với tư cách là Tham vụ Ngoại giao, tôi thay mặt cho Đại sứ
vào dịp này, ngồi đối diện với nơi các cấp lãnh đạo của cả hai phái đoàn nâng
chén chúc mừng nhau. Trong khi Chu Ân Lai, Bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc
và đồng nghiệp Xô viết, ông Andrei Vishinsky trò chuyện với nhau, Stalin mồi
hết điếu thuốc nọ đến hết điếu thuốc kia, điếu thuốc nặng mùi mang hiệu
Herzegovina Flor (một loại thuốc lá Nga dài đặc biệt quấn giấy papyrosi mà ông
ưa thích). Sau đó ông đọc nhiều bài diễn văn chào mừng theo kiểu của ông. Trong
một bài, ông ca ngợi tính khiêm nhường và tinh thần đoàn kết của cấp lãnh đạo
Trung Quốc. Rồi, với vẻ đầy hăm doạ, ông nâng chén chúc mừng nhân dân Nam Tư,
mà ông hy vọng một ngày gần đây lấy lại chỗ đứng của mình trong gia đình các
nước Xã hội chủ nghĩa. Chỉ cách đó hai năm trước đây, Nam Tư đã bị khai trừ đưa
vào bóng tối do lệnh của Stalin, sau khi lãnh tụ Nam Tư đầy hấp lực Josip Broz
Tito đã từ chối khép mình theo phong hoá tôn vinh cá nhân lãnh tụ của điện Kremly và yêu cầu được thêm phần tự trị nhiều hơn nữa trong việc cai quản quốc gia
Balkan đa chủng trong khi Moscow không muốn như vậy. Chúng tôi, tại các nước
trung thành với đường lối của Xô viết, nhìn nước Nam Tư với lòng sợ hãi và kinh
ngạc lẫn lộn là Tito đã cả gan thách thức ý nguyện của Stalin.
Chúng tôi nuốt từng lời của các vị lãnh đạo Xô viết một cách
kính cẩn. Đối với tôi, cũng như đối với tất cả các quan khách có mặt trong buổi
tiếp tân, Stalin và Mao không phải là những người phàm tục. Họ là đền đài của
lịch sử. Tôi không hề nghĩ đến viễn tượng Trung Hoa - Xô viết sẽ rạn nứt, nhưng
tôi nhớ rõ một điều đáng chú ý họ Mao không hề nói một câu nào suốt đêm đó. Tôi
tự hỏi có phải đây là chỉ dấu tinh thần hội nhập nổi tiếng của người Trung Hoa.
Không phải tất cả biến cố trong hai năm trong ngành ngoại
giao đều để lại ấn tượng mạnh mẽ trong trí óc của tôi. Trong một cuộc tiếp tân
kỷ niệm hai năm thành lập nước Đông Đức, việc tranh chấp không liên quan gì đến
vấn đề rạn nứt trong liên minh hoặc về một quốc gia Cộng sản phản động, nhưng
lại liên quan đến y phục phải mặc hôm đó. Như thường lệ, các nhân viên ngoại
giao trẻ bàn luận với ông trưởng phái đoàn, vị này muốn chúng tôi mặc y phục
tiếp tân ban ngày áo đuôi tôm để đánh dấu vẻ trọng thể của ngày lễ. Vì không có
áo đuôi tôm, chúng tôi chọn y phục thượng khách. Cuối cùng chúng tôi đi đến thoả
thuận mặc y phục thực khách mầu đậm với cà-vạt đen. Tuy nhiên vào thời buổi đó
chỉ có những nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước Cộng hoà Dân chủ Đức, và đa
số, họ phủ nhận cà-vạt đen cho rằng đó là trang sức của bọn tiểu tư sản. Với
tất cả danh tiếng sau này của chúng tôi là nô bộc Cộng sản ngoan ngoãn nghe
lệnh, nước Cộng hoà Dân chủ Đức rõ ràng vẫn mang ấn dấu của quá khứ Phổ trong
những năm phôi thai. Chúng tôi bối rối cực độ vì những người duy nhất tham dự
mặc y phục như chúng tôi là những người hầu bàn. Khi ông Nikolai Krutitsky,
Giám mục Chính thống giáo Kinh Thành của tất cả tín đồ Nga, đứng dậy để từ giã
và tôi xã giao tiễn ông đến phòng mắc áo, ông lục lọi một lúc trong áo choàng
nặng nề của ông để rồi móc ra ba rúp và trao cho tôi một cách trịnh trọng để
làm quà.
***
Tháng 8-1951, tôi nhận văn thư khẩn cấp kêu tôi trở về Đông Berlin để gặp Anton
Ackermann - tên thật là Eugen Hanisch - Bộ trưởng ngoại giao Đông Đức và cũng
là một chiến lược gia lãnh đạo trong Bộ Chính trị. Ông chào đón tôi tại Bộ Ngoại
giao ban sáng, thăm hỏi sức khỏe của tôi và dặn tôi sau bữa ăn trưa cùng ngày
đến một căn phòng nào đó trong dinh thự vĩ đại của Trung ương Đảng. Tôi cảm
thấy có gì bí mật - cho đến khi đến nơi gặp gỡ để rồi cũng gặp lại đồng chí
Ackermann ngồi đằng sau một chiếc bàn khác, lần này trong chức vụ Uỷ viên Trung
ương Đảng. Cái trò vô lý này bày ra là do Ackermann nhất quyết bảo mật và thực
thi phân cách quyền hành giữa Đảng và Nhà nước, trên thực tế tỏ ra kịch cỡm.
Ackermann đã được giao phó công tác thành lập một cơ quan tình
báo chính trị, và tôi được chỉ định để làm việc này, chia sẻ trách nhiệm để
“soi sáng quốc gia tân lập”. Nói trắng ra, tôi trở thành gián điệp. Đây một lần
nữa là một mệnh lệnh, và theo thói thường lúc đó, tôi chẳng thắc mắc gì hoặc
thậm chí suy gẫm về quyết định này có ảnh hưởng gì đến cuộc đời của tôi. Đảng
đã cho tôi đi học trường Quốc tế Cộng sản. Đảng đã chỉ định tôi đi đến Moscow và đến trạm vô tuyên truyền thanh tại Berlin . Đảng đã phái tôi
đi đến Moscow để
làm nhân viên ngoại giao. Nếu Đảng nghĩ rằng tôi hữu ích trong ngành tình báo,
tôi cũng tuân lệnh. Tôi hãnh diện vì cấp lãnh đạo đã tin tưởng giao phó cho tôi
công tác mật. Tinh thần kỷ luật mù quáng là một điều khó hiểu nhất đối với các
quan sát viên phương Tây khi tìm hiểu hệ thống của chúng tôi, nhưng nếu không hiểu
được mãnh lực của Đảng trên tinh thần chúng tôi và phương pháp họ chỉ định công
tác cho thế hệ Cộng sản chúng tôi, thì không thể nào hiểu nổi, chưa nói đến
phán đoán về cuộc sống của chúng tôi.
Ngày 16 tháng 8-1951, tôi bắt đầu làm việc tại một cơ sở
hoàn toàn mới, Viện nghiên cứu khoa học kinh tế, một tên nguỵ trang cho cao ốc
nơi làm việc của hệ thống tình báo phôi thai của Đông Đức. Sự nghiệp mới của
tôi bắt đầu với cuộc diện kiến với Richard Stahlmann trên một chuyến xe limusine
Tatra to lớn có tám xy-lanh, rất sang trọng vào thời đó. Stahlman, mang trách
vụ thiết lập công tác cho chúng tôi, là một nhà cách mạng chuyên nghiệp và tôi
kính phục tác phong đường bệ của ông. Tên thật của ông là Artur Illner, nhưng
vì ông công tác quá lâu trong thế giới bí mật Cộng sản nên mọi người, kể cả vợ
ông, dùng bí danh của ông như tên thật của ông. Ông là thành viên của Đảng cộng
sản Đức từ năm 1918 và ông trở thành uỷ viên trong “Hội đồng quân sự” của Đảng
năm 1923. Như mọi thành viên cựu trào, ông ít khi nói về quá khứ với quá nhiều
bí ẩn. Tuy nhiên ông chia sẻ với tôi những mẩu chuyện về những công tác của ông
tại Liên Xô, Anh, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp, Thuỵ Điển và Hoa Kỳ. Ông nhận
lãnh tước hiệu bất hủ “Richard Kháng chiến quân” trong cuộc nội chiến tai Tây
Ban Nha và ông là bạn thân tín của Goergy Dimitrov, đảng viên cộng sản Bulgari
bị Quốc Xã tố cáo âm mưu đốt toà nhà Quốc hội. Stalhmann đi cùng với Dimitrov
khi mật vụ Gestapo đến bắt Dimitrov, nhưng cả hai đều giữ bình tĩnh, mặc dù bị
bắt và bị hạch hỏi một cách thô bạo. Sau này nhắc đến Stalhmann, Dimitrov luôn
gọi ông “con ngựa tốt nhất trong chuồng”, một tước hiệu giúp ông thăng tiến
trong giới lãnh đạo Đông Đức mới. Ông là người đầu tiên được tham khảo trong
mọi vấn đề, và mỗi khi có trở ngại trong việc thiết lập hệ thống tình báo, ông
đến gặp Thủ tướng Otto Grotewohl tại tư gia và các vấn đề nhanh chóng được giải
quyết. Thường các vấn đề liên quan đến tiền bạc và nguồn tài trợ. Chúng tôi đói
khát tiền bạc trong những năm đầu, và tiền mặt phải đợi đến cả tháng để đi qua
các cửa ngõ công quyền. Đôi khi Stalhmann đến gặp bộ trưởng tài chính và trở về
với cặp sách tay chứa đầy ghi chú. Khi Tiệp Khắc có nhã ý tặng hai mươi bốn
chiếc xe Tatra cho chính quyền Đông Đức, Stahlmann đã khéo léo chuyển nửa số xe
sang cơ quan còn nhỏ bé của chúng tôi, nhờ vậy khi chúng tôi hoạt động ngoài
phạm vi của cơ sở chật hẹp của chúng tôi, chúng tôi có thể di chuyển trong một
tư thế sang trọng. Stahlmann hiểu rõ những tiểu tiết này giúp nâng cao vị thế
của cơ quan đối với chính phủ, và những cơ quan nào cố gắng hoạt động trong
vòng eo hẹp thường gây chú ý hay bị cắt giảm ngân sách.
Lần đầu chúng tôi gặp gỡ tại Bohnsdorf, một ngoại ô phía
đông nam Berlin .
Chẳng ai nhớ rõ ngày họp mặt, và chúng tôi cũng chẳng ghi sổ sách, vì vậy chúng
tôi chọn ngày 1 tháng 9 năm 1951 là ngày thành lập cơ quan tình báo. Ngay sau
đó chúng tôi dời cơ quan đến một ngôi trường cũ trong khu vực Pankow của Đông
Berlin, sát cạnh khu bảo vệ nơi các cấp lãnh đạo Đảng và nhà nước cư ngụ - một
dấu hiệu chứng tỏ chúng tôi được nể trọng.
Lúc ban đầu chúng tôi chỉ có tám người và bốn cố vấn Xô viết,
trong số đó có một nhân viên điệp báo NKVD lão thành tự xưng mình là “Đồng chí
Grauer”. Andrei Grauer đã từng là sĩ quan tình báo của đại sứ quán Liên Xô tại Stockholm . Ông giàu kinh
nghiệm hoạt động và chúng tôi chăm chú và thán phục nghe những thành tích phát
hiện điệp viên nằm vùng, xâm nhập cơ quan và các nhân viên anh dũng. Chúng tôi
học hỏi nơi ông cách xây dựng hạ tầng cơ sở tình báo, biết phân nhiệm và tìm
đánh vào điểm yếu của địch thủ. Than ôi, sự nghiệp của ông kết thúc một cách
thảm não vài năm sau đó. Ông càng lúc càng trở nên đố kỵ vì ông méo mó nghề
nghiệp trong môi trường sinh hoạt thời Liên Xô của Stalin. Ông và Ackermann,
người lãnh đạo chính thức cơ quan tình báo, trở thành những kẻ thù gay gắt, và
Grauer luôn ám ảnh nghi ngờ Ackermann. Một thời gian sau Grauer bị triệu hồi về
Moscow . Sau này
tôi nghe các bạn trong ngành tình báo Xô viết xấu hổ thú nhận ông bị bệnh tâm
thần bách hại cuồng, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Tinh thần cảnh giác cao độ của
ông trước đây khiến ông trở nên một sĩ quan tình báo tinh nhuệ nay đã lôi kéo
ông đi.
Trong nội bộ chính quyền và đảng, tên nguỵ trang của cơ quan
của chúng tôi là Tổng Cục nghiên cứu kinh tế và khoa học (Hauptverwaltung für
Wirtchafts-Wissenschaftliche Forschung). Danh xưng này chẳng có gì là bí mật,
vì ngay cụm từ “Tổng cục” nhắc nhở cho mọi người biết những biệt môn của
Pervoye Glavnoye Upravleniye, “Tổng Cục Một” của KGB, phụ trách về các công tác
gián điệp. Năm 1956, cơ quan tình báo hải ngoại được đặt tên là Die
Hauptverwaltung Aufklärung - gọi tắt là HVA - có thể dịch là “Tổng Cục tình báo”.
Các cố vấn Xô viết của chúng tôi giữ một vai trò lớn, có thể
nói là bao trùm. Lúc đầu các cấp lãnh đạo ngành của chúng tôi soạn thảo tất cả
kế hoạch dưới sự kiểm soát của các cố vấn. Các vị này nhất mực theo phương pháp
cực kỳ hành chính của Xô viết, làm cho chúng tôi phải điên đầu. Ngoài việc sao
chép các điều lệ và các giấy tờ khác bằng tay, chúng tôi phải mất hàng giờ đóng
chúng gọn ghẽ thành tập, một thủ tục du nhập của công an mật vụ Nga Hoàng trước
thời Cách mạng. Không ai hiểu nguyên uỷ của thủ tục này, nhưng cũng chẳng có ai
đặt câu hỏi thắc mắc.
Cơ cấu tổ chức của cơ quan chúng tôi phản ánh trung thực mẫu
mực Xô viết. Những ngôn từ trong đường hướng chỉ đạo để lộ nét phiên dịch từ
tiếng Nga và vạch rõ những mục tiêu công tác tương lai của chúng tôi. Đó là thu
thập tình báo chính trị của nước Tây Đức và Tây Berlin; tình báo khoa học và kỹ
thuật trong lãnh vực vũ khí hạt nhân và hệ thống phân phối, về năng lượng hạt
nhân, hoá học, thiết kế điện lực và điện tử, hàng không và vũ khí quy ước, và
sau cùng nhưng không phải là cuối cùng, tinh báo về các đồng minh Tây Âu và
những tính toán của họ đối với nước Đức và Berlin.
Một chi nhánh nhỏ, độc lập của Tổng Cục tình báo, gọi là “phản
gián” (Abwehr) được thành lập để giám sát và xâm nhập các cơ quan tình báo Tây
Âu; nhưng nó xung đột trực tiếp với Bộ An ninh quốc gia, vì bộ này cũng có một
bộ phận giám sát tinh vi hơn. Ngay cả khi chúng tôi sát nhập vào Bộ này năm
1953, cuộc xung đột vẫn tiếp diễn và phản gián vẫn nằm dưới sự kiểm soát trực
tiếp của Bộ. Những cuộc chiến hành chính này khiến cho những tin tức bức thiết
liên quan đến những công tác trong ngay nội bộ của chúng tôi không đến tay
chúng tôi, đặc biệt những năm sau này khi các nhân viên phản gián bắt đầu làm
việc với bọn khủng bố hải ngoại.
Người ta thường hỏi tại sao Moscow lại thành lập một cơ quan do người Đức
chúng tôi điểu khiển để tranh đua với họ. Nhưng Stalin nhận định chính xác nước
Đức thời hậu chiến sẽ là một khu vực các cơ quan Nga khó mà xâm nhập, và một cơ
quan vững chắc của chính quốc gia đó như trong trường hợp cơ quan Đông Đức
trong khu vực của Xô viết sẽ tạo niềm hãnh diện cho chúng tôi và nhờ đó bảo vệ
quyền lợi của Xô viết. Thoạt tiên các cố vấn Xô viết nhận tất cả tin tức chúng
tôi có, ngay cả đến bí danh của các nguồn tin và các đơn vị cá nhân, mặc dù
chúng tôi bắt đầu bảo vệ nguồn tin và cung cấp cho các sĩ quan liên lạc Xô viết
những tin tức chọn lọc.
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là phụ tá điều nghiên cho Robert
Korb, một bạn đồng nghiệp cũ của tôi tại Radio Moscow. Korb hiểu biết sâu rộng
về chính trị và thấu hiểu các sự kiện, và trình độ hiểu biết của ông rất cao.
Tôi học hỏi rất nhiều nơi ông về những vấn đề không liên quan gì đến công tác
của chúng tôi, ví dụ như Islam, lịch sử khúc mắc của Israel và những xung đột
tôn giáo tại bán lục địa Ấn Độ. Ông là một chuyên gia điều nghiên sáng suốt;
ông dậy cho tôi biết phân tích các bản báo cáo tại địa bàn công tác một cách
lãnh đạm, và chúng tôi sớm đi đến kết luận việc duyệt đọc kỹ lưỡng báo chí
thường đem lại kết quả hữu hiệu hơn là các báo cáo mật của điệp viên, và các
chuyên viên điều nghiên phải biết rút tỉa kết luận từ nhiều nguồn tin khác nhau
để có thể thẩm định các thông tin tình báo. Từ đó nhận định này luôn là hành
trang cùng đi với tôi.
Korb, trong cung cách cũng như trong suy nghĩ cá biệt của
ông, có thể gợi sự chú ý của cử toạ với óc tinh tế và lời lẽ mỉa mại ông thường
biểu lộ khi ông trình bày vấn đề trước các bậc trưởng thượng. Vì tôi chia sẻ
tính bất nể phục này nên chúng tôi có nhiều điểm giống nhau. Mặc dù chúng tôi
là những bày tôi trung kiên của nhà nước, chúng tôi cố gắng giữ khoảng cách với
tinh thần tận tuỵ quá đáng của các cấp lãnh đạo chính trị trong việc truyền bá chủ
nghĩa.
Cơ quan chúng tôi phát triển nhanh chóng và chúng tôi lại di
chuyển từ khu Berlin - Pankow đến một cao ốc
lớn hơn trong khu vực Rolandufer tại trung tâm Đông Berlin . Tôi sớm được thăng chức phụ tá giám
đốc cơ quan tình báo hải ngoại vừa mới thành lập bên cạnh ông Gustav Szinda,
một người có hàng chục năm kinh nghiệm trong các công tác mật tại Tây Ban Nha
và các nơi khác cho tình báo Xô viết.
Không may cho cả hai chúng tôi, ông Szinda và tôi không ai
biết cách thức khởi sự đối phó với tình báo Tây Đức ra sao; một cơ quan vừa
được thành lập từ sự sụp đổ của chế độ Quốc Xã không hề bị một thiệt hại nào.
Các cấp lãnh đạo tình báo phục vụ cho Hitler nay làm việc với các chủ nhân mới tại
một cái làng nhỏ, bao trùm nhiều bí mật của vùng Bavaria gọi là Pullach. Chúng tôi phải tìm
kiếm tên của ngôi làng trên bản đồ khi tên làng này xuất hiện trên báo chí. Đây
là một thế giới xa lạ với chúng tôi và hầu như chúng tôi không với tới được,
mặc dù với thời gian, chúng tôi rất quen thuộc với lề lối làm việc của họ.
Tôi được biết đến danh tính của Tướng Reinhard Gehlen, cấp
lãnh đạo đấu tiên của tình báo Tây Đức, trên trang nhất của tờ Daily Express tại London; tờ nay ghi rõ Tướng của Hitler làm gián điệp trở lại - lần
này với dollars.
Sefton Delmer, một ký giả được biết có liên lạc với tình báo
Anh, đã viết hàng tựa này; vào thời kỳ chiến tranh, ông phụ trách phản gián Anh
tại đài phát thanh Soldatensender Calais. Bản tin của Delmer gây phẫn nộ. Nó
không những tiết lộ hệ thống tình báo cũ của Quốc Xã vẫn còn nguyên vẹn, mà còn
cho biết cơ quan tình báo mới của Cộng hoà Liên bang chứa chấp nhiều cựu sĩ
quan SS và chuyên viên an ninh quân đội đã hoạt động dưới thời Hitler tại Pháp
và nhiều nơi khác. Chính Gehlen đã từng chỉ huy đơn vị điệp báo quân đội của
Quốc Xã chống lại Hồng quân. Nhờ Cơ quan của Gehlen, sau này được biết, Hoa Kỳ
tiếp cận với tất cả các đường dây hệ thống tình báo cũ của Quốc Xã; Hoa Kỳ ra
lệnh cho giới tình báo Tây Đức cũng giống như Nga ra lệnh cho khối Đông Âu.
Cũng có tin đồn Tướng George S. Patton Jr. bao che cho một
số sĩ quan cao cấp của Đức. Tôi lo âu nhận thức mục tiêu để đạt đến một châu Âu
hoà bình toàn diện khó lòng thành tựu. Dây khoá mõm đã được cài đặt ở cả hai
phía. Viễn ảnh hoà bình với bao nhiêu hy sinh vừa qua rất mong manh. Châu Âu bị
chia cắt và đường chia cắt nằm ngay trên nước Đức.
Thủ tướng Tây Đức Konrad Adenauer dốc toàn lực ủng hộ “chính
sách mạnh” của Hoa Kỳ và chiến lược đẩy lui chủ nghĩa công sản do John Foster
Dulles đề xướng; người em tên Allen Dulles chính là giám đốc Cơ quan Tình báo
Hoa Kỳ (CIA).
Liên Xô đã giúp các nước Tây Âu đặt được hoà bình; nay Washington
đang chuẩn bị huy động tất cả sức mạnh chính trị, tình báo, kinh tế và, nếu
cần, sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và đồng minh để phản công. Gehlen nhận biết
lần xung đột mới này là cơ hội cho đương sự tạo ảnh hưởng trực tiếp lên đường
hướng chính trị. Ông gặp gỡ Adenauer trước khi Tây Đức thu hồi cơ quan tình báo
khỏi tay CIA và ông được hỗ trợ và có quyền lực rất lớn. Điều này có nghĩa ông
kiểm soát và dùng những hồ sơ để đánh các đối thủ chính trị trong nước, trong đó
có đảng Dân chủ Xã hội đối lập với chính quyền Dân chủ Thiên Chúa giáo tại Quốc
hội. Trong quân đội và các cơ quan hành chính Tây Đức, các bày tôi trung kiên
của Đệ Tam Quốc Xã một lần nữa giữ những địa vị then chốt, và các cựu sĩ quan
Quốc Xã chỉ huy tổ chức của Gehlen.
Tên của Hans Globke, một trong những cố vấn thân tín của
Adenauer và là Đổng lý Văn phòng của Thủ tướng, đồng nghĩa với phương thức xâm
nhập này. Là một cựu viên chức cao cấp trong Bộ Nội vụ của Hitler, Globke là
tác giả của bài bình luận nặng cân về luật phân biệt chủng tộc Nuremberg nhằm
hợp thức hoá việc phận biệt bằng võ lực và đưa đến “Giải pháp cuối cùng” của
Quốc Xã. Globke làm đổng lý văn phòng cho Adenauer trong vòng mười năm.
Trong bầu không khí sôi động này, thành phố Berlin vào thập
niên 1950 thừa kế Vienna trở nên trung tâm điệp báo châu Âu. Có khoảng tám mươi
cơ quan điệp báo cùng với nhiều ngành khác và tổ chức nguỵ trang hoạt động tại thủ
đô này. Tại các văn phòng nguỵ trang của Hoa Kỳ và của Nga được che đậy qua
bình phong đủ các thứ hãng, từ công ty sửa ống nước và xuất khẩu mứt cho đến
những viện hàn lâm và các cơ quan nghiên cứu, có cả một đội ngũ sĩ quan chuyên
kết nạp và điều khiển các điệp viên của mình và những điệp viên này có thể di
chuyển dễ dàng trong những khu vực Berlin và cả hai phần của nước Đức vào những
ngày trước khi Bức tường, chia cắt thành phố và đất nước Đức, được xây dựng vào
năm 1961.
Đây cũng là lúc trước khi phép lạ kinh tế Tây Đức bắt đầu và
do đó cũng là thời buổi thiếu thốn và tan tác kinh tế. Hứa hẹn cung cấp thực
phẩm hoặc được thăng tiến xã hội đã khiến thiên hạ đi vào con đường điệp báo.
Nhưng trong khi chính quyền Tây Đức có thể dễ dàng trông cậy vào nguồn tài
chính, chúng tôi vẫn hoạt động trong cảnh nghèo nàn và phải theo đuổi một lối
tiếp cận có tính cách ý thức hệ hơn. Nhiểu điệp viên nằm vùng của chúng tôi tại
Tây Đức, đặc biệt trong môi trường chính trị và kỹ nghệ, không phải là Cộng sản
nhưng họ làm việc cho chúng tôi vì họ muốn khuất phục tình trạng chia đôi nước
Đức và nghĩ rằng chính sách của các Đồng minh Tây Âu đang củng cố nó. Sau này
chúng tôi mất một số điệp viên như vậy khi Bức tường được xây và cho họ thấy
biểu tượng của nước Đức chia hai theo nghĩa đen đã được xây dựng bằng bê-tông.
Những chi tiết nhỏ nhặt trong việc xây dựng một cơ quan tình
báo hoàn toàn mới chiếm hầu hết thời gian của tôi. Tôi chú ý đến các nước
phương Tây và tôi cố gắng làm quen với những chuyển biến chính trị tại Hoa Kỳ
và tại Tây Âu và tôi theo dõi sát những tiến triển trong ngành tình báo hậu
chiến.
Chúng tôi phải thu thập những nguồn tin mới tại các trung
tâm chính trị, quân sự, kinh tế và khoa học kỹ thuật của phía bên kia. Điều này
nói dễ hơn là làm, vì những đòi hỏi an ninh trong chính guồng máy của chúng
tôi, do tình báo Xô viết áp đặt, rất là gắt gao. Cả ngàn thí sinh được gửi gắm
đến phải được sàng lọc để có được một nhúm nhỏ khả dĩ chấp nhận được. Những ai
có thân nhân ở Tây Âu đều bị loại bỏ, cũng như những người trải qua những năm
tháng chiến tranh làm người tị nạn hoặc là tù binh chiến tranh ở Tây Âu. Trái
ngược với những lời đồn đại cho đến nay vẫn còn, chúng tôi không có ý dùng
những cựu đảng viên Quốc Xã trong bộ máy của chúng tôi và chúng tôi kiêu hãnh
có đạo đức hơn Tây Đức về mặt này.
Chúng tôi tiếp cận một số hồ sơ đảng viên Quốc Xã của Đệ Tam
Đức Quốc và chúng tôi dùng những hồ sơ này để thuyết phục những người Tây Đức
đã xoá bỏ quá khứ cộng tác với Quốc Xã về cộng tác với chúng tôi. Nhiều người
khác tình nguyện làm việc cho chúng tôi và họ cho đó là một loại đền bù tinh
thần cho những tổn hại họ đã gây ra trong quá khứ. Thoạt nhìn phong thái này có
vẻ tử tế. Lý do thực sự là họ muốn được an toàn và bảo vệ sự nghiệp mới của họ
ở Tây Đức để tránh không bị chúng tôi lật tẩy sau này. Theo ngôn từ Đức, chúng
tôi gọi là Rückversicherung, có nghĩa nguyên văn là “tái bảo hiểm” cho quá khứ.
Nhờ Đảng cộng sản Tây Đức chúng tôi thừa hưởng được sự cộng tác của một chính
trị gia trong Đảng Dân chủ Tự do tên là Lothar Weihrauch (sau này làm việc
trong Bộ Xử Lý Các Vấn Đề Chung Nước Đức của Tây Đức), người này cung cấp cho
chúng tôi rất nhiều tin tức chính trị cho đến khi chúng tôi khám phá đương sự
đã phạm những tội ác chiến tranh khi đương sự giữ một chức vụ quan trọng vào
thời kỳ Đức chiếm đóng Ba Lan. Chúng tôi cắt đứt liên lạc với y. Chúng tôi cũng
đã kết nạp một cựu đảng viên Quốc Xã, trước đây là một đội viên xung kích, mang
bí danh là Moritz. Người này đã giúp chúng tôi trong cuộc đấu tranh chính trị
chống lại sự thành lập của Cộng đồng Quốc phòng châu Âu (cuối cùng đã bị ngăn
chặn vì tinh thần chủ nghĩa quốc gia của nước Pháp chứ không phải vì cơ quan tình
báo chúng tôi phá vỡ dự án thành lập).
Quá khứ là một vũ khí lợi hại trong ngành tình báo và cả hai
bên không ngần ngại dùng nó để hăm doạ. Đúng vào lúc chúng tôi tìm phương kế để
hạ bệ những chính trị gia hoặc những khuôn mặt kỳ cựu có ý đánh phá chúng tôi
bằng cách tiết lộ sự đồng loã của họ với Quốc Xã, một tổ chức chống Cộng tên là
Uỷ ban luật sư Tự do Tây Berlin do các luật gia trốn chạy khỏi Đông Đức thành lập,
cho xuất bản một quyển sách nhỏ ghi tên những công chức Đông Đức đã tìm cách
gia nhập đảng Quốc Xã. Nhưng vì phần đông các sĩ quan tình báo cao cấp và cấp
lãnh đạo chính trị của chúng tôi đều sống lưu vong hoặc ẩn núp vào thời Đệ Tam
Quốc, chúng tôi ở Đông Đức chúng tôi đã thắng trong chiến trận tuyên truyền
này.
Một vài thành phần Quốc Xã tìm cách chuyển hướng sang phía
chúng tôi bằng cách che giấu quá khứ. Không bao lâu sau khi tôi bắt tay vào
việc, một nhân viên trẻ trong đội đến gặp tôi và nói với tinh thần vô cùng
hoang mang anh để ý thấy một người làm việc tại ban thẩm vấn trên cánh tay có
xâm huy hiệu SS. Ban thẩm vấn là ban thô bạo nhất ở trong Bộ, và tôi không muốn
mang tai tiếng vì có những tay côn đồ này làm việc tại đây. Tôi mường tượng một
kẻ nào đó ưa thích những việc làm như vậy ở chế độ trước lại cảm thấy an nhiên
tự tại ở đây. Chúng tôi lặng lẽ thuyên chuyển y khỏi vị trí này.
Những màn hăm doạ đang diễn ra là một trò bẩn thỉu và tác
hại nhưng cả hai bên đều dùng nó. Một vài thành phần Quốc Xã cũ ở Tây Đức giúp
việc cho chúng tôi vì có lòng hối cải, một vài kẻ khác vì tiền, hoặc để phòng
bị không bị lộ là người cộng tác với chế độ Quốc Xã. Xô viết có nhiều cơ hội để hăm doạ hơn vì họ nắm giữ những hồ sơ của Quốc Xã, và sai khiến những người này
chẳng hạn như cựu chiến binh SS Heinz Felfe, đã từng giữ chức vụ
Obersturmführer (tương đương với cấp Trung uý – Người dịch) trong tổ chức tình
báo Quốc Xã, Cơ quan An ninh quốc gia (Reichssicherheitshauptamt), và làm việc
với Tổ chức của Gehlen thời hậu chiến. Felfe đã trở thành gián điệp nhị trùng
của Xô viết, tiết lộ tất cả những thành quả của cơ quan tình báo Tây Đức cho
Moscow và đã gây thiệt hại không thua những gián điệp nhị trùng có tầm cỡ như
Kim Philby, George Blake và Aldrich Ames.
***
Một trong những cơ hội đầu tiên của chúng tôi để xâm nhập
các cơ quan của Đồng minh là nhờ vào tình báo Đảng cộng sản ở Đức. Vào thế kỷ
thứ mười chín phong trào Dân chủ Xã hội Đức đã tổ chức những nhóm bí mật để đối
phó với sự đàn áp của Kaiser. Đảng cộng sản Đức (Kommunische Partei Deutsclands
hoặc gọi tắt là KPD) đã được tôi luyện bởi những đối xử hà khắc thô bạo của
chính quyền (lịch sử khởi đầu của họ đã ghi khắc việc tàn sát những đảng viên
Spartacist Rosa Luxemburg và Karl Liebnecht), bắt chước các đảng viên Dân chủ Xã
hội bằng cách phát triển hệ thống tình báo riêng của họ. Cơ cấu này đã tạo mối
liên hệ chặt chẽ với cấp lãnh đạo của Comintern tại Moscow và các cơ quan tình báo tại đây.
Đầu não đứng sau hệ thống tình báo của Đảng vào thế kỷ thứ
hai mươi là Ernst Schneller, bị ám sát năm 1944 do lệnh của Hitler, và Hans
Kippenberger, mà sau này được biết là bị giết năm 1937 do lệnh của Stalin. Hệ
thống này, chuyên thu thập những tin tức khoa học kỹ thuật và quân sự để chuyển
cho Liên Xô, là nguồn cung cấp tin tức, vào thời Hitler cầm quyền, cho hệ thống
tình báo danh tiếng Rote Kapelle - tiếng Anh gọi là “Dàn hoà tấu Đỏ”.
Dàn hoà tấu Đỏ là một trong những tổ chức kháng chiến lớn
nhất. Một vài thành viên trong đó là Cộng sản, và một phần ít ỏi là những nhân
viên của các cơ quan tình báo Xô viết (NKVD và GRU, Quân báo).
Thử thách đầu tiên tôi phải đương đầu là kiểm nghiệm năng
lực xây dựng một hệ thống tình báo Cộng sản mới. Tôi sớm biết hệ thống mới đặt
trên con đường hệ thống cũ không thể nào tin tưởng được. Đặc biệt người Anh đã
khéo đánh tráo một số những đảng viên cộng sản trước đây là những tù binh chiến
tranh. Họ cũng đã vô cùng thành công trong việc đánh tráo một vài người Cộng
sản di dân thời chiến cũng như nhiều điệp viên mới trẻ của hệ thống tình báo
mới thành lập này.
Một ví dụ điển hình để thấy hệ thống mới này đã bị lũng đoạn
là trường hợp của Merkur, tên thật là Hans Joachim Schlomm. Tôi được biết đến
đương sự trong lúc kiểm soát trong núi hồ sơ, phần đông chưa được đối chiếu, để
tìm những đầu mối trong những cơ quan tình báo của phương Tây. Tôi nghiên cứu
những hồ sơ cho biết đương sự có liên hệ với phản gián Tây Đức, được mệnh danh
là Văn phòng Bảo vệ Hiến pháp (Bundesamt für Verfassungsschutz, BfV), đặt trụ
sở tại Cologne .
Đương sự cũng có nhiều mối liên hệ với giới hoạt động chính trị tại Bonn . Những báo cáo của
đương sự về cho Đảng gây ấn tượng mạnh vì có nhiều chi tiết, đa dạng và sâu
sắc, trong đó có cả những thông tin nội bộ của các đảng phái chính trị trong quốc
hội Tây Đức, những hồ sơ mật của bộ ngoại giao và các bộ khác. Trên bề mặt,
đương sự có vẻ như là một nguôn tin lý tưởng, vì vậy tôi phái người đi tìm
đương sự ở Schleswig -Holstein, theo như hồ sơ cho biết chỗ ở của đương sự.
Merkur nói rằng y đã kiên nhẫn chờ đợi cú điện thoại của chúng tôi và không
chút ngần ngại chấp nhận lời mời để đến Berlin .
Đương sự là điệp viên đầu tiên của tôi.
Đương sự đến nhà an toàn đúng giờ hẹn tại một biệt thư ở
ngoại ô Berlin .
Dáng người cao ốm, độ trạc ba mươi tuổi, đương sự có vẻ thích hợp với nghề
nghiệp của mình, nghề của một kỹ sư điện. Đương sự giải thích đương sự đã cộng
tác với Đảng cộng sản khi còn là sinh viên ở đại học Hamburg ,
làm việc cho cơ quan tình báo của Đảng, và theo lệnh đảng đã gia nhập tổ chức thanh
niên cánh hữu, cuối cùng đến làm thư ký cho bác sĩ Fritz Dorls tại Bonn . Rồi tôi hỏi đương sự
khá lâu, nhưng có nhiều điều lạ; những câu trả lời của y về những người y nói y
quen biết không phù hợp với những lời ghi trong hồ sơ. Chúng tôi đưa y trở về
Tây Berlin và
mời y đến lại ngày hôm sau. Tôi lại giở xem những hồ sơ của y.
Khi y trở lại, tôi đóng vai trò người trí thức và Szinda, kẻ
thô bạo. “Đủ rồi, đồ khốn nạn”, Szinda nói để báo hiệu là không còn đủ kiên
nhẫn với anh điệp viên tiềm năng này. Khi những mâu thuẫn trong những lời khai
man của y bị lột trần, Merkur cuối cùng nhận là đầu năm 1948 y đã được tình báo
Anh cài vào tổ chức tình báo Cộng sản, hiện nay y vẫn tiếp tục làm việc cho họ
và những hồ sơ y cung cấp là những hồ sơ do họ cài đặt.
Cuộc điều tra được giao phó cho Erich Mielke, người số hai
làm việc tại Bộ Công an (được thành lập vào ngày 8-2-1950) và là cấp lãnh đạo tại
đây, vốn nghi ngờ cơ quan của chúng tôi vì ông nghĩ nó cạnh tranh với bộ của
ông. Ông này là một tay Stalinnít kỳ cựu thô bạo và không mấy ưa thích Szinda
từ những ngày còn là đồng chí thời Nội chiến Tây Ban Nha, và ông cũng chẳng ưa
gì tôi. Mielke bắt giam Merkur vì tội gián điệp nhị trùng và đem ra xử án, kết
quả là án lệnh chín năm tù giam.
Trường hợp của Merkur gây báo động không những ở phương Tây
mà ngay cả trong cơ quan của chúng tôi. Chúng tôi kết luận từ những cuộc thẩm
vấn và lời khai của y là y biết quá nhiều về tổ chức tình báo của Đảng cộng sản
và những mối liên hệ của tổ chức này với các tổ chức khác, nhiều hơn mức độ của
điệp viên nguỵ trang. Ở thời điểm này chúng tôi nhận thức là chúng tôi phải
kiểm tra lại tất cả mọi người trong các nhóm tình báo Cộng sản bí mật, mà tổng
số lên đến từ bốn mươi đến năm mươi người. Giống như để kết hợp những mẩu hình
ghép, tôi bắt đầu hỏi những sĩ quan giao liên và những người chuyển thư
đã được gửi sang Tây Đức từ nước CHDC Đức, để cho những mối nghi ngờ không bị
đánh điện đi cho chính các điệp viên. Những gì họ nói cho tôi biết về những vi
phạm nguyên tắc trong công tác bí mật làm cho tôi nghi ngờ có nguy cơ bị xâm
nhập.
Do đó tôi ngồi vào bàn và bắt đầu vẽ một sơ đồ những mối
liên lạc ngang và chéo trong những hệ thống tình báo hiện có, nó giống như một
màng nhện khổng lồ. Với kỹ năng của một kỹ sư hàng không kinh nghiệm, tôi thảo
cái mà tôi gọi là “màng nhện” trên một trang giấy. Trên sơ đồ tôi liên kết tất
cả các thư tín viên, các nhà an toàn, và những điều tương tự. Tôi tô màu đỏ
những điệp viên tình nghi là nhị trùng, màu xanh dương những nguồn tin và màu
xanh lá cây các điệp viên thường trú. Những đường vẽ và những ô vuông cũng ghi
dấu những trường hợp đáng nghi hoặc những mối liên lạc đáng nghi với tổ chức
địch. Đối với những người không hiểu biết, sơ đồ chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng
đối với tôi, nó bắt đầu làm rõ nét khả năng khai triển và đào sâu công tác của
chúng tôi. Có được một hình ảnh rõ rệt để tìm hiểu cơ quan này đã bị xâm nhập
sâu đậm như thế nào là một điều cần thiết.
Tôi cuối cùng kết luận là nếu các cơ quan tình báo phương
Tây muốn, họ có thể tiêu diệt toàn bộ hệ thống này. Trên mặt thực tế, họ chưa
chắc đã khôn ngoan hoặc hữu hiệu như vậy, nhưng nguy cơ vẫn còn đó, đặc biệt
đối với Đảng cộng sản nếu hệ thống tình báo cũ bị cài ngược hoặc bị bại lộ. Vì
vậy tôi quyết định tốt hơn hết là giải tán hệ thống này và bỏ rơi những mối
liên hệ với điệp viên Cộng sản ở Tây Đức.
Sơ đồ màng nhện của tôi được cuộn lại và kẹp dưới nách, tôi
xin hẹn gặp Walter Ulbricht, là người phụ trách về tất cả các cơ quan tình báo
vào lúc đó. Tôi nhấn mạnh về tính cách bí mật tuyệt đối về những gì tôi báo cáo
cho ông. Thay vì gọi tôi vào văn phòng của ông, ông mời tôi đến nhà ông ở khu
Pankow, nơi mà người Đông Đức không thích mấy và họ gọi là “thành phố nhỏ”.
Những căn phòng của nhà lãnh đạo cho thấy sở thích của một anh thợ mộc chuyên
nghiệp ưa chuộng những đồ đạc rắn rỏi của giới trung lưu, có trạm trổ.
Tôi trải sơ đồ lên trên bàn ăn của ông Ulbricht và trình bày
những khám phá của tôi trong từng chi tiết. Với sự đồng ý của Ackermann, tôi đã
nói chuyện trước khi tôi đến đây, tôi quyết định cắt đứt tất cả mối liên lạc
với hệ thống tình báo Cộng sản tại Tây Đức và loại tất cả những điệp viên có ít
nhiều dính líu đến nó. Sự kiên chính quyền Tây Đức đã chuẩn bị đặt Đảng cộng
sản ra ngoài vòng pháp luật - cuối cùng việc này bị xét là vi hiến vào năm 1956
- giữ một vai trò quan trọng trong những tính toán của chúng tôi. Ulbricht chấp
nhận lời đề nghị của tôi, và từ đó trở đi Đảng cộng sản Quốc gia Đức ở Tây Đức
là vùng cấm địa của cơ quan chúng tôi, cũng như tổ chức kế tục Đảng cộng sản
Đức được thành lập trở lại năm 1968 vào thời buổi tư do hơn.
Năm 1952 chúng tôi triệu hồi tất cả điệp viên về, ngay cả
những người Cộng sản trung kiên nhất cũng bị cô lập trong một loại “giam biệt
thự” và bị tra khảo gắt gao. Thiên hạ thường hỏi chúng tôi dùng phương pháp gì
trong những trường hợp như vậy. Đây là một loại áp lực tâm lý trên những người
đàn ông và đàn bà đã gắn liền căn cước và lòng tự trọng bản thân với tinh thần
liên thuộc vào một nhóm cùng chung một lý tưởng. Khi thình lình lòng tín nhiệm
này không còn nữa, áp lực tâm lý trở nên gay gắt hơn. Ở đây không cần phải đe
doạ hoặc trình lệnh để bắt họ. Nói chuyện với họ và coi họ như những kẻ tình
nghi và giám sát những lời khai của họ cũng đủ để cho chúng tôi biết là họ vô
tội và chúng tôi không thấy một điệp viên nhị trùng nào khác. Lẽ cố nhiên, vấn
đề cài đặt họ lại ở phương Tây không được đặt ra. Họ được cảnh báo không nên
tiết lộ những gì đã xảy ra. Tất cả mọi người đều giữ lời hứa đúng như tư cách
của những đồng chí tốt.
Có một vài người đã có chiến công hiển hách chống lại Quốc
Xã. Một người đã từng ở chung trại với cha tôi ở bên Pháp; chúng tôi cô lập
đương sự trong một căn phòng trong nhiều tuần và sau đó đánh tan mọi nghi ngờ
đối với đương sự.
Năm 1956, sau khi Khrushchev đọc bài Báo cáo mật trong Đại
hội Đảng lần thứ XX, chúng tôi phục hồi danh dự cho phần lớn những đồng chí đã
bị triệu hồi này, trao cho họ huy chương và huân chương. Bruno Haid, đã từng
chiến đấu với kháng chiến Pháp thời chiến và đã bị triệu hồi và phái đến một cơ
xưởng tại Karl-Marx-Stadt để làm một công chức nhỏ và sau đó được phong chức
phó uỷ viên công tố của nước CHDC Đức. Ông tố cáo tôi đã dùng những phương pháp
thô bạo gợi lại việc Lavrenti Beria, Tổng giám đốc mật vụ của Stalin, phá vỡ hệ
thống của Đảng - điều tôi không làm - nhưng cuối cùng, nếu không muốn nói là
miễn cưỡng, ông chấp nhận quan điểm của tôi khi ông được biết trường hợp của
gián điệp nhị trùng Merkur.