Trần Trung Đạo: Lãnh đạo CSVN trong quan hệ Mỹ Trung
-"Chơi với ai, hãy để người Việt Nam quyết định"
(GDVN) - Việt Nam không thể đòi hỏi Nga "lựa chọn" mình hay Trung Quốc thì Moscow cũng không thể đặt vấn đề Việt Nam hãy lựa chọn giữa Nga và Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Vladimir Mazyrin - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Nghiên cứu Viễn Đông ngày 14/7 bình luận trên tạp chí Nezavisimaya Gazeta: Việc Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu của Việt Nam khiến Moscow nhận ra thách thức nghiêm trọng đối với các nỗ lực của Nga để bảo tồn và phát huy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam.
Người Mỹ đang tận dụng lợi thế của thế giới đơn cực và khả năng chi phối hệ thống tài chính quốc tế, cũng như sự suy yếu ảnh hưởng của Nga với Việt Nam để thực hiện "khát vọng giấc mơ Mỹ" của hàng triệu người Việt.
Dù kết quả thăm dò dư luận của Trung tâm Nghiên cứu Pew (đề cập trong phần 1:Học giả Nga: Mỹ đã trở thành một "mô hình" cho Việt Nam) là khách quan, nó cũng không làm sai lệch mong muốn của người dân Việt Nam đối với nền độc lập của mình.
Việc "dựa vào Hoa Kỳ" có đảm bảo cho Việt Nam giữ được nền độc lập hay không, hãy để bản thân mỗi người Việt tự trả lời, Tiến sĩ Vladimir Mazyrin bình luận. Ông lưu ý, một người bạn thật sự là người không quên vấn đề của mình, giúp đỡ bạn bè đối tác bảo vệ lợi ích quốc gia thực sự của họ thay vì áp đặt các quan điểm và hệ giá trị của mình cho đối tác thông qua vũ lực hay gian lận.
Bình luận trên tờ The Diplomat ngày 14/7, Tiến sĩ Anton Tsvetov từ Hội đồng Quan hệ quốc tế Nga (RIAC) cho rằng, trong khi Trung Quốc không bao giờ bỏ lỡ bất kỳ phân tích nào về quan hệ Mỹ - Việt thì dường như Nga thường bỏ qua điều này dẫn đến sự thất vọng của giới quan sát châu Á tại Nga. Tuy nhiên theo ông điều này không hẳn chính xác, bởi lẽ Việt - Mỹ mới chỉ là quan hệ đối tác "toàn diện" chứ chưa phải "chiến lược", đặc trưng quan trọng gắn với quan hệ Việt - Nga.
"Truyền thống" là một tính từ phổ biến tại Việt Nam khi nói về quan hệ Việt - Nga. Nhưng có ít điều để làm trong chính sách đối thoại thực tế mà Việt Nam đang theo đuổi. Do đó sẽ hữu ích hơn để Moscow suy nghĩ xem những gì có thể làm cho Việt Nam mà Hoa Kỳ không thể. Ông cho rằng, việc đầu tiên Nga có thể làm là việc bán vũ khí cho Việt Nam.
Người dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, rất quan tâm đến vận nước nhưng đa số sống trong tâm trạng chờ đợi. Chờ đợi người yêu nước và nhiều khi cũng chờ đợi cả kẻ bán nước. Chờ đợi đồng minh và chờ đợi luôn kẻ thù. Mỗi tin tức chính trị là cơ hội để những người chờ đợi bàn thảo, suy diễn theo ước muốn và quan điểm chủ quan của mình. Chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng gây nhiều bàn thảo trước khi y đi, phân tích khi y đến, dự đoán những gì sẽ xảy ra sau khi y về.
Nhưng rồi, cũng như bao nhiêu chuyến đi trước của các lãnh đạo CS, sẽ không có gì thay đổi cả. Ngoài Biển Đông, máu của ngư dân Việt Nam đã đổ và sẽ tiếp tục đổ. Trong lòng biển, nguồn dầu khí Việt Nam ngày càng bị vét cạn. Trên đất liền, tài nguyên thiên nhiên bị Trung Cộng khai thác sẽ còn tiếp tục bị khai thác. Chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng không tạo ra nên một thay đổi cấp bách và tức khắc nào trong bang giao Việt Mỹ và Việt Trung bởi vì thay đổi mang tính cách mạng không phải là mục đích của y.
Mục đích chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng
Một số nhà phân tích cho rằng sự kiện Trung Cộng vào ngày 1 tháng 5, 2014 đã đưa giàn khoan HD-981 đến cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa chỉ 17 hải lý và cách đảo Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi 120 hải lý trong khi cách đảo Hải Nam đến 180 hải lý, là điểm vượt giới hạn (tipping point) mà CSVN có thể chấp nhận. Hành động bành trướng một cách lộ liễu của Trung Cộng ít nhiều đã làm cho khuynh hướng chống Tàu gia tăng trong nội bộ lãnh đạo CSVN. Trung Cộng khôn ngoan tạm thời dời giàn khoan để làm dịu tình hình.
Giả thiết Trung Cộng nhận ra và dừng lại tại điểm vượt giới hạn, rồi những gì xảy ra trước sự kiện HD-981, hàng trăm vi phạm trắng trợn luật quốc tế, nghiêm cấm đánh cá, húc đụng tàu bè và tàn sát ngư dân Việt Nam của CSTQ chẳng lẽ là trong giới hạn và được lãnh đạo CSVN chấp nhận hay sao?
Hôm 18 tháng 7 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hà Nội “Về nước cũng nhận được nhiều đánh giá, gọi điện hỏi, chúc mừng, cho đây là thành công rất lớn, gọi đây là cuộc gặp gỡ lịch sử, xem ông cộng sản Việt Nam đi ra nước ngoài thế nào mà đến Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng, đối thoại với Tổng thống Mỹ, là việc chưa từng có trong lịch sử, mà lại là hai ông cựu thù”.
Mục đích hàng đầu của Nguyễn Phú Trọng đúng là “đến Phòng Bầu dục Nhà Trắng, đối thoại với Tổng thống Mỹ”. Rất đơn giản, không có gì phức tạp như nhiều người bàn tán. Nguyễn Phú Trọng muốn chứng tỏ cho thế giới và nhất là nhân dân Việt Nam thấy Mỹ đã thừa nhận tính chính danh của đảng CS. Lần đầu tiên một Tổng Bí Thư đảng CSVN đặt chân vô Tòa Bạch Ốc. Không lạ gì trước ngày đi, mấy trăm tờ báo và các hệ thống truyền hình, truyền thanh của đảng đều nhấn mạnh đến chuyện “thảm đỏ” theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Tập Cận Bình, tháng Tư năm nay, đã dành cho Nguyễn Phú Trọng một buổi tiếp đón trịnh trọng ngoài sức tưởng tượng của y mặc dù trước đó đã từ chối tiếp y. Hình thức tiếp đón dù màu sắc bao nhiêu cũng không gây tiếng vang quốc tế nào vì cả hai đều là lãnh đạo của hai đảng CS. Như người viết đã trình bày trong bài trước, cách Mỹ tiếp đón Nguyễn Phú Trọng cho thấy Mỹ chỉ thừa nhận yếu tố CSVN trong xung đột Biển Đông chứ không phải thừa nhận tính chính danh lãnh đạo Việt Nam của đảng CS.
Đối với các đảng CS cầm quyền, tính chính danh vô cùng quan trọng. Tấm bình phong “giải phóng dân tộc” đã giúp cho các đảng CS ở châu Á tồn tại đến nay trong khi hầu hết các đảng CS châu Âu đều sụp đổ.
Sau biến cố Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình nhận ra rằng chỉ đề cao “tư tưởng Mác Lê” chẳng những không đủ mà còn là một đe dọa đối với chế độ. Để ngăn chặn các tư tưởng tự do dân chủ đang lan rộng trong giới trí thức trẻ, y chỉ thị phải chuyển hướng tuyên truyền từ chủ nghĩa Mác Lê sang chủ nghĩa dân tộc. Ngay cả đảng CSTQ cũng phải thay hình đổi dạng từ một đảng vô sản chuyên chính sang loại hình CS dân tộc. Các lãnh đạo CSVN đã và đang áp dụng gần như rập khuôn phương pháp tuyên truyền của CSTQ qua việc đưa vai trò của chính phủ nổi bật hơn vai trò của đảng và lừa gạt được khá nhiều người.
Trước ngày đi Mỹ, Nguyễn Phú Trọng đã vội vã sang Bắc Kinh triều kiến Tập Cận Bình và trấn an y. Bản tuyên bố chung giữa Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình ký ngày 8 tháng Tư năm nay mang nội dung đầu hàng, thần phục. Người đọc có cảm tưởng văn bản này ký năm 1955 khi CSVN thở nhờ bình dưỡng khí Trung Cộng chứ không phải 2015.
Đọc toàn văn bản tuyên bố giữa Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng, một người có chút ít kiến thức và nhận thức chính trị căn bản không khỏi ngỡ ngàng. Ngày nay, nhân loại đã bước đi một đoạn đường trên thiên niên kỷ thứ ba văn minh dân chủ mà Nguyễn Phú Trọng còn buông ra được những câu sặc mùi Diên An, Pác Bó như “tình hữu nghị truyền thống Việt - Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối hai nước đích thân vun đắp là tài sản quý báu của hai Đảng”. Y cũng không quên những lời nịnh bợ Trung Cộng một cách lạc lõng khi nhắc lại thời kỳ Mao còn mỗi đêm nã vài ngàn viên đại pháo sang các đảo Kim Môn và Mã Tổ như “ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ Đài Loan độc lập dưới mọi hình thức”.
Chuyến đi Mỹ và nội dụng những lời phát biểu Nguyễn Phú Trọng tại Mỹ nếu không phải toàn văn thì cũng đại ý đã được trình bày với Tập Cận Bình. Do đó, mặc dù rất nhạy cảm trước các biến cố ngoại giao gây bất lợi cho Trung Cộng, lãnh đạo Trung Cộng không bày tỏ một thái độ bất bình chính thức nào trước chuyến viếng thăm Mỹ của Nguyễn Phú Trọng.
Biết thế nhưng tại sao Obama vẫn tiếp Nguyễn Phú Trọng?
Tại sao không? Các lãnh đạo Mỹ tiếp bất cứ chính trị gia, lãnh đạo đảng, nhà nước nào phục vụ cho chính sách đối ngoại, trong trường hợp này là bao vây Trung Cộng, của Mỹ. Augusto Pinochet của Chile, Manuel Noriega của Panama, Emílio G. Médici của Ba Tây, Mobutu Sese Seko của Congo, Hosni Mubarak của Ai Cập, Samuel Doe của Liberia và một danh sách dài của các lãnh đạo độc tài đã từng được các tổng thống Mỹ bắt tay hay chào đón tại Phòng Bầu Dục, tòa Bạch Ốc.
Chưa đầy hai năm trước ngày Muammar Gaddafi và con trai của y Mutassim Gadahfi bị giết, tháng Tư 2009, bà Hillary Clinton đã tiếp Mutassim Gadahfi tại Washington DC và ca ngợi việc tái lập quan hệ ngoại giao với kẻ đã từng bị TT Ronald Reagan gọi là “chó điên” nhưng cũng chính Hillary Clinton đã đùa giỡn với các phụ tá “Chúng ta Đến, Chúng ta Thấy, Hắn Chết !” ("We Came, We Saw, He Died!") khi được báo tin Muammar Gaddafi bị quân cách mạng giết.
Mobutu Sese Seko, một trong những tên độc tài tàn ác nhất Phi Châu, có tài sản ước lượng 5 tỉ đô do biển thủ suốt 32 năm cai trị Congo. Sau khi thăm viếng lãnh tụ CS Bắc Hàn Kim Nhật Thành về, Mobutu đã rập khuôn theo cách cai trị tàn ác của họ Kim. Y ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10, 1971 thay cả tên nước. Mobutu Sese Seko là một trong những nhà độc tài đã được đón tiếp trịnh trọng đến bốn lần (ba lần dưới thời Ronald Reagan, một lần dưới thời George H. W. Bush) tại Phòng Bầu Dục Tòa Bạch Ốc. Tuy nhiên, cũng chính phủ Mỹ năm 1993 đã từ chối cấp thông hành cho Mobutu vào Mỹ khi con cờ chống Liên Xô tại Phi Châu đã không còn cần thiết.
Từ “Xoay trục Thái Bình Dương” (Pacific Pivot) đến “Tái cân bằng” (Rebalance) Á Châu của Mỹ
- Thời TT Bill Clinton. Các nhà chiến lược Mỹ đã thấy nhu cầu xoay trục sang Á Châu rất sớm. Sau Chiến tranh Lạnh, quyền lợi kinh tế thương mại đã được nâng lên ngang tầm với quyền lợi về an ninh quốc gia. Bộ trưởng Thương Mại Ron Brown dưới thời Bill Clinton đã tuyên bố “Quyền lợi thương mại hiện nay ngang mức với an ninh thế giới trong chính sách đối ngoại”. Thượng Đỉnh của Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11, 1993 tại Seattle tất cả thành viên của ASEAN, ngoại trừ Mã Lai, đều tham dự. Quan hệ mậu dịch hai chiều giữa Mỹ và các nước ASEAN vào 1996 đã lên đến 109 tỉ đô la, 57% cao hơn so với Trung Cộng và cao hơn so với Nam Mỹ hay so với Phi Châu. Việc TT Clinton đồng ý tái lập quan hệ ngoại giao với CSVN vào tháng Bảy 1995 cũng là phần trong chiến lược xoay trục sang Á Châu của Mỹ. Tuy nhiên suốt thời kỳ của TT Bill Clinton, chính sách Mỹ đối với Trung Cộng đặt nặng trên các yếu tố kinh tế thương mại hơn là quân sự. Theo kết quả thăm dò của Gallup năm 1999, 47 phần trăm số người được hỏi cho rằng TT Clinton đã đi quá xa trong việc duy trì một quan hệ xây dựng với Trung Cộng.
- Thời TT George W. Bush. TT George W. Bush thuộc đảng Cộng Hòa và bộ tham mưu của ông là những Cộng Hòa bảo thủ. Chính sách đối ngoại của TT George W. Bush được các tóm tắt bằng ba chữ ABC (Anything But Clinton) nghĩa là bất cứ chính sách nào ngoại trừ các chính sách đã được TT Bill Clinton theo đuổi. Suốt thời gian vận động ứng cử George W. Bush nhấn mạnh Trung Cộng là một đe dọa chiến lược đối với Mỹ chứ không phải là hợp tác chiến lược như TT Clinton biện hộ. Condoleezza Rice, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia và sau đó là Ngoại Trưởng thời TT Bush tố cáo “Trung Cộng đang thay đổi cán cân quyền lực theo ý họ”. Chỉ 100 ngày sau khi nhậm chức, TT George W. Bush tuyên bố “sẽ làm tối đa những gì để có thể làm để giúp Đài Loan bảo vệ chính họ” trong trường hợp bị Trung Cộng tấn công. Các tổng thống tiền nhiệm dù Cộng Hòa hay Dân Chủ đều tránh trả lời một cách dứt khoát như TT George W. Bush.
- Trung Cộng “đục nước béo cò” sau biến cố 9/11. Biến cố ngày 11 tháng 9, 2001 đã buộc chính phủ Mỹ đặt trọng tâm vào Trung Đông hơn là Á Châu Thái Bình Dương. Mỹ cũng cần hòa dịu với Trung Cộng vì muốn Trung Công nếu không ủng hộ Mỹ công khai tại Liên Hiệp Quốc và các diễn đàn quốc tế, ít ra cũng bằng lòng ngầm khi Mỹ phát động chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Chiến tranh Iraq là một cơ hội để Trung Cộng bành trướng Á Châu Thái Bình Dương. Yuan Peng, Giám đốc bộ phận Mỹ thuộc Viện Trung Quốc về Quan Hệ Quốc Tế Hiện Đại thừa nhận “Chúng tôi nắm lấy cơ hội để cải thiện kinh tế, cải thiện các mối quan hệ với láng giềng và cải thiện quan hệ với Mỹ”. Gọi là “cải thiện các mối quan hệ với láng giềng” nhưng thực chất là Trung Cộng gây sự với hầu hết các nước trong vùng như Nhật Bản qua vụ xung đột đảo Senkaku vào tháng Chín 2010, bắn vào tàu đánh cá Philippine và kiểm soát Việt Nam một cách chặc chẽ hơn. Chính phủ Mỹ nghĩ rằng dù sao Trung Cộng nên hành xử với tư cách một cường quốc có trách nhiệm và giữ đúng lời cam kết mà Hồ Cẩm Đào “không chủ trương độc quyền bá chủ” Á Châu Thái Bình Dương. Thực tế đã trái ngược. Từ năm 2006, Trung Cộng chi tiêu dành cho quốc phòng cao thứ năm trên thế giới và có mức gia tăng hàng năm cao hơn bất cứ quốc gia Tây Phương nào.
- Thời TT Barack Obama. Các chính sách dưới thời TT Obama bao gồm thỏa hiệp tự do mậu dịch với Nam Hàn (FTA), tham gia đàm phán TTP là bước tiếp tục đã được thực hiện từ thời TT George W. Bush. Chủ trương hiện đại hóa quân sự một cách cấp bách của Trung Cộng đã đặt ra cho các nhà làm chính sách Mỹ một chọn lựa phải cứng rắn và cụ thể hơn trước sự bành trướng quân sự của Trung Cộng.
Năm 2010 tại Hà Nội, Hillary Clinton, lúc đó là Ngoại Trưởng, tuyên bố mạnh mẽ Hoa Kỳ sẽ “chống lại việc bất cứ một quốc gia tranh chấp nào sử dụng vũ lực”. Cùng vào thời gian đó, để đánh dấu 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Mỹ gởi hàng loạt chiến hạm viếng thăm Đà Nẵng hay trong khu vực biển Đà Nẵng như Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington, khu trục hạm USS John S. McCain. Năm trước đó, khu trục hạm USS Blue Ridge USS Lassen, tàu bịnh viện USNS Mercy, hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis và cả soái hạm của Đệ thất Hạm đội USS Blue Ridge cũng thăm viếng Việt Nam. Mùa thu 2011 đánh dấu thời điểm chính quyền Obama đặt ưu tiên sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Á Châu lên hàng đầu như đã khẳng định trong diễn văn trước Quốc Hội Úc tháng 11, 2011.
Mặc dù ngân sách quốc phòng Mỹ trong tài khóa 2011, 2012 bị cắt giảm nhưng ảnh hưởng Lục Quân và Thủy Quân Lục Chiến nhiều hơn là Hải Quân. Điều đó cho thấy Á Châu-Thái Bình Dương đã được đánh giá cao trong quan điểm của các nhà chiến lược quốc phòng Mỹ. Khái niệm Trận chiến Hải Không (Air-Sea Battle) gọi tắt là ASB là một khái niệm chiến tranh mới do các chiến lược gia quốc phòng Mỹ đặt ra. Khái niệm này được nhắc đến lần đầu vào năm 2010 và là một trong những điểm được các nghị sĩ và dân biểu Mỹ quan tâm nhất. Chiến lược ASB nhắm vào hai đối tượng thù địch là Trung Cộng và Iran.
Sự kiện đưa máy bay thám thính tối tân nhất của Mỹ US P8-A Poseidon bay trên khu vực Trung Cộng đang xây đảo nhân tạo trên Biển Đông và Khu trục hạm chiến đấu USS Forth Worth cũng tiến vào khu vực Trung Cộng cho rằng thuộc chủ quyền của họ là một thể hiện của phối hợp chiến lược ASB. Hôm 18 tháng Bảy vừa qua, đích thân Đô đốc Scott Swift, Tân Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Mỹ đã bay trên phi cơ thám tính U.S. P-8A Poseidon suốt bảy giờ trong Biển Đông. Phát ngôn viên Trung Cộng phản ứng nhẹ và xem đó là một sự kiện quân sự hơn là một biến cố ngoại giao và kêu gọi Mỹ không nên chọn phe trong cuộc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Trung Cộng và các quốc gia khác trong vùng.
Chính sách bao vây, ngăn chận (containment) của Mỹ đối với Trung Cộng
Liên Xô từng rất mạnh ở trung tâm nhưng yếu ở các vòng ngoài và đã dẫn đến tan vỡ khi các quốc gia vùng Baltic và Trung Á ly khai đòi độc lập. Các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc luôn bị ám ảnh với các những cuộc nổi dậy như Thiên An Môn có thể xảy ra bất cứ lúc nào và bất cứ tại đâu trên lãnh thổ mênh mông và dị biệt sâu sắc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Và cũng giống như Liên Xô, lãnh đạo Trung Cộng buộc phải đáp ứng nhu cầu chuyển hóa tự nhiên của xã hội qua các đổi mới nhưng các lãnh đạo đảng cũng không thể biết trước giọt nước đổi mới nào sẽ làm tràn ly cách mạng dân chủ.
Các nhà chiến lược Mỹ dĩ nhiên chuẩn bị cho mọi khả năng sụp đổ của Trung Cộng nhưng dù khả năng nào, chính sách bao vây ngăn chận tham vọng bành trướng của Trung Cộng vẫn là chính sách được hầu hết các tổng thống Mỹ đã và đang theo đuổi. Trong thời gian tới, Mỹ sẽ gia tăng áp lực, kể cả áp lực quân sự, từ bên ngoài để Trung Cộng một ngày sẽ tan vỡ từ bên trong, giống như các TT Mỹ từ Harry Truman đến Ronald Reagan đã thực hiện và thành công đối với Liên Xô.
Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam là tam giác?
Trong bài báo mới đây trên The Diplomat “A Tipping Point in the US-China-Vietnam Triangle”, tác giả Alexander L. Vuving cho rằng quan hệ giữa Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam đang thay đổi sâu sắc và ở trong thế tam giác.
Đánh giá Việt Nam dưới chế độ CS như là một quốc gia có tư thế độc lập không phản ảnh thực tế kinh tế chính trị của Việt Nam trong bang giao quốc tế. CSVN không có được vị trí của một chân kiềng hay chân vạc gì cả. Trung Quốc và Mỹ đều muốn làm thầy, làm chủ để sai khiến giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thuận theo chính sách của họ hơn là một đồng minh thân cận.
Trong buổi tiếp xúc với “cử tri Hà Nội” hôm 18 tháng 7, Nguyễn Phú Trọng tuyên bố một cách đắc chí “Rất hay là vừa đi Mỹ về, thì Phó thủ tướng Trung Quốc cũng sang đây”. Nói vậy mà không biết mắc cỡ. Chẳng có gì hay. Việc Barack Obama tiếp Nguyễn Phú Trọng, trong chiến lược chống Trung Cộng bành trướng Á Châu cũng không khác gì khi Richard Nixon tiếp Sese Seko của Congo hay Ronald Reagan tiêp Samuel Doe của Liberia trong chiến lược chống Liên Xô bành trướng sang Phi Châu. Tất cả chỉ là những con cờ ngắn hạn của Mỹ.
Kết luận
Việt Nam hiện trong vị trí của một quốc gia độn (buffer state). Bài học từ hai cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam cho thấy Trung Cộng bằng mọi cách sẽ giữ quốc gia độn Việt Nam trong vòng lệ thuộc hay ảnh hưởng. Mỹ cũng biết Trung Cộng không dễ dàng thả lỏng Việt Nam nhưng với chính sách bao vây, Mỹ tiếp tục gây áp lực kể cả áp lực quân sự để Trung Cộng đến một thời điểm chín mùi cho sự tan rã sẽ tan rã từ bên trong.
Đành rằng nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Cộng với 30% nhập cảng, 12% xuất cảng, 25% du khách viếng Việt Nam, nhưng Trung Cộng không phải là nước không phụ thuộc vào ai. Khoan nhắc đến các yếu tố tham nhũng có tính đảng, chủ nghĩa dân tộc tai họa, tình trạng nhân quyền tồi tệ, ô nhiễm hàng đầu thế giới, chỉ riêng nền kinh tế suy thoái do giảm đầu tư nước ngoài, mức xuất cảng các sản phẩm kỹ nghệ nặng xuống thấp, mất cân đối trong các ngành sản xuất là những vấn đề mà các lãnh đạo Trung Cộng phải điên đầu.
Giả thiết Việt Nam là một Nam Hàn, Singapore, Thái Lan, Mã Lai, Trung Cộng có thể vẫn tìm cách gây hấn, ăn hiếp nhưng không sai khiến các “lãnh đạo” như sai đầy tớ, muốn cho gặp thì gặp không muốn thì thôi như Tập Cận Bình đối xử với các lãnh đạo CSVN.
Ngoài Việt Nam, Trung Cộng chia sẻ biên giới với 13 quốc gia khác (India, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan, Mongolia, Bhutan, Nepal, Miến Điện, Nga, Bắc Hàn, Lào). Phần lớn các quốc gia này nhỏ hơn Việt Nam nhiều nhưng không có một lãnh đạo quốc gia nào phải chầu chực, hầu hạ các lãnh đạo Trung Cộng như cách các lãnh đạo CSVN đã và đang làm.
Lý do Trung Cộng sai khiến lãnh đạo CSVN dễ dàng vì chúng biết rõ gan ruột của đàn em một lần phản trắc này xem quyền lợi của đảng lớn hơn, quan trọng hơn sự quyền lợi của đất nước. Duy trì quyền cai trị của đảng CS là mục tiêu tối thượng, chi phối toàn bộ chính sách đối nội và đối ngoại, ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng CSVN.
Khi phân tích về quan hệ giữa Việt - Mỹ và Việt – Trung, nhiều nhà phân tích Tây phương bỏ sót một yếu tố có tính quyết định, đó là cơ chế chính trị. Nếu đi ngược dòng lịch sử Việt Nam cận đại, các nhà phân tích đó sẽ thấy cốt tủy của mọi xung đột chính là cơ chế chính trị CS.
Muốn đứng thế chân vạc, một quốc gia trước hết phải có vị trí độc lập trong tương quan về chính trị, kinh tế và quân sự quốc tế. CSVN không có được vị trí độc lập và sẽ không bao giờ có được vị trí độc lập khi nào đảng CS vẫn còn độc quyền cai trị Việt Nam. Để có một vị trí độc lập trong bang giao quốc tế và để tạo thế liên minh tin cậy chiến lược, Việt Nam trước hết phải là một quốc gia dân chủ.
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
- YU Wanl, Breaking the Cycle?: Sino-US Relations under George W. Bush Administration. Chapter 3 and chapter 4. The National Institute for Defense Studies, 2009.
- Congressional Research Sevice. Pivot to the Pacific? The Obama Administration’s “Rebalancing” Toward Asia. , March 2012.
- Anna Rabin, US-China Relations in the Bush Era – Strategic Partners or Competitors? February, 2012
- MARK MacKINNON, China's chance: How 9/11 played into Beijing's plans in Asia, The Globe and Mail, Sep. 08, 2011
- George W. Bush on China. GeorgeWBush.com, May 25, 1999 http://www.ontheissues.org/Celeb/George_W__Bush_China.htm
- Mark E. Manyin, Pivot to the Pacific? The Obama Administration’s “Rebalancing” Toward Asia, Congressional Research Service, March 28, 2012.
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
- Robert Mcmahon. Limits Of Empire, The United States and Southeast Asia Since World War II Columbia University Press pp 210, 211, 213
- Council on Forein Relations, China ‘s Maritime Disputs By the Number.http://www.cfr.org/asia-and-pacific/chinas-maritime-disputes/p31345#!/
- Hillary Clinton Laughs About Killing Moammar
- Tổng bí thư: Phía Mỹ tiếp đón “vượt mức yêu cầu”, VnEconomy, 18/7/2015.
- Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc 09/04/2015
- Chinese State Media to Pacific Fleet: We Won’t Be Pushed Around in South China Sea
https://foreignpolicy.com/2015/07/20/chinese-state-media-to-pacific-fleet-we-wont-be-pushed-around-in-south-china sea/?utm_content=buffer07f9c&utm_medium=social&utm_source=facebook.com&utm_campaign=buffer
- Alexander L. Vuving. A Tipping Point in the US-China-Vietnam Triangle. The Diplomat, July 06, 2015.
- Minxin Pei. 5 Ways China Could Become a Democracy. The Diplomat February 13, 2013.
-"Chơi với ai, hãy để người Việt Nam quyết định"
(GDVN) - Việt Nam không thể đòi hỏi Nga "lựa chọn" mình hay Trung Quốc thì Moscow cũng không thể đặt vấn đề Việt Nam hãy lựa chọn giữa Nga và Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Vladimir Mazyrin - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Nghiên cứu Viễn Đông ngày 14/7 bình luận trên tạp chí Nezavisimaya Gazeta: Việc Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu của Việt Nam khiến Moscow nhận ra thách thức nghiêm trọng đối với các nỗ lực của Nga để bảo tồn và phát huy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam.
Người Mỹ đang tận dụng lợi thế của thế giới đơn cực và khả năng chi phối hệ thống tài chính quốc tế, cũng như sự suy yếu ảnh hưởng của Nga với Việt Nam để thực hiện "khát vọng giấc mơ Mỹ" của hàng triệu người Việt.
Dù kết quả thăm dò dư luận của Trung tâm Nghiên cứu Pew (đề cập trong phần 1:Học giả Nga: Mỹ đã trở thành một "mô hình" cho Việt Nam) là khách quan, nó cũng không làm sai lệch mong muốn của người dân Việt Nam đối với nền độc lập của mình.
Việc "dựa vào Hoa Kỳ" có đảm bảo cho Việt Nam giữ được nền độc lập hay không, hãy để bản thân mỗi người Việt tự trả lời, Tiến sĩ Vladimir Mazyrin bình luận. Ông lưu ý, một người bạn thật sự là người không quên vấn đề của mình, giúp đỡ bạn bè đối tác bảo vệ lợi ích quốc gia thực sự của họ thay vì áp đặt các quan điểm và hệ giá trị của mình cho đối tác thông qua vũ lực hay gian lận.
Bình luận trên tờ The Diplomat ngày 14/7, Tiến sĩ Anton Tsvetov từ Hội đồng Quan hệ quốc tế Nga (RIAC) cho rằng, trong khi Trung Quốc không bao giờ bỏ lỡ bất kỳ phân tích nào về quan hệ Mỹ - Việt thì dường như Nga thường bỏ qua điều này dẫn đến sự thất vọng của giới quan sát châu Á tại Nga. Tuy nhiên theo ông điều này không hẳn chính xác, bởi lẽ Việt - Mỹ mới chỉ là quan hệ đối tác "toàn diện" chứ chưa phải "chiến lược", đặc trưng quan trọng gắn với quan hệ Việt - Nga.
"Truyền thống" là một tính từ phổ biến tại Việt Nam khi nói về quan hệ Việt - Nga. Nhưng có ít điều để làm trong chính sách đối thoại thực tế mà Việt Nam đang theo đuổi. Do đó sẽ hữu ích hơn để Moscow suy nghĩ xem những gì có thể làm cho Việt Nam mà Hoa Kỳ không thể. Ông cho rằng, việc đầu tiên Nga có thể làm là việc bán vũ khí cho Việt Nam.
Học giả Anton Tsvetov từ Hội đồng Quan hệ quốc tế Nga (RIAC). Ảnh: Russia Council. |
Mặc dù Hoa Kỳ đã nới lỏng một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam và đang cân nhắc khả năng bãi bỏ hoàn toàn, thậm chí "đã bán hoặc cho" Cảnh sát biển Việt Nam một số tàu tuần tra, nhưng người Việt sẽ phải mất cả chục năm để làm quen với các thiết bị mới (?!). Vì vậy Nga có thể sẽ vẫn là nhà cung cấp vũ khí chủ yếu cho Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông.
Mặt khác ông Anton Tsvetov lập luận: "Nga có một lợi thế rất lớn so với Mỹ trong quan hệ với Việt Nam. Đối với người Việt, hợp tác với Nga không đi kèm theo bất kỳ đòi hỏi 'xuất khấu khẩu hệ tư tưởng thù địch' nào. Không có mối lo Moscow sẽ thúc đẩy thay đổi nội bộ ở Việt Nam và Nga sẽ không đặt bất kỳ điều kiện nào cho hoạt động giao dịch thương mại quân sự, đầu tư hay hợp tác nhân đạo. Trong khi đó nó lại là mối quan tâm chính của các nhà lãnh đạo Việt Nam khi hợp tác với Hoa Kỳ"?!
Có quan điểm trái ngược với Anton Tsvetov về vấn đề này. Giáo sư Carl Thayer từ Úc bình luận trên The Diplomat hôm 13/7 rằng, cuộc hội đàm giữa Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Barack Obama tại Phòng Bầu Dục của Nhà Trắng đã phá vỡ mọi rào cản chính trị trong quan hệ song phương.
Hơn thế nữa, chuyến thăm này còn thiết lập tiền lệ cho các chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ tiếp theo của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu Tổng thống Obama thăm chính thức Việt Nam trước khi kết thúc nhiệm kỳ sẽ càng củng cố sự thật rằng Mỹ tôn trọng hệ thống chính trị của Việt Nam.
Theo Giáo sư Carl Thayer, hai nhà lãnh đạo Việt Nam và Hoa Kỳ đã đồng ý phát triển quan hệ thực chất sâu rộng trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như hệ thống chính trị của nhau.
Việc mời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào Phòng Bầu Dục đã cho thấy cam kết của ông Obama tôn trọng hệ thống chính trị Việt Nam, phá tan những lo ngại rằng Hoa Kỳ "âm mưu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thông qua diễn biến hòa bình". Bởi vậy cái ông Anton Tsvetov cho là "lợi thế" của Nga chưa chắc đã còn đúng trong giai đoạn hiện nay - PV.
Giáo sư Carl Thayer. |
Xoay quanh trục quan hệ Mỹ - Việt - Trung hay Mỹ - Việt - Nga, ông Carl Thayer nhận định: Một số nhà phân tích và bình luận đã sai lầm khi đặt trọng tâm chuyến thăm Hoa Kỳ của ông Nguyễn Phú Trọng quá nhiều vào hy vọng có một bước đột phá trong quan hệ quốc phòng.
Chuyến thăm Mỹ của Tổng bí thư không phải "điểm tới hạn" trong trục quan hệ Mỹ - Việt - Trung. Đồng thời chuyện Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam hay việc cho người Mỹ vào cảng Cam Ranh không phải nội dung chủ yếu trong chương trình nghị sự, ông Carl Thayer lưu ý.
Về quan hệ Nga - Việt, học giả Anton Tsvetov thừa nhận bàn tay vô hình của Bắc Kinh là một trong những nhân tố hạn chế quan hệ giữa Moscow và Hà Nội. Ngoài ra, nhân tố khác ảnh hưởng tới mối quan hệ này là sự suy thoái kinh tế ở Nga khiến quốc gia này không thể trở thành thị trường lớn cho hàng hóa Việt giống như Mỹ.
Mặc dù Liên minh Tự do thương mại Á - Âu mà Việt Nam tham gia có hiệu lực vào năm tới, nhưng thị phần xuất khẩu của hàng Việt Nam tại thị trường này nhiều khả năng vẫn dưới 2%. Sức mua của Nga cũng như cấu trúc quan hệ kinh tế Nga - Việt khác quá xa so với Việt - Mỹ.
Học giả này cho rằng: "Việc tái lập quan hệ Việt - Mỹ theo nhìn nhận của tôi chắc chắn không phải một cuộc hôn nhân, nhưng lại nhiều hơn một cuộc tình". Anton Tsvetov cho rằng:
"Đi quá xa trong chuyện này và gây quá nhiều rắc rối cho Trung Quốc có thể kéo theo một thảm họa cho một nước nhỏ như Việt Nam. Đa dạng hóa là chìa khóa để trở thành một sức mạnh trung lập, còn tiềm năng của Nga để trở thành 'lực lượng thứ 3' là vô tận. Nếu chính quyền Mỹ muốn một đất nước Việt Nam thực sự mạnh mẽ, độc lập và ổn định thì họ cần tôn trọng mối quan hệ lâu dài (giữa Việt Nam) với Nga.
Với tất cả những hạn chế của Mỹ về hợp tác quân sự (với Việt Nam), chủ yếu là Nga sẽ làm hầu hết các công việc xây dựng năng lực hàng hải cho Việt Nam và tạo ra đối trọng với Trung Quốc. Sẽ là khôn ngoan khi Nga và Mỹ bắt tay nhau thoát khỏi khủng hoảng ở châu Âu và tràn sang châu Á".
Nga bán máy bay chiến đấu, tàu ngầm cho cả Trung Quốc và Việt Nam. Ảnh tàu ngầm Trung Quốc: Irrawaddi.org. |
Vài lời bình luận - PV
Nói thẳng ra, ông Anton Tsvetov lo ngại sau chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, quan hệ hợp tác Việt - Mỹ được nâng lên một tầm cao mới có thể có tác động tiêu cực đến lợi ích của Nga, cụ thể là thị trường xuất khẩu vũ khí Nga có nguy cơ bị thu hẹp, cạnh tranh trong hợp tác kinh tế - năng lượng ở Biển Đông gia tăng...
Người Việt luôn ghi nhớ và biết ơn sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trước đây cũng như nhân dân Nga ngày nay trong công cuộc thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh địa chính trị thế giới và khu vực thay đổi liên tục như hiện nay, bất cứ quốc gia nào cũng phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc mình lên trên hết trong mọi mối quan hệ quốc tế. Nga cũng vậy và Việt Nam cũng thế. Người Việt quý trọng quan hệ hợp tác với Nga, nhưng trong làm ăn hay câu chuyện lợi ích, sòng phẳng cùng có lợi là nguyên tắc tối thượng và mới đảm bảo hợp tác được lâu dài.
Lấy câu chuyện mua bán vũ khí mà ông Anton Tsvetov quan tâm, dù mua của Nga, Mỹ hay nước nào đi nữa thì Việt Nam cũng phải trả tiền chứ chẳng ai cho không. Lựa chọn nhà cung cấp nào có sản phẩm tiên tiến phù hợp yêu cầu, giá cả phải chăng và chất lượng dịch vụ tốt là điều Việt Nam phải cân nhắc.
Nga bán vũ khí cho Việt Nam, nhưng cũng bán vũ khí cho Trung Quốc. Chính ông Anton Tsvetov cũng thừa nhận "bàn tay vô hình" của Bắc Kinh đã kìm hãm sự phát triển của quan hệ Nga - Việt. Nói cách khác, Nga không thể lên tiếng ủng hộ Việt Nam trong công cuộc bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp ở Biển Đông vì sợ mất lòng Trung Quốc, từ đó dẫn đến mất các mối quan hệ làm ăn có lợi với Trung Quốc.
Việt Nam cũng vậy thôi, không thể trông chờ, dựa dẫm vào bất kỳ nước nào để bảo vệ chủ quyền và phát triển cường thịnh. Người Việt phải tự lực cánh sinh, kết hợp với đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, khai thác tối đa các xu thế có lợi cho sự nghiệp này.
Việt Nam không thể đòi hỏi Nga "lựa chọn" mình hay Trung Quốc thì Moscow cũng không thể đặt vấn đề Việt Nam hãy lựa chọn giữa Nga và Hoa Kỳ.
Trong bối cảnh các cường quốc tranh giành ảnh hưởng và lợi ích địa chính trị, địa chiến lược trong khu vực có tác động sâu sắc đến Việt Nam, người Việt sẽ phải tỉnh táo trước mỗi bước đi, mỗi quyết sách để làm sao giữ gìn cho được độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền và đấu tranh đòi lại những gì bị kẻ khác xâm lược, chiếm đóng bất hợp pháp.