Những cơn sốt mơ hồ
-(GDVN) - Người Trung Quốc không dùng tiền của mình làm hại đối tác, mà họ dùng ngay tiền của của đối tác làm công cụ trừng phạt đối tác. Thậm chí họ còn kiếm lợi...
Ngày 18/7/2013, Trung tâm Nghiên cứu Các vấn đề xã hội, thái độ và xu hướng dư luận xã hội toàn cầu của Mỹ (PEW), đã công bố kết quả khảo sát tại 38 quốc gia trên toàn thế giới về thái độ đối với Trung Quốc. Trong đó có tới 26/38 nước, người dân không thích cách làm ăn của Trung Quốc. Họ cho rằng Trung Quốc chỉ xem trong lợi ích của mình mà quên, mà xem nhẹ lợi ích của đối tác.
Tại một số quốc gia, số người dân không xem Trung Quốc là đối tác tin cậy chiếm tỷ lệ rất cao như tại Nhật Bản (89%), Hàn Quốc (79%), Úc (79%), Tây Ban Nha (85%), Ý (83%), Pháp (83%), Anh (82%), Israel (79%), Jordan (71%), Thổ Nhĩ Kỳ (68%), Hoa Kỳ (60%), Kenya (77%), Nigeria (70%), Nam Phi (67%), Senegal (62%), Argentina (71%) và Chile (65%).
Đặc biệt, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Brazil nhưng lại có tới hơn một nửa số người Brazil được hỏi (51%) không thích cách làm ăn của Trung Quốc. Và qua những con số đó đã lý giải tại sao người Trung Quốc lo lắng về hình ảnh của họ đang ngày càng xấu đi ở nước ngoài.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường – những lãnh đạo có nhiệm vụ làm thay đổi hình ảnh của Trung Quốc trong cộng đồng quốc tế. Ảnh: EPA.
Qua khảo sát của PEW với người dân Trung Quốc thì 56% người dân nước này được hỏi cho rằng, đất nước của họ nên được tôn trọng hơn. Tuy nhiên, mong muốn là như vậy nhưng người Trung Quốc ra làm ăn ở nước ngoài lại không hướng tới việc thay đổi hình ảnh của họ mà thậm chí còn làm xấu hơn với những cách thức làm ăn không minh bạch của mình.
Trong số những thủ thuật, thủ đoạn mà Trung Quốc thực hiện ở nước ngoài có việc tạo những “cơn sốt mơ hồ” nhưng cực nóng trên thị trường. Đây là một trong những thủ đoạn hết sức nguy hiểm, với những chiêu trò có thể gây ra nhiều nguy hại rất lớn cho đối tác mà đích hướng tới là làm cho đối tác suy yếu và kiệt quệ.
Những hàng hóa đặc biệt
Tại một số quốc gia được xem là bạn hàng của Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, cứ thỉnh thoảng lại lên cơn sốt về việc một loại sản phẩm nào đó với nhu cầu và giá cả tăng đột biến, vượt quá sức tưởng tượng của người cung ứng. Đặc biệt những mặt hàng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của nước sở tại càng lớn bao nhiêu thì mức độ sốt càng dữ dội bấy nhiêu.
Có những sản phẩm đang được trao đổi, mua bán rất bình thường bỗng dưng dự luận đưa lên thành những loại hàng hóa đặc biệt, giá cả tăng lên theo cấp số nhân, thị trường liên tục nóng bởi nhu cầu liên tục gia tăng. Và loại hàng hóa này còn đặc biệt ở cả cách mua cách bán, cách tiếp cận và kiểm tra hàng hóa.
Có những mặt hàng vốn là những thứ hết sức thông thường và không bao giờ người ta nghĩ nó có thể trở thành hàng hóa, bỗng dưng có những đơn đặt hàng với những yêu cầu đặc biệt và giá cả bất ngờ. Dư luận xôn xao, cơ quan quản lý nhà nước không thể can thiệp và nền kinh tế có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nhưng tại sao lại có hiện tượng bất thường ấy thì từ các chuyên gia nghiên cứu về các lĩnh vực kinh tế tìm hiểu nhu cầu đến chuyên gia về kỹ thuật tìm hiểu về giá trị sử dụng, thậm chí cả chuyên gia trong lĩnh vực y khoa nghiên cứu về công dụng của sản phẩm, hàng hóa, tất cả đều bó tay, không thể lý giải được.
Người có nhu cầu có thường không xuất hiện, mà chủ yếu là qua bộ phận trung gian tìm hiểu thị trường và bộ phận thu gom – thương lái. Và qua những lực lượng này thì dư luận chỉ có được những thông tin hết sức mơ hồ về mục đích mua bán và công dụng sản phẩm.
Doanh nhân Trung Quốc – lực lượng góp phần làm xấu hình ảnh Trung Quốc trên thế giới. Ảnh: Bloomberg.
Song chỉ biết rằng thị trường trong thời kỳ những “cơn sốt mơ hồ” hoành hành thì vô cùng nóng. Với những sản phẩm dạng tư liệu sản xuất thì nó nóng còn hơn là mua bản quyền sáng chế hay bí mật gia truyền của những mặt hàng đang hút như “cơm ăn nước uống” hàng ngày. Còn với những mặt hàng tiêu dùng thí nó nóng như việc mua bán sản phẩm “cải lão hoàn đồng”.
Và cứ như thế, thị trường nghiêng ngả theo những bí mật của người mua mà không bao giờ được bật mí. Thậm chí, đến khi kết thúc những cơn sốt hay loại hàng hóa đó không còn được mua bán nữa thì thông tin về mục đích, công dụng của nó vẫn nằm trong màn bí mật Song có lẽ người bán cũng chẳng quan tâm tới những bí mật đó, chỉ cần bán được hàng với giá cao.
Tuy nhiên, thực ra đằng sau những cơn sốt ấy là những kế hoạch được vẽ ra một cách bài bản và cực kỳ thâm sâu, mà mục tiêu của nó là móc túi những đối tác trực tiếp, còn mục đích là làm thiệt hại cho cả một nền kinh tế với những cơn sốt hết sức mơ hồ ấy, theo Forbes Asia ngày 24/9/2014.
Người ta mua lá mãng cầu non, người ta mua râu bắp ngô non hay người ta mua móng trâu, lá vải, đỉa… để làm gì thì không ai biết được, hiểu được. Y khoa với những công cụ hỗ trợ lâm sàng kỹ thuật cao cũng không thể tìm ra đâu là những hàm lượng tố chất, hợp chất có thể tạo nên những loại dinh dưỡng hay biệt dược mà công dụng của nó có thể làm tăng sức lực cho con người.
Tuy nhiên, có một điều ai cũng nhận ra ngay đó là sự chuyển đổi mục đích các hoạt động kinh tế diễn ra một cách tự nhiên nhưng rất nguy hiểm. Đó là người trồng mãng cầu không phải để lấy quả mà chỉ để lấy lá non, người ta trồng ngô không phải để lấy lương thực phục vụ cho sản xuất và chăn nuôi mà chỉ để lấy râu non bán.
Và thế là hai hiệu ứng xấu với nền kinh tế xảy ra. Thứ nhất, các kế hoạch kinh tế vĩ mô bị phá vỡ, thị trường sản phẩm thiếu hụt và nguy cơ xảy ra hàng lọat những hợp đồng kinh tế có bị vi phạm và phải bồi thường. Doanh nghiệp lao đao và mất uy tín. Nền kinh tế mất đi sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, đời sống kinh tế - xã hội bị xáo trộn khi cơn sốt đang ở mức cao trào và bị đảo lộn khi cơn sốt hạ nhiệt và chấm dứt. Mà cụ thể là tâm lý lo âu và chờ đợi của những nhà cung ứng không chuyên nghiệp cho một nhu cầu tự phát bất thường.
Lo âu là không biết nhu cầu tiếp theo là mặt hàng nào. Và chờ đợi những cơn sốt trong tương lai.
Hậu quả là một nền sản xuất sẽ bị thu hẹp – người ta không biết sản xuất sản phẩm gì, trồng cây gì, nuôi con gì – thậm chí người ta không tập trung nhiều vào sản xuất bởi nguồn lợi từ hoạt động thương mại trong thời kỳ của những “cơn sốt mơ hồ” làm cho người sản xuất, nhà sản xuất giảm động lực – sức mạnh kinh tế nội lực cũng từ đó mà suy giảm.
Người mua cũng là người bán
Các quốc gia trên thế giới cho rằng, Trung Quốc sử dụng tiềm lực của một nền kinh tế lớn mà thực hiện những chính sách làm suy yếu những nền kinh tế nhỏ, không ngang bằng trong quan hệ kinh tế với họ. Người dân các nước trên thế giới cho rằng người Trung Quốc dùng tiền để phá hoại kinh tế đất nước họ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của họ.
Nếu sự việc diễn ra đúng như vậy thì vẫn còn may mắn. Song Trung Quốc không sử dụng nguồn lực vào việc triệt hạ đối thủ, người Trung Quốc không dùng tiền của mình làm hại đối tác, mà họ dùng ngay tiền của của đối tác làm công cụ trừng phạt đối tác. Thậm chí họ còn kiếm lợi trên những hoạt động ấy – ngoài những tác động xấu đến kinh tế - xã hội của nước sở tại.
Thương lái Trung Quốc thường tìm mua những thứ lạ đời, ảnh: Phuninh.gov.vn.
“Có ba giai đoạn để hiểu về chính sách của Trung Quốc đối với việc giải quyết bất cứ vấn đề gì là: Tuyên bố về ý định, thiết kế chính sách và thực hiện chính sách. Nhưng điều quan trọng cần phải nhớ và luôn luôn phải nhớ, với Trung Quốc thì giá trị của vấn đề chỉ nằm ở giai đoạn cuối cùng của vấn đề - thực hiện”, Forbes Asia bình luận.
Thủ thuật mà người Trung Quốc thực hiện là đóng vai cả người mua và người bán chỉ trong một nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Và đây chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm nên sự bí mật không bao giờ được bật mí – nguyên nhân tao nên những “cơn sốt mơ hồ”.
Khi biết điều này thì ngươi ta mới hiểu rằng người mua sản phẩm không quan tâm đến công dụng của nó.
Bắt đầu là việc tạo dư luận về nhu cầu rất lớn, rất gấp về một sản phẩm nào đó khởi nguồn cho hoạt động cung – cầu. Tiếp theo là dùng một khoản tài chính rất nhỏ (khoản này sau đó sẽ được thu về hết) tiếp sức cho ít nhất 3 đối tác là lực lượng trung gian - thương lái. Tạm gọi là đối tác A, đối tác B và đối tác C.
Chủ hàng Trung Quốc sẽ đưa thời hạn giao hàng khác nhau cho 3 đối tác theo thứ tự A, B, C với nguyên tắc, đối tác được đặt hàng trước tiên thì giao cuối cùng, đối tác được đặt hàng cuối cùng thì giao trước tiên. Và động thái tiếp theo là hối thúc C giao hàng. Vì đã tính toán nên chủ hàng biết C không thể có hàng để giao đúng thời hạn và có nguy cơ phải bồi thường.
Lúc này người mua “trong bóng tối” thông qua lực lương trung gian khác – tiếp thị - thông tin về khả năng cung ứng hàng hóa của đối tác B cho C biết. Do B chưa tới thời hạn giao hàng nên sẽ bán cho C, còn C sợ bồi thường nên phải mua giá cao để giao trót lọt lô hàng đầu tiên. Thế là B bàn hàng cho C mà quên rằng, người mua đã tính toán là B sẽ lại có nguy cơ như C.
Và B sẽ mua hàng của A tương tự như C mua lại của B vậy. Đến lượt A cũng thế, nhưng phải mua từ chính chủ hàng. Thế là A, B, C cứ chạy lòng vòng theo sự điều khiển của chủ hàng Trung Quốc với sức ép về thời gian giao hàng, số lượng hàng hóa và giá cả hàng hóa theo hướng có lợi cho họ và đưa đối tác vào chân tường với sự lựa chọn “vớt vát được đồng nào hay đồng đó”.
Khi chủ hàng thấy nguy cơ bại lộ và mục đích cũng đã đạt được thì mọi việc chấm dứt một cách đột ngột và hậu quả là hàng kho sản phẩm không có người mua. Thiệt hại vô cùng lớn cho người sản xuất và tầng nấc trung gian. Kinh tế - xã hội cũng vì vậy mà có những hỗn loạn với những hiện tượng nợ nần, phá sản.
Hình ành cố Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Tập Cận Bình trên một biểu trưng của người dân Trung Quốc. Ảnh: picture.dot.news.
Theo người viết thì có thể trong số liệu về xuất khẩu của hải quan các cửa khẩu tại Việt Nam có lẽ không có số liệu về những mặt hàng đặc biệt này được xuất qua Trung Quốc hoặc nếu có thì cũng mang tính chiếu lệ. Nó sẽ ít hơn rất rất nhiều số lượng sản phẩm được cung ứng bởi những đối tác và thực ra có thể nó vẫn nằm tại Việt Nam, nhưng không còn ai quan tâm tới nữa.
Hiện tượng giá gỗ sưa tăng đột biến gấp hàng chục lần chỉ sau vài tháng hay hàng ngàn tấn rễ gỗ trắc tồn kho tại Việt Nam, không được thương nhân Trung Quốc cho xuất vào năm 2007 - 2008…cũng có phần nguyên nhân bởi chiêu thức chủ hàng Trung Quốc đóng vai cả người mua và người bán.
Sau một thời gian nguôi ngoai thì lại có một cơn sốt về một mặt hàng nào đó mà không ai biết trước, lường trước được. Song có nhiều người ở nhiều quốc gia vẫn ngả nghiêng theo những cơn sốt mơ hồ ấy mà hậu quả luôn là mất tiền mất của, mất cả sức lực và niềm tin.
Vì vậy, có người cho rằng có thể sắp tới sẽ có một cơn sốt về xe gắn máy Trung Quốc đã qua sử dụng hay hàng giá rẻ của Trung Quốc đã qua sử dụng tại Việt Nam và các quốc gia trên thế giới với chiêu thức mua giá cao và bán giá rất cao. Hậu quả là tiền của người Việt Nam và người dân các quốc gia khác trên thế giới sẽ chảy vào túi thương nhân Trung Quốc.
Có một điều rất lợi hại là những mặt hàng mà người Trung Quốc hướng vào gây nên những cơn sốt mơ hồ ở nước ngoài hầu hết không phải là những mặt hàng quốc cấm hay bị giới hạn mua bán, trao đổi. Do vậy, họ vô tư thực hiện chiêu thức của mình mà không sợ bị cơ quan thực thi pháp luật nước sở tại “sờ gáy” hay ngăn cản.
Có thể thấy rằng, Trung Quốc có thể sử dụng bất cứ công cụ nào, ở bất cứ tầng nấc nào, với bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ đối ngoại, nhằm mục tiêu làm suy yếu đối tác, khiến đối tác phụ thuộc, lệ thuộc vào mình, từ đó điều khiển đối tác phục vụ cho ý đồ thống trị của họ, theo The Guardian.
Trung Quốc chỉ sử dụng những công cụ sức mạnh để thực hiện tấn công trực diện nhưng chiến thắng thì chưa thể khẳng định, còn với những trở lực tiềm tàng, Trung Quốc sử dụng những công cụ mềm song rất nguy hiểm, làm suy yếu đối phương bằng những đòn tấn công âm thầm mà khi bị hạ nốc ao người ta mới nhận ra kẻ thù chính là những người bạn hàng quen thuộc.
Quy trình ngược tinh vi
(GDVN) - Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được.
Nước cờ lợi hại
(GDVN) - Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới.
-Quy trình ngược tinh vi
(GDVN) - Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được.
Ngày 1/11/2015, Forbes Asia nêu lại câu hỏi mà Chính phủ Nhật Bản đã tư vấn họ: Tại sao chúng ta lại thất bại trước Trung Quốc trong việc đấu thầu dự án đường sắt cao tốc tại Indonesia?
Sau khi phân tích những nội dung mà Trung Quốc và Nhật Bản đưa ra với chủ đầu tư Indonesia, Forbes Asia đã nhận định: Bảy năm nỗ lực của Nhật Bản đã không mang lại kết quả gì.
Dự án thuộc về Trung Quốc không chỉ là một thành công từ góc độ thương mại thông thường, mà về mặt ngoại giao kinh tế, đó là một bước tiến có ý nghĩa sâu sắc đối với Trung Quốc. Còn đối với Nhật Bản, đây là một dịp để họ suy nghĩ lại về các chính sách và chiến lược của mình ở châu Á.
Điều đó cho thấy Trung Quốc đã sử dụng nhiều công cụ phục vụ cho ý đồ toàn cục của họ và họ đã có những thành công. Trong quá trình vận dụng, có những công cụ của Trung Quốc mà đối thủ, đối tác có thể nhận ra được và có thể có biện pháp đối phó.
Nhưng Bắc Kinh cũng có những công cụ người ta không thể tìm ra biện pháp hóa giải mà chỉ thể hiện thái độ bức xúc, thậm chí căm ghét, tẩy chay mà thôi.
Thủ tướng Lý Khắc Cường – một trong những người hoạch định chính sách kinh tế của Trung Quốc, trong đó có những công cụ khống chế đối tác, đánh gục đối thủ. Ảnh: Reuters/SCMP.
Đặc biệt, Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được. Vì vậy những công cụ này thường làm cho đối thủ “ngã ngựa”, còn đối tác thì sẵn sàng tự nguyện “chui đầu vào rọ” mà vẫn vui mừng, vẫn tin là mình có lợi, mình thắng lợi.
Đã có rất nhiều nền kinh tế lao đao vì vấn nạn này, đã có hàng loạt thực thể kinh tế “chết đứng” vì những công cụ đặc biệt này của chính phủ Trung Quốc, của doanh nghiệp Trung Quốc và của thương nhân Trung Quốc.
Công cụ gì mà đặc biệt quá vậy? Công cụ gì mà có thể giúp Trung Quốc chiến thắng cả những chuyên gia kinh tế bậc thầy của Nhật Bản vậy?
Qua nghiên cứu hàng loạt những vấn đề kinh tế, những hoạt động thương mại, những quan hệ hợp tác…người viết cho rằng Trung Quốc đã áp dụng quy trình ngược trong hoạt động kinh tế. Hệ quả của nó thể hiện ra người Trung Quốc là những người làm ăn dễ dãi, thoải mái trong cả vai trò người bán – người cung ứng và trong cả vai trò người mua – người tiêu thụ.
Và đó là cách thức Trung Quốc ru ngủ đối phương và đưa họ vào bẫy.
Người bán dễ chịu
Trong quan hệ kinh tế, từ thăm dò đến chính thức đặt vấn đề, người Trung Quốc thường xúc tiến rất nhanh lẹ. Đó là một trong những yếu tố làm cho nhiều người rất thích và mong muốn hợp tác, trở thành đối tác với Trung Quốc và đương nhiên là gạt bỏ những đối tác tiềm năng khác để dành ưu ái cho Trung Quốc.
Trong hoạt động kinh doanh, cơ hội vụt đến rồi vụt đi nên việc nắm bắt và khai thác được cơ hội là một trong những yếu tố làm nên thành công cho doanh nghiệp, doanh nhân và cho cả nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong quan hệ làm ăn với Trung Quốc thì mọi việc không đơn giản như vậy. Việc nhanh và chậm với Trung Quốc đều có ý đồ mà một phần là tối đa hóa lợi ích, và một phần là đánh gục cả đối thủ lẫn đối tác.
Trong quan hệ hợp tác, khi kết nối thành công thì quá trình hợp tác bắt đầu bằng việc triển khai nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Người ta thấy phía Trung Quốc luôn rất sốt sắng trong việc cho ra những sản phẩm của sự hợp tác.
Đó là hồ sơ chào hàng với những nội dung mặc định như mẫu mã, chủng loại, số lượng, giá cả, thời gian giao nhận, cách thức thanh toán và yêu cầu kỹ thuật.
Những công trình của nhà thầu Trung Quốc thường thắng thầu với giá bỏ thầu rẻ, sau đó phát sinh tăng lên khi triển khai dự án. Ảnh: The Telegraph.
“Ông Teten Maskuki, Trưởng bộ phận hành chính của Tổng thống Indonesia cho rằng, Joko Widodo quyết định chọn Trung Quốc chủ yếu dựa vào cách tiếp cận chính thức của Trung Quốc rất thực tế và nhanh lẹ, kiểu "doanh nghiệp với doanh nghiệp", trái ngược với kiểu tiếp cận "chính phủ với chính phủ” như của Nhật Bản", theo Forbes Asia.
Ai cũng biết rằng, trong những nội dung của một thương vụ kinh tế - theo cả lý thuyết kinh tế và thực tế hoạt động kinh doanh - thì yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm là yếu tố quyết định những yếu tố còn lại.
Vì nếu “cần và có” đã kết nối thành công, thì vấn đề tiếp theo sẽ phải là “tiền nào của đó”. Nghĩa là chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sử dụng, cấu tạo nên giá thành, hình thành nên giá trị và quyết định nên giá bán.
Yêu cầu kỹ thuật thì rất đa dạng, phụ thuộc vào chủng loại hàng hóa và nhu cầu của người mua. Thể hiện của yêu cầu kỹ thuật sẽ là các thông số kỹ thuật, có thể là kích thước, tỷ lệ các thành phần cấu tạo nên sản phẩm hay giá trị sản phẩm. Có thể hình dáng và màu sắc. Có thể kiểu dáng và mẫu mã…
Tất cả những yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm hình thành nên hồ sơ kỹ thuật. Đây là có thể là một trong những nội dung của hồ sơ đấu thầu một công trình xây dựng, một dự án chuyển giao công nghệ hay nội dung của những bản nghịệm thu hàng hóa trong quá trình sản xuất và giao nhận...
Nghĩa là yêu cầu kỹ thuật phải là điểm bắt đầu cho quá trình triển khai các hoạt động kinh tế và cũng là yếu tố quyết định cuối cùng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm được xem là trục, là lõi quyết định tính chất các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Tuy nhiên, với Trung Quốc thì yêu cầu kỹ thuật lại không được xem là yếu tố quyết định mà thay vào đó là giá cả - yếu tố tài chính mới là cơ sở quyết định cho khởi đầu một quá trình kết hợp, hợp tác, chuyển giao hay trao đổi trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế của họ với các đối tác.
Qua những hiện tượng diễn ra trong quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với các đối tác, người ta nhận ra rằng sản phẩm nào đó mà người mua, người đặt hàng, người mời thầu – người có nhu cầu - chỉ cần nêu lên ý tưởng hay ý định thì phía Trung Quốc sẽ tiếp cận để trở thành bên cung ứng bắt đầu từ yếu tố giá cả.
Chẳng hạn một công trình sân vận động, một cây cầu hay một chủng loại sản phẩm hàng hóa nào đó, khi người ta nêu nhu cầu thì Trung Quốc sẽ nêu vấn đề giá cả - trị giá sản phẩm mà người có nhu cầu có khả năng đáp ứng thì Trung Quốc sẽ cung cấp sản phẩm tương ứng.
Nghĩa là với Trung Quốc, thì mức giá nào họ sẽ đưa ra sản phẩm cho giá đó. Nghe thì có vẻ hợp lý, không có gì bất thường.
“Chi phí cao của các đề xuất bởi Nhật Bản về dự án đường sắt cao tốc đã không được Indonesia chấp nhận. Dù chi phí được xác định là có liên quan với các đề xuất cho tốc độ 300 km/h, nhưng các quan chức Indonesia cho rằng Trung Quốc cung cấp đề xuất cho tốc độ 200-250 km/h và được chấp nhận, để bảo cắt giảm chi phí khoảng 30-40% cho dự án”, Forbes Asia cho biết.
Nhưng trong sản xuất – kinh doanh thì có mức thấp nhất cho chi phí sản xuất, hình thành nên giá thành tối thiểu - tức là hao phí không thể thấp hơn được nữa. Song với Trung Quốc thì giá nào người ta cũng làm được, vì vậy sẽ có những sản phẩm mà Trung Quốc chào bán, bỏ thầu thấp hơn cả giá thành tối thiểu.
Trung Quốc làm cho đối tác không thể hiểu được và cũng không thể từ chối sự hợp tác của Trung Quốc được. Đó là lý do Trung Quốc có thể thắng thầu gần như bất cứ công trình nào mà họ tham gia.
Trung Quốc có thể vượt qua tất cả đối thủ cạnh tranh để trở thành nhà cung cấp sản phẩm thiết yếu cho bất cứ quốc gia nào nếu họ xúc tiến, hợp tác.
Tuy nhiên, khi bước vào triển khai thì mọi việc mới trở nên nan giải. Gần như tất cả các công trình của Trung Quốc làm chủ thầu hay là nhà cung cấp chính đều phát sinh tăng giá, tăng chi phí tài chính.
Nguyên nhân không khó nhận ra, những giá cả ban đầu mà Trung Quốc đưa ra hấp dẫn những chủ đầu tư là những tính toán không sát thực. Vì họ đi ngược quy trình.
Lúc này sẽ xảy ra 2 vấn đề. Một là chủ đầu tư phải tăng chi phí để hoàn tất công trình, người mua phải tăng giá để có được sản phẩm ưng ý. Hai là dừng lại, chấm dứt hợp tác, dừng công trình, ngừng việc thực hiện hợp đồng kinh tế.
Cả hai việc này đều gây thiệt hại, thậm chí thiệt hại rất lớn cho chủ đầu tư, ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh, làm giảm nhịp độ phát triển kinh tế.
Đó là nguyên nhân mà Indonesia vừa yêu cầu dừng việc triển khai công trình đường sắt cao tốc do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận.
Và đó cũng là nguyên nhân hàng lọat công trình của nhà thầu Trung Quốc đang thực hiện tại Việt Nam đội vốn rất nhiều so với giá đặt thầu, mà lý do họ đề xuất là do biến động giá cả và những phát sinh không thể lường trước, theo Financial Times.
Thực ra, ai cũng hiểu rằng Trung Quốc đã lường trước tất cả mọi việc, nên dù có được tiếp tục triển khai hay phải dừng lại, chấm dứt hợp đồng thì họ đều là người chiến thắng – chiến thắng đối thủ cạnh tranh, chiến thắng đối tác trong việc đảo ngược những quy trình kinh tế.
Hiện tượng cầu thiếu móng cầu tại Campuchia cũng là hệ quả của quy trình kinh tế ngược này.
Sản phẩm quần áo của Trung Quốc nhiễm độc, đồ chơi trẻ em do Trung Quốc sản xuất có chất độc hại cũng xuất phát từ việc lấy kinh tế tài chính là cơ sở, thay vì nền tảng ban đầu phải là kinh tế kỹ thuật.
Giá đã được xác định thì phải làm được bằng mọi cách. Thế là thay vì phải 5 bước, 6 thành phần…thì họ rút ngắn đi và đương nhiên là phải tận dụng tất cả những gì rẻ nhất, chi phí thấp nhất cho sản xuất.
Từ việc đảo ngược quy trình giữa kinh tế kỹ thuật và kinh tế tài chính, Trung Quốc đã không bám theo mục đích hai bên cùng có lợi trong hoạt động kinh doanh, từ đó họ xem nhẹ lợi ích của kinh tế xã hội.
Biểu hiện chính là làm ảnh hưởng xấu tới môi trường kinh doanh, gây xáo trộn tâm lý của người tiêu dùng, mà mục đích của họ là làm suy yếu đối thủ, hạ gục đối tác, phục vụ cho ý đồ toàn cục của họ.
Người mua dễ tính
Đối với những người kinh doanh, nhất là mới bắt đầu triển khai những công trình đầu tiên, sản xuất những loạt sản phẩm đầu tiên mà gặp được người mua hay đặt hàng là khách hàng Trung Quốc thì có thể nói ai cũng hạnh phúc vì họ thường là những người mua dễ dãi.
Khi ở vai trò người bán hàng, người cung ứng họ xem nhẹ yếu tố kỹ thuật của sản phẩm thì khi mua hàng họ cũng thể hiện dễ dãi như vậy.
Nhiều người sẽ đặt câu hỏi là nếu là người bán thì họ “gian” để có lợi, còn là người mua thì họ phải “kỹ” thì mới có sản phẩm ưng ý vì họ là người thụ hưởng giá trị, giá trị sử dụng của sản phẩm và họ là “Thượng Đế” mà.
Tuy nhiên, người Trung Quốc mua hàng, nhất là đặt mua hàng thì hầu hết họ đưa ra kiểu, loại sản phẩm mà họ cần đều theo cảm nhận.
Ngay cả việc đặt những đơn hàng lớn, nhất là những mặt hàng sản xuất không đồng loạt thì người Trung Quốc cũng thường không đưa ra bất cứ văn bản yêu cầu kỹ thuật nào.
Nhà sản xuất – người cung ứng cứ chào hàng, cứ sản xuất mẫu, người ta cảm nhận được, nhìn thấy được là đồng ý cho sản xuất. Trong quá trình sản xuất người mua cũng rất ít đến kiểm tra, giám sát.
Người bán hàng - người cung ứng cảm thấy rất thoải mái vì không bị giám sát ngặt nghèo của người mua và đương nhiên tiến độ sản xuất được đẩy nhanh, thời gian giao hàng sẽ đảm bảo chính xác, thậm chí còn hoàn tất trước thời hạn rất nhiều.
Tuy nhiên, khi đơn đặt hàng đã được hoàn tất, bên cung ứng đã hoàn thành trách nhiệm của mình thì sẽ nảy sinh vấn đề.
Dù Thủ tướng Shinzo Abe rất cố gắng nhưng vẫn không giúp nhà thầu Nhật Bản được Tổng thống Joko Widodo lựa chọn, vì Trung Quốc đã thắng do đi ngược quy trình. Ảnh: Forbes.com.
Đến lúc này, sẽ xảy ra tình huống là việc kiểm tra và tái kiểm tra sản phẩm hàng hóa làm cho người bán – nhà sản xuất căng thẳng bởi người mua kiểm tra, kiểm định bằng cảm nhận của mắt thường, không có tiêu chuẩn kỹ thuật để đối chiếu.
Nếu thị trường đang hút hàng, người mua sẽ rất dễ chịu, nhất là với những lô hàng đầu tiên.
Và hầu hết sự hợp tác được cảm nhận là gắt kết hơn, nâng tầm lên bằng những đơn đặt hàng tiếp theo với những số lượng mơ ước. Nhà sản xuất phải tập trung mọi nguồn lực để đáp ứng đơn hàng.
Đây mới thực sự là một vấn đề rất nguy hiểm. Vì không theo quy chuẩn kỹ thuật nên tất cả những sản phẩm sản xuất ra đều có thể không được người mua Trung Quốc nghiệm thu, không cho xuất giao nếu không vừa mắt họ.
Đặc biệt, khi thị trường giảm sức mua, ế ẩm hay vì người mua bực mình hoặc vì một nguyên nhân “vô tình” nào đó thì sự suôn sẻ, dễ chịu sẽ không còn nữa mà thay vào đó sẽ là hình ảnh những người mua sành sỏi, lọc lừa.
Họ kiểm định và thường có kết quả là không nghiệm thu. Do không có quy chuẩn kỹ thuật nên nhà sản xuất luôn bị thua thiệt vì những cái lỗi “trời ơi” nhưng không thể phản bác được.
Có thể người mua sẽ cho sửa lại theo ý của họ, nhưng chi phí thì khủng khiếp và nhà sản xuất cũng đã hết năng lực cho việc ấy. Hoặc người mua sẽ đề nghị giảm giá sản phẩm để họ có thể tiêu thụ. Trong tình thế này, chọn đường nào, hướng nào cũng “chết”.
Và đó là nguyên nhân khiến nhiều đối tác của Trung Quốc bị dồn vào thế đường cùng không cón cách lựa chọn nào khác là chấp nhận đề nghị của phía Trung Quốc.
Thế là từ những người mua dễ tính, người Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những “con cáo già” trên thương trường mà mục đích của họ không phải chỉ là những lợi ích có được do mua bán, mà còn là những điều sâu xa mà họ hướng tới.
Có một điều cực kỳ nguy hiểm, đó là dựa vào dân số hơn 1 tỷ người nên hầu hết những đơn hàng mà Trung Quốc đặt ra rất lớn, vượt qua xa nhu cầu của họ, nhưng hầu hết các đối tác không hề nghi ngờ điều này.
Có thể nói rằng đây là cách Trung Quốc đánh gục đối thủ nhanh nhất khi họ đã dồn toàn lực vào đáp ứng nhu cầu của khách hàng Trung Quốc. Nếu gặp bất trắc thì đương nhiên là phá sản. Mọi việc lúc này phập phù theo cảm xúc của người mua.
Người viết đã từng tiếp xúc với những doanh nhân mang tên XC, LT, XB tại quận Tân Bình, Tp.Hồ Chí Minh – có người đã mở cả trung tâm mua bán và giới thiệu sản phẩm tại Bằng Tường, Vân Nam, Trung Quốc. Họ đều cho rằng làm ăn với Trung Quôc là “may nhờ rủi chịu”.
Khách hàng Trung Quốc đặt mua sản phẩm đồ gỗ gia dụng của họ nhưng không có tiêu chuẩn về màu sắc – không có bảng màu đối chiếu. Không có tiêu chuẩn về độ nhám bóng – nước nhám cuối cùng là nhám số bao nhiêu 400 hay 600. Không có tiêu chuẩn về vật liệu hoàn tất như sơn bóng loại nào PU hay NC. Không có tiêu chuẩn về độ ẩm gỗ là bao nhiêu %... Nói chung là khách hàng Trung Quốc chỉ nhìn bằng mắt và sờ bằng tay là quyết định.
Với một hay một vài sản phẩm có sẵn thì như vậy không có nguy cơ gây ra hậu họa, nhưng với số lượng lớn thì rõ ràng người đặt hàng đã đưa người sản xuất vào cửa tử.
Tuy nhiên, do khởi đầu bằng những sự dễ tính, lại có đơn đặt hàng lớn và không bị giám sát trong quá trình sản xuất nên nhiều chủ hàng đã rất mơ hồ vể thủ đoạn nguy hiểm này và thế là sập bẫy.
Gần đây hàng loạt những công trình do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phát sinh nhiều vấn đề liên quan tới chất lượng kém và giá cả tăng. Hàng loạt những mặt hàng do Trung Quốc sản xuất bị người tiêu dùng trên toàn thế giới phản ứng về chất lượng – đó là một trong những vấn nạn đối với doanh nghiệp, với thương nhân Trung Quốc.
Thoạt nhìn qua ai cũng có thể cho rằng đó là sự gian rối, là vi phạm pháp luật ngay tại Trung Quốc nhưng được Chính phủ Trung Quốc bao che. Thực ra nó không đơn giản như vậy, vì nều chính phủ có sự dung túng cho những hành vi vi phạm pháp luật đó thì khi chính phủ hết dung túng sự việc sẽ trở nên tốt hơn, ổn hơn.
Bản chất sự việc phức tạp hơn nhiều, nhưng lại không phải là vi phạm pháp luật về kinh doanh gian dối nên không bị Chính phủ Trung Quốc xử phạt, mà đó là do xuất phát từ cơ chế đảo ngược quy trình trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc.
Đây là một trong những công cụ nguy hiểm mà người ta có thể nhận ra từ chính phủ đến doanh nghiệp và doanh nhân Trung Quốc đều sử dụng. Mục đích của họ là làm suy yếu đối phương ở mọi cấp độ và đều hướng tới phục vụ cho ý đồ tthống trị thế giới của họ.
Ngọc Việt
-
Thế lực thống trị mới đang bắt đầu
(GDVN) - Quan hệ thương mại với Trung Quốc, dù xuất siêu hay nhập siêu cũng đều chịu thiệt đơn thiệt kép bởi chính sách tỷ giá phi thị trường.
Lý do Indonesia đột ngột bắt nhà thầu Trung Quốc dừng thi công đường sắt cao tốc
(GDVN) - "Chúng tôi phải bảo đảm chắc chắn, nếu công trình xảy ra vấn đề gì chính phủ không thể gánh nổi trách nhiệm trước dân".
Nước cờ lợi hại
(GDVN) - Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới.
-(GDVN) - Người Trung Quốc không dùng tiền của mình làm hại đối tác, mà họ dùng ngay tiền của của đối tác làm công cụ trừng phạt đối tác. Thậm chí họ còn kiếm lợi...
Ngày 18/7/2013, Trung tâm Nghiên cứu Các vấn đề xã hội, thái độ và xu hướng dư luận xã hội toàn cầu của Mỹ (PEW), đã công bố kết quả khảo sát tại 38 quốc gia trên toàn thế giới về thái độ đối với Trung Quốc. Trong đó có tới 26/38 nước, người dân không thích cách làm ăn của Trung Quốc. Họ cho rằng Trung Quốc chỉ xem trong lợi ích của mình mà quên, mà xem nhẹ lợi ích của đối tác.
Tại một số quốc gia, số người dân không xem Trung Quốc là đối tác tin cậy chiếm tỷ lệ rất cao như tại Nhật Bản (89%), Hàn Quốc (79%), Úc (79%), Tây Ban Nha (85%), Ý (83%), Pháp (83%), Anh (82%), Israel (79%), Jordan (71%), Thổ Nhĩ Kỳ (68%), Hoa Kỳ (60%), Kenya (77%), Nigeria (70%), Nam Phi (67%), Senegal (62%), Argentina (71%) và Chile (65%).
Đặc biệt, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Brazil nhưng lại có tới hơn một nửa số người Brazil được hỏi (51%) không thích cách làm ăn của Trung Quốc. Và qua những con số đó đã lý giải tại sao người Trung Quốc lo lắng về hình ảnh của họ đang ngày càng xấu đi ở nước ngoài.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường – những lãnh đạo có nhiệm vụ làm thay đổi hình ảnh của Trung Quốc trong cộng đồng quốc tế. Ảnh: EPA.
Qua khảo sát của PEW với người dân Trung Quốc thì 56% người dân nước này được hỏi cho rằng, đất nước của họ nên được tôn trọng hơn. Tuy nhiên, mong muốn là như vậy nhưng người Trung Quốc ra làm ăn ở nước ngoài lại không hướng tới việc thay đổi hình ảnh của họ mà thậm chí còn làm xấu hơn với những cách thức làm ăn không minh bạch của mình.
Trong số những thủ thuật, thủ đoạn mà Trung Quốc thực hiện ở nước ngoài có việc tạo những “cơn sốt mơ hồ” nhưng cực nóng trên thị trường. Đây là một trong những thủ đoạn hết sức nguy hiểm, với những chiêu trò có thể gây ra nhiều nguy hại rất lớn cho đối tác mà đích hướng tới là làm cho đối tác suy yếu và kiệt quệ.
Những hàng hóa đặc biệt
Tại một số quốc gia được xem là bạn hàng của Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, cứ thỉnh thoảng lại lên cơn sốt về việc một loại sản phẩm nào đó với nhu cầu và giá cả tăng đột biến, vượt quá sức tưởng tượng của người cung ứng. Đặc biệt những mặt hàng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của nước sở tại càng lớn bao nhiêu thì mức độ sốt càng dữ dội bấy nhiêu.
Có những sản phẩm đang được trao đổi, mua bán rất bình thường bỗng dưng dự luận đưa lên thành những loại hàng hóa đặc biệt, giá cả tăng lên theo cấp số nhân, thị trường liên tục nóng bởi nhu cầu liên tục gia tăng. Và loại hàng hóa này còn đặc biệt ở cả cách mua cách bán, cách tiếp cận và kiểm tra hàng hóa.
Có những mặt hàng vốn là những thứ hết sức thông thường và không bao giờ người ta nghĩ nó có thể trở thành hàng hóa, bỗng dưng có những đơn đặt hàng với những yêu cầu đặc biệt và giá cả bất ngờ. Dư luận xôn xao, cơ quan quản lý nhà nước không thể can thiệp và nền kinh tế có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nhưng tại sao lại có hiện tượng bất thường ấy thì từ các chuyên gia nghiên cứu về các lĩnh vực kinh tế tìm hiểu nhu cầu đến chuyên gia về kỹ thuật tìm hiểu về giá trị sử dụng, thậm chí cả chuyên gia trong lĩnh vực y khoa nghiên cứu về công dụng của sản phẩm, hàng hóa, tất cả đều bó tay, không thể lý giải được.
Người có nhu cầu có thường không xuất hiện, mà chủ yếu là qua bộ phận trung gian tìm hiểu thị trường và bộ phận thu gom – thương lái. Và qua những lực lượng này thì dư luận chỉ có được những thông tin hết sức mơ hồ về mục đích mua bán và công dụng sản phẩm.
Doanh nhân Trung Quốc – lực lượng góp phần làm xấu hình ảnh Trung Quốc trên thế giới. Ảnh: Bloomberg.
Song chỉ biết rằng thị trường trong thời kỳ những “cơn sốt mơ hồ” hoành hành thì vô cùng nóng. Với những sản phẩm dạng tư liệu sản xuất thì nó nóng còn hơn là mua bản quyền sáng chế hay bí mật gia truyền của những mặt hàng đang hút như “cơm ăn nước uống” hàng ngày. Còn với những mặt hàng tiêu dùng thí nó nóng như việc mua bán sản phẩm “cải lão hoàn đồng”.
Và cứ như thế, thị trường nghiêng ngả theo những bí mật của người mua mà không bao giờ được bật mí. Thậm chí, đến khi kết thúc những cơn sốt hay loại hàng hóa đó không còn được mua bán nữa thì thông tin về mục đích, công dụng của nó vẫn nằm trong màn bí mật Song có lẽ người bán cũng chẳng quan tâm tới những bí mật đó, chỉ cần bán được hàng với giá cao.
Tuy nhiên, thực ra đằng sau những cơn sốt ấy là những kế hoạch được vẽ ra một cách bài bản và cực kỳ thâm sâu, mà mục tiêu của nó là móc túi những đối tác trực tiếp, còn mục đích là làm thiệt hại cho cả một nền kinh tế với những cơn sốt hết sức mơ hồ ấy, theo Forbes Asia ngày 24/9/2014.
Người ta mua lá mãng cầu non, người ta mua râu bắp ngô non hay người ta mua móng trâu, lá vải, đỉa… để làm gì thì không ai biết được, hiểu được. Y khoa với những công cụ hỗ trợ lâm sàng kỹ thuật cao cũng không thể tìm ra đâu là những hàm lượng tố chất, hợp chất có thể tạo nên những loại dinh dưỡng hay biệt dược mà công dụng của nó có thể làm tăng sức lực cho con người.
Tuy nhiên, có một điều ai cũng nhận ra ngay đó là sự chuyển đổi mục đích các hoạt động kinh tế diễn ra một cách tự nhiên nhưng rất nguy hiểm. Đó là người trồng mãng cầu không phải để lấy quả mà chỉ để lấy lá non, người ta trồng ngô không phải để lấy lương thực phục vụ cho sản xuất và chăn nuôi mà chỉ để lấy râu non bán.
Và thế là hai hiệu ứng xấu với nền kinh tế xảy ra. Thứ nhất, các kế hoạch kinh tế vĩ mô bị phá vỡ, thị trường sản phẩm thiếu hụt và nguy cơ xảy ra hàng lọat những hợp đồng kinh tế có bị vi phạm và phải bồi thường. Doanh nghiệp lao đao và mất uy tín. Nền kinh tế mất đi sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, đời sống kinh tế - xã hội bị xáo trộn khi cơn sốt đang ở mức cao trào và bị đảo lộn khi cơn sốt hạ nhiệt và chấm dứt. Mà cụ thể là tâm lý lo âu và chờ đợi của những nhà cung ứng không chuyên nghiệp cho một nhu cầu tự phát bất thường.
Lo âu là không biết nhu cầu tiếp theo là mặt hàng nào. Và chờ đợi những cơn sốt trong tương lai.
Hậu quả là một nền sản xuất sẽ bị thu hẹp – người ta không biết sản xuất sản phẩm gì, trồng cây gì, nuôi con gì – thậm chí người ta không tập trung nhiều vào sản xuất bởi nguồn lợi từ hoạt động thương mại trong thời kỳ của những “cơn sốt mơ hồ” làm cho người sản xuất, nhà sản xuất giảm động lực – sức mạnh kinh tế nội lực cũng từ đó mà suy giảm.
Người mua cũng là người bán
Các quốc gia trên thế giới cho rằng, Trung Quốc sử dụng tiềm lực của một nền kinh tế lớn mà thực hiện những chính sách làm suy yếu những nền kinh tế nhỏ, không ngang bằng trong quan hệ kinh tế với họ. Người dân các nước trên thế giới cho rằng người Trung Quốc dùng tiền để phá hoại kinh tế đất nước họ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của họ.
Nếu sự việc diễn ra đúng như vậy thì vẫn còn may mắn. Song Trung Quốc không sử dụng nguồn lực vào việc triệt hạ đối thủ, người Trung Quốc không dùng tiền của mình làm hại đối tác, mà họ dùng ngay tiền của của đối tác làm công cụ trừng phạt đối tác. Thậm chí họ còn kiếm lợi trên những hoạt động ấy – ngoài những tác động xấu đến kinh tế - xã hội của nước sở tại.
Thương lái Trung Quốc thường tìm mua những thứ lạ đời, ảnh: Phuninh.gov.vn.
“Có ba giai đoạn để hiểu về chính sách của Trung Quốc đối với việc giải quyết bất cứ vấn đề gì là: Tuyên bố về ý định, thiết kế chính sách và thực hiện chính sách. Nhưng điều quan trọng cần phải nhớ và luôn luôn phải nhớ, với Trung Quốc thì giá trị của vấn đề chỉ nằm ở giai đoạn cuối cùng của vấn đề - thực hiện”, Forbes Asia bình luận.
Thủ thuật mà người Trung Quốc thực hiện là đóng vai cả người mua và người bán chỉ trong một nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Và đây chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm nên sự bí mật không bao giờ được bật mí – nguyên nhân tao nên những “cơn sốt mơ hồ”.
Khi biết điều này thì ngươi ta mới hiểu rằng người mua sản phẩm không quan tâm đến công dụng của nó.
Bắt đầu là việc tạo dư luận về nhu cầu rất lớn, rất gấp về một sản phẩm nào đó khởi nguồn cho hoạt động cung – cầu. Tiếp theo là dùng một khoản tài chính rất nhỏ (khoản này sau đó sẽ được thu về hết) tiếp sức cho ít nhất 3 đối tác là lực lượng trung gian - thương lái. Tạm gọi là đối tác A, đối tác B và đối tác C.
Chủ hàng Trung Quốc sẽ đưa thời hạn giao hàng khác nhau cho 3 đối tác theo thứ tự A, B, C với nguyên tắc, đối tác được đặt hàng trước tiên thì giao cuối cùng, đối tác được đặt hàng cuối cùng thì giao trước tiên. Và động thái tiếp theo là hối thúc C giao hàng. Vì đã tính toán nên chủ hàng biết C không thể có hàng để giao đúng thời hạn và có nguy cơ phải bồi thường.
Lúc này người mua “trong bóng tối” thông qua lực lương trung gian khác – tiếp thị - thông tin về khả năng cung ứng hàng hóa của đối tác B cho C biết. Do B chưa tới thời hạn giao hàng nên sẽ bán cho C, còn C sợ bồi thường nên phải mua giá cao để giao trót lọt lô hàng đầu tiên. Thế là B bàn hàng cho C mà quên rằng, người mua đã tính toán là B sẽ lại có nguy cơ như C.
Và B sẽ mua hàng của A tương tự như C mua lại của B vậy. Đến lượt A cũng thế, nhưng phải mua từ chính chủ hàng. Thế là A, B, C cứ chạy lòng vòng theo sự điều khiển của chủ hàng Trung Quốc với sức ép về thời gian giao hàng, số lượng hàng hóa và giá cả hàng hóa theo hướng có lợi cho họ và đưa đối tác vào chân tường với sự lựa chọn “vớt vát được đồng nào hay đồng đó”.
Khi chủ hàng thấy nguy cơ bại lộ và mục đích cũng đã đạt được thì mọi việc chấm dứt một cách đột ngột và hậu quả là hàng kho sản phẩm không có người mua. Thiệt hại vô cùng lớn cho người sản xuất và tầng nấc trung gian. Kinh tế - xã hội cũng vì vậy mà có những hỗn loạn với những hiện tượng nợ nần, phá sản.
Hình ành cố Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Tập Cận Bình trên một biểu trưng của người dân Trung Quốc. Ảnh: picture.dot.news.
Theo người viết thì có thể trong số liệu về xuất khẩu của hải quan các cửa khẩu tại Việt Nam có lẽ không có số liệu về những mặt hàng đặc biệt này được xuất qua Trung Quốc hoặc nếu có thì cũng mang tính chiếu lệ. Nó sẽ ít hơn rất rất nhiều số lượng sản phẩm được cung ứng bởi những đối tác và thực ra có thể nó vẫn nằm tại Việt Nam, nhưng không còn ai quan tâm tới nữa.
Hiện tượng giá gỗ sưa tăng đột biến gấp hàng chục lần chỉ sau vài tháng hay hàng ngàn tấn rễ gỗ trắc tồn kho tại Việt Nam, không được thương nhân Trung Quốc cho xuất vào năm 2007 - 2008…cũng có phần nguyên nhân bởi chiêu thức chủ hàng Trung Quốc đóng vai cả người mua và người bán.
Sau một thời gian nguôi ngoai thì lại có một cơn sốt về một mặt hàng nào đó mà không ai biết trước, lường trước được. Song có nhiều người ở nhiều quốc gia vẫn ngả nghiêng theo những cơn sốt mơ hồ ấy mà hậu quả luôn là mất tiền mất của, mất cả sức lực và niềm tin.
Vì vậy, có người cho rằng có thể sắp tới sẽ có một cơn sốt về xe gắn máy Trung Quốc đã qua sử dụng hay hàng giá rẻ của Trung Quốc đã qua sử dụng tại Việt Nam và các quốc gia trên thế giới với chiêu thức mua giá cao và bán giá rất cao. Hậu quả là tiền của người Việt Nam và người dân các quốc gia khác trên thế giới sẽ chảy vào túi thương nhân Trung Quốc.
Có một điều rất lợi hại là những mặt hàng mà người Trung Quốc hướng vào gây nên những cơn sốt mơ hồ ở nước ngoài hầu hết không phải là những mặt hàng quốc cấm hay bị giới hạn mua bán, trao đổi. Do vậy, họ vô tư thực hiện chiêu thức của mình mà không sợ bị cơ quan thực thi pháp luật nước sở tại “sờ gáy” hay ngăn cản.
Có thể thấy rằng, Trung Quốc có thể sử dụng bất cứ công cụ nào, ở bất cứ tầng nấc nào, với bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ đối ngoại, nhằm mục tiêu làm suy yếu đối tác, khiến đối tác phụ thuộc, lệ thuộc vào mình, từ đó điều khiển đối tác phục vụ cho ý đồ thống trị của họ, theo The Guardian.
Trung Quốc chỉ sử dụng những công cụ sức mạnh để thực hiện tấn công trực diện nhưng chiến thắng thì chưa thể khẳng định, còn với những trở lực tiềm tàng, Trung Quốc sử dụng những công cụ mềm song rất nguy hiểm, làm suy yếu đối phương bằng những đòn tấn công âm thầm mà khi bị hạ nốc ao người ta mới nhận ra kẻ thù chính là những người bạn hàng quen thuộc.
Quy trình ngược tinh vi
(GDVN) - Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được.
Nước cờ lợi hại
(GDVN) - Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới.
-Quy trình ngược tinh vi
(GDVN) - Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được.
Ngày 1/11/2015, Forbes Asia nêu lại câu hỏi mà Chính phủ Nhật Bản đã tư vấn họ: Tại sao chúng ta lại thất bại trước Trung Quốc trong việc đấu thầu dự án đường sắt cao tốc tại Indonesia?
Sau khi phân tích những nội dung mà Trung Quốc và Nhật Bản đưa ra với chủ đầu tư Indonesia, Forbes Asia đã nhận định: Bảy năm nỗ lực của Nhật Bản đã không mang lại kết quả gì.
Dự án thuộc về Trung Quốc không chỉ là một thành công từ góc độ thương mại thông thường, mà về mặt ngoại giao kinh tế, đó là một bước tiến có ý nghĩa sâu sắc đối với Trung Quốc. Còn đối với Nhật Bản, đây là một dịp để họ suy nghĩ lại về các chính sách và chiến lược của mình ở châu Á.
Điều đó cho thấy Trung Quốc đã sử dụng nhiều công cụ phục vụ cho ý đồ toàn cục của họ và họ đã có những thành công. Trong quá trình vận dụng, có những công cụ của Trung Quốc mà đối thủ, đối tác có thể nhận ra được và có thể có biện pháp đối phó.
Nhưng Bắc Kinh cũng có những công cụ người ta không thể tìm ra biện pháp hóa giải mà chỉ thể hiện thái độ bức xúc, thậm chí căm ghét, tẩy chay mà thôi.
Thủ tướng Lý Khắc Cường – một trong những người hoạch định chính sách kinh tế của Trung Quốc, trong đó có những công cụ khống chế đối tác, đánh gục đối thủ. Ảnh: Reuters/SCMP.
Đặc biệt, Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được. Vì vậy những công cụ này thường làm cho đối thủ “ngã ngựa”, còn đối tác thì sẵn sàng tự nguyện “chui đầu vào rọ” mà vẫn vui mừng, vẫn tin là mình có lợi, mình thắng lợi.
Đã có rất nhiều nền kinh tế lao đao vì vấn nạn này, đã có hàng loạt thực thể kinh tế “chết đứng” vì những công cụ đặc biệt này của chính phủ Trung Quốc, của doanh nghiệp Trung Quốc và của thương nhân Trung Quốc.
Công cụ gì mà đặc biệt quá vậy? Công cụ gì mà có thể giúp Trung Quốc chiến thắng cả những chuyên gia kinh tế bậc thầy của Nhật Bản vậy?
Qua nghiên cứu hàng loạt những vấn đề kinh tế, những hoạt động thương mại, những quan hệ hợp tác…người viết cho rằng Trung Quốc đã áp dụng quy trình ngược trong hoạt động kinh tế. Hệ quả của nó thể hiện ra người Trung Quốc là những người làm ăn dễ dãi, thoải mái trong cả vai trò người bán – người cung ứng và trong cả vai trò người mua – người tiêu thụ.
Và đó là cách thức Trung Quốc ru ngủ đối phương và đưa họ vào bẫy.
Người bán dễ chịu
Trong quan hệ kinh tế, từ thăm dò đến chính thức đặt vấn đề, người Trung Quốc thường xúc tiến rất nhanh lẹ. Đó là một trong những yếu tố làm cho nhiều người rất thích và mong muốn hợp tác, trở thành đối tác với Trung Quốc và đương nhiên là gạt bỏ những đối tác tiềm năng khác để dành ưu ái cho Trung Quốc.
Trong hoạt động kinh doanh, cơ hội vụt đến rồi vụt đi nên việc nắm bắt và khai thác được cơ hội là một trong những yếu tố làm nên thành công cho doanh nghiệp, doanh nhân và cho cả nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong quan hệ làm ăn với Trung Quốc thì mọi việc không đơn giản như vậy. Việc nhanh và chậm với Trung Quốc đều có ý đồ mà một phần là tối đa hóa lợi ích, và một phần là đánh gục cả đối thủ lẫn đối tác.
Trong quan hệ hợp tác, khi kết nối thành công thì quá trình hợp tác bắt đầu bằng việc triển khai nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Người ta thấy phía Trung Quốc luôn rất sốt sắng trong việc cho ra những sản phẩm của sự hợp tác.
Đó là hồ sơ chào hàng với những nội dung mặc định như mẫu mã, chủng loại, số lượng, giá cả, thời gian giao nhận, cách thức thanh toán và yêu cầu kỹ thuật.
Những công trình của nhà thầu Trung Quốc thường thắng thầu với giá bỏ thầu rẻ, sau đó phát sinh tăng lên khi triển khai dự án. Ảnh: The Telegraph.
“Ông Teten Maskuki, Trưởng bộ phận hành chính của Tổng thống Indonesia cho rằng, Joko Widodo quyết định chọn Trung Quốc chủ yếu dựa vào cách tiếp cận chính thức của Trung Quốc rất thực tế và nhanh lẹ, kiểu "doanh nghiệp với doanh nghiệp", trái ngược với kiểu tiếp cận "chính phủ với chính phủ” như của Nhật Bản", theo Forbes Asia.
Ai cũng biết rằng, trong những nội dung của một thương vụ kinh tế - theo cả lý thuyết kinh tế và thực tế hoạt động kinh doanh - thì yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm là yếu tố quyết định những yếu tố còn lại.
Vì nếu “cần và có” đã kết nối thành công, thì vấn đề tiếp theo sẽ phải là “tiền nào của đó”. Nghĩa là chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sử dụng, cấu tạo nên giá thành, hình thành nên giá trị và quyết định nên giá bán.
Yêu cầu kỹ thuật thì rất đa dạng, phụ thuộc vào chủng loại hàng hóa và nhu cầu của người mua. Thể hiện của yêu cầu kỹ thuật sẽ là các thông số kỹ thuật, có thể là kích thước, tỷ lệ các thành phần cấu tạo nên sản phẩm hay giá trị sản phẩm. Có thể hình dáng và màu sắc. Có thể kiểu dáng và mẫu mã…
Tất cả những yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm hình thành nên hồ sơ kỹ thuật. Đây là có thể là một trong những nội dung của hồ sơ đấu thầu một công trình xây dựng, một dự án chuyển giao công nghệ hay nội dung của những bản nghịệm thu hàng hóa trong quá trình sản xuất và giao nhận...
Nghĩa là yêu cầu kỹ thuật phải là điểm bắt đầu cho quá trình triển khai các hoạt động kinh tế và cũng là yếu tố quyết định cuối cùng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm được xem là trục, là lõi quyết định tính chất các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Tuy nhiên, với Trung Quốc thì yêu cầu kỹ thuật lại không được xem là yếu tố quyết định mà thay vào đó là giá cả - yếu tố tài chính mới là cơ sở quyết định cho khởi đầu một quá trình kết hợp, hợp tác, chuyển giao hay trao đổi trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế của họ với các đối tác.
Qua những hiện tượng diễn ra trong quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với các đối tác, người ta nhận ra rằng sản phẩm nào đó mà người mua, người đặt hàng, người mời thầu – người có nhu cầu - chỉ cần nêu lên ý tưởng hay ý định thì phía Trung Quốc sẽ tiếp cận để trở thành bên cung ứng bắt đầu từ yếu tố giá cả.
Chẳng hạn một công trình sân vận động, một cây cầu hay một chủng loại sản phẩm hàng hóa nào đó, khi người ta nêu nhu cầu thì Trung Quốc sẽ nêu vấn đề giá cả - trị giá sản phẩm mà người có nhu cầu có khả năng đáp ứng thì Trung Quốc sẽ cung cấp sản phẩm tương ứng.
Nghĩa là với Trung Quốc, thì mức giá nào họ sẽ đưa ra sản phẩm cho giá đó. Nghe thì có vẻ hợp lý, không có gì bất thường.
“Chi phí cao của các đề xuất bởi Nhật Bản về dự án đường sắt cao tốc đã không được Indonesia chấp nhận. Dù chi phí được xác định là có liên quan với các đề xuất cho tốc độ 300 km/h, nhưng các quan chức Indonesia cho rằng Trung Quốc cung cấp đề xuất cho tốc độ 200-250 km/h và được chấp nhận, để bảo cắt giảm chi phí khoảng 30-40% cho dự án”, Forbes Asia cho biết.
Nhưng trong sản xuất – kinh doanh thì có mức thấp nhất cho chi phí sản xuất, hình thành nên giá thành tối thiểu - tức là hao phí không thể thấp hơn được nữa. Song với Trung Quốc thì giá nào người ta cũng làm được, vì vậy sẽ có những sản phẩm mà Trung Quốc chào bán, bỏ thầu thấp hơn cả giá thành tối thiểu.
Trung Quốc làm cho đối tác không thể hiểu được và cũng không thể từ chối sự hợp tác của Trung Quốc được. Đó là lý do Trung Quốc có thể thắng thầu gần như bất cứ công trình nào mà họ tham gia.
Trung Quốc có thể vượt qua tất cả đối thủ cạnh tranh để trở thành nhà cung cấp sản phẩm thiết yếu cho bất cứ quốc gia nào nếu họ xúc tiến, hợp tác.
Tuy nhiên, khi bước vào triển khai thì mọi việc mới trở nên nan giải. Gần như tất cả các công trình của Trung Quốc làm chủ thầu hay là nhà cung cấp chính đều phát sinh tăng giá, tăng chi phí tài chính.
Nguyên nhân không khó nhận ra, những giá cả ban đầu mà Trung Quốc đưa ra hấp dẫn những chủ đầu tư là những tính toán không sát thực. Vì họ đi ngược quy trình.
Lúc này sẽ xảy ra 2 vấn đề. Một là chủ đầu tư phải tăng chi phí để hoàn tất công trình, người mua phải tăng giá để có được sản phẩm ưng ý. Hai là dừng lại, chấm dứt hợp tác, dừng công trình, ngừng việc thực hiện hợp đồng kinh tế.
Cả hai việc này đều gây thiệt hại, thậm chí thiệt hại rất lớn cho chủ đầu tư, ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh, làm giảm nhịp độ phát triển kinh tế.
Đó là nguyên nhân mà Indonesia vừa yêu cầu dừng việc triển khai công trình đường sắt cao tốc do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận.
Và đó cũng là nguyên nhân hàng lọat công trình của nhà thầu Trung Quốc đang thực hiện tại Việt Nam đội vốn rất nhiều so với giá đặt thầu, mà lý do họ đề xuất là do biến động giá cả và những phát sinh không thể lường trước, theo Financial Times.
Thực ra, ai cũng hiểu rằng Trung Quốc đã lường trước tất cả mọi việc, nên dù có được tiếp tục triển khai hay phải dừng lại, chấm dứt hợp đồng thì họ đều là người chiến thắng – chiến thắng đối thủ cạnh tranh, chiến thắng đối tác trong việc đảo ngược những quy trình kinh tế.
Hiện tượng cầu thiếu móng cầu tại Campuchia cũng là hệ quả của quy trình kinh tế ngược này.
Sản phẩm quần áo của Trung Quốc nhiễm độc, đồ chơi trẻ em do Trung Quốc sản xuất có chất độc hại cũng xuất phát từ việc lấy kinh tế tài chính là cơ sở, thay vì nền tảng ban đầu phải là kinh tế kỹ thuật.
Giá đã được xác định thì phải làm được bằng mọi cách. Thế là thay vì phải 5 bước, 6 thành phần…thì họ rút ngắn đi và đương nhiên là phải tận dụng tất cả những gì rẻ nhất, chi phí thấp nhất cho sản xuất.
Từ việc đảo ngược quy trình giữa kinh tế kỹ thuật và kinh tế tài chính, Trung Quốc đã không bám theo mục đích hai bên cùng có lợi trong hoạt động kinh doanh, từ đó họ xem nhẹ lợi ích của kinh tế xã hội.
Biểu hiện chính là làm ảnh hưởng xấu tới môi trường kinh doanh, gây xáo trộn tâm lý của người tiêu dùng, mà mục đích của họ là làm suy yếu đối thủ, hạ gục đối tác, phục vụ cho ý đồ toàn cục của họ.
Người mua dễ tính
Đối với những người kinh doanh, nhất là mới bắt đầu triển khai những công trình đầu tiên, sản xuất những loạt sản phẩm đầu tiên mà gặp được người mua hay đặt hàng là khách hàng Trung Quốc thì có thể nói ai cũng hạnh phúc vì họ thường là những người mua dễ dãi.
Khi ở vai trò người bán hàng, người cung ứng họ xem nhẹ yếu tố kỹ thuật của sản phẩm thì khi mua hàng họ cũng thể hiện dễ dãi như vậy.
Nhiều người sẽ đặt câu hỏi là nếu là người bán thì họ “gian” để có lợi, còn là người mua thì họ phải “kỹ” thì mới có sản phẩm ưng ý vì họ là người thụ hưởng giá trị, giá trị sử dụng của sản phẩm và họ là “Thượng Đế” mà.
Tuy nhiên, người Trung Quốc mua hàng, nhất là đặt mua hàng thì hầu hết họ đưa ra kiểu, loại sản phẩm mà họ cần đều theo cảm nhận.
Ngay cả việc đặt những đơn hàng lớn, nhất là những mặt hàng sản xuất không đồng loạt thì người Trung Quốc cũng thường không đưa ra bất cứ văn bản yêu cầu kỹ thuật nào.
Nhà sản xuất – người cung ứng cứ chào hàng, cứ sản xuất mẫu, người ta cảm nhận được, nhìn thấy được là đồng ý cho sản xuất. Trong quá trình sản xuất người mua cũng rất ít đến kiểm tra, giám sát.
Người bán hàng - người cung ứng cảm thấy rất thoải mái vì không bị giám sát ngặt nghèo của người mua và đương nhiên tiến độ sản xuất được đẩy nhanh, thời gian giao hàng sẽ đảm bảo chính xác, thậm chí còn hoàn tất trước thời hạn rất nhiều.
Tuy nhiên, khi đơn đặt hàng đã được hoàn tất, bên cung ứng đã hoàn thành trách nhiệm của mình thì sẽ nảy sinh vấn đề.
Dù Thủ tướng Shinzo Abe rất cố gắng nhưng vẫn không giúp nhà thầu Nhật Bản được Tổng thống Joko Widodo lựa chọn, vì Trung Quốc đã thắng do đi ngược quy trình. Ảnh: Forbes.com.
Đến lúc này, sẽ xảy ra tình huống là việc kiểm tra và tái kiểm tra sản phẩm hàng hóa làm cho người bán – nhà sản xuất căng thẳng bởi người mua kiểm tra, kiểm định bằng cảm nhận của mắt thường, không có tiêu chuẩn kỹ thuật để đối chiếu.
Nếu thị trường đang hút hàng, người mua sẽ rất dễ chịu, nhất là với những lô hàng đầu tiên.
Và hầu hết sự hợp tác được cảm nhận là gắt kết hơn, nâng tầm lên bằng những đơn đặt hàng tiếp theo với những số lượng mơ ước. Nhà sản xuất phải tập trung mọi nguồn lực để đáp ứng đơn hàng.
Đây mới thực sự là một vấn đề rất nguy hiểm. Vì không theo quy chuẩn kỹ thuật nên tất cả những sản phẩm sản xuất ra đều có thể không được người mua Trung Quốc nghiệm thu, không cho xuất giao nếu không vừa mắt họ.
Đặc biệt, khi thị trường giảm sức mua, ế ẩm hay vì người mua bực mình hoặc vì một nguyên nhân “vô tình” nào đó thì sự suôn sẻ, dễ chịu sẽ không còn nữa mà thay vào đó sẽ là hình ảnh những người mua sành sỏi, lọc lừa.
Họ kiểm định và thường có kết quả là không nghiệm thu. Do không có quy chuẩn kỹ thuật nên nhà sản xuất luôn bị thua thiệt vì những cái lỗi “trời ơi” nhưng không thể phản bác được.
Có thể người mua sẽ cho sửa lại theo ý của họ, nhưng chi phí thì khủng khiếp và nhà sản xuất cũng đã hết năng lực cho việc ấy. Hoặc người mua sẽ đề nghị giảm giá sản phẩm để họ có thể tiêu thụ. Trong tình thế này, chọn đường nào, hướng nào cũng “chết”.
Và đó là nguyên nhân khiến nhiều đối tác của Trung Quốc bị dồn vào thế đường cùng không cón cách lựa chọn nào khác là chấp nhận đề nghị của phía Trung Quốc.
Thế là từ những người mua dễ tính, người Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những “con cáo già” trên thương trường mà mục đích của họ không phải chỉ là những lợi ích có được do mua bán, mà còn là những điều sâu xa mà họ hướng tới.
Có một điều cực kỳ nguy hiểm, đó là dựa vào dân số hơn 1 tỷ người nên hầu hết những đơn hàng mà Trung Quốc đặt ra rất lớn, vượt qua xa nhu cầu của họ, nhưng hầu hết các đối tác không hề nghi ngờ điều này.
Có thể nói rằng đây là cách Trung Quốc đánh gục đối thủ nhanh nhất khi họ đã dồn toàn lực vào đáp ứng nhu cầu của khách hàng Trung Quốc. Nếu gặp bất trắc thì đương nhiên là phá sản. Mọi việc lúc này phập phù theo cảm xúc của người mua.
Người viết đã từng tiếp xúc với những doanh nhân mang tên XC, LT, XB tại quận Tân Bình, Tp.Hồ Chí Minh – có người đã mở cả trung tâm mua bán và giới thiệu sản phẩm tại Bằng Tường, Vân Nam, Trung Quốc. Họ đều cho rằng làm ăn với Trung Quôc là “may nhờ rủi chịu”.
Khách hàng Trung Quốc đặt mua sản phẩm đồ gỗ gia dụng của họ nhưng không có tiêu chuẩn về màu sắc – không có bảng màu đối chiếu. Không có tiêu chuẩn về độ nhám bóng – nước nhám cuối cùng là nhám số bao nhiêu 400 hay 600. Không có tiêu chuẩn về vật liệu hoàn tất như sơn bóng loại nào PU hay NC. Không có tiêu chuẩn về độ ẩm gỗ là bao nhiêu %... Nói chung là khách hàng Trung Quốc chỉ nhìn bằng mắt và sờ bằng tay là quyết định.
Với một hay một vài sản phẩm có sẵn thì như vậy không có nguy cơ gây ra hậu họa, nhưng với số lượng lớn thì rõ ràng người đặt hàng đã đưa người sản xuất vào cửa tử.
Tuy nhiên, do khởi đầu bằng những sự dễ tính, lại có đơn đặt hàng lớn và không bị giám sát trong quá trình sản xuất nên nhiều chủ hàng đã rất mơ hồ vể thủ đoạn nguy hiểm này và thế là sập bẫy.
Gần đây hàng loạt những công trình do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phát sinh nhiều vấn đề liên quan tới chất lượng kém và giá cả tăng. Hàng loạt những mặt hàng do Trung Quốc sản xuất bị người tiêu dùng trên toàn thế giới phản ứng về chất lượng – đó là một trong những vấn nạn đối với doanh nghiệp, với thương nhân Trung Quốc.
Thoạt nhìn qua ai cũng có thể cho rằng đó là sự gian rối, là vi phạm pháp luật ngay tại Trung Quốc nhưng được Chính phủ Trung Quốc bao che. Thực ra nó không đơn giản như vậy, vì nều chính phủ có sự dung túng cho những hành vi vi phạm pháp luật đó thì khi chính phủ hết dung túng sự việc sẽ trở nên tốt hơn, ổn hơn.
Bản chất sự việc phức tạp hơn nhiều, nhưng lại không phải là vi phạm pháp luật về kinh doanh gian dối nên không bị Chính phủ Trung Quốc xử phạt, mà đó là do xuất phát từ cơ chế đảo ngược quy trình trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc.
Đây là một trong những công cụ nguy hiểm mà người ta có thể nhận ra từ chính phủ đến doanh nghiệp và doanh nhân Trung Quốc đều sử dụng. Mục đích của họ là làm suy yếu đối phương ở mọi cấp độ và đều hướng tới phục vụ cho ý đồ tthống trị thế giới của họ.
Ngọc Việt
-
Thế lực thống trị mới đang bắt đầu
(GDVN) - Quan hệ thương mại với Trung Quốc, dù xuất siêu hay nhập siêu cũng đều chịu thiệt đơn thiệt kép bởi chính sách tỷ giá phi thị trường.
Lý do Indonesia đột ngột bắt nhà thầu Trung Quốc dừng thi công đường sắt cao tốc
(GDVN) - "Chúng tôi phải bảo đảm chắc chắn, nếu công trình xảy ra vấn đề gì chính phủ không thể gánh nổi trách nhiệm trước dân".
Nước cờ lợi hại
(GDVN) - Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới.