Thứ Hai, 2 tháng 10, 2017

The Vietnam War

Đoàn làm phim "Việt Nam War" đã nói rõ 10 tập phim của họ đưa ra bộ mặt con người, chứ không hẳn là phim lịch sử. Tập phim này chỉ nêu lên 1 cách nhìn của người Mỹ về cuộc chiến Việt Nam, và cũng chỉ nói về 3 phía. Cộng sản Bắc Việt, Mỹ, phía còn lại mờ nhạt, Mặt trận thống nhất miền Nam. Chưa có tiếng nói đầy đủ của người lính Nam Việt Nam.

ttngbt


Phim Vietnam War và mặt trái đàng sau
Lữ Giang
28/09/2017

Hôm 17/9/2017, kênh truyền hình PBS của Mỹ bắt đầu chiếu bộ phim có tên là "The Vietnam War" (Chiến tranh Việt Nam) gồm 10 tập dài 18 tiếng với một khối hình ảnh đồ sộ, do hai đạo diễn nổi tiếng người Mỹ là Ken Burns và Lynn Novick thực hiện. Hai nhà đạo diễn này cho biết họ đã bỏ ra khoảng 10 năm để đọc các tài liệu liên hệ đến chiến tranh Việt Nam và phỏng vấn các nhân chứng để thực hiện bộ phim này.


Chỉ mới xem hai tập đầu, nhiều người Việt hải ngoại đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ, cho rằng qua bộ phim này, hai nhà đạo diễn nói trên đã trình bày không trung thực những gì đã thật sự xảy ra trong cuộc chiến Việt Nam. Rất nhiều sai lầm của bộ phim đã được nêu ra, đa số là phần mô tả về phía cộng sản Việt Nam.

Nhiều người Việt đã từng chiến đấu với Mỹ trong suốt 20 năm, đã sống trên đất Mỹ trên 40 năm và đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc chiến, nhưng cho đến nay vẫn còn tin rằng "Mỹ chống cộng và bảo vệ nhân quyền", và Mỹ vẫn là "đồng minh của ta". Sự thật bây giờ hoàn toàn khắc hãn.

Vài lối nhìn của người Mỹ

1. Quan điểm của học giả Spyridon Mitsotakis
Ngày 18/9/2017, Spyridon Mitsotakis, một học giả trẻ của Mỹ, sau khi xem 2 tập, đã  viết bài "Ken Burns' Vietnam : Episode 1. Very Good, But 2 Omissions" (Việt Nam của Burns : Tập 1 rất tốt. Nhưng tập 2 thiếu sót) đăng trên trang nhà dailywire, nói rằng Ken Burns đã tốn nhiều công để đọc cái đống tài liệu to như núi có tính tuyên truyền và đơn giản hóa theo phong cách Howard Zinn của những người chống chiến tranh trước đây, nên đã đưa ra những nhận xét khách quan hơn, chẳng hạn như Mỹ chỉ miễn cưởng ủng hộ Pháp sau khi phe cộng sản nắm quyền kiểm soát ở Trung Quốc, còn phe cộng sản Việt Nam, trên thực tế, là những người cộng sản. Họ không phải là "những người theo chủ nghĩa quốc gia bị bắt buộc phải rơi vào vòng tay của Liên Xô". Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam không phải là một lực lượng độc lập… Còn những chuyện Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã làm trong thời kỳ chống Pháp, có nhiều chỗ nói không đúng.

Theo ông, Mỹ đã tiếp tục gây áp lực để Pháp cam kết chấm dứt chủ nghĩa thực dân và mở đường cho chính phủ tự trị ở Đông Dương trong tương lai. Pháp phải điều đình và ký hiệp định Geneve 1954 là vì thất trận ở Điện Biên Phủ. Cả Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đều không tham gia hiệp định đó.

Giáo sư Turner, Viorst và McGovern có tham gia ý kiến, nhưng toàn là những chuyện lẩm cẩm.

2. Cách nhìn của Peter Zinoman, Giáo sư Lịch sử và Đông Nam Á học
Ngày 19/9/2017, đài BBC đã phổ biến bài "Thấy gì từ tập đầu phim The Vietnam War ?" của Peter Zinoman, Giáo sư Lịch sử và Đông Nam Á Học, Đại học California ở Berkeley, cho rằng các bộ phim trước đó đều kể về một câu chuyện đặc trưng và rõ ràng với quan điểm "Nước Mỹ trên hết". Nhưng với cuộc chiến ở Việt Nam, chúng ta có thể biện luận rằng người Việt xứng đáng đóng vai chính trong câu chuyện. Xét cho cùng, từ 1 đến 3 triệu người Việt đã bỏ mạng trong chiến tranh, lớn hơn rất nhiều (gấp từ 20 đến 60 lần) con số khoảng 58.000 người Mỹ chết trong cuộc xung đột. Thế nhưng, ý đồ lấy Mỹ làm trọng tâm không hề giấu giếm trong Vietnam War được thể hiện rõ ngay trong 3 cảnh mở màn giới thiệu phần 1 của bộ phim tài liệu 10 tập này. Cảnh đầu tiên tả những người lính Mỹ tham chiến, cảnh thứ hai cho thấy một cuộc diễu binh của quân đội Mỹ, và cảnh thứ ba là lời bình luận của cựu chiến binh Mỹ Karl Marlantes. Bài hát Hard Rain của Bob Dylan làm nền nhạc kết thúc phần một càng báo hiệu rõ hơn nữa xu hướng "dĩ Mỹ vi trung" làm điểm tham chiếu.

Theo tác giả, tập đầu vẽ lại lịch sử hiện đại Việt Nam như một bức biếm họa, trong đó sự áp bức của thực dân Pháp chỉ bị thách thức bởi sự xuất hiện của Hồ Chí Minh, nhân vật có tinh thần quốc gia duy nhất trong thời thuộc địa đã được đề cập đến, trong khi vô số các lực lượng đối lập với Hồ Chí Minh trong phong trào chống thực dân rộng lớn hơn, bao gồm các phe quốc gia, phe lập hiến, phe trotskyists, phe cộng hòa, phe bảo hoàng, phe phát xít và phe tân truyền thống. (Những tên này nghe rất lạ !).

Về Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm, tác giả cho rằng Hồ Chí Minh, người được mô tả trong tập đầu, ít nhất là một phần nào đó, qua cách nhìn của người Việt, còn Ngô Đình Diệm chỉ được giới thiệu qua lời của giới chức Mỹ (ông "kiêu căng" và "ngạo mạn" một "đấng cứu thế không có thông điệp"). Mặc dù ông cầm quyền suốt gần 10 năm trong những hoàn cảnh vô cùng bấp bênh, tập phim đầu thể hiện rất ít sự quan tâm tới việc người dân Việt ở Miền Nam Việt Nam nghĩ gì về ông.

Cuối bài, tác giả nhận xét : Phần về phía Mỹ cảm động, sâu, đa diện - 8/10. Phần về phía Việt Nam quá hời hợt và phiến diện, may ra được 4/10. Đạo diễn phim tài liệu số 1 nước Mỹ làm phim này trong 10 năm mà chỉ có thế thì chưa đạt yêu cầu".

Đài RFI của Pháp ngày 22/9/2017 với đầu đề "Đạo diễn ‘Vietnam War’ hy vọng hàn gắn vết thương chiến tranh tại Mỹ" đã nhận xét rằng mong muốn của đạo diễn Ken Burns, được xem là bậc thầy về phim tài liệu, khi bỏ ra đến 10 năm và đầu tư đến 30 triệu đôla để thực hiện bộ phim đồ sộ này, cũng là nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh tại Hoa Kỳ, nơi mà thảm bại Việt Nam vẫn còn ám ảnh nhiều người.

Xem qua các tập phim, chúng tôi không nghĩ rằng Ken Burns và Lynn Novick thực hiện bộ phim này để "hàn gắn vết thương chiến tranh" mà chỉ nhắm yểm trợ chủ trương mới của Hoa Kỳ là biến cộng sản Việt Nam thành "đồng minh" thay thế Việt Nam Cộng Hòa trước đây.

Lối nhìn của một số người Việt

Người Việt ở trong và ngoài nước cũng có góp ý rất nhiều về bộ phim này, nhưng cả hai bên, đa số (kể cả những người có bằng tiến sĩ thật) vẫn chưa bỏ được "truyền thống dân tộc" là chỉ viết "cáo trạng" (accusation) hay "biện minh" (defense) chứ không viết những bài phân tích theo phương pháp khoa học. Bằng chứng thường là một nửa sự thật với kết luận bao giờ cũng là "Ta đúng Địch sai" hay "Ta thắng Địch thua", nên chưa đọc chúng ta cũng có thể biết kết luận như thế nào rồi.


Luật sư Hoàng Duy Hùng cho rằng Ken Burns dành quá nhiều thời gian cho Mỹ, cho Bắc Việt, còn thời gian cho quan điểm của Việt Nam Cộng Hòa thì rất ít và nếu có thì chỉ trình bày những phần không quan trọng, hoặc chỉ liên quan đến tầm ảnh hưởng chiến thuật chớ không nói lên được quan điểm chiến lược. Chính Lê Duẫn sau này đã tuyên bố : "Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô" nên ai nghĩ chuyện đấu tranh chống Thực dân Pháp của Hồ và của Đảng cộng sản Việt Nam là sự tranh đấu độc lập cho nước nhà là một sai lầm to lớn.

Trong buổi nói chuyện Bàn tròn với BBC tiếng Việt, cựu đạo diễn blogger Song Chi đã chia sẻ nhận định của bà về bộ phim Chiến tranh Việt Nam như sau :
"Vẫn là cái nhìn của người Mỹ về Việt Nam. Bộ phim tư liệu phỏng vấn nhiều người khác nhau, tuy nhiên cả ba phe đều thấy những điểm không hài lòng".

Nhà văn Trần Mai Hạnh, cựu phóng viên chiến tranh, đã có quan điểm khách quan hơn khi nói với BBC :
"Tôi nghĩ những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra có một lần, cũng như đời người chỉ sống có một lần. Thời gian càng trôi xa, các sự kiện càng bị lớp bụi thời gian phủ mờ".
"Người ta rất dễ giải thích theo cái quan điểm của mình, hoặc đề cao quá mức, hoặc là thanh minh, hoặc là giải thích lại theo ý của mình những sự kiện lịch sử. Tôi quan niệm rằng cái quan trọng nhất của lịch sử chính là sự thật. Sự thật là món quà vô giá của Thượng đế trao cho con người. Nhìn từ phía nào cũng thế, phía người chiến thắng là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày ấy hay phía bại trận là phía Việt Nam Cộng Hòa và phía Hoa Kỳ, nhìn ở góc độ nào cũng được, nhưng cuối cùng nó phải là sự thật".

Hôm 25/9/2017, đài BBC đã đăng bài "'The Vietnam War' và khi Hoa Kỳ vào Việt Nam" của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, đặc biệt nhấn mạnh đến những thiếu sót của cuốn phim khi đề cập về Đệ I Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đã đọc cuốn "Khi Đồng minh nhảy vào" của ông xuất bản năm 2016. Mặc dầu đã có những công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy ông không phải là người đi với thời cuộc nên không nhận ra được trong đống tài liệu đó việc Mỹ đã xây dựng rồi phá sập chế độ Đệ I Việt Nam Cộng Hòa như thế nào để có thể đổ quân vào Việt Nam. Đây là vấn đề chúng tôi sẽ nói trong một bài khác.

Những tài liệu rất quan trọng

Việc làm của hai nhà đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick chỉ là một hình thức ráp nối một số sự kiện được chọn lựa để vẽ lại lịch sử theo đơn đặt hàng. Muốn viết lịch sử một cách trung thực phải có tầm nhìn khách quan về mục tiêu, chiến lược và chiến thuật của Mỹ khi mở cuộc chiến ở Việt Nam, và phải căn cứ vào các tài liệu lịch sử được công nhận là có giá trị. Quan điểm của một số cá nhân được phỏng vấn không phải là sử liệu.

Chính quyền cộng sản Việt Nam không hề công bố đầy đủ các tài liệu liên quan đến cuộc chiến về phía họ. Cuốn "Tổng kết cuộc Kháng chiến chống Thực dân Pháp thắng lợi và bài học" cũng như hai tập "Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954–1975" của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là những tài liệu tuyên truyền, trong đó nói phét quá nhiều. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng không công bố tài liệu lịch sử của cuộc chiến. Chỉ có một số cá nhân công bố một số tài liệu mà họ biết do vai trò của cá nhân. Cả hai bên đều viết theo định hướng "Ta thắng Địch thua" nên thiếu khách quan. Đó chỉ là thứ lịch sử giả tưởng, lịch sử được vẽ lại, chứ không phải là lịch sử thật.

Chỉ có Chính phủ Hoa Kỳ công bố các tài liệu lịch sử sau khi chiến tranh kết thúc. Trước hết là bộ The Pentagon Papers (Tài liệu của Ngũ Giác Đài) có tên chính thức là Report of the Office of the Secretary of Defense Vietnam Task Force, xuất hiện năm 1971, đến năm 2011 được giải mã toàn bộ và chính thức công bố. Tiếp theo là bộ "Foreign Relations of the United States" (Quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ) do Bộ ngoại giao Hoa Kỳ lần lượt xuất bản gồm rất nhiều tập từ 1950 đến 1975. Sau đó là hàng đống tài liệu được lần lượt giải mã và công bố tiếp theo. Số tài liệu về cuộc chiến Việt Nam của Mỹ lên trên 150.000 trang.

Ngoài các tài liệu nói trên, có ba cuốn hồi ký của ba nhân vật chủ chốt có thể giúp hiểu rõ hơn chính sách của Mỹ đã được thực hiện như thế nào tại Việt Nam :

1. In the midst of wars (Vào giữa những cuộc chiến) của Đại tá Edward G. Lansdale, người đã được OSS (tức CIA sau này) phái đến để giúp Tổng thống Ngô Đình Diệm bình định và xây dựng một chế độ mạnh để chống Cộng. Chính ông là người thừa hành lệnh của Washington, giúp ông Diệm dẹp các giáo phái, thống nhất quân đội, truất phế Bảo Đại và xây dựng một đảng phái mạnh giống Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Ông cũng là người phản đối Đại sứ Elbridge Durbrow được Washington phái đến Nam Việt Nam để phá sập chế độ Ngô Đình Diệm và đổ quân vào. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng không nhận ra các tài liệu này.

2. In Retrospect the Tragedy and Lessons of Vietnam (Nhìn lại thảm kịch và những bài học của Việt Nam) của Robert S. McNamara, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, cho biết cuộc chiến đã được lệnh điều hành như thế nào.

3. Decent Interval (Khoảng cách vừa phải) của Frank Snepp, Trưởng phân tích chiến lược của CIA tại Sài Gòn, nói rõ kế hoạch Mỹ bỏ Miền Nam như thế nào. Cả cộng sản Việt Nam cũng như Việt Nam Cộng Hòa không hay biết gì về kế hoạch này nên cộng sản Việt Nam đã nướng quá nhiều quân trọng vụ Tết Mậu Thân năm 1968 và trong vụ Cổ thành Quảng Trị năm 1972 một cách vô ích, còn Việt Nam Cộng Hòa để mất Miền Nam chỉ trong vòng 40 ngày.

Vì Mỹ là nước chủ động trong cuộc chiến Việt Nam nên nếu không đọc những tài liệu chính thức do chính phủ Hoa Kỳ công bố, không thể biết chính xác mục tiêu của cuộc chiến là gì, nó đã diễn biến qua từng giai đoạn như thế nào và kế hoạch kết thúc cuộc chiến đó ra sao. Trước đây, Hà Nội biết rất ít về các tài liệu này nên nói phét rất thoải mái, nay đang bắt đầu tìm hiểu, nhưng chưa dám sử dụng vì nó khác xa với những gì Hà Nội đã mô tả.

Con đường Mỹ đang đi tới

Những sự kiện lịch sử chúng tôi vừa đưa ra cho thấy Mỹ đã đi vào và rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam bằng những chiến lược và chiến thuật được tính toán rất tỉ mỉ và chính xác. Câu hỏi được đặt ra là tại sao bây giờ Mỹ phải cho vẽ lại một lịch sử chiến tranh với rất nhiều điểm trái với sự thật lịch sử ?


Lord Palmerston (1784–1865), cố Thủ tướng Anh, đã từng nói một câu bất hủ : "Nations have no permanent allies or enemies, only permanent interests" (Các quốc gia không có đồng minh hay kẻ thù mãi mãi, chỉ có các quyền lợi mãi mãi).

Cựu Ngoại trưởng Kerry đi thẳng vào thực tế : "Không ai có thể hình dung ra đất nước Việt Nam như ngày hôm nay. Việt Nam, một cựu thù của Mỹ, bây giờ lại là một đối tác có mối quan hệ nồng ấm với Mỹ, trên cả bình diện con người lẫn quốc gia".

Như vậy Mỹ đang biến "cựu thù" thành "đồng minh" và "đối tác có mối quan hệ nồng ấm với Mỹ" để dùng cộng sản Việt Nam làm lá chắn ngăn chặn Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á, nên Mỹ phải vẽ lại lịch sử chiến tranh Việt Nam khi giao cho "cựu thù" Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đóng vai trò của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Dĩ nhiên, Hà Nội biết rất rõ chiến lược và thủ đoạn này của Mỹ, nhưng tương kế tựu kế, chơi trò bắt cá hai tay để thủ lợi. Nếu có điều gì bất trắc, họ sẽ quay lại với Trung Quốc.

Khi Mỹ thay thế Việt Nam Cộng Hòa bằng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, liệu người Việt đấu tranh có thể tiếp tục sử dụng cuốn "Quốc văn giáo khoa thư chống cộng" hiện nay để "giải phóng quê hương" được không ? Câu trả lời là KHÔNG.

Muốn "giải phóng quê hương" không phải chỉ chống cộng mà còn phải "chống Mỹ cứu nước" nữa, vì Mỹ đang đứng trên cùng một chiến tuyến với cộng sản Việt Nam.

Nếu ngày 3/11/2015, qua kênh truyền hình PBS Hoa Kỳ đã ném cuốn phim "Terror in Little Saigon" do nhóm ProPublica and Frontline thực hiện lên đầu Đảng Việt Tân, một tổ chức chống cộng của người Việt đấu tranh được Mỹ bí mật hổ trợ, để ra lệnh lui binh, thì hôm 17/9/2017, cũng qua kênh truyền hình PBS, Mỹ cho phổ biến bộ phim "The Vietnam War", do hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick thực hiện, để nói cho người Mỹ và thế giới biết con đường mà nước Mỹ đang đi tới để tùy nghi thay đổi chiến thuật. Ai không thích ứng kịp mà lâm nạn thì tự lo liệu lấy. Con đường Mỹ đi thì Mỹ cứ đi. Chính trị là như thế.

Ngày 28/9/2017
Lữ Giang


**************

Phim "The VIETNAM WAR"...
-Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng -
*
(nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Saigon sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được bổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào" .
Sau khi bộ phim "The Vietnam War" được trình chiếu,Tiến sĩ Hưng đã cho phổ biến bài nhận định của ông .(Việt Báo).
***

Năm 1958, từ Đại học Virginia (UVA ở Charlottesville) chúng tôi đã theo rõi cuộc chiến Việt Nam từ lúc khởi sự (thời TT Eisenhower) tới lúc Mỹ đưa quân vào (thời Kennedy) rồi leo thang thật nhanh (thời TT Johnson). Chúng tôi cũng đã xem (và tham gia) cuốn phim Cuộc Chiến Mười Ngàn Ngày (The Ten Thousand Day War) của Maclear được chiếu năm 1980. Bộ phim 26 giờ còn dài hơn phim 18 giờ của Ken Burns và Lynn Novick (B & N).
Với những kinh nghiệm cá nhân và sưu tầm nhiều năm, nhất là từ tài liệu The Pentagon Papers dài 7,000 trang, được giải mật ngày 13/6/2011, chúng tôi đã viết về giai đoạn Mỹ mang quânvào Việt Nam trong cuốn sách Khi Đồng Minh Nhảy Vào (KĐMNV) với gần 900 trang gồm nhiều tài liệu gốc, xuất bản năm 2016.
Năm phần đầu bộ phim của Ken Burns và Lynn Novick (B & N) nói về cùng một thời điểm như cuốn KĐMNV (từ thập niên 40 tới cuối 1967). Cách bố cục cũng giống, nhưng với những tựa đề có kịch tính. Thí dụ như tựa đề cho Tập 2: Dòng Sông Styx (The River Styx) rất hấp dẫn vì Styx là một dòng sông trong thần thoại Hy Lạp nói đến ranh giới giữa trái đất này và thế giới bên kia hay cõi chết. Nó cũng còn có ý nghĩa tương đương với địa ngục.Từ Tập 3 tới Tập 5 hầu hết chỉ chiếu lại những trận chiến lớn: An Khê, (trận đầu tiên), Plei Me, Ia Drang, Pleiku, Bình Giả, Đồi 1338, Đồi 875. Đây là những trận đã được chiếu nhiều lần trong các phim Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Cái mới là có những câu chuyện thương tâm hơn, đau đớn hơn của những người quân nhân Mỹ và gia đình của họ.
So với phim của Maclear, những hình ảnh trong phim này cũng không có gì mới lạ. Tuy nhiên nó được làm sống động hơn, rất ấn tượng nhờ áp dụng kỹ thuật mầu sắc, ca nhạc, âm thanh tân tiến cùng với nhiều cuộc phỏng vấn những người tham chiến và cách dẫn giải của các bình luận gia.
*
Trong khuôn khổ giới hạn của bài này, chúng tôi tập trung nhiều hơn vào hai phần đầu vì ba phần sau hầu hết là chiếu lại những trận chiến lớn như đã đề cập.
Trên mạng BBC có bài tường thuật về buổi giới thiệu cuốn phim ở Sàigòn. Cuối phần trả lời các câu hỏi, đạo diễn Lynn Novick tóm tắt về bộ phim: “Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở nơi đây … mô tả thực tại, chiến tranh, chiến trường, sự chết chóc, sự hy sinh…Chúng tôi cố gắng không phán xét. Chúng tôi nói về những trải nghiệm tối tăm nhất trong cuộc đời nhân vật. Chúng tôi cố gắng trung thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều phía, và tìm cách thể hiện rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến.”
Hai nhà làm phim B & N cho rằng: khác với vô số tài liệu và phim ảnh về cuộc chiến đã có trước đâychỉ trình bày những gì người Mỹ làm, hay những chiến trận hay đau khổ của người Mỹ (như phim Apocalypse Now hay Platoon), phim THE VIETNAM WAR sẽ cho cử tọa biết thêm nhiều về những biến cố, những câu chuyện về thân phận cá nhân xẩy ra cho người Việt Nam, được kể lại trong các cuộc phỏng vấn từ mọi phía, với các tham dự viên người Việt ở cả hai phía Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam.
Dù đã có một chiến lược tiếp cận rất hay và đầy tính cách con người, bộ phim có nhiều khuyết điểm. Sau đây là những thí dụ:
• Hai nhà đạo diễn B & N nói là “không phán xét” nhưng thực ra là có phán xét một cách thầm kín. Thí dụ như đoạn phim Mỹ chiến đấu trong những năm 1966-1967 được lồng vào đoạn phim hình ảnh trong cuộc chiến khốc liệt của Pháp trong thập niên 40 – 50. Như vậy là coi người lính Mỹ cũng giống như người lính Ph áp bức, tàn bạo? Và rồi Mỹ cũng sẽ lặp lại những sai lầm của thực dân Pháp?
*
Phim phán xét về TT Ngô Đình Diệm: “ông là con người tàn nhẫn, không tin ai ngoài gia đình, lanh lợi, tháo vát, biết khai thác những yếu điểm của đối phương.” Rồi gán cho ông một biệt hiệu: “Đấng cứu thế không có thông điệp.”
Phán xét này ngược hẳn với đánh giá của tờ New York Times năm 1957, gọi ông Diệm là “một người giải phóng Á Châu,” hay tuần báo Life: “Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt Nam,”hay Nghị sĩ Jacob Javits (tiểu bang New York) : “Ông là một trong những anh hùng của thế giới tự do,” hay Nghị sĩ Mike Mansfield (Montana): “Công trạng ngăn chận được xâm lăng của Cộng sản ở Việt Nam, và vì vậy ở cả Đông Nam Á, là do sự quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực của Tổng Thống Diệm, một người đã chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn.” Năm 1961, Phó Tổng thống Johnson đi xa hơn, gọi ông Diệm là “Winston Churchchil của Đông Nam Á.”
*
• Phim muốn kể câu chuyện từ nhiều phía… rất nhiều trải nghiệm củangười Việt Nam trong cuộc chiến” nhưng đã phỏng vấn rất ít người từ phía VNCH, mà cuộc chiến xảy ra căn bản là ở Miền Nam Việt Nam. Thời giờ dành cho những người này cũng rất vắn vỏi, coi như chỉ qua loa để gọi là có phỏng vấn. Đâu là những hình ảnh và câu chuyện của những người quân nhân anh dũng của VNCH? Đâu là những hình ảnh vợ con của họ sống trong cảnh khó khăn, cô đơn ở thôn quê Miền Nam, chờ mãi không thấy chồng về?
• Về phía các bình luận gia thì Neil Sheehan (ký giả thiên tả, cực lực chống đối chinh phủ VNCH) là một trong những diễn giả chính của phim. Không thấy có phỏng vấn những tác giả thuộc thành phần xét lại như Mark Moyar, Lewis Sorley.
• Một sai sót lớn: phim đã khai thác khá dài về Trận Ấp Bắc (1/1963) dựa trên cuốn A Bright Shining Lie (Lời nói dối sáng ngời) của Neil Sheehan, đổ lỗi cho người chỉ huy quân đội VNCH và ca tụng ông Paul Vann hết lời. Tác giả Moyar đã thuật lại chi tiết trận đánh, địa hình địa vật, và quân số hai bên, cũng như diễn tiến trận đánh, để đi đến nhận xét rất rõ ràng về những dối trá của Paul Vann khi ông cung cấp thông tin về trận này cho Sheehan (KDMNV, trang 470-472).
*
• Phim không đề cập tới một thực tại quan trọng ở Việt Nam trong thập niên 40, đó là sự hình thành của Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN).
Đâu là câu chuyện Đại sứ Nhật Yokohama đến gặp Hoàng đế Bảo Đại để chuyển giao nền độc lập sau khi lật đổ Pháp (11/3/1945): “Tâu Hoàng Thượng, đêm hôm qua chúng tôi đã chấm dứt chủ quyền của Pháp quốc trên đất nước này. Tôi được trao nhiệm vụ dâng nền độc lập của Việt Nam cho Hoàng Thượng.” Có nghĩa là trao độc lập của toàn thể lãnh thổ gồm cả các hải đảo mà Nhật đã chiếm như Hoàng Sa, Trường Sa. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ Trần trọng Kim. Tới lúc ký Hiệp định Geneva chia đôi lãnh thổ thì chính phủ QGVN đã được 35 quốc gia công nhận. Sau Geneva, chính phủ VNCH tiếp nối QGVN. Hiệp định Geneva có Trung Quốc ký vào, như vậy là TQ đã công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng giúp cho Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp hiện nay ở Biển Đông.
• Phim cũng không nói đến bức thư đầu tiên của lãnh đạo Việt Nam, Hoàng Đế Bảo Đại gửi TT Truman ngày 18/8/1945? Nhật vừa trả độc lập, HĐ Bảo Đại đã viết ngay cho TT Truman yêu cầu Pháp phải tôn trọng nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và trả lại độc lập cho Việt Nam: “Thưa Tổng thống, chế độ thuộc địa không còn thích hợp với chiều hướng lịch sử hiện tại… Nước Pháp phải vui lòng nhìn nhận điều đó để tránh khỏi thảm họa chiến tranh trên đất nước chúng tôi.”(KĐMNV, trang 35). Cùng ngày, ông gửi một tâm thư cho Tướng de Gaulle: “Nếu các ngài trở lại… mỗi làng xóm sẽ trở nên một tổ kháng chiến, mỗi người bạn sẽ trở nên một kẻ thù.”
• Về phía Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, phim có nói tới một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh (với chữ ký của ông) gửi TT Truman yêu cầu Mỹ ngăn chận Pháp trở lại và ủng hộ nền độc lập Việt Nam (bản chụp bức thư: xem KĐMNV, trang 709-710). Thực ra là có tất cả tới 14 văn thư và công hàm của ông Hồ gửi Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại giao Mỹ, yêu cầu ủng hộ nền độc lập và cứu trợ nạn đói đang hoành hành khắp mền Bắc. Về bức thư được trích dẫn, người bình luận trong phim (Leslie Gelb) nói rằng thư này không tới tay tổng thống Truman (có thể với hàm ý là vì vậy cho nên ông Truman không trả lời). Điều này là không đúng, vì trong 14 văn thư và công hàm được tóm tắt trong Phụ Lục cuốn KĐMNV (trang 704-721) có một văn kiện (ngày 17/10/1945) do chính telex của tòa Bạch Ốc in lại.
Trong cuốn KĐMNV, chúng tôi có viết: “Như vậy là cả hai phía Việt Minh và Quốc Gia đều cầu cứu Mỹ ngăn chận Pháp trở lại Việt Nam. Thời gian đó, nạn đói lại đang hoành hành ở miền Trung và miền Bắc, chết từ 1,5 tới 2 triệu người. Xem như vậy, ta có thể đặt ra một câu hỏi: nếu như lúc ấy Mỹ đáp ứng yêu cầu của cả hai phe phái Việt Nam để ngăn chận Pháp và đặc biệt là cứu trợ nạn đói 1945 thì lịch sử đã ra như thế nào? Liệu có Vietnam War hay không? Mỹ có thể dễ dàng mở một Tòa Lãnh sự ở Việt Nam đểxử dụng số gạo thặng dư quá nhiều của mình để cứu vớt gần 17% dân số Việt nam trong cảnh đói rét. Trong trường hợp ấy toàn dân Việt Nam sẽ hoan hô Mỹ, và Pháp đã không thể trở lại.
*
• Đến thời chính phủ VNCH, cuốn phim nhận định không đúng về việc Mỹ ủng hộ ông Diệm từ ban đầu. Một bình luận gia nói (hình như Leslie Gelb): “Chúng tôi muốn giúp xây dựng một chính phủ hợp pháp. Chúng tôi tin vào ông Diệm – hay cũng là nạn nhân của ông ta.” Đây là nhắc lại bình luận của giới truyền thông thiên tả mà chúng tôi đã thường nghe/xem trong những năm 1958-1963. Bây giờ, sau trên nửa thế kỷ, với bao nhiêu nghiên cứu mới, giải mật, thông tin mới mà phim vẫn còn “kể lại cho trung thực” kiểu này thì làm sao ta hiểu nổi? Sự thật là ngay từ ban đầu Mỹ đã không tin vào ông Diệm (xem KĐMNV, Chương 10-11). Sau đây là những gì đã xảy ra:
O Tháng 7, 1954 ông Diệm chấp chính, thành lập chính phủ;
O Tháng 8, 1954 Đại sứ Mỹ Donald Heath đề nghị về Washington: “Ta phải để ý theo rõi tìm một lãnh đạo khác;”
O Tháng 12, 1954: Tướng Collins, Đặc ủy của TT Eisenhower đề nghị “Mỹ chỉ nên ủng hộ ông Diệm thêm vài ba tuần nữa thôi.”
O Đầu tháng 4, 1955 Tướng Collins đề nghị rõ ràng về 5 bước để loại bỏ ông Diệm.
O Cuối tháng 4, 1955 Washington gửi chỉ thị tối mật: thay thế thủ tướng Diệm.
Như vậy là chỉ nội trong 10 tháng chấp chính, Mỹ đã muốn lật đổ Thủ tướng Diệm.
• Phim cũng không nói đến các thành quả kinh tế, xã hội mà phiá VNCH đã gặt hái như “5-Năm Vàng Son 1955-1960” (KĐMNV, Chương 13). Về hành chánh đã có các cán bộ được huấn luyện chu đáo trong hai thập kỷ bởi Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, chẳng thua gì Ecole Nationale D’Administration của Pháp (nơi xản xuất các lãnh đạo Pháp), các đại học Luật khoa, Y khoa, nơi sản xuất ra các luật sư, thẩm phán biết đẩy mạnh truyền thống pháp trị /rule of law và các bác sĩ làm việc trong các bệnh viện thay thế bác sĩ Pháp. Miền Nam Việt Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của chính Nam Hàn dưới thời TT Phác Chính Hy.
Tại sao có chiến tranh Việt Nam – “WHY VIETNAM WAR?”
*
• Phim lấy tên là Vietnam War mà lại không chiếu hình ảnh và phỏng vấn về “tại sao có chiến tranh Việt Nam – Why Vietnam War?”
Đây là thiếu sót rất quan trọng.
Thí dụ như TV không thể chỉ chiếu và dẫn giải về cảnh tàn phá, hoang tàn ở Houston và Florida mới đây mà không chiếu và dẫn giải về lộ trình và tốc độ của con mắt đỏ Harvey và Irma, lồng lộn xoáy vào từ ngoài đại dương.
• Phim nói mập mờ cho rằng chiến tranh Việt Nam đã leo thang từng bước vì những tính toán sai lầm của các lãnh đạo kế tiếp nhau ở Washington. Sự thực là 5 tổng thống (Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon) đã tính toán rất kỹ về quyền lợi của Mỹ như đã được chứng minh rõ ràng trong cuốn KĐMNV. Tất cả có tới 7 quyền lợi màMỹ muốn bảo vệ ở Biển Đông, mà Việt Nam là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất” như Tổng Tham Mưu Mỹ đã xác định (KĐMNV, Chương 3).
• Vietnam War thực sự bắt đầu khi TT Kennedy mang quân chiến đấu vào Việt Nam. Phim không nói sự thực về động cơ nào đã đưa ông Kennedy tới quyết định ấy. Lý do đưa quân tác chiến vào không phải là để “bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam” mà là vì hai cú sốc. Thứ nhất, ngày đăng quang, ông tuyên bố “Chúng tôi sẽ trả bất cứ giá nào, xốc vác bất cứ gáng nặng nào…để bảo đảm sự sống còn và sự thành công của tự do.” Nhưng vừa tuyên bố như vậy thì phải chịu hai cái thất bại liên tục, một ở Lào và một ở Cuba. Ông tâm sự: “Tôi không thể chấp nhận cái thất bại thứ ba,” cho nên ông tập trung vào Việt Nam. Thứ hai, mùa hè 1961 ông bị một cú sốc mạnh khi Lãnh đạo Liên Xô Nilkita Khrushchev thách thức ông tại cuộc họp thượng đỉnh Vienna: “Tôi muốn hòa bình, nhưng nếu ông muốn chiến tranh thì đó là vấn đề của ông.”
Trở về Washington, TT Kennedy tâm sự với James Reston, trạm trưởng của tờ New York Times tại Washington và là bạn ông Kennedy: “Ông ta đối xử với tôi như một cậu bé con… Ông ta nghĩ rằng vụ Vịnh Con Heo chứng tỏ là tôi thiếu kinh nghiệm. Có thể ông ta còn nghĩ là tôi ngu nữa. Và có thể quan trọng nhất, ông ta nghĩ tôi không có gan.”
Cho nên Kennedy đã quyết định phản ứng, chọn Việt Nam làm nơi đọ sức với Liên Xô. Lúc ấy Khrushchev đang thay đổi chiến lược: chuyểntừ trực tiếp đối mặt với Mỹ sang gián tiếp, từ chiến tranh quy ước tới chiến tranh du kích. Kennedy quyết định:“Việt Nam là đúng chỗ rồi.” Ông đôn quân vào Miền Nam.
*TT Diệm không đồng ý cho Mỹ mang quân vào
• Sau quyết định ấy, cái gì đã xảy ra tại Sàigòn thì phim Vietnam War đã bỏ qua hoàn toàn. Đây là điểm lịch sử cần phải được làm sáng tỏ: Mỹ mang quân vào trái với ý muốn của TT Diệm. Muốn trung thực thì bắt buộc phải chiếu hình ảnh và phỏng vấn về điểm này. TT Diệm chỉ yêu cầu – vì chống cộng là quyền lợi hỗ tương của cả hai nước -Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện vật chất, hoặc là hai bên đi tới một hiệp ước quốc phòng song phương thay vì mang quân đội Mỹ vào.
Sau cùng Mỹ phải tìm hai cớ để đôn quân vào. Chúng tôi đã nghiên cứu thật kỹ và viết lại cho rõ ràng trong cuốn KĐMNV (Chương 15-16):
- Lấy cớ huấn luyện quân đội Miền Nam: Tổng Tham Mưu Mỹ đề nghị “Để thuyết phục ông Diệm thì hay nhất là lấy cớ đem quân ‘vào để huấn luyện’, rồi đem một đơn vị chiến đấu quân vào đóng ở Việt Nam với công tác là giúp thiết lập hai doanh trại huấn luyện.”
- Lấy cớ “cứu trợ lũ lụt”: Tướng McGarr, Chỉ huy trưởng cơ quan viện trở quân sự MAAG gửi một công điện về Ngũ Giác Đài: “Trận lụt rất nặng ở Đồng bằng Cửu Long…nặng nhất kể từ 1937 cho thấy ta có thể dùng việc cứu trợ lũ lụt để biện hộ cho việc mang quân vào làm công việc nhân đạo, để rồi có thể giữ quân đội này lại nếu muốn.”
Chẳng bao lâu, cố vấn, quân nhân, CIA, ký giả thiên tả Mỹ tràn lan khắp nơi.Trong cuốn sách A Death in November, tác giả Ellen Hammer kể lại: có lần TT Diệm phàn nàn với Đại sứ Pháp Lalouette: “Tôi không bao giờ yêu cầu những người quân nhân này tới đây. Họ cũng chẳng có cả hộ chiếu nữa.”
• Phim không nói tới sự kiện là trước bối cảnh đó, TT Diệm ngỏ ý muốn Mỹ rút bớt cố vấn đi. Đại sứ Pháp Lalouette cho rằng “lý do chính đưa tới quyết định của Mỹ loại bỏ ông Diệm là vì vào tháng Tư năm ấy (1963), ông đã toan tính yêu cầu Mỹ rút cố vấn.”
TT Diệm nhìn thấy chân trời tím, muốn tìm giải pháp hòa bình. Qua Cố vấn Ngô Đình Nhu, ông đã sắp xếp để điều đình về hiệp thương với Miền Bắc, rồi từng bước tiến tới thống nhất trong hòa bình. Thời điểm ấy, Miền Bắc đang gặp khủng hoảng về lương thực trầm trọng. Theo người môi giới giữa hai bên là ĐS Balan là ông Maneli (trong phái đoàn kiểm soát đình chiến), thì chính phủ Miền Bắc sau cả năm suy nghĩ đã đồng ý để hợp tác với TT Diệm và Mỹ để đi bước này.
Nhưng ĐS Lodge, rồi Bộ trưởng McNamara và tướng Taylor báo cáo cho TT Kennedy: “Sự ve vãn của ông Nhu với ý định điều đình (với Hà Nội) – cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa – cũng đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ.”
• Về bối cảnh đảo chính, phim chỉ chiếu cảnh Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu,thanh niên biểu tình, không nói gì về vai trò của các ký giả thiên tả (như Sheehan, Halberstam, Brown, Sully) và quan chức Mỹ (Harryman, Hillsman, Forrestal, Ball) nhất là Đại sứ Henry Cabot Lodge (chúng tôi gọi là Đao phủ Henry I) đã đưa tới đảo chính và sát hại TT Diệm.
Biến cố nàylà điểm ngoặt, dẫn đến xáo trộn và khủng hoảng chính trị ở Miền Nam trong hai năm tiếp theo. Trước viễn tượng Miền Nam bị sụp đổ, TT Johnson mang đại quân vào để yểm trợ. Cuộc chiến leo thang rất nhanh từ đó, và thương vong, chết chóc cũng tăng lên rất nhanh từ đó.
***
Bộ phim có nhiều thiếu sót và sai sót. Thiếu sót quan trọng nhất trong phần đầu là không đề cập tới trách nhiệm của Mỹ trong cuộc đảo chính và hạ sát TT Diệm. Nếu như thay vì đảo chính, Mỹ ủng hộ sáng kiến và đồng hành với TT Diệm để tìm giải pháp hòa bình thì liệu VIETNAM WAR có xảy ra hay không? Biểu tình nửa triệu người có xảy ra hay không?
Không đề cập tới những gì đã xảy ra tại Dinh Gia Long, những bi kịch, hậu quả của những quyết định của TT Kennedy (như đem quân vào, đảo chính TT Diệm) thì làm sao đạo diễn Novick có thể nói rằng: “Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở nơi đây … mô tả thực tại…trung thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều phía, và tìm cách thể hiện rất nhiều trải nghiệm củangười Việt Nam trong cuộc chiến?”
Hy vọng rằng trong 5 phần còn lại được bắt đầu chiếu từ ngày 24/9 cuốn phim sẽ đi sâu hơn, cân đối hơn, chính xác hơn, và công bằng hơn.
Hãy trả lại cho Cezar những gì thuộc về Cezar.


*************
Xem phim “The Vietnam War”
SONG CHI
Bài viết cho blog RFA.
“The Vietnam War”, bộ phim tài liệu truyền hình 10 tập, dài 18 giờ của 2 tác giả Ken Burns và Lynn Novick, được công chiếu lần đầu tiên trên Public Broadcasting Service, Hoa Kỳ, ngày 17.9 vừa qua là bộ phim mới nhất của Mỹ về chiến tranh Việt Nam.

Được biết, các nhà làm phim đã phải mất 10 năm để thực hiện bộ phim, phỏng vấn 79 người Mỹ từng chiến đấu hay phản đối cuộc chiến, các chiến binh VN và thường dân ở cả hai miền Nam Bắc, và đã phải xử lý một khối lượng hình ảnh, tư liệu khổng lồ mà khi xem chúng ta cũng có thể hình dung được.
Như vậy, 42 năm sau khi cuộc chiến tranh đã kết thúc, người Mỹ và người Việt lại một lần nữa phải nhìn lại cuộc chiến với những hình ảnh sống động, tàn bạo, đẫm máu, nhức nhối.
Cảm nhận chung đầu tiên của người viết đây vẫn là một bộ phim của người Mỹ làm về chiến tranh VN, đã mổ xẻ được những sai lầm và tội ác của người Mỹ, nhất là của chính phủ Mỹ, khai thác tâm trạng của các vị chính khách, Tổng thống, cho tới những người Mỹ từng tham gia hay phản đối chiến tranh, đã phơi bày được sự chia rẽ sâu sắc trong lòng nước Mỹ trong suốt cuộc chiến cũng như tất cả hậu quả mà cuộc chiến đã gây ra cho nước Mỹ. Nhưng bộ phim lại chưa làm được như thế về phía Việt Nam, cả với VNCH hay Việt Cộng.
Hình ảnh VNCH được thể hiện mờ nhạt, được đánh giá không đúng mức, thậm chí bị coi thường, từ lãnh đạo cho tới người lính, trong lúc hình ảnh Việt Cộng và Bắc Việt (hai từ được sử dụng để chỉ quân đội miền Bắc và lực lượng Mặt trận GPND trụ ở miền Nam, sau đây sẽ chỉ dùng chung một từ Việt Cộng cho cả hai) có phần được đề cao nhưng cũng chỉ mới nhìn thấy trên bề mặt, còn bao nhiêu sự thật về những người cộng sản trong cuộc chiến chưa được khai thác.
Không rõ các thế hệ người Mỹ trước đây hay bây giờ, khi xem phim có cảm thấy bộ phim đã giải đáp được cho mình những câu hỏi hay giải tỏa được những tâm tư về cuộc chiến hay không; nhưng với người VN dù thuộc bên thắng cuộc hay bên thua cuộc và con cháu họ, chắc chắn đều có những có lý do để không đồng ý với bộ phim.
Với người miền Nam, như vừa nói, là vì hình ảnh của chế độ VNCH không được đánh giá công bằng.
Trong suốt phần lớn chiều dài của bộ phim, chỉ thấy người Mỹ chiến đấu đánh Việt Cộng, những trận giao tranh, tâm tư của người lính Mỹ, những tổn thất…trong khi quân đội VNCH không thấy đâu. Còn giai đoạn sau khi đã bước vào thời kỳ “Việt Nam hóa chiến tranh”, tức là người Việt đánh người Việt, thì phim lại chuyển qua chủ yếu tập trung khai thác những mâu thuẫn, những chia rẽ đã trở nên gay gắt trong lòng nước Mỹ. Bộ phim dành rất nhiều lời khen cho ý chí sắt đá của giới lãnh đạo Hà Nội, tinh thần kỷ luật, quyết tâm chiến đấu, sự thiện chiến của những người cộng sản, ngược lại, rất ít khi có những lời khen dành cho chế độ hay quân đội VNCH.
Hiếm hoi lắm mới có những câu như: “Nhiều đơn vị VNCH chiến đấu giỏi, hồi Mậu Thân họ đánh là chủ yếu, và tính đến giữa năm 1969, đã có 90 000 người tử trận.” Hay công nhận những trận đánh An Lộc, tái chiếm Quảng Trị của VNCH vào mùa hè đỏ lửa 1972 v.v…“Người Mỹ ít khi nhìn nhận sự dũng cảm của họ. Chúng ta khinh thường họ, phóng đại sự yếu kém của họ, vì muốn khoe khoang tài năng của ta” (trích phỏng vấn Tom Vallery-thủy quân lục chiến).
Nhưng thật ra, việc phóng đại sự yếu kém của chế độ hay quân đội VNCH còn nhằm để biện minh cho người Mỹ. Chẳng hạn, để biện minh cho lý do Mỹ đổ quân vào VN là vì Sài Gòn có thể đổ sụp từ những năm 60, hay đánh giá tiêu cực về Tổng thống Ngô Đình Diệm là để biện minh cho việc Mỹ đã làm lơ, thậm chí khuyến khích, đảo chính Ngô Đình Diệm.
Không khác gì những người khuynh tả hay phản chiến trước kia, những mặt yếu kém của chế độ VNCH hay những sai lầm của chính phủ Mỹ được mổ xẻ, phơi bày nhưng những sự thật, sai lầm hay tội ác của Việt Cộng thì được cho qua. Cả một vụ thảm sát Mậu Thân cũng chỉ nói qua loa, bao nhiêu vụ ám sát, đánh bom, khủng bố của Việt Cộng diễn ra tại Sài Gòn, đô thị lớn ở miền Nam cho tới thôn quê suốt thập niên 60-70 của thế kỷ XX không hề được nhắc đến.
Và có rất nhiều câu chuyện mà sự thật đã được bộc lộ từ lâu, nhưng bộ phim vẫn không đưa vào. Ví dụ như vì sao tướng Nguyễn Ngọc Loan, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia Nam VN lúc đó, xử tử đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Lém ngay trên đường phố Sài Gòn (sau này chính tác giả của bức ảnh gây chấn động thế giới, phóng viên Eddie Adams, đã công khai xin lỗi Nguyễn Ngọc Loan và bày tỏ sự ân hận vì những tác động của bức hình lên cuộc sống của vị tướng này); hay nhân vật Kim Phúc trong bức ảnh nổi tiếng “Em bé Napalm” được nhà nước VN sử dụng như một “nhân chứng chiến tranh” và được đưa sang Cuba học nhưng sau đó lại tìm cách xin tỵ nạn ở Canada chứ không đơn giản chỉ là rời VN, định cư ở Canada…
Một nửa sự thật thì không phải là sự thật. Trong cuộc chiến VN, có rất nhiều điều mà thế giới chỉ biết được “một nửa” ấy. Đáng tiếc rằng sau hơn 40 năm, một bộ phim tài liệu công phu như “The Vietnam War” lại không làm rõ những điều ấy để chứng tỏ sự khách quan của những người làm phim.
Về phía đảng cộng sản VN, họ cũng có nhiều lý do để không thích bộ phim. Cho dù những thông tin trong phim đưa ra nhiều người dân đã biết nhờ vào thời đại internet, Hà Nội vẫn không muốn những gì mà họ tuyên truyền bao lâu nay, qua bao thế hệ người dân VN bị phơi bày. Từ những vụ thanh trừng của đảng cộng sản thời kỳ đầu đối với tất cả những cá nhân, tổ chức không cộng sản, những trận giao tranh với con số thương vong thường cao hơn gấp bội kẻ thù, vụ thảm sát Mậu Thân, sai lầm và chủ quan trong vụ “tổng tiến công” Mậu Thân làm chết hàng chục ngàn lính chưa kể dân thường và hai lần tổng tiến công sau đó cũng thất bại, cho tới những chính sách sai lầm sau chiến tranh…
Đối với những người Việt được tuyên truyền, giáo dục về “cuộc chiến tranh thần thánh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam” sẽ có thể hiểu được vì sao người Mỹ thua, VNCH thua và những người cộng sản thắng. Trong một cuộc chiến, khi một bên luôn băn khoăn, luôn đặt ra quá nhiều câu hỏi, luôn bị tác động bởi phản ứng của người dân (phong trào phản chiến ở Mỹ hay những cuộc biểu tình chống Mỹ ở Sài Gòn), còn một bên chỉ có một mục tiêu duy nhất là đánh tới cùng, chỉ được phép nói đến sự lạc quan, chiến thắng, còn những thất bại, con số thương vong, số người tử trận không bao giờ công bố…thì bên đó chắc chắn phải thắng.
Người cộng sản không quan tâm đến cái giá của máu xương hay thời gian, thời gian thuộc về họ, trong khi đó là những điều mà người dân Mỹ, dư luận Mỹ không bao giờ cho phép chính phủ của họ. Khi người Mỹ muốn, họ nhảy vào VN cho bằng được rồi khi phải rút, họ tìm mọi cách, kể cả đi đêm với Bắc Việt, bắt tay với Trung Cộng, bán đứng đồng minh.
Xem xong bộ phim, tin rằng có lẽ chỉ trừ nhà cầm quyền VN, những ai còn say sưa với những “hào quang chiến thắng” trong quá khứ hay còn mê muội vì thiếu thông tin, hầu hết người VN dù thuộc phe thắng cuộc hay thua cuộc, dù từng đi qua cuộc chiến tranh hay sinh ra và lớn lên thời hậu chiến, đều cảm thấy buổn, ngậm ngùi, cay đắng. Cay đắng vì số phận nghiệt ngã của VN. Dân tộc này đã phải trải qua những năm tháng chiến tranh liên miên, trong đó cuộc chiến này là một bi kịch không gì bù đắp nổi, không chỉ đã tàn phá đất nước trong suốt bao nhiêu năm mà còn để lại những vết thương, sự chia rẽ đến tận bây giờ do những chính sách sai lầm của bên thắng cuộc. Cay đắng hơn nữa là cái giá quá đắt phải trả ấy để cuối cùng được gì, VN hiện tại đang đứng ở đâu trên bản đồ sắp hạng của thế giới, từ độc lập, sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải cho tới tự do, hạnh phúc của nhân dân đều không đạt được.
Sẽ có nhiều cái “nếu” được đặt ra, nhưng có thể tóm gọn lại, nếu đảng cộng sản không giành được chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 thì toàn bộ con đường đi của đất nước này, dân tộc này đã khác. Và cuộc chiến tranh này cũng như những cuộc chiến với Khơ Me Đỏ, với Trung Cộng đã không xảy ra.
Nhưng lịch sử thì không bao giờ có chữ “nếu”…
Điều đáng nói hơn đó là nhìn vào hiện tại và tương lai. Người Mỹ đã mổ xẻ khá đầy đủ về cuộc chiến tranh VN, không che dấu những sai lầm, kể cả những tội ác, họ cũng đã sám hối-cả những người từng tham gia cuộc chiến cho tới những người phản đối chiến tranh từng dùng những từ ngữ nặng nề để gọi những người lính, họ cũng đã dựng cả bức tường khắc đầy đủ tên hơn 58, 000 người lính Mỹ hy sinh để tưởng nhớ những người đã ngã xuống và răn mình không bao giờ được phép có một Việt Nam thứ hai nữa.
Còn người VN? Đảng cộng sản chưa bao giờ dám nhìn lại quá khứ, lịch sử với họ là một thứ lịch sử được viết theo ý họ, bất chấp sự thật. Cho dù đã hơn 4 thập niên trôi qua.
Không dám nhìn lại quá khứ, không nhìn thẳng vào thực tại thì không học được gì và không bao giờ thoát khỏi những bóng ma của quá khứ.
Câu hỏi là đảng cộng sản, với quá nhiều sai lầm và tội ác, tất nhiên không đủ dũng khí và cả sự sáng suốt để sám hối, tỉnh thức đã đành, nhưng còn người Việt Nam dù thuộc phe nào đi nữa, liệu chúng ta có dám mổ xẻ đến tận cùng những trang sử đau đớn đã qua và trong hiện tại, để giành lấy quyền quyết định vận mệnh, tương lai của đất nước vào tay nhân dân?




GỌI TÊN CUỘC CHIẾN
TRẦN TRUNG ĐẠO
Giới thiệu:   Điểm khác nhau căn bản giữa Chủ thuyết Nixon và Chủ thuyết Truman là sự thay đổi từ ngăn chận làn sóng CS (containment of communism)  sang hợp tác (với Trung Cộng) và hòa hoãn (với Liên Xô). Đối với xung đột quân sự tại Việt Nam, Nixon chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh” (Vietnamization).

Trong diễn văn đọc tại Guam tháng 11, 1969, TT Nixon tuyên bố Mỹ chỉ yểm trợ vũ khí và phương tiện cho các quốc gia đồng minh nhưng bảo vệ lãnh thổ là trách nhiệm của chính phủ và nhân dân các nước đó. Theo cách hiểu của các nhà lãnh đạo Mỹ, từ khi chiến tranh bộc phát cho đến khi người lính Mỹ tác chiến cuối cùng rời Việt Nam là cuộc chiến tranh giữa Mỹ và CSVN.
Cả Mỹ và CSVN đều cố tình bỏ qua một thành phần khác, một cuộc chiến tranh khác, đó là cuộc chiến của nhân dân miền Nam Việt Nam bảo vệ chế độ Cộng Hòa non trẻ, bảo vệ quyền được sống trong tự do, dân chủ sau gần 100 năm trong bóng tối thực dân.
Quan điểm chiến tranh Việt Nam là chiến tranh giữa Mỹ và CSVN ăn sâu vào nhận thức của không ít các tầng lớp người Mỹ, từ người dân bình thường cho đến giới trí thức, văn nghệ sĩ, nhà làm phim Mỹ.
Họ quên rằng, chiến tranh không diễn ra tại Washington DC, không diễn ra tại Hà Nội mà diễn ra tại miền Nam Việt Nam.
Sự hy sinh của 58,220 người lính Mỹ là sự hy sinh to lớn và đáng kính, nhưng không thể so với sự chịu đựng của hơn hai chục triệu dân miền Nam Việt Nam, trong đó nhiều trăm ngàn người đã chết trong cuộc chiến, nhiều trăm ngàn người đã bị đày ải trong lao tù sau cuộc chiến. Từ những cụ già ở Huế cho đến những em bé còn mặc tã ở nhà hàng Mỹ Cảnh hay tuổi chưa lên mười ở Tiểu học Cai Lậy đã chết trong tức tưởi vì tham vọng CS hóa toàn cõi Việt Nam của đảng CSVN bắt đầu tại Cửu Long, Hương Cảng tháng 2, 1930.

Do đó, ngay cả khi hoan hô các nhà làm phim Mỹ đưa ra ánh sáng vài mặt xấu xa, độc ác của chế độ CS cũng đừng quên sự hy sinh và chịu đựng của ông bà, cha chú mình và nhất là đừng quên, dù có người Mỹ hay không, cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ vẫn đã và đang diễn ra ngay trong phút giây này của lịch sử Việt Nam.

----------------------------------------
Ngày 23 tháng 3, 2017,  Giáo sư Drew Gilpin Faust, Viện trưởng Viện Đại Học Harvard viếng thăm Đại học Fulbright Việt Nam. Nhân dịp này bà đọc một diễn văn tại Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Phần khá dài của diễn văn, bà dành để nói về Chiến tranh Việt Nam, nội chiến Hoa Kỳ và hòa giải Nam Bắc Mỹ.
Trong suốt diễn văn bà Drew Faust không hề nhắc đến sự chịu đựng của người dân miền Nam Việt Nam hay nhắc đến Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), chính phủ đại diện cho hơn một nửa dân số Việt Nam ngày đó.
Người viết không nghĩ bà dè dặt hay không muốn làm buồn lòng quốc gia chủ nhà. Nhưng giống như một số khá đông các trí thức Mỹ trước đây, sau 44 năm từ khi các đơn vị trực tiếp chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam vào tháng Ba năm 1973, bà vẫn chưa nhìn sâu được vào bản chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Việt Nam trong diễn văn của bà Drew Faust là Cộng Sản Việt Nam.
Bà Drew Faust không hiểu được trên con đường Việt Nam đầy máu nhuộm chạy dài suốt 158 năm, từ khi viên đại bác của Rigault de Genouilly bắn vào Sơn Chà, Đà Nẵng sáng ngày 1 tháng 9, 1859 cho tới hôm nay, nhiều triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập tự do dân tộc. Đảng CS là một nhóm rất nhỏ, và chỉ ra đời vào tháng 3, 1930. Cộng Sản thắng chỉ vì họ có mục đích thống trị rõ ràng, dứt khoát, kiên trì và bất chấp mọi phương tiện để hoàn thành mục tiêu đã vạch ra.
Bà Drew Faust là người học nhiều, hiểu rộng. Chắc chắn điều đó đúng. Nhưng nghe một câu chuyện và cảm thông với những nạn nhân trong câu chuyện là một chuyện khác. Ngôn ngữ không diễn tả được hết nỗi đau và đôi mắt thường không thấy được những vỡ nát bên trong một vết thương.
Là một sử gia, bà biết lịch sử được viết bởi kẻ cưỡng đoạt không phải là chính sử. Chính sử vẫn còn sống, vẫn chảy nhưng chỉ được hiểu bằng nhận thức khách quan, tinh tế, chia sẻ với những tầng lớp người đang chịu đựng thay vì đứng về phía giới cầm quyền cai trị.
Một ví dụ về chính sử. Năm 1949 tại Trung Cộng, trong cuộc bỏ phiếu bầu chức vụ Chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Mao tin tưởng tuyệt đối 547 đại biểu sẽ bỏ phiếu cho ông ta. Không, chỉ có 546 người bỏ phiếu thuận, nhà nghiên cứu triết học Zhang Dongsun bỏ phiếu chống lại Mao. Ông bị đày đọa và chết trong tù nhưng lịch sử Trung Hoa ngày sau sẽ nhớ đến ông như một người viết chính sử Trung Hoa.
Việt Nam cũng thế. Chính sử vẫn đang được viết không phải từ những người đang đón tiếp bà mà bằng những người đang ngồi trong tù, đang bị hành hạ, đày ải, trấn áp dưới nhiều hình thức. Khát vọng độc lập, tự do, từ những ngày đầu tháng 9, 1859 ở Cẩm Lệ, Quảng Nam, nơi máu của Đô Thống Lê Đình Lý chảy xuống cho đến hôm nay, vẫn cùng một dòng và chưa hề gián đoạn.
Nhân dịp tháng Tư năm 2017, người viết xin phân tích một số định nghĩa về nội dung của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Bài này tổng hợp một số bài ngắn của người viết đã phổ biến trước đây.
Chiến tranh Việt Nam là Chiến tranh Ủy nhiệm (Proxy War)?
Chiến tranh ủy nhiệm (Proxy War) là cuộc chiến tranh mà các quốc gia bên ngoài, thường là cường quốc, không tham gia trực tiếp cuộc chiến nhưng qua hình thức cung cấp võ khí, tài chánh cho các phe cánh, lực lượng trong quốc gia đó đánh nhau vì quyền lợi riêng của các phe nhóm này nhưng cũng tương hợp với quyền lợi của nước bên ngoài.
Chiến tranh đang diễn ra tại Syria thường được báo chí gọi là chiến tranh ủy nhiệm. Mỹ, Nga, Iran, Thổ, Anh, Pháp, Saudi Arabia và Qatar góp phần tàn phá Syria khi yểm trợ cho các phe nhóm, nhiều khi bất cần hành vi khủng bố của các phe nhóm này, để tranh giành ảnh hưởng và tài nguyên của vùng Trung Đông.
Không ít báo chí quốc tế và nhà nghiên cứu Chiến tranh Lạnh gọi chiến tranh Việt Nam trước khi Mỹ đổ bộ vào tháng Năm, 1965, là chiến tranh ủy nhiệm, trong đó Trung Cộng, Liên Xô một bên, Mỹ và đồng minh một bên.
Định nghĩa chiến tranh Việt Nam là chiến tranh ủy nhiệm chỉ đúng khi nhìn cuộc chiến từ quan điểm đế quốc dù là Mỹ, Liên Xô hay Trung Cộng chứ không phải từ vết thương, từ vị trí của nạn nhân buộc phải chiến đấu để sống còn như dân và quân miền Nam Việt Nam.
Như có lần người viết dẫn chứng, một người lính nghĩa quân gác chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt sập cũng là một biểu hiện hùng hồn của lý tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng, là vẻ đẹp của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống còn mà người lính nghĩa quân phải làm cho bằng được.
Không ai “ủy nhiệm” anh lính Nghĩa Quân cả. Anh không bảo vệ chiếc cầu giùm cho Mỹ mà cho chính anh và bà con trong thôn xóm của anh. Lý tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng to lớn bao nhiêu cũng bắt nguồn từ những hình ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa đó.
Trong phần lớn chiều dài của cuộc chiến, quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á và quyền lợi của VNCH tương hợp. VNCH đã nhận hầu hết viện trợ quân sự của Mỹ kể cả nhân lực nhưng không đánh thuê cho Mỹ như CS tuyên truyền.
Sau Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 và Hiệp Định Paris năm 1973, chính sách của Mỹ tại Đông Nam Á thay đổi, quyền lợi VNCH và Mỹ do đó không còn tương hợp nữa. Mỹ rút quân và cắt giảm viện trợ quân sự quá chênh lệch so với nguồn viện trợ quân sự CSVN nhận từ Liên Xô, Trung Cộng và phong trào CS Quốc Tế.
Cho dù cạn kiệt nguồn cung cấp, quân và dân VNCH vẫn chiến đấu và hy sinh cho tự do của họ, không phải chỉ sau Hiệp định Paris 1973, không phải đến ngày 30-4-1975 mà cả sau 30-4-1975, hôm nay và cho đến khi chế độ CS còn hiện diện tại Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam là Nội chiến (Civil War)?
Nhiều người chỉ nhìn vào mái tóc, màu da, khuôn mặt, chủng tộc, dòng máu và kết luận chiến tranh Việt Nam là nội chiến. Thật ra, mái tóc, màu da, khuôn mặt, dòng máu chỉ là hình thức.
Thế nào là nội chiến?
Theo các định nghĩa chính trị học, Nội chiến (Civil War) là cuộc chiến tranh giữa hai thành phần có tổ chức trong cùng một quốc gia vốn trước đó thống nhất, mục đích của một bên là chiếm đoạt bên kia để hoàn thành ý định chinh phục lãnh thổ hay thay đổi chính sách nhưng không thay đổi thể chế.
Theo định nghĩa này, chiến tranh Nam-Bắc Mỹ là nội chiến, hoặc xung đột võ trang giữa chính phủ da trắng và Nghị Hội Toàn Quốc Nam Phi (African National Congress) gọi tắt là ANC chống chính sách Phân biệt Chủng tộc tại Nam Phi là nội chiến.
Bắc Mỹ dưới sự lãnh đạo của TT Abraham Lincoln thắng cuộc nội chiến Mỹ nhưng chỉ thay đổi chính sách nô lệ, trong lúc cơ chế chính trị và chính phủ cấp tiểu bang gần như không thay đổi nhiều.
Tại Nam Phi cũng vậy. Sau cuộc đấu tranh dài dưới nhiều hình thức, cuối cùng ANC đã thắng nhưng cũng chỉ hủy bỏ chính sách Phân Biệt Chủng Tộc (Apartheid) tại Cộng Hòa Nam Phi nhưng không xóa bỏ nền kinh tế thị trường tư hữu. Không chỉ cựu Tổng thống de Klerk trở thành cố vấn của TT Nelson Madela trong suốt nhiệm kỳ mà nhiều viên chức trong chính phủ của de Klerk, các tư lịnh quân binh chủng, lực lượng cảnh sát quốc gia đều tiếp tục nhiệm vụ của họ.
Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng Hòa không có ý định chiếm đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật đổ cơ chế CS miền Bắc. Chính phủ và nhân dân VNCH hoàn toàn không muốn chiến tranh. Sau một trăm năm chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục đích trước mắt của nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện đại.
Giấc mơ tươi đẹp của nhân dân miền Nam đã bị ý thức hệ CS với vũ khí của Liên Xô, Trung Cộng tàn phá vào buổi sáng 30-4-1975.
Sau khi VNCH bị cưỡng chiếm, đảng CSVN không phải chỉ thay đổi về chính sách như trường hợp Mỹ hay Nam Phi mà thay đổi toàn bộ cơ chế. Nói theo lý luận CS đó là sự thay đổi tận gốc rễ từ thượng tầng kiến trúc chính trị đến hạ tầng cơ sở kinh tế bằng các phương pháp dã man không thua kém Hitler, Mao, Stalin.
Do đó, gọi chiến tranh Việt Nam là nội chiến chỉ đúng về hình thức, nội dung vẫn là chiến tranh của các chính phủ và nhân dân miền Nam chống ý thức hệ CS xâm lược.
Chiến tranh Việt Nam là "Chiến tranh chống Mỹ Cứu Nước"?
Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng Hai, 1950 đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Theo William J. Duiker trong Ho Chi Minh: A Life, Stalin nói với Hồ Chí Minh tại Moscow "Từ bây giờ về sau, các đồng chí có thể tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên Xô, đặc biệt hiện nay sau thời kỳ chiến tranh, thặng dư của chúng tôi còn rất nhiều, và chúng tôi sẽ chuyển đến các đồng chí qua ngả Trung Quốc. Tuy nhiên vì điều kiện thiên nhiên, chính yếu vẫn là Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì Trung Quốc thiếu chúng tôi sẽ cung cấp." Sau đó tới phiên Mao, y cũng lần nữa xác định với Hồ "Bất cứ những gì Trung Quốc có mà Viêt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp."
Theo Trương Quảng Hoa trong Hồi ký của những người trong cuộc, Hồ Chí Minh thưa với Mao trên xe lửa từ Liên Xô về Trung Cộng "Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc."
CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng, không chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách nói, cách ăn mặc, cách chào hỏi. Mao gần như đơn phương quyết định mọi hoạt động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn tháng cần phải chiếm Điện Biên Phủ.
Sau xung đột Eo Biển Đài Loan, và trầm trọng hơn, sau chiến tranh Triều Tiên với gần 400 ngàn quân Trung Cộng bị giết, trong số đó có Mao Ngạn Anh (Mao Anying), con trai trưởng và gần gũi nhất của Mao, từ đó kẻ thù lớn nhất của Mao Trạch Đông là Mỹ. Mao chỉ thị toàn bộ bộ máy tuyên truyền tại Trung Cộng phải chống Mỹ bằng mọi giá. Chống Mỹ từ xa, chống Mỹ ở gần, chống Mỹ trong lý luận, chống Mỹ trong thực tế, chống Mỹ khi có mặt Mỹ và chống Mỹ khi không có mặt Mỹ.
Tuân lệnh Mao, trong Hội nghị Lần thứ Sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ.”
Khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” được thai nghén từ quan điểm và thời điểm này.
Nhưng “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” phải hiểu là nước Tàu chứ không phải nước Việt, lý do trong thời điểm này chưa có một người lính hay một cố vấn Mỹ nào ở Việt Nam. Hôm đó, ngay cả Hiệp định Geneva 1954 cũng còn chưa ký.
Với chỉ thị của Mao và kiên trì với mục đích CS hóa Việt Nam đề ra từ 1930, vào tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động sau khi biết rằng việc chiếm miền Nam bằng phương tiện chính trị không thành, đã quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Hồ Chí Minh đã nói. Gần hết đồng bào miền Bắc bị đảng lừa vào cuộc chiến “giải phóng dân tộc” và hàng triệu người đã uống phải viên thuốc độc bọc đường “chống Mỹ cứu nước” nên bỏ thây trên khắp hai miền.
Lý luận chính phủ VNCH không thực thi “thống nhất đất nước” theo tinh thần Hiệp định Geneva chỉ là cái cớ tuyên truyền.
Thực tế chính trị thế giới của giai đoạn sau Thế Chiến thứ Hai là thực tế phân cực và sự chọn lựa của thời đại là chọn lựa giữa ý thức hệ Quốc gia và Cộng sản. Không chỉ các quốc gia bị phân chia như Nam Hàn, Tây Đức mà cả các quốc gia không bị phân chia như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ v.v… cũng chọn thế đứng dân chủ Tây Phương để làm bàn đạp phát triển đất nước.
Giả sử, nếu có bầu cử để “thống nhất đất nước” và đảng CS thua, liệu họ sẽ giải nhiệm các cấp chính trị viên và sáp nhập vào quân đội quốc gia, giải tán bộ máy công an chìm nổi, đóng cửa các cơ quan tuyên truyền, từ chức khỏi tất cả chức vụ điều hành đất nước? Trừ phi mặt trời mọc ở hướng tây và lặn ở hướng đông điều đó không bao giờ xảy ra.
“Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng…”
Câu ca dao quen thuộc mà ai cũng biết. Đó là chưa kể đến mây xám, mây đen, mây hồng, mây tím trong thơ và nhạc. Nhưng mây màu gì? Mây thực sự chỉ là màu trắng. Màu mây thay đổi do ánh nắng mặt trời tùy theo mỗi khoảnh khắc trong ngày.
Cuộc chiến Việt Nam cũng vậy. Tên gọi của cuộc chiến khác nhau tùy theo quan điểm, góc nhìn, quyền lợi và mục đích, nhưng với nhân dân miền Nam, đó chỉ là cuộc chiến tự vệ của những người Việt yêu tự do dân chủ chống lại ý thức hệ CS độc tài toàn trị xâm lược.
Không thấy rõ bản chất xâm lược của ý thức hệ CS sẽ khó có thể chọn con đường đúng để phục hưng Việt Nam.
  Trần Trung Đạo
-
Truong Huy San


AMERICAN WAR trong THE VIETNAM WAR

Tối Chủ nhật Mỹ, tức là 8 giờ sáng thứ Hai, 18-9-2017, PBS sẽ khởi chiếu bộ phim tài liệu 10 tập: The Vietnam War. Tôi không thể viết về bộ phim này hay như Lê Hồng Lâm, Mạnh Kim, Nguyễn Quang Lập... và đặc biệt là Hồng Ánh. Với tư cách là người Việt Nam đầu tiên được coi trọn bộ 10 tập, bản nháp, và sau khi coi lại vài lần bản hoàn chỉnh, tôi chỉ xin "gạch vài đầu dòng" nhận xét cá nhân.

Năm 1983, qua màn hình 17 inch, đen trắng, của trường sỹ quan Hóa Học, chúng tôi được coi bộ phim "Vietnam: A Television History". Có thể nói, những thước phim tư liệu lúc đó đã ám ảnh những người lính sắp đeo quân hàm trung úy và sắp được gửi đi chiến trường Campuchia hoặc Biên giới phía Bắc (dù phần lớn trong chúng tôi đã trải nghiệm hai chiến trường đó trước khi về trường).

So với "Vietnam: A Television History", The Vietnam War của Ken Burns & Lynn Novick "bạo lực" hơn rất nhiều. Không chỉ vì tài năng của các đạo diễn, độ lùi gần 40 năm với công cuộc 10 năm lùng sục các kho lưu trữ trên thế giới và khả năng "tiêu hóa" một khối lượng tư liệu khổng lồ, đã giúp The Vietnam War đóng một cột mốc, trước cũng như sau này, khó có ai chinh phục.

Tháng 10-2014, khi lần đầu tiên coi 10 tập của bộ phim tại "tổng hành dinh" của Burns ở Wapole, New Hampshire, tôi nói ngắn gọn với ông, "Extremely powerful". Giờ đây, The Hollywood Reporter còn sử dụng nhiều tính từ hơn khi chạy tít: "Ken Burns and Lynn Novick's latest PBS opus is exhausting, powerful, brutal, emotional and occasionally infuriating"(Hào hùng, bi tráng, vắt kiệt từng cung bậc cảm xúc của người xem qua các phân cảnh tàn bạo đến trần trụi, khốc liệt đến phẫn nộ).

Bộ phim, theo tôi, đã cáo buộc gần như mọi tội lỗi cho Washington, đánh giá cao (các quân nhân) Hà Nội và coi thường (lãnh đạo) Việt Nam Cộng Hòa, nhưng sẽ không làm cho bên nào hài lòng: Washington có thể sẽ không để ý; các cựu quân nhân VNCH có thể có người phẫn nộ; báo Nhà nước có thể sẽ có bài phản bác, bảo vệ "tính chính nghĩa" của cuộc chiến.

Cho dù Phim đã dẫn những phát biểu khá cảm tính để đánh giá cuộc chiến - "Cuộc tổng tuyển cử (theo Hiệp định Geneva) mà ai cũng biết là Hồ Chí Minh sẽ thắng"; "Nếu Mỹ không sang thì chúng tôi vô Sài Gòn từ 1965 rồi...", và cho hẳn một cựu binh Mỹ nói, "Chúng ta chọn nhầm đồng minh, tôi sẽ rất tự hào nếu được chiến đấu với những người lính Bắc Việt" - tôi nghĩ, Hà Nội vẫn sẽ không muốn phổ biến bộ phim này.

Không chỉ những người đang cầm quyền, phần lớn những ai "lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa" từ cả Bắc lẫn Nam (sau 1975) đều không dễ tiếp nhận các thông tin khác với những gì họ được dạy để định danh cuộc chiến.

Không phải ai cũng từng nghe nói, khi nửa triệu quân Mỹ tới miền Nam, có lúc, 320 nghìn quân Trung Cộng cũng đã có mặt trên miền Bắc. Không phải ai cũng sẵn sàng làm quen với sự thật về cuộc thảm sát ở Huế hay những chiến dịch hy sinh hàng vạn quân nhân và thường dân; Không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận những bằng chứng cho thấy, bom B52 Giáng sinh 1972 đã buộc Lê Đức Thọ quay trở lại bàn đàm phán, ký vào những thỏa thuận chủ yếu đã có từ tháng 10-1972, chứ không phải "Điện Biên Phủ trên không" đã "buộc Mỹ ký Hiệp định Paris" như từng được nói (Bom B52 Giáng sinh 1972 đã cướp hơn 1.600 sinh mạng người dân chủ yếu là người dân Hà Nội).

Người Mỹ xuất hiện trong phim nói hay hơn người Việt Nam. Nhưng tôi rất ấn tượng với đóng góp của Bảo Ninh. Anh nói ít nhưng ý nghĩa. Theo Bảo Ninh, "Chỉ có những người không thật sự đánh nhau mới bàn chuyện ai thắng, ai thua; không thắng thua gì ở đây, chỉ có tan nát". Đau đớn lắm khi nhìn thấy xác người Việt chồng lên người Việt và cay đắng lắm, năm 1965, khi tướng Westmoreland nói, "Tỷ lệ chết giữa lính Mỹ và VC là 1-10", thượng nghị sỹ Ernest Hollings trả lời, "Chỉ con số 1 (lính Mỹ) là đáng nói, dân Mỹ không quan tâm con số 10 (Việt Cộng)".

Nước Mỹ đếm từng xác lính của họ; người Việt Nam không bao giờ biết chính xác có bao nhiêu đồng bào mình đã chết bởi chiến tranh.

Sự thật thường là một khối đa diện, không ai có khả năng tiếp xúc với mọi tiết diện; trong bộ phim này, Ken Burns & Lynn Novick đã tiếp cận được nhiều tiết diện nhất. Chính điều đó sẽ làm cho ai vẫn khăng khăng với "single truth"(sự thật của mình) khó chịu.

Cho dù, các nhà sản xuất đã chi rất nhiều tiền để làm phụ đề tiếng Việt, Ken & Lynn thừa nhận với tôi rằng, công chúng Mỹ vẫn là quan trọng nhất. Các đạo diễn đã cố ý trung lập hóa các ý kiến khi gần như để tất cả người Việt chỉ xuất hiện trong phim với tư cách "North hay South Vietnam" chứ không phải là nhà văn, nhà báo, thiếu tướng hay trung tướng... [các nhân vật quan trọng khác trong cuộc chiến đều không được phỏng vấn, kể cả Kissinger].

Khi xem xong lần đầu bộ phim này, tôi nói với hai đạo diễn và nhóm "10 advisors" cho phim, "Đây vẫn là American War, hãy còn 'một cuộc chiến khác' chưa nói hết; Ken Burns và Lynn Novick, đã đào xới tới tận cùng các nguyên nhân trong lòng nước Mỹ (dẫn đến cuộc chiến và thất bại) nhưng vẫn chỉ mới nêu được bề mặt từ phía Việt Nam, đặc biệt là từ phía Việt Nam Cộng Sản; hãy còn cơ hội cho một bộ phim khác, thực sự là Vietnam War".

Ken Burns & Lynn Novick đã chỉ ra những tội ác và sai lầm của người Mỹ đặc biệt là sai lầm của chính phủ. Bao giờ người Việt Nam mới thẳng thắn mổ xẻ những bài học của mình, những bài học trả phí bằng hàng triệu người dân vô tội.


PS: Phim sẽ chính thức được phát sóng trên hệ thống truyền hình công PBS khắp nước Mỹ vào tối Chủ nhật, tức là lúc 7 giờ sáng thứ Hai ngày 18-9-2017 (giờ Viêt Nam) và được truyền trực tuyến trên website của PBS tại địa chỉ pbs.org/vietnamwar. Phim có phụ đề tiếng Việt dành cho khán giả Việt Nam.










______________


SAU 42 NĂM ..CHÚNG VẪN MÙ..??
Lời phản biện tại buổi
trình chiếu sơ lược Phim The Vietnam War.
TS.Nguyễn Ngọc Sẵng


- Tôi may mắn được đại diện đài truyền hình PBS và Thư Viện địa phương mời vào Ban Điều Hành Thảo Luận (discussing panel) về phim The Vietnam War do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏ ra mười năm thu thập tài liệu để làm ra cuốn phim 18 tập nầy. Phim sẽ được trình chiếu vào ngày 17 tháng 9 năm 2017 trên Đài Truyền Hình PBS của Mỹ.
Trước lượng khán giả khoảng hơn 200 người, toàn là người Mỹ (trừ cô phụ tá tôi là một bác sĩ trẻ, Quyên Huỳnh). Tôi rất áy náy, nhưng quyết định nhận lời vì nghĩ rằng đây là cơ hội để nói lên quan điểm của Người Lính Việt Nam Cộng Hoà về Chiến Tranh Việt Nam. Tôi lên đường vì ý niệm đó dù biết sẽ không dễ dàng, nhất là ngôn ngữ.
Sau phần trình chiếu, họ hỏi mỗi người trong Ban Điều Hành Thảo Luận một câu. Trong phim có một cựu chiến binh Bắc Việt, tên Bảo Ninh được phỏng vấn, và ông nói rằng trong cuộc chiến tranh Việt Nam KHÔNG có người thắng (no vinners). Người điều khiển chương trình hỏi tôi nghĩ gì về ý kiến nầy?
Trước khi trả lời, tôi trình bày nhận định rằng muốn biết ai thắng, ai thua phải biết ít nhất ba (3) điều căn bản: (1) mục tiêu tham chiến của các bên, (2) Sự tổn thất mà họ trả giá.
(3) và đánh giá trên tổng thể do cuộc chiến gây ra.
A. Mục Tiêu Tham Chiến
1. Mỹ tham gia cuộc chiến vì muốn KỀM CHẾ Trung Cộng, theo tài liệu Pantagon Papers, một nghiên cứu chính thức của Bộ Quốc Phòng Mỹ về sự tham dự của Mỹ tại Việt Nam từ 1945 đến 1967 do ông Daniel Ellsberg thực hiện và được công khai trên tờ The New York Times năm 1971, chủ yếu không nhằm bảo vệ sự độc lập của Miền Nam. Bảo vệ Miền Nam là chiến thuật trong chiến lược ngăn chận Tàu. Tài liệu nầy dài khoảng 4000 trang và được liệt kê là Tối Mật và được giải mã ngày 4 tháng 5 năm 2011 tại thư viện của Tổng Thống Richard Nixon tại California.
2. Mục tiêu của Bắc Việt là Giải Phóng Miền Nam bằng vũ lực để Làm Bàn Đạp cho cuộc bành trướng của cộng sản quốc tế xuống vùng Đông Nam Á. Việc nầy do Hồ Chí Minh thực hiện với sứ mạng là người lãnh đạo cộng sản Đông Dương từ năm 1932. Và điều nầy hoàn toàn phù hợp với lời tuyên bố của Tổng Bí Thư Lê Duẩn "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, Trung Quốc", nếu câu nói nầy đúng sự thật. Đây là sứ mạng của những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
3. Mục tiêu của những nhà lãnh đạo Miền Nam là bảo vệ độc lập, chủ quyền Miền Nam chống lại sự xâm lăng của cộng sản Miền Bắc với sự viện trợ tối đa của Nga, Tàu và khối cộng sản Đông Âu, kể cả Cuba. Nhưng vì thế yếu họ chấp nhận và yêu cầu Mỹ và khối tư bản viện trợ để họ bảo vệ lãnh thổ, và dân chúng theo họ.
B. Những Tổn Thất Của Các Bên
1. Phía Mỹ có 58.307 binh sĩ tử trận, chi tiêu 168 tỷ Mỹ kim (có tài liệu nói 1020 tỷ), 303.604 binh sĩ bị thương, 1948 binh sĩ mất tích và lúc cao điểm của chiến tranh có 543.000 binh sĩ tham chiến. Khi chiến binh Mỹ từ chiến trường Việt Nam về bị dân chúng khinh thị, không đón tiếp trọng thể như những binh sĩ tham gia trong những cuộc chiến ngoại biên khác. Và vết thương chiến tranh chưa hoàn toàn hàn gắn được.
2. Phía Bắc Việt có 950.765 binh sĩ tử trận, gần 600.000 bị thương, số mất tích không có con số rõ ràng, ước tính khoảng 300 ngàn người... Trong chiến cuộc, Miền Bắc được xếp vào hạng 1 trong 5 quốc gia nghèo nhất thế giới. Và cuộc chiến do Miền Bắc gây ra làm thiệt mạng 2 triệu thường dân.
3. Phía Việt Nam Cộng Hoà có 275 ngàn chiến sĩ thiệt mạng, khoảng 1.170.000 người bị thương, không có con số mất tích được liệt kê và ngày 30 tháng 4 năm 1975 họ đầu hàng vô điều kiện.
C. Ai Thắng? Ai Thua?
1. Từ những phân tích trên, tôi trình bày quan điểm riêng rằng Mỹ đã đạt được mục tiêu Kềm Chế Trung Cộng, vậy Mỹ là người THẮNG.
2. Cũng từ phân tách nầy, tôi trình bày cho thính giả rằng Bắc Việt hy sinh gần 1 triệu binh sĩ, gần 6 trăm ngàn người thương tật, 300 ngàn người mất tích, làm 2 triệu thường dân bị chết oan và biến đất nước thành 1 trong 5 nước nghèo nhất thế giới, vậy Bắc Việt là người THUA vì phải trả giá quá đắt mà Trung Cộng vẫn không nhuộm đỏ được vùng Đông Nam Á. Họ THUA vì không đạt được mục tiêu.
3. Việt Nam Cộng Hoà đầu hàng vô điều kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 là người THUA. Theo bài phỏng vấn của Tướng Frederick C. Weyand ngày 12 tháng 6 năm 2006 thì cuộc chiến bị thua không phải do quân đội kém cỏi mà do những người lãnh đạo chính trị ở Washington. Họ thắng trên chiến trường, nhưng thua vì sự bội ước của đồng minh. Nhưng theo thiển nghĩ thì sau khi Hoa Kỳ đã hoàn thành mục tiêu kiềm chế Trung Cộng, họ rút lui bằng sự trả giá của nhiều bên, trong đó có cả binh sĩ của họ.
Kết luận sau cùng của tôi với cử toạ là cả hai phía người Việt đều là kẻ thua, nhất là dân tộc Việt Nam là người thua trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm của người cộng sản do Hồ Chí Minh, người cộng sản quốc tế, thực hiện sứ mạng trên sự đau xót vô vàn của dân tộc, làm kiệt quệ đất nước và tạo vết thương lịch sử dù 42 năm rồi vẫn chưa lành và không biết có cơ hội nào để lành vết thương dân tộc nầy.
Một cử toạ hỏi tôi về hậu quả tâm lý hiện tại của cuộc chiến, tôi chỉ đơn giản trả lời "bên thắng cuộc vẫn coi bên thua cuộc là kẻ thù cho dù chiến tranh đã chấn dứt 42 năm rồi".
Cuốn phim vẫn trình bày những sự kiện mang tính cách tuyên truyền cũ rích dù họ bỏ ra 10 năm sưu tập tài liệu, phỏng vấn một số người trong và ngoài nước. Vẫn trưng tấm hình Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên Việt Cộng Bảy Lốp trên đường phố Sài Gòn, vẫn bản cũ kết tội tên Trung úy William Calley sát hại 128 thường dân, vẫn chuyện thả bom napalm vào một số làng mạc gây thương tích cho thường dân v.v..., nhưng tôi nói thẳng với họ rằng Việt Cộng pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy ngày 9 tháng 3 năm 1974 làm thiệt mạng gần 200 em học sinh tiểu học sao đoàn làm phim không biết? Trong trận Tết Mậu Thân, người cộng sản sát hại gần 6 ngàn đồng bào vô tội tại Huế, sự kiện chấn động cả thế giới mà đài truyền hình PBS không hay? Phim vẫn cho rằng công ty hoá chất Dow Chemical sản xuất bom Napalm để dội vào làng giết hại dân lành, tôi thẳng thắn nói với họ rằng bom Napalm không chế tạo để giết dân lành và vụ cô Kim Phúc là một trong những nhầm lẫn trong chiến trường như Mỹ đã từng nhầm lẫn ném bom trúng tòa đại sứ Trung Cộng tại Kosovo 1999, thỉnh thoảng ném bom nhầm tại Iraq, Afghanistan, Syria v.v..., Thậm chí họ còn ném bom nhầm vào những đơn vị quân đội của Hoa Kỳ, bắn nhầm binh sĩ Hoa Kỳ v.v..., trong chiến tranh không thế nào tránh nhầm lẫn được. Thế mà bọn truyền thông dòng chính vẫn cố tình vu khống một cách lố bịch, không chút liêm sỉ những sai lầm mà ai cũng có thể nhận thấy. Thảo nào Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump miệt thị họ không oan chút nào.
Sau buổi hội thảo, một sử gia Mỹ tên Bill Laurie gặp tôi và ông nói Bảy Lốp là tên khủng bố đã sát hại 6 người thân của viên chức VNCH, nên bắn Lốp là không vi phạm công ước Geneve.
Có thể đáng lẽ người Mỹ đã rút quân trước 1969, nếu người tư lệnh chiến trường Việt Nam của họ có chiến thuật đúng đắn, khác với chiến thuật "Truy tầm, tiêu diệt" mà Tướng Westmoreland, người được báo chí gọi là vị Tướng bại trận tại Việt Nam (The General Who Lost Vietnam) áp dụng trong nhiều năm. Những nhà bình luận quân sự chỉ trích chiến thuật dùng lực lượng hùng hậu để truy lùng giặc của Westmoreland là không đúng. Chiến thuật nầy chỉ có kết quả khi đối phương chấp nhận đương đầu, nhưng quân Bắc Việt vào thời điểm đó, họ tránh né trong những cuộc hành quân lớn, họ rút sâu vào rừng hoặc vượt qua biên giới Cao Miên, Lào để bảo toàn lực lượng.
Nếu họ sử dụng những vị Tướng tài như Tướng Harold K. Johnson, Frederick C. Weyand, v,v,. thì có lẽ người lính Mỹ đã hồi hương sớm, ít thiệt hại sau khi đã hoàn thành mục đích Kềm Chế Trung Cộng. Và mức độ thiệt hại mà quân đội hai phía Việt Nam sẽ ít hơn, nhất là con số thiệt hại nhân mạng dân lành sẽ thấp hơn, mức độ nghèo nàn, đói rách, lạc hậu của người dân Việt Nam sẽ ít hơn, và trên hết, hận thù không dai dẳng như ngày hôm nay.
Vấn đề viện trợ quân sự cho Miền Nam cũng góp phần trong chánh sách "phủi tay" của Hoa Kỳ. Từ con số 2.8 tỉ năm 1973, còn 1 tỉ năm 1974 và 300 Triệu cho năm 1975. Và cuối cùng, tháng 12 năm 1974 quốc hội Hoa Kỳ quyết định cắt hết viện trợ quân sự, chỉ 55 ngày sau là Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ. Không có quân đội nào đánh giặc mà không có vũ khí, hoặc viện trợ vũ khí, chỉ trừ "truyền thuyết" Quân Giải Phóng với tay không bắt được máy bay Mỹ.
Không ai kéo lịch sử lùi lại được. Người gây ra cuộc chiến vì nhiệm vụ quốc tế cộng sản phải thành khẩn thú nhận trách nhiệm lịch sử. Không chấp nhận hôm nay, trong tương lai lịch sử cũng sẽ ghi lại bởi chính con cháu chúng ta, họ đọc lịch sử từ hai phía, họ đọc lịch sử thế giới, họ sẽ viết lại sự thật mà thế hệ cha ông họ đã trải qua. Đó là chính sử chứ không phải tài liệu tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật mà người cộng sản dùng bạo lực để bóp méo và gọi là lịch sử.
Họ phải thành tâm Hoà Giải Hoà Hợp với những nạn nhân của họ, với đồng bào trong nước để xây dựng lại sức mạnh dân tộc để chống lại giặc Tàu. Làm chậm trễ sẽ mất nước và tội của họ sẽ chồng chất thêm với đất nước và dân tộc.
Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng đáng bỏ thời giờ xem. Điều nầy tôi đã viết trên Yahoo, nhưng 15 phút sau bị gỡ xuống. Hy vọng Burns và Novick sẽ đọc và nhìn lại vấn đề, nếu họ muốn trình bày một số khía cạnh thật về chiến tranh Việt Nam./.
TS.Nguyễn Ngọc Sẵng

Tổng số lượt xem trang