Dịch từ: http://news.zhengjian.org/node/11455
[Chanhkien.org] Theo tin tức do nhân sĩ ở Bắc Kinh tiết lộ, trong các hội nghị cấp cao Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) mới đây, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo không chỉ nhiều lần đề xuất “sửa lại án sai” (tiếng Trung gọi là “bình phản”) cho Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, mà còn đề xuất “giải oan cho Pháp Luân Công”. Tuy nhiên đề xuất này luôn gặp phải phản đối từ phía Chu Vĩnh Khang và phe nhóm Giang Trạch Dân.
Ôn Gia Bảo đề xuất “giải oan cho Pháp Luân Công”
Ngày 24 tháng 3 năm 2012, trong hội nghị cấp cao ĐCSTQ, ông Ôn Gia Bảo không chỉ nhiều lần đề xuất “bình phản Lục Tứ” (cuộc thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989), mà còn đề xuất sửa lại án sai cho Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, các cựu lãnh đạo ĐCSTQ. Ông còn động chạm tới khu vực cấm “nhạy cảm” nhất của ĐCSTQ, đề xuất “giải oan cho Pháp Luân Công”.
Theo tin tức, các đề nghị này của ông Ôn Gia Bảo đã bị phe bảo thủ trong ĐCSTQ ngăn cản. Người phản đối giải quyết oan sai cho Pháp Luân Công là Chu Vĩnh Khang, nhân vật đại biểu phe phái của Giang Trạch Dân. Hồ Cẩm Đào không biểu đạt ý kiến nào.
Nguồn tin nói những người phản đối bình phản Hồ Diệu Bang là khá ít, còn phản đối bình phản Triệu Tử Dương lại khá nhiều. Bình phản Triệu Tử Dương, tất nhiên cũng phải sửa lại án oan cho cuộc thảm sát Thiên An Môn. Bình phản Hồ Diệu Bang, sở dĩ số người phản đối khá ít, là vì những nguyên lão cấp cao ĐCSTQ phản đối Hồ Diệu Bang đều đã qua đời rồi. Tuy nhiên, rất nhiều đại nhân vật phản đối Triệu Tử Dương vẫn còn sống, ví dụ Lý Bằng và Giang Trạch Dân, v.v.
Chu Vĩnh Khang và hệ thống chính trị-luật pháp mổ lấy nội tạng kiếm tiền
Sự cố Vương Lập Quân nổ ra đã bóc trần tấm màn đen “mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công”, bởi vậy Ôn Gia Bảo mới không do dự đề xuất tống Bạc Hy Lai vào tù. Ông Ôn nói: “Sáu, bảy năm trước, thực ra còn sớm hơn, hậu quả đáng sợ mà đàn áp Pháp Luân Công gây ra cho Trung Quốc đã nhìn thấy được rồi. Thông qua điều tra, chúng ta phát hiện Giang Trạch Dân đã sử dụng một lượng tài lực quốc gia kinh hoàng để trấn áp một đoàn thể dân chúng tay không tấc sắt, thật cực kỳ hoang đường. Mãi cho tới hiện tại, vấn đề này Trung ương vẫn không dám đối diện, không dám giải quyết”.
Theo nguồn tin, trong hội nghị nội bộ tại Trung Nam Hải, ông Ôn Gia Bảo nói: “Không cần thuốc mê, mổ lấy nội tạng sống, còn đem bán lấy tiền, đây là việc làm của con người ư? Sự tình loại này xảy ra đã nhiều năm rồi, chúng ta sắp về hưu rồi, vẫn còn chưa giải quyết…” “Hiện tại lòi ra sự kiện Vương Lập Quân, cả thế giới đều biết hết rồi, cần xử lý sao đây…”
Vấn đề Pháp Luân Công vẫn luôn là tiêu điểm gây bất đồng giữa liên minh Hồ-Ôn và phe phái Giang Trạch Dân.
Khi cuộc đấu đá nội bộ trong ĐCSTQ đang kịch liệt chưa từng có, mạng tìm kiếm Baidu vốn bị phe nhóm Giang Trạch Dân khống chế nghiêm ngặt, gần đây đã một lần bỏ cấm các nội dung “Lửa giả“, “Đoàn Nghệ thuật Thần Vận“, “Chuyển Pháp Luân“, “Mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công“, v.v. đặc biệt tin tức ĐCSTQ mổ cướp nội tạng khiến người ta kinh hãi. Điều này thuyết minh kiếm của Hồ-Ôn đang nhắm vào tử huyệt của tập đoàn Giang Trạch Dân, bởi vì Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang đều thăng tiến đường quan lộ nhờ tiên phong theo Giang Trạch Dân bức hại Pháp Luân Công.
Bạc Hy Lai bị Ôn Gia Bảo đoạn đứt “hoạn lộ”
Mới đây, trang mạng WikiLeaks đã công bố một bức điện ngoại giao của Mỹ, trong đó nói thời Bạc Hy Lai còn đảm nhiệm chức Bộ trưởng Thương mại, ông ta vì “bức hại Pháp Luân Công” mà bị rất nhiều quốc gia nước ngoài khởi tố. Ngoài ra, do Ôn Gia Bảo cực lực phản đối ông ta nhăm nhe chức Phó Thủ tướng, Bạc Hy Lai đã bị giáng xuống chức Bí thư Thành ủy Trùng Khánh, khả năng là trạm dừng cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của Bạc.
“Chuyển Pháp Luân” một lần được bỏ cấm
Khoảng 2 giờ sáng ngày 21 tháng 3 năm 2012 giờ Bắc Kinh, từ mạng Baidu, cư dân mạng Trung Quốc có thể tìm kiếm cuốn sách “Chuyển Pháp Luân“, trước tác của Pháp Luân Đại Pháp bị che đậy đã nhiều năm. Trang chủ của Baidu hiển thị các website nội dung liên quan đến Pháp Luân Công, bao gồm cả đồ hình Pháp Luân và Pháp tượng của Đại sư Lý Hồng Chí. Người ta cũng nhìn thấy nội dung toàn văn cuốn “Chuyển Pháp Luân”, tác phẩm nổi tiếng nhất của Pháp Luân Đại Pháp, cùng ảnh luyện công của các học viên Pháp Luân Công trong và ngoài Trung Quốc.
“Thu hoạch đẫm máu” một lần được bỏ cấm
Không chỉ có vậy, cũng trên mạng tìm kiếm Baidu lớn nhất Đại Lục, vào lúc 8 giờ tối ngày 23 tháng 3 giờ Bắc Kinh, người ta có thể tìm kiếm cuốn sách “Thu hoạch đẫm máu” (Bloody Harvest) và các tin tức liên quan phơi bày tội ác mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công của ĐCSTQ. Cuốn “Thu hoạch đẫm máu” mới do hai nhà vận động nhân quyền Canada là David Kilgour và David Matas công bố tại Đài Loan, là một báo cáo điều tra ĐCSTQ mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công.
Báo cáo dẫn chứng một lượng lớn điều tra thực tế, chứng minh ĐCSTQ mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công là có thật, mô tả đây là “tội ác chưa từng có trên trái đất này”.
Tối hôm đó, khi người dùng gõ “Vương Lập Quân mổ” vào Baidu, kết quả đầu tiên là “Vương Lập Quân tự mình trình báo nhiều tình tiết về Bạc Hy Lai”, còn kết quả cuối cùng là “Tận mắt chứng kiến mổ lấy nội tạng”. Tất cả đều phơi bày Vương Lập Quân và Bạc Hy Lai câu kết theo gót tập đoàn Giang Trạch Dân tàn khốc bức hại Pháp Luân Công, và kéo ra tấm màn đen tội ác mổ lấy nội tạng.
Phim “Lửa giả” vạch trần chân tướng tự thiêu một lần được bỏ cấm
Ngày 23 tháng 3, trên mạng Baidu, người ta có thể tìm thấy “Lửa giả” (http://www.falsefire.com), bộ phim tài liệu do Đài truyền hình Tân Đường Nhân chế tác vạch trần chân tướng đằng sau “vụ tự thiêu tại Thiên An Môn” xảy ra chiều ngày 23 tháng 1 năm 2001. Bộ phim đã đoạt giải Liên hoan phim Columbus lần thứ 51.
Bộ phim đã phân tích rất nhiều điểm đáng ngờ trong “vụ án tự thiêu” này: Chẳng hạn, chỉ trong một thời gian cực ngắn, Tân Hoa Xã của ĐCSTQ đã chạy tin “5 học viên Pháp Luân Công tự thiêu”. Qua phân tích băng quay chậm đoạn phim của CCTV, bộ phim “Lửa giả” đã chứng minh cô Lưu Xuân Linh, người phụ nữ 36 tuổi không có quan hệ gì với Pháp Luân Công, đã chết tại chỗ do một cú đánh từ một người vạm vỡ trên hiện trường. Bộ phim cũng giải thích tại sao nửa năm sau, đứa con gái 12 tuổi của cô Lưu lại chết bất thường, cũng như thật giả đằng sau nhân vật chính “Vương Tiến Đông”, v.v.
Ngày nay, trong khi cô gái trẻ đẹp bị bỏng đến mức không nhận ra – Trần Quả và mẹ cô vẫn còn đang bị giam lỏng, thì nhân vật được cho là người của công an – “Vương Tiến Đông” đã bốc hơi không biết hướng nào. Giới quan sát bên ngoài cho rằng, vụ án “tự thiêu tại Thiên An Môn” này chính là do La Cán, cựu Bí thư Ủy ban Chính trị và Luật pháp ĐCSTQ chế tác, và được xưng là “vụ lừa dối thế kỷ”.
“Chân tướng Pháp Luân Công” – tử huyệt của tập đoàn Giang Trạch Dân
Ông Thạch Tàng Sơn, chuyên gia vấn đề Trung Quốc tại Washington D.C cho rằng, trong cuộc đấu đá nội bộ kịch liệt hiện nay của ĐCSTQ, phe Hồ-Ôn muốn lấy danh nghĩa chống hủ bại, đấu tranh đường lối để đánh vỡ phe phái Giang Trạch Dân. Nhằm huy động lực lượng chính trị và đạo đức, họ đã đưa ra ánh sáng một loạt chân tướng đằng sau các tội ác như mổ cướp nội tạng,… để dân chúng Trung Quốc nhìn thấy Chu Vĩnh Khang, Giang Trạch Dân bao năm qua đã phạm phải tội ác khiến người dân phẫn nộ như thế nào. Ông cho rằng, dân chúng Trung Quốc nhất định sẽ yêu cầu trừng trị những kẻ ác trong hệ thống chính trị-tư pháp.
Ông Thạch Tàng Sơn nói, nếu như Hồ-Ôn có thể tiếp tục phơi bày tội ác của Giang Trạch Dân và Chu Vĩnh Khang, để dân chúng nhìn thấy chân tướng, lại thuận theo ý dân mà trừng trị kẻ xấu, thì họ sẽ có thể chiếm cứ điểm cao chính nghĩa và đạo đức trong cuộc nội đấu tại Trung Nam Hải. Ngoài ra, điều này sẽ đánh trúng chỗ hiểm trí tử của phe phái Giang Trạch Dân, giành được nhân tâm, cục diện Trung Quốc sẽ đi theo hướng bình ổn quá độ, đây chính là lối thoát tương lai của Trung Quốc.
Đúng như lời thề của ông Ôn Gia Bảo trong cuộc họp báo ngày 14 tháng 3, kết quả xử lý sự kiện Vương Lập Quân đã chứng tỏ “trải qua kiểm nghiệm của pháp luật và lịch sử”.
Hơn 50 quan chức cấp cao ĐCSTQ bị khởi tố tại 30 quốc gia trên toàn cầu
Pháp Luân Công là một công pháp tu luyện lấy “Chân-Thiện-Nhẫn” làm nguyên tắc chỉ đạo, từ đó đạt đến bình hòa và hoàn thiện về tự ngã. Pháp môn tu tâm dưỡng tính cổ xưa này được truyền ra từ năm 1992 tại thành phố Trường Xuân bởi ông Lý Hồng Chí, và tới năm 1999 đã phổ biến tới hơn 50 quốc gia trên thế giới, giúp hàng triệu người thu được lợi ích.
Tuy nhiên, do số người tập Pháp Luân Công ngày càng nhiều tại Trung Quốc, nên tháng 7 năm 1999, cựu Bí thư ĐCSTQ là Giang Trạch Dân cảm thấy khủng hoảng bất an, và đã phát động một cuộc vận động trấn áp tàn khốc Pháp Luân Công.
Hơn 10 năm qua, từ chứng cứ giả “1.400 cái chết”, đến vụ án giả “tự thiêu tại Thiên An Môn”, cho tới mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công, đây đều là các tội ác mà tập đoàn Giang Trạch Dân phạm phải. Tới nay, Giang Trạch Dân và những người đồng lõa, bao gồm Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang, v.v. hơn 50 quan chức cấp cao ĐCSTQ, đã bị khởi tố tại 30 quốc gia trên thế giới với tội ác diệt chủng và chống lại loài người.
(Đại Kỷ Nguyên)
Bo Xilai bị quản chế tại gia, theo báo cáo truyền thông
Các Nhân vật Chính trong cuộc Đấu tranh Bắc Kinh |
Đảng Cộng sản Cuối cùng thừa nhận có khủng hoảng văn hóa |
Phần lịch sử ĐCS TQ - Ai chưa đủ 10 thành công lực thì không nên xem. Khá kinh khủng và những ai chưa trải qua những ngày đen tối không nên xem vì sẽ không tin.... Lịch sử ĐCS TQ phải đọc dài dài thì mới chịu nổi vì quá dã man... chuyện Lưu Thiếu Kỳ đọc mãi mà vẫn rớt nước mắt ...-----------
Falun Gong fights on 10 years after Chinese ban
Cuộc chiến Pháp Luân Công - 10 năm sau ngày bị cấm tại TQ
By Lucy Hornby Lucy Hornby – 51 mins ago
BEIJING (Reuters) – Từ New York tới Đài Loan, hình ảnh các thành viên Pháp Luân Công rải các tờ rơi về những hình ảnh tra tấn đang trở nên quen thuộc - 10 năm sau, thành viên Pháp Luân Công đã làm những nhà lãnh đạo TQ phải sửng sốt với một cuộc biểu tình tại Bắc Kinh…
----------
Đảng Cộng Sản Trung Quốc, một lịch sử đầy giết chóc
Lá cờ cộng sản được nhuộm bằng máu của “giai cấp thù địch”, của “phần tử phản động”, “phần tử cánh hữu”,… Thực chất, là máu của chính người dân Trung Quốc.
Cách mạng văn hoá (1966-1976), mười năm đen tối trong lịch sử của dân tộc Trung Hoa. Ngày nay, chỉ nhớ đến thôi, những ai đã từng trải qua năm tháng khủng khiếp ấy cũng phải rùng mình.
Lời dẫn
Lịch sử 55 năm của Đảng Cộng sản Trung Quốc —ĐCSTQ— được viết bằng máu và những lời dối trá. Các câu truyện đằng sau lịch sử đầy máu này vừa cực kỳ bi đát vừa ít được biết đến. Dưới chế độ thống trị của ĐCSTQ, 60 đến 80 triệu người dân Trung Quốc vô tội đã bị giết hại, để lại đằng sau những gia đình tan nát của họ. Nhiều người không hiểu tại sao ĐCSTQ lại giết người. Trong khi ĐCSTQ đang tiếp tục sự đàn áp tàn bạo của nó đối với các học viên Pháp Luân Công và gần đây áp bức các đám người biểu tình ở Hán Nguyên bằng súng đạn, mọi người tự hỏi liệu họ có thể sẽ thấy một ngày mà ĐCSTQ học cách nói bằng lời thay vì bằng súng đạn.
Mao Trạch Đông tóm tắt mục tiêu của Cách mạng Văn hóa, “…sau thời đại hỗn mang, thế giới sẽ có hòa bình, nhưng cứ khoảng 7 hoặc 8 năm, sự hỗn loạn lại cần phải xảy ra.” [1] Nói cách khác, nên có một cuộc cách mạng về chính trị 7 hoặc 8 năm một lần và một đám người cần bị giết chết khoảng 7 hoặc 8 năm một lần.
Có một ý thức hệ hỗ trợ và các yêu cầu thực tế nằm sau sự chém giết của ĐCSTQ.
Xét theo hệ thống lý luận, thì ĐCSTQ tin vào “chuyên chính vô sản” và “liên tục cách mạng dưới chế độ chuyên chính vô sản”. Do đó sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền tại Trung Quốc, nó đã giết chết những người sở hữu đất đai để giải quyết các vấn đề với các mối quan hệ sản xuất ở các khu vực nông thôn. Nó đã giết hại các nhà tư bản để đạt mục đích cải cách công thương và giải quyết các mối quan hệ sản xuất ở các khu vực thành thị. Sau khi hai giai cấp này bị tiêu diệt, các vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế về mặt cơ bản đã được giải quyết. Tương tự, giải quyết các vấn đề liên quan đến kiến trúc thượng tầng [2] cũng cần đến giết chóc. Việc đàn áp Nhóm chống Đảng Hồ Phong [3] và Phong trào chống cánh hữu đã tiêu diệt các trí thức. Việc giết hại những tín đồ đạo Cơ đốc, những người tu Đạo, những người theo Đạo Phật và các nhóm dân tộc phổ biến đã giải quyết vấn đề tôn giáo. Các cuộc tàn sát trên diện rộng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa đã thiết lập nên quyền lãnh đạo tuyệt đối của ĐCSTQ về chính trị và văn hóa. Vụ thảm sát trên Quảng trường Thiên An Môn 1989 được dùng để ngăn chặn khủng hoảng chính trị và đè bẹp các đòi hỏi dân chủ. Chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công nhằm để giải quyết các vấn đề về tín ngưỡng vào tu luyện và cách chữa bệnh truyền thống. Tất cả những hành động này đều nhằm để củng cố quyền lực của ĐCSTQ và duy trì sự thống trị của nó khi liên tục phải đối mặt với các khủng hoảng tài chính (giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng vọt sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền và nền kinh tế Trung Quốc gần như đã sụp đổ sau Cách mạng Văn hóa), khủng hoảng chính trị (một số người không nghe theo lệnh của Đảng hoặc một số người muốn chia sẻ quyền lực chính trị với Đảng) hoặc khủng hoảng về lòng tin (sự tan rã của Liên-Xô cũ, các biến động chính trị ở Đông Âu, và vấn đề Pháp Luân Công). Trừ vấn đề Pháp Luân Công, gần như tất cả các phong trào chính trị trước đó đều được dùng để làm sống lại bóng ma của ĐCSTQ và kích động tham vọng cách mạng của nó. ĐCSTQ cũng đã sử dụng những phong trào chính trị này để thử các đảng viên ĐCSTQ, tiêu diệt những người không đạt yêu cầu của Đảng.
Việc giết chóc cũng được viện đến vì những lý do thiết thực. Đảng Cộng sản được thành lập bởi những tên vô lại giết người để giành quyền lực. Một khi tiền lệ này đã được đặt ra thì không có đường lui. Khủng bố liên miên đã được dùng để dọa nạt nhân dân và bắt buộc họ vì sợ hãi mà chấp nhận quyền thống trị tuyệt đối của ĐCSTQ.
Trên bề mặt, tưởng như là ĐCSTQ “bắt buộc phải giết chóc” và rằng nhiều sự kiện xảy ra là để kích động bóng ma ĐCSTQ và tình cờ châm ngòi cho cỗ máy giết người của ĐCSTQ. Thực tế là, những sự kiện này được dùng để ngụy trang nhu cầu giết chóc của Đảng, và ĐCSTQ cần phải giết chóc định kỳ. Nếu không có những bài học đau đớn này, mọi người có thể bắt đầu nghĩ rằng ĐCSTQ đang tiến bộ và bắt đầu đòi hỏi dân chủ như những sinh viên với những ý nghĩ quá lý tưởng hóa trong phong trào dân chủ năm 1989 đã làm. Việc giết chóc 7 hay 8 năm một lần là để gợi lại sự khủng bố trong tâm trí nhân dân và có thể cảnh cáo thế hệ trẻ: bất kể ai chống lại ĐCSTQ, muốn thách thức quyền lãnh đạo tuyệt đối của ĐCSTQ, hoặc cố nói ra sự thực về lịch sử Trung Quốc, sẽ phải nếm mùi “nắm đấm sắt của chế độ chuyên chính vô sản”.
Giết chóc đã trở thành một trong những cách cần thiết nhất để ĐCSTQ duy trì quyền lực. Với sự leo thang của nợ máu của nó, thì việc hạ lưỡi dao đồ tể của nó xuống sẽ khuyến khích nhân dân báo thù cho những tội ác của ĐCSTQ. Do đó, ĐCSTQ không chỉ giết hại nhiều người mà còn giết hại một cách tàn ác nhất để đe dọa nhân dân một cách hiệu lực đặc biệt là vào thời kỳ đầu khi ĐCSTQ đang thiết lập sự thống trị của nó.
Bởi vì mục đích của giết chóc là để tạo ra khủng bố tối đa, ĐCSTQ đã lựa chọn các mục tiêu để hủy diệt một cách tùy tiện và bừa bãi. Trong phong trào cách mạng nào cũng vậy, ĐCSTQ đều sử dụng chiến lược diệt chủng. Hãy lấy “đàn áp các phần tử phản động” làm ví dụ. ĐCSTQ đã không thực sự đàn áp “những hành động” phản động mà “những người” mà họ gọi là phản động. Nếu ai đã đầu quân và phục vụ vài ngày trong quân đội của Quốc Dân Đảng nhưng tuyệt đối không làm gì liên quan đến chính trị sau khi ĐCSTQ giành được quyền lực, người này vẫn sẽ bị giết chết vì “lịch sử phản động” của mình. Trong quá trình cải cách ruộng đất, để gỡ bỏ “gốc rễ của vấn đề”, ĐCSTQ thường giết cả gia đình của người chủ sở hữu đất.
Từ năm 1949 khi giành chính quyền đến nay, ĐCSTQ đã đàn áp hơn một nửa nhân dân Trung Quốc. Ước tính khoảng 60 đến 80 triệu người đã chết vì các nguyên nhân không tự nhiên. Con số này vượt trên cả tổng số người chết trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới cộng lại.
Như ở những đất nước cộng sản khác, việc giết chóc tùy tiện của ĐCSTQ cũng bao gồm việc giết hại tàn bạo những đảng viên của chính nó để tiêu diệt những người bất đồng chính kiến coi trọng ý thức về nhân tính hơn đảng tính. Chế độ thống trị khủng bố của ĐCSTQ rơi đều vào nhân dân và các đảng viên của nó để duy trì một “pháo đài bất khả chiến bại”.
Trong một xã hội bình thường, mọi người bày tỏ sự quan tâm và tình cảm với nhau, sống trong sự tôn kính và biết ơn Chúa. Ở phương Đông, mọi người nói, “Đừng bao giờ gây ra cho người khác điều gì mà chính bản thân mình không muốn nhận nó [4].” Ở phương Tây, mọi người nói, “Hãy yêu quý hàng xóm láng giềng như yêu chính bản thân mình” [5]. Ngược lại, ĐCSTQ có quan điểm rằng “Lịch sử của tất cả các xã hội hiện thời cho đến ngày nay là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp” [6]. Để giữ cho “các cuộc đấu tranh” luôn sống trong xã hội thì phải sinh ra sự thù hận. ĐCSTQ không chỉ giết người mà nó còn khuyến khích nhân dân giết hại lẫn nhau. Nó cố làm cho mọi người trở nên thờ ơ lãnh đạm với nỗi đau khổ của người khác bằng cách bao vây người ta trong giết chóc liên miên. Nó muốn mọi người trở nên tê liệt do thường xuyên phải đối mặt với những sự tàn ác vô nhân đạo, và hình thành một tâm lý rằng “điều tốt nhất ta có thể hy vọng là không bị đàn áp”. Tất cả những bài học về sự đàn áp dã man này cho phép ĐCSTQ duy trì được quyền thống trị của nó.
Cùng với việc hủy diệt vô số nhân mạng, ĐCSTQ cũng hủy hoại tâm hồn của người dân Trung Quốc. Có rất nhiều người do quá sợ hãi trước những đe dọa của ĐCSTQ nên đã không dám có phản ứng gì ngoài việc hoàn toàn từ bỏ những lý lẽ về nguyên tắc của bản thân mình. Về một khía cạnh nào đó, lương tri của những người này đã chết: một điều còn đáng sợ hơn cả cái chết của thể xác.
******************
I. Những cuộc thảm sát khủng khiếp
Trước khi ĐCSTQ lên nắm quyền, Mao Trạch Đông viết, “Chúng ta tuyệt đối không áp dụng chính sách nhân từ đối với các phần tử phản động và đối với các hoạt động phản động của các giai cấp phản động [7].” Nói cách khác, thậm chí trước khi ĐCSTQ chiếm được Bắc Kinh, nó đã quyết định trong đầu là sẽ hành động hung tàn dưới cách nói tránh của “chế độ chuyên chế dân chủ nhân”. Sau đây là một vài ví dụ.
Đàn áp những phần tử phản động và cải cách ruộng đất
Vào tháng 3/1950, ĐCSTQ công bố “Lệnh đàn áp nghiêm khắc các phần tử phản động”, được biết đến trong lịch sử như một phong trào “đàn áp các phần tử phản động”.
Không như các hoàng đế ân xá cho toàn bộ đất nước sau khi họ lên ngôi, ĐCSTQ bắt đầu giết chóc chỉ một phút sau khi nó lên nắm quyền. Mao Trạch Đông nói trong một tài liệu, “Còn có rất nhiều nơi mà nhân dân bị đe dọa và không dám giết các phần tử phản động một cách công khai trên diện rộng [8].” Vào tháng 2/1951, trung ương đảng ĐCSTQ nói rằng ngoại trừ tỉnh Triết Giang và phía nam tỉnh An Huy, “các khu vực khác nơi mà vẫn chưa giết đủ, đặc biệt là ở các thành phố lớn và vừa, nên tiếp tục bắt và giết một số lượng lớn và không nên dừng sớm quá.” Mao thậm chí khuyến nghị rằng “ở các khu vực nông thôn, để giết các phần tử phản động, nên giết hơn 1/1000 tổng số dân… ở các thành phố, nên giết ít hơn 1/1000. [9]” Dân số Trung Quốc vào thời gian đó là khoảng 600 triệu người; “lệnh hoàng gia” này của Mao sẽ giết chết ít nhất 600 nghìn người. Không một ai biết tỉ lệ 1/1000 này là ở đâu ra. Có thể là Mao chợt nảy ra quyết định rằng 600 nghìn nhân mạng là đủ để đặt một nền tảng để tạo ra nỗi sợ hãi trong nhân dân, nên đã ra lệnh thực hiện như thế.
ĐCSTQ không quan tâm đến việc liệu những người bị giết có thực sự đáng phải chết hay không. “Quy định của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa về việc trừng phạt các phần tử phản động” công bố năm 1951 thậm chí nói rằng những người “phao tin đồn” có thể bị “tử hình ngay lập tức”.
Trong khi việc đàn áp các phần tử phản động đang được thực hiện kịch liệt, thì cải cách ruộng đất cũng đang diễn ra trên diện rộng. Trên thực tế, ĐCSTQ đã bắt đầu cải cách ruộng đất trong các khu vực do nó chiếm đóng vào cuối những năm 1920. Trên bề mặt, cải cách ruộng đất, trông có vẻ như ủng hộ một lý tưởng tương tựa như ở Thái Bình Thiên Quốc [10], gọi là, tất cả mọi người đều sẽ có đất để trồng trọt nhưng thực ra nó chỉ là một cái cớ để giết chóc. Đào Chú, đứng thứ tư trong hàng ngũ ĐCSTQ, sau đó có một khẩu hiệu cho cải cách ruộng đất là: “Làng nào cũng đổ máu, nhà nào cũng đánh nhau,” cho thấy rằng làng nào cũng có những người sở hữu đất đai phải chết.
Cải cách ruộng đất đã có thể được thực hiện mà không cần phải giết chóc. Nó đã có thể được thực hiện đúng theo cách mà chính phủ Đài Loan thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của mình bằng cách mua lại đất từ các chủ sở hữu đất. Tuy nhiên, bởi vì ĐCSTQ bắt nguồn từ một nhóm những kẻ lưu manh côn đồ vô sản, nó chỉ biết cướp bóc. Sợ rằng nó có thể bị trả thù do cướp bóc, ĐCSTQ đã giết các nạn nhân, để loại trừ nguồn gốc của các rắc rối có thể có sau này.
Cách giết người phổ biến nhất trong thời kỳ cải cách ruộng đất được biết đến là “đấu tố”. ĐCSTQ làm giả tội phạm và quy tội cho các chủ sở hữu đất hoặc những nông dân giàu có. Cộng đồng sau đó được hỏi xem họ nên bị trừng phạt như thế nào. Một số đảng viên hoặc những người hoạt động cho ĐCSTQ đã được gài trong những đám đông để hô “Chúng ta nên giết họ!” và các chủ sở hữu đất hoặc những nông dân giàu có sau đó bị xử tử ngay tại chỗ. Vào thời gian đó, bất kỳ ai sở hữu đất trong làng đều bị coi là “cường hào”. Những người thường lợi dụng nông dân bị gọi là “cường hào bủn xỉn”; những người thường giúp sửa chữa những tiện nghi công cộng và tặng tiền cho các trường học và để giảm nhẹ thiên tai được gọi là “cường hào tốt bụng”; những người không làm gì cả được gọi là “cường hào im lặng”. Việc phân loại như thế này không có ý nghĩa gì cả, bởi vì tất cả các “cường hào” cuối cùng đều bị xử tử ngay lập tức bất kể là họ thuộc vào loại “cường hào” nào.
Vào khoảng cuối năm 1952, số phần tử phản động bị xử tử do ĐCSTQ công bố là vào khoảng 2.4 triệu người. Thực ra, tổng số người chết bao gồm các quan chức chính phủ Quốc Dân Đảng cũ dưới cấp huyện và các chủ sở hữu đất ít nhất là 5 triệu người.
Việc đàn áp các phần tử phản động và cải cách ruộng đất có ba kết quả trực tiếp. Thứ nhất là, các cựu quan chức địa phương mà đã được lựa chọn thông qua sự tự trị dựa trên cơ sở thị tộc đã bị tiêu diệt. Thông qua việc đàn áp các phần tử phản động và cải cách ruộng đất, ĐCSTQ đã giết hại tất cả những nhân vật quản lý trong chế độ trước và thực hiện được quyền kiểm soát toàn bộ đối với các khu vực nông thôn bằng cách thiết lập các chi nhánh của đảng trong từng làng xã. Thứ hai là, chiếm được một lượng khổng lồ của cải bằng con đường trộm cướp trong việc đàn áp các phần tử phản động và cải cách ruộng đất. Thứ ba là, dân thường bị khủng bố bởi sự đàn áp dã man các chủ sở hữu đất và nông dân giàu có.
“Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống”
Việc đàn áp các phần tử phản động và cải cách ruộng đất chủ yếu nhằm vào các khu vực nông thôn, còn “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống” sau đó có thể được coi là sự diệt chủng tương ứng ở thành thị.
“Chiến dịch Ba chống” bắt đầu vào tháng 12/1951 và nhằm vào nạn tham nhũng, lãng phí và quan liêu trong số những cán bộ của ĐCSTQ. Một số quan chức hủ bại của ĐCSTQ đã bị tử hình. Không lâu sau đó, ĐCSTQ quy việc hủ bại của các quan chức chính quyền của nó là do sự cám dỗ của các nhà tư bản. Một cách tương ứng, “Chiến dịch Năm chống” nhằm vào hối lộ, trốn thuế, trộm cắp tài sản nhà nước, sự xây dựng vội vàng và cẩu thả bằng vật liệu xấu, và làm gián điệp thu thập các thông tin kinh tế của nhà nước được bắt đầu tháng 1/1952.
“Chiến dịch Năm chống” về cơ bản là ăn cắp tài sản của các nhà tư bản hay đúng hơn là giết hại các nhà tư bản để lấy tiền của họ. Trần Nghị, thị trưởng Thượng Hải lúc bấy giờ, được báo cáo vắn tắt tình hình trên ghế sô-fa với một cốc trà trong tay mỗi đêm. Ông ta hỏi một cách nhàn nhã, “Có bao nhiêu lính dù hôm nay?” có nghĩa là “Có bao nhiêu thương gia nhảy lầu tự tử hôm nay?” Không một nhà tư bản nào có thể trốn thoát “Chiến dịch Năm chống”. Họ bị yêu cầu đóng thuế “đã trốn” sớm như thời Quang Tự (1875-1908) trong Triều đại nhà Thanh (1644-1911) khi thị trường thương mại Thượng Hải bắt đầu được thành lập. Các nhà tư bản đã không thể có cách nào để trả “những thứ thuế” đó thậm chí với tất cả tài sản của họ. Họ không có cách nào khác ngoài việc tự kết liễu cuộc đời của mình, nhưng họ không dám nhảy xuống sông Hoàng Phố. Nếu xác của họ không được tìm thấy, ĐCSTQ sẽ buộc tội họ là chạy sang Hồng Công, và người nhà của họ sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm trả những khoản thuế đó. Các nhà tư bản đành phải nhảy lầu và để lại xác cho ĐCSTQ thấy bằng chứng của cái chết của họ. Người ta nói rằng mọi người không dám đi bộ bên cạnh các tòa nhà cao tầng ở Thượng Hải thời bấy giờ vì sợ bị những người nhảy từ trên xuống rơi vào mình.
Theo Sự thực của các chiến dịch chính trị sau khi thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa đồng biên soạn bởi bốn cơ quan chính phủ bao gồm cả Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử ĐCSTQ năm 1996, trong thời kỳ “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống”, hơn 323.100 người đã bị bắt và hơn 280 người đã tự tử hay mất tích. Trong “Chiến dịch chống Hồ Phong” năm 1955, hơn 5.000 đã bị buộc tội, hơn 500 người đã bị bắt, hơn 60 người đã tự tử, và 12 người đã chết vì các nguyên nhân không tự nhiên. Trong cuộc đàn áp các phần tử phản động sau đó, hơn 21300 người đã bị tử hình, và hơn 4.300 người đã tự tử hoặc mất tích [11].
Nạn đói khủng khiếp
Số người chết cao nhất được ghi lại trong Nạn đói khủng khiếp của Trung Quốc ngay sau chiến dịch Đại nhảy vọt. [12] Bài “Nạn đói khủng khiếp” trong quyển sách Những ghi chép lịch sử của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa tuyên bố rằng “Số lượng người chết do những nguyên nhân không tự nhiên và số lượng người mới sinh bị giảm đi từ năm 1959 đến năm 1961 được ước tính là khoảng 40 triệu… sự giảm 40 triệu người của Trung Quốc nhiều khả năng là nạn đói khủng khiếp nhất trên thế giới trong thế kỷ này.” [13]
Nạn đói khủng khiếp bị ĐCSTQ dán một cái mác sai lệnh là “Thiên tai 3 năm”. Trên thực tế, 3 năm đó có điều kiện thời tiết tốt mà không có bất kể một thiên tai lớn nào như lũ lụt, hạn hán, bão, sóng thần, động đất, sương giá, mưa đá, hay dịch chấu chấu. “Tai họa” đó hoàn toàn là do con người gây nên. Chiến dịch Đại nhảy vọt yêu cầu mọi người ở Trung Quốc phải tham gia vào luyện thép, buộc nông dân phải bỏ hoa màu thối rữa ở ngoài đồng. Bất chấp điều này, các quan chức ở các khu vực lại còn tăng thu hoa lợi của sản lượng. Hạ Diệc Nhiên, Bí thư thứ nhất của Đảng bộ quận Liễu châu tự bịa đặt sản lượng sửng sốt “65.000 cân thóc trên một mẫu [14]” ở huyện Hoàn Giang. Đây là ngay sau Hội nghị toàn thể Lộc sơn khi phong trào chống cánh hữu của ĐCSTQ lan ra toàn quốc. Để cho thấy rằng ĐCSTQ luôn luôn đúng, hoa màu bị chính quyền sung công như một hình thức đánh thuế theo sản lượng được thổi phồng lên này. Hậu quả là, khẩu phần ngũ cốc, giống và lương thực chủ yếu của nông dân tất cả đều bị sung công. Khi yêu cầu vẫn chưa được đáp ứng, nông dân bị buộc tội là đã giấu hoa màu của mình.
Hạ Diệc Nhiên đã từng nói rằng họ phải phấn đấu giành giải nhất trong cuộc thi sản lượng cao nhất bất kể là bao nhiêu người ở Liễu Châu sẽ phải chết. Một số nông dân đã bị cướp đi tất cả, chỉ còn lại một chút gạo được giấu ở trong chậu nước tiểu. Đảng bộ quận Thuần Lạc, huyện Hoàn Giang thậm chí còn ra lệnh cấm nấu cơm, để ngăn nông dân không được ăn hoa màu. Việc tuần tra được thực hiện bởi dân quân vào ban đêm. Nếu họ thấy ánh lửa họ sẽ tiến hành lục soát và vây bắt. Nhiều nông dân thậm chí không dám nấu thảo mộc hoặc vỏ cây dại ăn được, và chết đói.
Trong lịch sử, vào những lúc có nạn đói, vua quan sẽ cấp cháo, phân phát hoa màu và cho phép các nạn nhân di tản khỏi những khu vực có nạn đói. Còn ĐCSTQ coi việc chạy khỏi nơi có nạn đói là một điều ô nhục cho uy tín của đảng, và ra lệnh cho dân quân chặn đường không cho các nạn nhân thoát khỏi nạn đói. Khi các nông dân bị đói quá phải cướp ngũ cốc ở các kho lương thực, ĐCSTQ ra lệnh bắn vào đám đông để đàn áp việc cướp bóc và dán cái mác cho những người bị chết là các phần tử phản cách mạng. Một số lượng lớn nông dân bị chết đói ở nhiều tỉnh bao gồm Cam Túc, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Hồ Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên, và Quảng Tây. Nông dân bị đói nhưng vẫn bị bắt tham gia làm các việc tưới nước, xây đập và luyện thép. Nhiều người bị ngã xuống đất trong khi làm việc và không bao giờ đứng lên được nữa. Cuối cùng thì những người sống xót không có sức để chôn những người bị chết. Nhiều làng bị chết toàn bộ khi mọi người lần lượt bị chết đói.
Trong các nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc trước thời ĐCSTQ, có những trường hợp các gia đình phải trao đổi con cho nhau để ăn thịt nhưng không ai từng ăn thịt chính con mình. Tuy nhiên dưới thời ĐCSTQ, mọi người buộc phải ăn thịt những người bị chết, ăn những người chạy trốn đến từ những khu vực khác, và thậm chí phải giết chết và ăn thịt con của chính mình. Nhà văn Sa Thanh đã mô tả cảnh này trong quyển sách của ông Y Hy Đại Địa Loan (Một eo đất thưa thớt): Trong một gia đình nông dân, người cha chỉ còn lại một người con trai và một người con gái trong Nạn đói khủng khiếp. Một hôm, người cha đuổi người con gái ra khỏi nhà. Khi cô trở về, cô không thể tìm thấy người em trai mà chỉ nhìn thấy mỡ trắng nổi ở trong chảo và một đống xương ở cạnh bếp. Vài ngày sau, người cha thêm nước vào chảo, và gọi người con gái đến gần. Cô gái sợ quá, và xin cha cô từ ngoài cửa, “Bố, đừng ăn thịt con. Con có thể nhặt củi và nấu cơm cho bố. Nếu bố ăn thịt con, thì sẽ không còn ai làm việc này cho bố nữa.”
Cấp độ cuối cùng và số lượng thảm kịch như thế này thì không được biết đến. Thế nhưng ĐCSTQ vẫn xuyên tạc nó như là một vinh dự cao quý và tự nhận rằng ĐCSTQ đã lãnh đạo nhân dân một cách dũng cảm chống lại “thiên tai” và tiếp tục tự khen mình là “vĩ đại, vinh quang và đúng đắn”.
Sau Hội nghị toàn thể Lộc Sơn năm 1959, tướng Bành Đức Hoài [15] bị tước quyền vì lên tiếng bênh vực nhân dân. Một nhóm quan chức và cán bộ chính quyền dám nói sự thực đã bị bãi chức, bị giam hoặc bị điều tra. Sau đó, không ai còn dám nói lên sự thực nữa. Vào thời gian của Nạn đói khủng khiếp, thay vì báo cáo sự thực, mọi người che đậy thực tế về số lượng người chết đói để bảo vệ chức vụ của họ. Tỉnh Cam Túc thậm chí còn từ chối viện trợ lương thực của tỉnh Sơn Tây, nói rằng Cam Túc đã có một số dư lương thực rất lớn.
Nạn đói khủng khiếp này cũng là một cuộc thi loại cho các cán bộ của ĐCSTQ. Theo tiêu chuẩn của ĐCSTQ, những cán bộ mà chống lại việc nói lên sự thực bất chấp việc hàng chục triệu người chết đói chắc chắn là “đạt tiêu chuẩn”. Với cuộc trắc nghiệm này, ĐCSTQ sau đó sẽ tin rằng không có gì như tình người hay đạo trời có thể trở thành một gánh nặng tâm lý ngăn cản những cán bộ này đi theo đảng. Sau Nạn đói khủng khiếp, các quan chức cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đơn thuần tham gia vào thủ tục tự phê bình. Lý Tỉnh Tuyền, Bí thư tỉnh ủy Tứ xuyên nơi mà hàng triệu người bị chết đói được thăng chức lên làm Bí thư thứ nhất Văn phòng khu vực tây nam của ĐCSTQ.
Từ Cách mạng văn hóa và Vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn cho đến chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công
Cách mạng văn hóa chính thức bắt đầu ngày 16/05/1966 và kéo dài cho đến tận năm 1976. Thậm chí chính bản thân ĐCSTQ cũng gọi thời kỳ này là “Thảm họa 10 năm”. Sau này trong một cuộc phỏng vấn với một phóng viên Nam-tư, Hồ Diệu Bang nguyên tổng bí thư ĐCSTQ nói, “Vào thời gian đó, gần 100 triệu người bị liên can, tức là một phần mười dân số Trung Quốc.”
Sự thực của các chiến dịch chính trị sau khi thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa báo cáo rằng, “Vào tháng 5/1984, sau 31 tháng tập trung điều tra, thẩm tra và tính toán lại bởi Ủy ban trung ương của ĐCSTQ, các con số liên quan đến Cách mạng Văn hóa là: hơn 4.2 triệu người bị giam giữ và điều tra; hơn 1.728.000 người chết vì những nguyên nhân không tự nhiên; hơn 135.000 người bị dán mác phản cách mạng và bị tử hình; hơn 237.000 người bị giết và hơn 7.03 triệu người bị tàn phế trong các cuộc tấn công vũ trang; và 71.200 gia đình bị tiêu diệt.” Thống kê tổng hợp từ các ghi chép lịch sử của các huyện cho thấy rằng 7.73 triệu người chết vì những nguyên nhân không tự nhiên trong Cách mạng Văn hóa.
Bên cạnh việc đánh đập người ta đến chết, sự bắt đầu của Cách mạng Văn hóa cũng gây ra một làn sóng tự tử. Nhiều trí thức nổi tiếng, bao gồm Lão Xả, Phó Lôi, Tiễn Bá Tán, Wu Han và Trữ An Bình tất cả đều tự chấm dứt cuộc đời của mình vào thời kỳ đầu của Cách mạng Văn hóa.
Cách mạng Văn hóa là thời kỳ cực tả điên cuồng nhất ở Trung Quốc. Giết chóc đã trở thành một cách cạnh tranh để bày tỏ vị trí cách mạng của cá nhân, nên việc tàn sát “các kẻ thù giai cấp” là cực kỳ tàn bạo và độc ác.
Chính sách “cải cách và mở cửa” đã làm tăng đáng kể sự trao đổi thông tin, cho phép nhiều phóng viên nước ngoài chứng kiến Vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và phát các chương trình truyền hình cho thấy xe tăng săn đuổi và đè chết các sinh viên.
Mười năm sau, vào ngày 20/07/1999, Giang Trạch Dân bắt đầu chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công của hắn. Vào khoảng cuối năm 2002, thông tin nội bộ từ các nguồn tin chính phủ ở Trung Quốc Đại lục xác nhận việc che dấu sự thật của hơn 7.000 người bị chết trong các trại giam, các trại lao động cưỡng bức, các nhà tù và các bệnh viện thần kinh, trung bình khoảng 7 người bị giết mỗi ngày.
Ngày nay ĐCSTQ có xu hướng giết ít hơn nhiều so với trong quá khứ khi mà hàng triệu hay hàng chục triệu người sẽ bị giết hại. Có hai lý do quan trọng ở đây. Một mặt, ĐCSTQ đã làm biến dị đầu óc tư tưởng của nhân dân Trung Quốc bằng văn hóa đảng để họ giờ đây dễ phục tùng hơn. Mặt khác, do các quan chức ĐCSTQ cực kỳ hủ bại và tham nhũng, nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành một “nền kinh tế kiểu truyền máu” và về căn bản phụ thuộc vào vốn của nước ngoài để duy trì tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. ĐCSTQ nhớ như in sự trừng phạt kinh tế sau Vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn và biết rằng việc giết chóc công khai sẽ gây ra việc vốn của nước ngoài sẽ bị rút ra khỏi Trung Quốc và sẽ gây nguy hiểm cho chế độ độc tài của nó.
Tuy nhiên, ĐCSTQ chưa bao giờ từ bỏ việc giết chóc ở đằng sau hậu trường nhưng ĐCSTQ ngày nay không từ một nỗ lực nào để che giấu các bằng chứng dính đầy máu.
******************
II. Các cách giết người cực kỳ tàn bạo
Tất cả mọi việc mà ĐCSTQ làm chỉ nhằm một mục đích: chiếm đoạt và duy trì quyền lực. Giết chóc là một phương cách rất quan trọng để ĐCSTQ duy trì quyền lực của nó. Càng có nhiều người bị giết và việc giết chóc càng tàn bạo thì khả năng gây khủng bố trong nhân dân càng lớn. Việc khủng bố đó được bắt đầu ngay trước khi xảy ra chiến tranh Trung-Nhật.
Thảm sát ở miền Bắc Trung Quốc trong chiến tranh Trung-Nhật
Khi giới thiệu cuốn sách Thù trong của tác giả Father Raymond J. De Jaegher [16], cựu tổng thống Mỹ Hoover bình luận rằng cuốn sách đã vạch trần bản chất khủng bố của các phong trào cộng sản. Ông giới thiệu nó cho bất kỳ ai muốn hiểu rõ lực lượng tà ác đó trên thế giới này.
Trong quyển sách này, De Jaegher kể lại các câu chuyện về việc ĐCSTQ sử dụng bạo lực để khủng bố và khuất phục nhân dân như thế nào. Ví dụ như, một hôm ĐCSTQ yêu cầu tất cả mọi người đi ra một khu đất trống trong làng. Các giáo viên dẫn các em nhỏ đi từ trường ra khu đất trống. Mục đích của việc tập trung là để chứng kiến việc giết chết 13 thanh niên yêu nước. Sau khi thông báo các tội danh được bịa đặt để chống lại các nạn nhân, ĐCSTQ ra lệnh cho một giáo viên đang khiếp sợ bắt nhịp cho các em nhỏ hát các bài hát yêu nước. Ở trên khán đài cùng với các bài hát không phải là các vũ công mà là một tên đao phủ đang cầm lăm lăm chếc mã tẫu bén sắc trong tay. Đao phủ là một tên lính cộng sản trẻ khỏe mạnh và hung tợn với đôi tay chắc khỏe. Tên lính đi đến đằng sau nạn nhân đầu tiên, nhanh chóng giơ cao thanh mã tấu sắc ngọt và chém xuống và cái đầu thứ nhất rơi xuống đất. Máu phun ra như một cái vòi phun nước trong khi cái đầu lăn trên mặt đất. Các em nhỏ đang hát một cách kích động gào khóc hoảng loạn. Người giáo viên vẫn giữ nhịp và cố giữ cho các em tiếp tục hát; cái chuông của cô vẫn tiếp tục rung lên trong hoảng loạn.
Tên đao phủ chém 13 lần và 13 cái đầu rơi xuống đất. Sau đó, nhiều tên lính cộng sản đi đến, mổ tung lồng ngực của các nạn nhân và moi tim họ ra để làm một bữa tiệc. Tất cả những cảnh dã man đó diễn ra trước mặt của các em nhỏ. Các em bị khủng bố tái xanh cả mặt và một số bắt đầu nôn. Cô giáo chửi rủa các tên lính và bảo các em xếp thành hàng trở về trường.
Sau đó, Cha De Jaegher thường thấy các em nhỏ bị bắt buộc phải xem cảnh chém giết. Các em trở nên quen với các cảnh đổ máu và lãnh cảm; một số thậm chí còn bắt đầu cảm thấy thích thú.
Khi ĐCSTQ cảm thấy rằng giết chóc đơn thuần là chưa đủ rùng rợn và kích động, chúng phát minh ra các kiểu tra tấn tàn bạo. Ví dụ như, bắt ai đó nuốt một lượng muối lớn mà không cho người đó uống một chút nước nào: nạn nhân sẽ phải chịu đựng cho đến khi bị chết vì khát; hoặc lột trần truồng ai đó và bắt người đó phải lăn trên thủy tinh vỡ; hoặc là đào một lỗ trên mặt sông đóng băng trong mùa đông, và sau đó ném nạn nhân vào trong lỗ: nạn nhân sẽ hoặc là chết cóng hoặc là chết đuối.
De Jaegher viết rằng một đảng viên ĐCSTQ ở tỉnh Sơn Tây phát minh ra một kiểu tra tấn khủng khiếp. Một hôm, khi hắn đang đi lang thang trong thành phố, hắn dừng lại trước cửa một nhà hàng và nhìn chằm chằm vào một thùng nước sôi lớn. Sau đó, hắn mua nhiều thùng lớn, và ngay lập tức bắt một số người chống lại đảng cộng sản. Trong khi xét xử vội vã, các thùng được đổ đầy nước và đun sôi. Ba nạn nhân bị lột trần truồng và quẳng vào các thùng và bị đun sôi cho đến chết sau buổi xét xử. Ở Bình Sơn, De Jaegher đã chứng kiến một ông bố bị lột da khi vẫn còn sống. Các đảng viên ĐCSTQ bắt người con trai của nạn nhân xem và tham gia vào cảnh tra tấn vô nhân đạo đó, xem bố mình chết chết trong đau đớn tột cùng và nghe những tiếng gào thét của bố mình. Các đang viên ĐCSTQ đổ giấm và a-xít lên thân thể người bố và sau đó toàn bộ da trên thân thể nạn nhân bị nhanh chóng lột ra. Chúng bắt đầu từ lưng rồi lên hai vai và chẳng mấy chốc da trên toàn thân thể của ông bị lột ra, chỉ còn lại da đầu là còn nguyên vẹn. Người bố đã chết chỉ trong vài phút.
Khủng bố Đỏ trong “Tháng Tám Đỏ” và ăn thịt người ở Quảng Tây
Sau khi chiếm được quyền kiểm soát tuyệt đối trên toàn bộ đất nước, ĐCSTQ vẫn không chấm dứt bạo lực. Trong Cách mạng Văn hóa, bạo lực trở nên tồi tệ hơn.
Ngày 18/8/1966, Mao Trạch Đông gặp các đại diện “hồng vệ binh” trên tháp của Quảng trường Thiên An Môn. Tống Bân Bân, con gái của lãnh đạo cộng sản Tống Nhiệm Cùng, cài cho Mao một huy hiệu “hồng vệ binh” lên tay áo. Khi Mao biết tên của Tống Bân Bân, cái tên có nghĩa là tao nhã lịch sự, Mao nói, “Chúng ta cần nhiều bạo lực hơn nữa.” Do đó Tống đổi tên cô ta thành Song Yếu Vũ (có nghĩa là “muốn bạo lực”.)
Các cuộc tấn công có vũ trang một cách bạo lực không lâu sau đó đã nhanh chóng lan ra toàn bộ đất nước. Thế hệ trẻ bị sự giáo dục theo tư tưởng vô thần của chủ nghĩa cộng sản không còn nể sợ điều gì. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ĐCSTQ và hướng dẫn của các chỉ thị của Mao, “hồng vệ binh” cuồng loạn và ngạo mạn tự đặt mình lên trên cả luật pháp, bắt đầu đánh đập nhân dân và lục soát nhà cửa trên toàn quốc. Ở nhiều khu vực, tất cả “năm giai cấp đen” (chủ sở hữu đất, nông dân giàu có, các phần tử phản động, các phần tử xấu, và những người hữu khuynh) và các thành viên gia đình của họ bị tiêu diệt theo chính sách diệt chủng. Một ví dụ điển hình là Huyện Đại Hưng gần Bắc Kinh, nơi mà từ 27/8 đến 1/9 năm 1966, tổng số có 325 người bị giết trong 48 nhóm của 13 xã. Người nhiều tuổi nhất bị giết là 80 tuổi, và người ít tuổi nhất bị giết chỉ mới 38 ngày tuổi. Hai mươi hai gia đình bị giết không còn ai sống sót.
“Đánh đập một người đến chết là một cảnh thường thấy. Trên đường phố Sa Than, một nhóm đàn ông thuộc lực lượng “hồng vệ binh” tra tấn một bà già bằng xích sắt và thắt lưng da cho đến khi bà không thể cử động được nữa, nhưng một nữ “hồng vệ binh” vẫn nhảy lên người bà và dẫm đạp lên bụng bà. Bà già chết ngay tại chỗ… Gần Sùng Vân Môn, khi “hồng vệ binh” lục soát nhà của một “vợ địa chủ” (một góa phụ sống một mình), chúng bắt buộc mỗi nhà hàng xóm phải mang đến một nồi nước sôi và chúng đổ nước sôi lên người bà từ cổ trở xuống cho đến khi người bà bị nấu chín. Vài ngày sau, người ta tìm thấy bà bị chết ở trong phòng, người bà bị giòi bâu kín… Có nhiều cách giết chóc khác nhau, bao gồm dùng gậy đánh đến chết, dùng liềm cắt và dùng dây thừng thắt cổ đến chết… Cách giết trẻ em là tàn bạo nhất: kẻ giết người giẫm lên một chân đứa trẻ và giật chân kia, xé thân thể ra làm hai nửa”. (Điều tra về Thảm sát Đại Hưng của Ngộ La Văn) [17]
Ăn thịt người ở Quảng Tây thậm chí còn vô nhân đạo hơn cả Vụ thảm sát ở Đại Hưng. Nhà văn Trịnh Nghĩa, tác giả của cuốn sách Kỷ niệm đỏ mô tả việc ăn thịt người diễn ra trong ba giai đoạn [18].
Giai đoạn mởi đầu: đầu tiên là giai đoạn mở màn khi khủng bố vẫn còn diễn ra bí mật trong bóng tối. Biên niên sử của huyện ghi lại một cảnh điển hình: vào lúc nửa đêm, những tên giết người rón rén đi tìm nạn nhân của chúng và mổ bụng moi tim và gan. Bởi vì chúng chưa có kinh nghiệm và vẫn còn sợ, chúng cắt nhầm phải phổi, sau đó chúng phải quay lại. Sau khi chúng nấu chín tim và gan, một số mang rượu từ nhà đến, một số đi mua gia vị, và sau đó tất cả bọn giết người cùng ăn các cơ quan nội tạng của người lặng lẽ trong ánh lửa từ trong lò hắt ra.
Giai đoạn cao trào: giai đoạn hai là đỉnh điểm, khi khủng bố trở nên công khai. Trong giai đoạn này, những tên giết người lâu năm đã có kinh nghiệm moi tim gan khi nạn nhân vẫn còn sống, và chúng dạy lại cho những người khác, và hoàn thiện kỹ năng của chúng. Ví dụ, khi mổ bụng một người còn đang sống, bọn giết người chỉ cần cắt chéo trên bụng nạn nhân, dẫm lên người (nếu nạn nhân bị trói vào cây, bọn giết người sẽ lên gối vào bụng dưới nạn nhân) và tim và các cơ quan nội tạng khác sẽ tự động rơi ra. Tên trùm giết người sẽ được lấy tim, gan và các cơ quan sinh dục và những tên còn lại sẽ lấy những thứ khác. Những cảnh tượng khủng khiếp này được trang hoàng bởi cờ và khẩu hiệu.
Giai đoạn quần chúng: giai đoạn thứ 3 rất điên loạn, ăn thịt người đã trở thành một phong trào diễn ra tràn lan trên quy mô lớn. Ở huyện Vũ Tuyên, như những con chó hoang ăn thịt những xác chết trong một bệnh dịch, mọi người điên loạn ăn thịt người khác. Đầu tiên, các nạn nhân thường bị “phê bình công khai”, theo sau đó luôn luôn là giết chóc và rồi bị ăn thịt. Ngay khi nạn nhân ngã xuống đất, bất kể là còn sống hay đã chết, mọi người lấy ra những con dao họ đã chuẩn bị trước và vây quanh nạn nhân, cắt bất kể bộ phận thân thể nào mà họ có thể túm lấy được. Ở giai đoạn này, những công dân bình thường đều tham gia vào việc ăn thịt người. Cơn bão của “đấu tranh giai cấp” đã thổi đi khỏi đầu óc con người tất cả những ý thức về tội lỗi và nhân tính. Ăn thịt người lan ra như một bệnh dịch và mọi người thích thú các buổi tiệc ăn thịt người. Bất kể một bộ phận thân thể người nào cũng có thể ăn được, bao gồm cả tim, thịt, gan, thận, khuỷu tay, bàn chân, và gân. Cơ thể người bị nấu chín bằng các cách khác nhau, bao gồm luộc, hấp, xào, nướng, rán, và nướng trên lửa… Mọi người uống rượu và chơi các trò chơi trong khi ăn thịt người. Trong đỉnh cao của phong trào này, thậm chí nhà ăn của cơ quan chính quyền cấp cao nhất, Ủy ban Cách mạng Huyện Vũ Tuyên cũng bán các món ăn làm từ thịt người.
Đọc giả không nên nhầm lẫn mà nghĩ rằng những buổi lễ hội ăn thịt người đó chỉ đơn thuần là hành động không có tổ chức của mọi người. ĐCSTQ là một tổ chức độc tài kiểm soát mọi tế bào của xã hội. Nếu không có sự khuyến khích và vận động của ĐCSTQ thì phong trào ăn thịt người đã hoàn toàn không thể xảy ra.
Một bài hát ca ngợi ĐCSTQ do chính bản thân ĐCSTQ sáng tác có đoạn, “Xã hội cũ [19] biến người thành ma, xã hội mới biến ma thành người.” Tuy nhiên, những vụ giết người và các buổi tiệc ăn thịt người này cho chúng ta thấy rằng ĐCSTQ có thể biến người thành quỷ hoặc quái vật, bởi vì bản thân ĐCSTQ là tàn bạo hơn bất kỳ con quỷ hay quái vật nào.
Chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công
Khi nhân dân Trung Quốc bước vào kỷ nguyên của máy tính và du hành vũ trụ, và có thể nói chuyện kín với nhau về nhân quyền, tự do và dân chủ, nhiều người nghĩ rằng những sự tàn bạo khủng khiếp và đáng ghê tởm đều đã trở thành quá khứ. ĐCSTQ đã khoác lên mình một bộ vét-tông dân sự và sẵn sàng kết giao với thế giới.
Nhưng điều đó là quá xa với sự thật. Khi ĐCSTQ phát hiện ra rằng có một nhóm người không sợ những hành động tra tấn và giết người tàn bạo của nó, thì những phương tiện mà chúng sử dụng trở nên điên loạn hơn nữa. Nhóm người đã và đang bị đàn áp theo cách này là những học viên Pháp Luân Công.
Những hành động bạo lực của “hồng vệ binh” và phong trào ăn thịt người ở Tỉnh Quảng Tây là nhằm tiêu hủy cơ thể của những nạn nhân, giết người trong vài phút hoặc vài giờ. Việc đàn áp các học viên Pháp Luân Công là để bắt buộc họ từ bỏ tín ngưỡng của mình vào “Chân Thiện và Nhẫn”. Các hình thức tra tấn tàn bạo thường kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm. Ước tính khoảng hơn 10.000 học viên Pháp Luân Công đã chết vì bị tra tấn.
Những học viên Pháp Luân Công đã phải chịu tất cả các kiểu tra tấn và sau đó đã trốn thoát khỏi lưỡi hái của tử thần đã ghi lại hơn 100 thủ đoạn tra tấn tàn bạo; sau đây chỉ là vài ví dụ.
Đánh đập tàn nhẫn là thủ đoạn tra tấn hay được sử dụng nhất để làm hại các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát và các đầu gấu trong tù trực tiếp đánh đập các học viên và cũng xúi giục các tù nhân khác đánh đập các học viên. Nhiều học viên đã bị điếc do bị đánh đập, tai của họ bị rời ra, nhãn cầu của họ bị vỡ, răng cũng bị gãy, và xương sọ, xương sống, xương sườn, xương quai sanh, xương chậu, tay và chân của họ bị gẫy và vỡ; chân và tay họ đã bị cắt bỏ do bị đánh đập. Một số kẻ tra tấn đã tàn nhẫn bóp nát tinh hoàn của các học viên nam và đá vào khu vực cơ quan sinh dục của các học viên nữ. Nếu các học viên không chịu khuất phục, những kẻ tra tấn sẽ tiếp tục đánh đập cho đến khi các học viên bị rách da hở thịt. Cơ thể của các học viên đã bị hoàn toàn dị dạng do bị tra tấn và dính be bét máu, vậy mà bọn cai ngục vẫn còn đổ nước muối lên người họ và tiếp tục dùng dùi cui điện để tra tấn họ. Mùi máu và thịt cháy trộn lẫn vào nhau và tiếng gào thét đau đớn nghe rất thương tâm. Trong khi đó, những kẻ tra tấn cũng dùng túi ni-lông để trùm lên đầu của các học viên để làm cho họ khuất phục vì sợ bị ngạt thở.
Giật điện là một thủ đoạn khác thường được dùng ở các trại lao động cưỡng bức ở Trung Quốc để tra tấn các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát dùng dùi cui điện để cho điện giật các vùng nhạy cảm trên thân thể, bao gồm miệng, đỉnh đầu, ngực, cơ quan sinh dục, mông, đùi, gan bàn chân, ngực của các học viên nữ, và dương vật của các học viên nam. Một số cảnh sát còn dùng nhiều dùi cui điện cùng một lúc để cho điện giật các học viên cho đến khi có thể ngửi thấy mùi thịt cháy và các vùng bị thương bị thâm tím. Nhiều khi, đầu và hậu môn cùng bị giật một lúc. Cảnh sát thường dùng 10 hoặc thậm chí hơn dùi cui điện cùng một lúc để tra tấn các học viên trong thời gian dài. Thông thường mỗi dùi cui điện có điện áp khoảng hàng chục nghìn vôn. Khi nó phóng điện, nó phát ra ánh sáng xanh và tiếng kêu như tĩnh điện. Khi dòng điện đi qua cơ thể người, cảm giác như là bị bỏng hoặc bị rắn cắn. Mỗi lần giật rất là đau như bị rắn cắn. Da nạn nhân trở nên đỏ, nứt ra và bị cháy và vết thương bị rữa ra. Thậm chí còn có những dùi cui điện mạnh hơn có điện áp cao hơn làm cho nạn nhân cảm thấy như đầu bị búa bổ vào.
Cảnh sát cũng dùng thuốc lá đang cháy để đốt tay, mặt, gan bàn chân, ngực, lưng, núm vú của các học viên v.v… Chúng dùng bật lửa để đốt tay và cơ quan sinh dục của các học viên. Các thanh sắt được chế tạo đặc biệt được nung nóng trong lò điện cho đến khi chúng trở nên nóng đỏ. Sau đó chúng được dùng để đốt cháy chân của các học viên. Cảnh sát cũng dùng than nóng đỏ để đốt cháy mặt của các học viên. Cảnh sát đã đốt cháy đến chết một học viên sau khi học viên này đã phải chịu đựng các thủ đoạn tra tấn tàn khốc và vẫn còn thoi thóp thở và tim vẫn còn đập yếu ớt. Cảnh sát sau đó nói rằng cái chết của anh ta là do “tự thiêu”.
Cảnh sát đánh các học viên nữ vào ngực và khu vực cơ quan sinh dục. Chúng đã hãm hiếp và hãm hiếp tập thể các học viên nữ. Hơn nữa, cảnh sát còn lột trần truồng các học viên nữ và quẳng họ vào các xà-lim đầy các nam tù nhân để chúng sau đó hãm hiếp họ. Chúng dùng dùi cui điện để cho điện giật ngực và cơ quan sinh dục của họ. Chúng dùng bật lửa để đốt cháy núm vú của họ, và chọc dùi cui điện vào âm đạo của các học viên để cho điện giật họ. Chúng còn buộc 4 cái bàn chải đánh răng lại và sau đó chọc vào âm đạo của các học viên nữ và chà xát và ngoáy các bàn chải. Chúng dùng các móc sắt để móc các vùng kín của các học viên nữ. Tay của các học viên nữ bị còng ở đằng sau lưng, và núm vú của họ bị móc vào dây điện và cho dòng điện chạy qua.
Chúng bắt các học viên Pháp Luân Công mặc “áo vét thẳng [20]”, và sau đó trói chéo hai tay họ ra đằng sau lưng. Chúng giật cánh tay của họ lên qua vai đến trước ngực, trói hai chân họ lại và treo họ ra ngoài cửa sổ. Cùng lúc đó, chúng nhét rẻ vào miệng các học viên, cho tai nghe vào tai họ và liên tục bật các đoạn băng phỉ báng Pháp Luân Công. Theo mô tả của các nhân chứng, những người bị tra tấn theo cách này nhanh chóng bị gãy cánh tay, dây chằng, vai, cổ và khuỷu tay. Những ai bị tra tấn lâu theo cách này đã bị gẫy xương sống hoàn toàn và chết trong đau đớn tột cùng.
Chúng cũng quẳng các học viên vào các hầm chứa đầy nước thải. Chúng dùng búa đóng que tre vào dưới móng tay của các học viên và bắt họ ở trong các phòng ẩm thấp đầy mốc meo đỏ, xanh, vàng, trắng… trên trần, sàn và tường làm cho các vết thương của họ bị thối rữa. Chúng cũng cho chó, rắn và bò cạp cắn các học viên và tiêm các học và tiêm thuốc hủy hại thần kinh vào người các học viên. Trên đây chỉ là một vài trong số rất nhiều thủ đoạn tra tấn mà các học viên phải chịu trong các trại lao động cưỡng bức.
******************
III. Đấu đá tàn bạo trong nội bộ Đảng
Vì ĐCSTQ hợp nhât các đảng viên của nó dựa trên cơ sở của tính đảng thay vì dựa trên đạo đức và công lý, nên sự trung thành của các đảng viên của nó, đặc biệt là các quan chức cao cấp, đối với người lãnh đạo cao nhất là một vấn đề trọng tâm. Đảng cần tạo ra một bầu không khí khủng bố bằng cách giết chết các đảng viên của chính nó. Những người sống xót sau đó thấy rằng khi kẻ độc tài cấp cao nhất muốn ai phải chết thì người đó sẽ chết một cách bi thảm.
Việc đấu đá trong nội bộ các đảng cộng sản là điều mà ai cũng biết. Tất cả các ủy viên của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Nga trong hai nhiệm kỳ đầu, ngoại trừ Lê-nin đã chết và bản thân Xta-lin, đều đã bị tử hình hoặc tự tử. Ba trong số năm nguyên soái đã bị tử hình, ba trong số năm Tổng tư lệnh đã bị tử hình, tất cả 10 Phó Tổng tư lệnh quân đội đã bị tử hình, 57 trong số 85 tư lệnh quân đoàn đã bị tử hình, và 110 trong số 195 tư lệnh sư đoàn đã bị tử hình.
ĐCSTQ luôn luôn có chủ trương “đấu tranh tàn bạo và tấn công tàn nhẫn”. Những chiến thuật đó không chỉ nhằm vào những người ngoài đảng. Ngay từ thời kỳ cách mạng ở tỉnh Giang Tây, ĐCSTQ đã giết nhiều người chống Bôn-sê-vích (AB đoàn) [21] đến mức chỉ còn lại một số rất ít người sống xót để chiến đấu trong cuộc chiến tranh. Ở thành phố Diên An, Đảng đã tiến hành một chiến dịch “Chỉnh đốn”. Sau này khi đã trở nên vững chắc về mặt chính trị, nó đã tiêu diệt Cao Cương, Nhiêu Thấu Thạch [22], Hồ Phong, và Bành Đức Hoài. Vào thời kỳ Cách mạng Văn hóa, gần như tất cả các đảng viên cao cấp của Đảng đã bị tiêu diệt. Chưa một cựu Tổng bí thư nào của ĐCSTQ gặp kết thúc có hậu.
Lưu Thiếu Kỳ, một cựu chủ tịch nước của Trung Quốc, người đã từng là nhân vật số 2 của đất nước đã chết bi thảm. Vào ngày sinh nhật lần thứ 70 của ông ta, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai [23] rành mạch nói với Uông Đông Hưng (vệ sỹ trưởng của Mao) đem cho Lưu Thiếu Kỳ một món quà sinh nhật, một chiếc đài, để cho ông ta nghe bản báo cáo chính thức của Phiên họp toàn thể lần thứ 8 của Ủy ban Trung ương khóa 12 nói rằng, “Vĩnh viễn khai trừ tên phản bội, gián điệp và nổi loạn Lưu Thiếu Kỳ ra khỏi Đảng và tiếp tục vạch trần và chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và các kẻ tòng phạm của hắn về các tội phản bội và làm phản.”
Lưu Thiếu Kỳ bị suy sụp về mặt tinh thần và các bệnh của ông ta tồi tệ đi một cách nhanh chóng. Bởi vì ông ta đã phải nằm liệt giường trong một thời gian dài và không thể cử động, nên cổ, lưng, mông, và gót chân của ông ta bị rữa ra đau đớn do tiếp xúc lâu ngày với giường. Khi ông ta cảm thấy đau quá, ông ta phải nắm lấy chăn đệm, đồ vật hoặc tay người khác, mà không chịu buông ra, nên mọi người phải để các chai nhựa cứng vào tay ông ta. Khi ông ta chết, hai chai nhựa cứng đã trở nên thành hình các đồng hồ cát do ông ta nắm tay lại mà thành.
Khoảng tháng 10/1969, thân thể của Lưu Thiếu Kỳ đã bắt đầu thối rữa toàn bộ và mủ nhiễm trùng có mùi rất mạnh. Ông ta gầy như một cái que và ở bên bờ cái chết. Nhưng một thanh tra đặc biệt của Ủy ban Trung ương Đảng không cho ông ta tắm hay lật người để thay quần áo. Thay vào đó, chúng lột bỏ tất cả quần áo của ông ta, bọc ông ta trong một cái chăn, và đưa ông ta bằng máy bay từ Bắc Kinh đi thành phố Khai Phong, và khóa trái ông ta trong một tầng hầm của một lô-cốt kiên cố. Khi ông ta bị sốt cao, chúng không chỉ không cho ông ta uống thuốc mà còn bắt các nhân viên y tế phải đi chỗ khác. Khi Lưu Thiếu Kỳ chết, thân thể ông ta đã hoàn toàn bị hoại và mái tóc bạc của ông ta xõa ra dài 60 phân. Hai ngày sau, vào lúc nửa đêm, ông ta bị hỏa thiêu như một người bị bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Bộ giường đệm, gối và các thứ còn lại khác của ông ta đều bị đốt hết. Bia mộ của ông ta ghi Tên: Lưu Vệ Hoàng; nghề nhiệp: thất nghiệp; lý do bị chết: bị bệnh. ĐCSTQ đã tra tấn một vị chủ tịch nước đến chết như vậy mà thậm chí không đưa ra một lý do rõ ràng.
****************************
IV. Xuất khẩu Cách mạng, Giết người ở các nước khác
Cùng với việc cực kỳ thích thú giết người ở trong Trung Quốc và trong nội bộ Đảng bằng nhiều cách, ĐCSTQ cũng tham gia vào việc giết người ở các nước khác bao gồm cả các Hoa kiều bằng cách xuất khẩu “cách mạng”. Khơ-me Đỏ là một ví dụ điển hình.
Khơ-me Đỏ do Pôn-Pốt cầm đầu chỉ tồn tại trong 4 năm ở Cam-pu-chia. Tuy vậy, từ 1975 đến 1978, hơn hai triệu người bao gồm cả hơn 200.000 người Hoa, đã bị giết hại ở đất nước nhỏ bé với tổng số chỉ vẻn vẹn có 8 triệu dân này.
Các tội ác của Khơ-me Đỏ là không thể đếm được, nhưng chúng tôi không bàn luận về vấn đề đó ở đây. Tuy nhiên chúng tôi phải nói về quan hệ của nó với ĐCSTQ.
Pôn-Pốt tôn thờ Mao Trạch Đông. Đầu năm 1965, hắn đến thăm Trung Quốc 4 lần để đích thân nghe Mao Trạch Đông thuyết giảng. Ngay từ tháng 11/1965, Pôn-Pốt đã ở Trung Quốc 3 tháng. Trần Bá Đạt và Trương Xuân Kiều đã đàm luận với hắn về các lý thuyết như “quyền lực chính trị lớn lên từ nòng súng”, “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô sản” v.v… Sau đó, những điều này đã trở thành cơ sở cho cách thức hắn thống trị Cam-pu-chia sau này. Sau khi quay trở về Cam-pu-chia, Pôn-Pốt đổi tên đảng của hắn thành Đảng Cộng sản Cam-pu-chia và dựng lên các cơ sở cách mạng theo mô hình vây tròn các thành phố từ các vùng nông thôn của ĐCSTQ.
Năm 1968, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia chính thức thành lập một quân đội. Vào cuối năm 1969, nó có khoảng hơn 3.000 người một chút. Nhưng năm 1975, trước khi tấn công và chiếm đóng thành phố Phnôm-Pênh, nó đã trở nên một lực lượng được trang bị tốt và sẵn sàng chiến đấu với 80.000 lính. Đây hoàn toàn là nhờ vào sự ủng hộ và hỗ trợ của ĐCSTQ. Cuốn sách Tài liệu về việc hỗ trợ Việt nam và chiến đấu với Mỹ của Vương Hiền Căn [24] nói rằng trong năm 1970 Trung Quốc cho Pôn-Pốt các thiết bị vũ trang cho 30 nghìn lính. Tháng 4/1975, Pôn-Pốt chiếm được thủ đô của Cam-pu-chia, và 2 tháng sau, hắn đến Bắc Kinh để thăm ĐCSTQ và nghe chỉ thị. Rõ ràng rằng, nếu tội ác diệt chủng của Khơ-me Đỏ mà không dựa vào các lý thuyết và hỗ trợ vật chất của ĐCSTQ, thì nó đã không thể được thực hiện.
Ví dụ, sau khi hai người con trai của Thái tử Sihanouk bị Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết chết, Đảng Cộng sản Cam-pu-chia đã ngoan ngoãn đưa Sihanouk đến Bắc Kinh theo lệnh của Chu Ân Lai. Ai cũng biết rằng, khi Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết hại nhân dân, chúng sẽ “thậm chí giết cả bào thai” để ngăn chặn những rắc rối có thể xảy ra trong tương lai. Nhưng theo yêu cầu của Chu Ân Lai, Pôn-Pốt đã tuân lệnh mà không hề phản đối.
Chu Ân Lai có thể cứu Sihanouk chỉ bằng một lời nói, nhưng ĐCSTQ đã không phản đối việc hơn 200 nghìn người Hoa bị Đảng Cộng sản Cam-pu-chia giết hại. Vào lúc đó, những người Cam-pu-chia gốc Hoa đã đến Sứ quán Trung Quốc để cầu cứu nhưng Sứ quán đã phớt lờ những tiếng cầu cứu của họ.
Tháng 5/1998, khi việc giết hại và cướp bóc, hãm hiếp người Hoa thiểu số diễn ra trên diện rộng ở In-đô-nê-xi-a ĐCSTQ đã không nói một lời nào. Nó đã không giúp đỡ bất kể điều gì, và thậm chí còn bưng bít thông tin ở Trung Quốc. Dường như chính phủ Trung Quốc không thể quan tâm ít hơn nữa về số phận của những người Hoa ở nước ngoài; nó thậm chí đã không giúp đỡ một chút gì về phương diện nhân đạo.
******************
V. Phá hủy gia đình
Chúng tôi không có cách nào để đếm xem bao nhiêu người đã bị giết hại trong các chiến dịch chính trị của ĐCSTQ. Trong nhân dân, không có cách nào để làm một cuộc điều tra thống kê do những trở ngại và rào cản thông tin giữa các khu vực, các dân tộc và các thổ ngữ địa phương khác nhau. Chính quyền của ĐCSTQ sẽ không bao giờ thực hiện các cuộc điều tra kiểu như thế này bởi vì nó sẽ như là đào mồ chôn chính nó. ĐCSTQ thích bỏ quên những chi tiết này khi viết lại lịch sử của chính nó.
Số lượng các gia đình bị ĐCSTQ hủy hoại thậm chí còn khó biết hơn. Trong một số trường hợp, một người chết và gia đình của người đó bị tan vỡ. Trong các trường hợp khác, cả gia đình bị chết. Thậm chí ngay cả khi không có ai bị chết, thì nhiều người cũng bị buộc phải ly dị. Bố và con, mẹ và con bị buộc phải từ bỏ các mối quan hệ của họ. Một số người đã bị tàn phế, một số phát điên, và một số đã chết trẻ do bị bệnh nặng gây ra bởi tra tấn. Hồ sơ của tất cả các bi kịch gia đình này là rất không đầy đủ.
Tin tức Yomiuri của Nhật bản đã từng đưa tin rằng hơn một nửa dân số Trung Quốc đã bị ĐCSTQ đàn áp. Nếu đó là sự thật, thì số lượng các gia đình bị ĐCSTQ phá hủy ước tính khoảng hơn 100 triệu.
Trương Chí Tân [25] đã trở thành một cái tên quen thuộc do khối lượng tin tức được đưa về câu chuyện của cô. Nhiều người biết rằng cô bị tra tấn về mặt thể xác, bị hãm hiếp tập thể, và tra tấn về mặt tinh thần. Cuối cùng, cô bị phát điên và bị bắn chết sau khi cổ của cô bị rạch ra. Nhưng nhiều người có thể không biết rằng có một câu chuyện thảm khốc nữa đằng sau bi kịch này: thậm chí người nhà cô đã phải tham dự một “buổi học cho các gia đình của những người tử tù”.
Lâm Lâm, con gái của Trương Chí Tân nhớ lại rằng vào đầu xuân 1975:
“Một người ở Tòa án Thẩm Dương nói lớn rằng, “Mẹ cháu là một tên phản cách mạng thực sự ngoan cố. Cô ta từ chối không chấp nhận cải tạo, và rất ngang bướng không dễ bị lung lạc. Cô ta chống lại Mao Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, chống lại Tư tưởng bất khả chiến bại của Mao Trạch Đông, và chống lại đường lối cách mạng vô sản của Mao Chủ tịch. Với tội chồng chất tội, chính quyền của chúng ta đang cân nhắc việc tăng hình phạt. Nếu cô ta bị tử hình, quan điểm của cháu là gì?” Tôi bị ngạc nhiên và không biết trả lời như thế nào. Trái tim tôi tan vỡ. Nhưng tôi làm ra vẻ bình tĩnh, cố giữ cho khỏi bị rơi nước mắt. Bố tôi đã nói với tôi rằng chúng tôi không thể khóc trước mặt người khác, nếu không chúng tôi sẽ không có cách nào để từ bỏ mối quan hệ của chúng tôi với mẹ tôi. Bố đã trả lời thay cho tôi, “Nếu đây là sự thật, chính quyền cứ việc làm những gì mà chính quyền thấy cần thiết”.
“Người đó lại hỏi, “Cháu sẽ nhận xác cô ta nếu như cô ta bị tử hình chứ? Cháu sẽ nhận tư trang của cô ta trong tù chứ?” Tôi cúi đầu và không nói gì cả. Bố lại trả lời thay cho tôi, “Chúng tôi không cần gì cả”… Bố nắm lấy tay tôi và em tôi rồi chúng tôi bước ra khỏi nhà nghỉ của huyện. Cùng bị choáng váng, chúng tôi đi bộ trở về nhà trong cơn bão tuyết đang gào thét. Chúng tôi không nấu cơm; bố bẻ đôi chiếc bánh ngô tồi tàn duy nhất còn lại trong nhà và đưa cho em tôi và tôi. Ông nói, “Ăn đi rồi đi ngủ sớm.” Tôi nằm im trên chiếc giường đất. Bố ngồi trên chiếc ghế đẩu và nhìn chằm chằm vào ánh lửa một cách thẫn thờ. Sau một lúc, ông nhìn vào giường và tưởng rằng chúng tôi đã ngủ. Ông đứng lên, nhẹ nhàng mở chiếc va-li chúng tôi mang từ nhà cũ ở Thẩm Dương, và lấy ra một bức ảnh của mẹ. Ông nhìn nó và không thể cầm được nước mắt.
“Tôi ngồi dậy, dựa đầu vào cánh tay bố và bắt đầu khóc to lên. Bố vỗ về tôi và nói, “Đừng làm thế, chúng ta không thể để hàng xóm nghe thấy được.” Em tôi tỉnh dậy sau khi nghe thấy tôi khóc. Bố ôm chặt em tôi và tôi trong vòng tay. Đêm nay, chúng tôi không biết chúng tôi sẽ rơi bao nhiêu nước mắt, nhưng chúng tôi không thể khóc thoải mái.” [26]
Một giảng viên đại học có một gia đình hạnh phúc, nhưng gia đình ông đã phải đối mặt với một tai họa trong quá trình bồi thường cho những người hữu khuynh. Vào thời gian của phong trào chống cánh hữu, vợ ông yêu một người bị cho là thuộc cánh hữu. Người yêu của bà sau đó bị đưa đến một vùng xa xôi và đã phải chịu đựng rất thống khổ. Bởi vì bà, là một cô gái trẻ, không thể đi cùng, nên đành phải bỏ người yêu và lấy người giảng viên. Khi người yêu cũ của bà cuối cùng đã quay trở lại quê hương họ, bà, giờ đã là mẹ của mấy đứa con, đã không có cách nào khác chuộc lại sự phản bội của mình trước kia. Bà kiên quyết ly dị chồng để chuộc lại lương tâm cắn rứt của mình. Vào lúc này, người giảng viên đã hơn 50 tuổi; ông không thể chấp nhận sự thay đổi bất ngờ và bị điên. Ông cởi hết quần áo và chạy khắp nơi để tìm một chỗ bắt đầu một cuộc sống mới. Cuối cùng, vợ ông đã bỏ ông và các con của họ. Sự ngăn cách đau khổ do Đảng ra lệnh là một vấn đề không thể giải quyết và là một căn bệnh không thể chữa được của xã hội, mà chỉ có thể thay sự chia tay này bằng sự chia tay khác.
Gia đình là tế bào của xã hội Trung Quốc. Nó cũng là hàng rào phòng thủ cuối cùng của văn hóa truyền thống chống lại văn hóa Đảng. Đó là lý do tại sao phá hoại gia đình là sự phá hoại tàn bạo nhất trong lịch sử giết chóc của ĐCSTQ.
Bởi vì ĐCSTQ độc quyền kiểm soát mọi nguồn lực của xã hội, khi một người bị coi là đứng ở bên phản đối sự độc tài của Đảng, người đó sẽ phải đối mặt ngay lập tức với khủng hoảng trong cuộc đời, và bị tất cả mọi người trong xã hội buộc tội, và bị tước đi phẩm giá con người. Bởi vì họ bị đối xử không công bằng, gia đình là nơi ẩn náu an toàn duy nhất để an ủi những con người vô tội này. Nhưng chính sách liên lụy của ĐCSTQ không cho phép các thành viên của gia đình an ủi lẫn nhau; nếu không họ cũng sẽ phải chịu rủi ro bị dán cái nhãn là chống đối lại sự độc tài của Đảng. Ví dụ như Trương Chí Tân bị bắt buộc phải ly dị. Đối với nhiều người, sự phản bội của thân nhân —tố cáo, đấu tranh, công khai phê bình, hay lên án— là cú đánh cuối cùng kết liễu tinh thần của họ. Nhiều người vì thế mà đã phải tự tử.
******************
VI. Các mô hình giết chóc và hậu quả của nó
Lý tưởng giết chóc của ĐCSTQ
ĐCSTQ luôn luôn tự khen mình là tài tình và sáng tạo trong việc phát triển chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít, đúng ra trên thực tế ĐCSTQ đã phát triển một cách sáng tạo ra một tà ác chưa từng có trong lịch sử và trên khắp thế giới. Nó sử dụng lý tưởng cộng sản về đoàn kết xã hội để lừa đảo công chúng và những người trí thức. Nó lợi dụng niềm tin của mọi người vào khoa học công nghệ để quảng bá tư tưởng vô thần. Nó sử dụng chủ nghĩa cộng sản để cấm tư hữu cá nhân, và sử dụng lý luận và thực tế bạo lực cách mạng của Lê-nin để thống trị đất nước. Đồng thời, nó kết hợp và củng cố hơn nữa phần tệ nạn nhất của văn hóa Trung Quốc mà đã lệch khỏi các truyền thống chủ đạo của dân tộc Trung Hoa.
ĐCSTQ đã sáng tạo ra một bộ các lý luận và khuôn khổ hoàn chỉnh về “cách mạng” và “liên tục cách mạng” dưới chế độ chuyên chính vô sản; nó đã sử dụng hệ thống này để thay đổi xã hội và đảm bảo sự độc tài của đảng. Lý luận của nó có hai phần: cơ sở hạ tầng kinh tế và thượng tầng kiến trúc dưới chế độ chuyên chính vô sản, trong đó cơ sở hạ tầng kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc, trong khi thượng tầng kiến trúc đến lượt mình lại hoạt động trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Để củng cố thượng tầng kiến trúc, đặc biệt là quyền lực của Đảng, đầu tiên nó phải bắt đầu cuộc cách mạng từ cơ sở hạ tầng kinh tế, bao gồm:
(1) Giết hại những người sở hữu đất đai để giải quyết các quan hệ sản xuất [27] ở nông thôn,
và (2) Giết chết các nhà tư bản để giải quyết các quan hệ sản xuất ở thành thị.
Trong thượng tầng kiến trúc, việc giết chóc cũng được thực hiện theo định kỳ để duy trì quyền kiểm soát tuyệt đối của Đảng trong ý thức hệ. Điều này bao gồm:
(1) Giải quyết vấn đề về thái độ chính trị đối với Đảng của các nhà trí thức
Qua một giai đoạn thời gian dài, ĐCSTQ đã khởi xướng nhiều chiến dịch nhằm cải tạo tư tưởng của các nhà trí thức. ĐCSTQ buộc tội các nhà trí thức là theo chủ nghĩa cá nhân tư sản, có hệ tư tưởng tư sản, có quan điểm thờ ơ với chính trị, có tư tưởng không giai cấp, theo chủ nghĩa tự do hóa, v.v… ĐCSTQ tước đi nhân phẩm của các nhà trí thức thông qua việc tẩy não và hủy diệt lương tâm của họ. ĐCSTQ đã gần như hủy diệt hoàn toàn những tư tưởng độc lập và nhiều phẩm chất tốt khác của các nhà trí thức, bao gồm truyền thống bênh vực công lý và cống hiến cả cuộc đời để bảo vệ công lý. Truyền thống đó dạy rằng: “Không được sống buông thả khi giàu có và vinh quang hay mất phương hướng khi nghèo khó, và không được cúi đầu trước cường quyền [28]”; “Phải là người đầu tiên lo cho đất nước và là người cuối cùng đòi hỏi hạnh phúc cho cá nhân mình. [29]”; “Mỗi người dân bình thường đều phải có trách nhiệm đối với sự thành bại của đất nước. [30]”; và “Khi vô danh đấng trượng phu tự hoàn thiện mình, còn khi thành danh thì đấng trượng phu làm hoàn thiện cả đất nước.” [31]
(2) Bắt đầu cuộc cách mạng văn hóa và giết hại nhân dân để giành quyền lãnh đạo tuyệt đối về văn hóa và chính trị cho ĐCSTQ
ĐCSTQ vận động các chiến dịch trên quy mô lớn ở trong và ngoài Đảng, bắt đầu giết chóc trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, sân khấu, lịch sử và giáo dục. ĐCSTQ nhằm những cuộc tấn công đầu tiên vào những người nổi tiếng như: “Làng ba người” [32], Lưu Thiếu Kỳ, Wu Han, Lão Xả, và Tiễn Bá Tán. Sau đó, số người bị giết hại đã tăng lên đến “một nhóm nhỏ trong Đảng” và “một nhóm nhỏ trong quân đội”, và cuối cùng thì sự tàn sát đã leo thang từ trong số những người trong Đảng và quân đội cho đến tất cả mọi người trên toàn bộ đất nước. Đấu tranh vũ trang đã hủy diệt thân thể con người; còn các cuộc tấn công về phương diện văn hóa đã giết chết tinh thần của nhân dân. Đó là một giai đoạn cực kỳ loạn lạc và bạo lực dưới chế độ của ĐCSTQ. Mặt ác của nhân tính đã được khuếch đại lên đến hết cỡ bởi nhu cầu của Đảng cần phục hồi quyền lực trong cơn khủng hoảng. Ai cũng có thể tùy tiện giết người khác nhân danh “cách mạng” và “bảo vệ đường cách mạng của Mao Chủ tịch”. Đó là một cuộc hủy diệt nhân tính diễn ra trên toàn quốc chưa từng có trong lịch sử.
(3) ĐCSTQ bắn vào những sinh viên trên Quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989 để đáp lại những đòi hỏi dân chủ sau Cách mạng Văn hóa
Đây là lần đầu tiên quân đội của ĐCSTQ công khai giết hại thường dân để đàn áp sự phản đối của nhân dân đối với các tệ nạn biển thủ, tham nhũng và thông đồng giữa các quan chức chính quyền và các nhà doanh nghiệp, và đòi hỏi của họ đối với các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và tự do hội họp. Trong vụ thảm sát Thiên An Môn, để gây thù hận giữa quân đội và dân thường, ĐCSTQ thậm chí còn dàn dựng các cảnh thường dân đốt xe của quân đội và giết quân nhân, đạo diễn thảm kịch Quân đội Nhân dân thảm sát nhân dân của chính nước mình.
(4) Giết hại những người có tín ngưỡng khác mình
Lĩnh vực tín ngưỡng là vấn đề sống còn của ĐCSTQ. Để cho các tư tưởng dị giáo của nó có thể lừa đảo mọi người vào thời kỳ đó, ĐCSTQ bắt đầu tiêu diệt tất cả các tôn giáo và hệ thống tín ngưỡng khi bắt đầu thời kỳ thống trị của nó. Khi đối mặt với một tín ngưỡng tinh thần trong thời đại mới —Pháp Luân Công— ĐCSTQ đã lại một lần nữa rút lưỡi dao đồ tể của nó ra. Chiến lược của ĐCSTQ là lợi dụng những nguyên tắc “Chân, Thiện và Nhẫn” của Pháp Luân Công và thực tế là các học viên Pháp Luân Công không nói dối, không sử dụng bạo lực, và sẽ không làm gì gây ra bất ổn định xã hội. Sau khi có kinh nghiệm trong việc đàn áp Pháp Luân Công, ĐCSTQ có khả năng tiêu diệt hiệu quả hơn những người có tín ngưỡng khác. Lần này, chính bản thân Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đã đi ra trước sân khấu để giết người thay vì sử dụng những người hay nhóm người khác.
(5) Giết người diệt khẩu
Quyền được biết của nhân dân là một điểm yếu nữa của ĐCSTQ. ĐCSTQ cũng giết người để phong tỏa thông tin. Trong quá khứ, “nghe đài địch” là một trọng tội bị bỏ tù. Bây giờ, để đáp lại những lần đột nhập vào hệ thống truyền hình của nhà nước để giải thích sự thật về cuộc đàn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã bí mật ra lệnh “giết ngay không thương tiếc”. Lưu Thành Quân, người đã thực hiện một cuộc đột nhập như vậy, đã bị tra tấn đến chết. ĐCSTQ đã huy động ‘Phòng 610’ (một tổ chức tương tự như Gestapo của Đức Quốc Xã được lập ra chuyên để đàn áp Pháp Luân Công), cảnh sát, các công tố viên, hệ thống tòa án, và một hệ thống cảnh sát trên mạng Internet khổng lồ để theo dõi mọi hoạt động của nhân dân.
(6) Cướp đi của nhân dân quyền được sống chỉ vì quyền lợi của chính mình
Lý thuyết của ĐCSTQ về liên tục cách mạng có nghĩa là, trên thực tế, nó sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lực của mình. Hiện nay, nạn biển thủ và tham nhũng trong nội bộ ĐCSTQ đã phát triển thành các mâu thuẫn giữa một bên là quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng và một bên là quyền được sống của nhân dân. Khi nhân dân tổ chức nhau lại để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, thì ĐCSTQ dùng bạo lực, vung lưỡi dao đồ tể của nó lên về phía những người mà nó gọi là “kẻ cầm đầu” của những phong trào này. ĐCSTQ đã chuẩn bị sẵn hơn một triệu cảnh sát có vũ trang cho mục đích này. Ngày nay, ĐCSTQ được chuẩn bị sẵn sàng để chém giết hơn rất nhiều so với hồi xảy ra vụ thảm sát trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, khi nó phải tạm thời huy động quân đội để đàn áp. Tuy nhiên, trong khi bắt buộc nhân dân đi đến hủy diệt, ĐCSTQ cũng đã buộc mình đi vào chỗ không có lối thoát. ĐCSTQ đã đi đến một giai đoạn cực kỳ nguy hiểm đến nỗi nó thậm chí “coi cả cây cỏ như kẻ thù khi gió thổi”, như một câu nói của người Trung Quốc.
Trên đây chúng ta có thể thấy rằng ĐCSTQ có bản chất là một bóng ma tà ác. Không quan trọng là nó biến hóa như thế nào vào những thời gian và địa điểm nhất định để duy trì quyền kiểm soát tuyệt đối, ĐCSTQ sẽ không thay đổi lịch sử giết chóc của nó: nó đã giết hại nhân dân trước đây, nó hiện đang giết hại nhân dân, và nó sẽ tiếp tục giết chóc trong tương lai.
Các kiểu giết người khác nhau trong các hoàn cảnh khác nhau
A. Bắt đầu bằng chiến tranh tâm lý
ĐCSTQ đã sử dụng nhiều cách khác nhau để giết hại nhân dân tùy theo thời kỳ. Trong phần lớn các trường hợp, ĐCSTQ sử dụng chiến tranh tâm lý trước khi bắt đầu chém giết. ĐCSTQ thường nói “chỉ có chém giết mới có thể giải khuây sự phẫn nộ của nhân dân”, cứ như thể là nhân dân đã đề nghị ĐCSTQ chém giết họ. Trên thực tế, “sự phẫn nộ của nhân dân” này là do chính ĐCSTQ kích động mà thành.
Lấy ví dụ, vở kịch “Cô gái tóc bạc” [33], một sự bóp méo toàn bộ đối với một truyền thuyết dân gian, và các câu chuyện bịa đặt gồm các cóp nhặt chắp vá và các hầm nước được kể trong vở kịch “Lưu Văn Thải” đều được sử dụng như các công cụ “giáo dục” nhân dân để họ thù ghét những người chủ sở hữu đất đai. ĐCSTQ thường vu khống bịa đặt về những người mà nó cho là kẻ thù, như trong trường hợp của cựu chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ. Cụ thể là, ĐCSTQ đã dàn dựng cảnh tự thiêu trên Quảng trường Thiên An Môn vào thang 01/2001 để làm cho nhân dân thù ghét Pháp Luân Công, và sau đó tăng cường chiến dịch diệt chủng khổng lồ của chúng chống lại Pháp Luân Công. ĐCSTQ không những đã không thay đổi các phương cách mà nó dùng để giết hại nhân dân mà còn hoàn thiện chúng qua việc sử dụng các công nghệ thông tin mới. Trong quá khứ ĐCSTQ chỉ có thể lừa dối nhân dân Trung Quốc, nhưng bây giờ nó cũng lừa đảo nhân dân toàn thế giới.
B. Vận động quần chúng giết người
ĐCSTQ không chỉ giết hại nhân dân thông qua bộ máy chính quyền độc tài của nó mà còn tích cực vận động nhân dân chém giết lẫn nhau. Thậm chí nếu ĐCSTQ có tuân thủ một số luật pháp và quy định khi mới bắt đầu các cuộc vận động này, nhưng vào lúc nó đã kích động nhân dân tham gia thì không gì có thể dừng sự tàn sát lại. Ví dụ, khi ĐCSTQ đang thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của nó, thì Ủy ban Cải cách ruộng đất có thể quyết định sự sống chết của các chủ sở hữu đất đai.
C. Giết chết người ta về mặt tinh thần trước khi giết chết thể xác của họ
Một cách giết người khác là giết chết người ta về mặt tinh thần trước khi giết chết thể xác của họ. Trong lịch sử Trung Quốc, thậm chí Triều đại nhà Tần hung tàn nhất (221 – 207 BC) cũng không giết chết tinh thần của nhân dân. ĐCSTQ chưa bao giờ cho nhân dân cơ hội được chết như một kẻ tử vì đạo. Chúng ban hành các chính sách như “khoan dung những người nhận tội và trừng phạt nặng nề những kẻ chống đối”, và “cúi đầu nhận tội là lối thoát duy nhất”. ĐCSTQ bắt buộc nhân dân phải từ bỏ những suy nghĩ và tín tâm của riêng mình, làm cho họ chết nhục nhã như những con chó; bởi vì một cái chết vinh quang sẽ có tác dụng cổ vũ những người khác. Chỉ khi mọi người chết trong nhục nhã thì ĐCSTQ mới có thể đạt được mục đích của nó là “giáo dục” những người ngưỡng mộ nạn nhân đó. Lý do mà ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công một cách cực kỳ tàn bạo là do các học viên Pháp Luân Công coi trọng tín ngưỡng của họ hơn cả mạng sống của chính mình. Khi ĐCSTQ không thể hủy hoại phẩm giá của họ, nó đã làm tất cả những gì nó có thể làm để tra tấn thể xác của họ.
D. Giết hại nhân dân bằng cách chia rẽ và gây bè phái
Khi giết hại nhân dân, ĐCSTQ sử dụng cả hai thủ đoạn dụ dỗ và đe dọa, làm ra vẻ tử tế với một số người và xa lánh những người khác. ĐCSTQ luôn luôn cố tấn công một “phần nhỏ” của toàn bộ dân số, với tỷ lệ là 5%. “Phần đa số” của toàn bộ dân số là luôn luôn tốt, luôn luôn là đối tượng cần phải “giáo dục”. Sự giáo dục đó bao gồm cả khủng bố và chăm sóc. Cách giáo dục bằng khủng bố sử dụng tâm lý sợ hãi để cho nhân dân thấy là những người chống đối ĐCSTQ sẽ không có kết cục tốt đẹp, làm cho họ tránh xa những ai đã từng bị Đảng tấn công trước kia. Cách giáo dục bằng “chăm sóc” cho nhân dân thấy rằng nếu họ có thể có được sự tin cậy của ĐCSTQ và đứng về phía ĐCSTQ, họ sẽ không chỉ được an toàn mà còn có cơ hội tốt được thăng chức hoặc có được các lợi ích khác. Lâm Bưu [33] đã từng nói, “Một bộ phận nhỏ [bị đàn áp] hôm nay và một phần nhỏ ngày mai, tổng cộng sẽ sớm trở thành một phần lớn.” Những ai vui vì sống sót qua phong trào này thường là trở thành những nạn nhân của phong trào tiếp theo.
E. Tiêu diệt những hiểm họa tiềm tàng từ trong trứng nước và bí mật giết người một cách bất hợp pháp
Gần đây ĐCSTQ đã phát triển một kiểu giết người mới là diệt trừ các vấn đề từ trong trứng nước và bí mật giết người một cách bất hợp pháp. Ví dụ như, khi những cuộc đình công của công nhân hoặc biểu tình phản đối của nông dân trở nên phổ biến hơn ở nhiều nơi, ĐCSTQ tiêu diệt các phong trào trước khi các phong trào có thể phát triển bằng cách bắt giữ những người được gọi là “kẻ cầm đầu” và kết tội họ rất nặng. Trong một ví dụ khác, khi tự do và nhân quyền càng ngày càng trở nên một xu thế được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới, ĐCSTQ không kết án bất kỳ một học viên Pháp Luân Công nào vào tội chết, nhưng dưới sự chỉ đạo của Giang Trạch Dân là “sẽ không ai phải chịu trách nhiệm về việc giết chết các học viên Pháp Luân Công”, thì các học viên Pháp Luân Công thường bị tra tấn đến chết rất thảm thương ở khắp nơi trên toàn bộ Trung Quốc. Mặc dù Hiến pháp Trung Quốc qui định rằng các công dân có quyền được thỉnh nguyện nếu phải chịu đựng bất công. Tuy nhiên, ĐCSTQ sử dụng cảnh sát mặc thường phục hoặc thuê các kẻ côn đồ ở địa phương để ngăn chặn, bắt giữ, và đưa những người dân đi thỉnh nguyện về nhà, và thậm chí nhốt họ lại ở trong những trại lao động cưỡng bức.
F. Giết người để cảnh cáo những người khác
Việc bức hại Trương Chí Tân, Ngộ La Khắc và Lâm Chiêu [35] là những ví dụ cụ thể thuộc loại này.
G. Lấp liếm che đậy những bằng chứng của việc chém giết
Những người nổi tiếng có ảnh hưởng trên trường quốc tế thường hay bị ĐCSTQ bịt miệng nhưng không bị giết chết. Mục đích là để che dấu việc giết hại những người mà cái chết của họ không gây sự chú ý của xã hội. Ví dụ, trong chiến dịch đàn áp các phần tử phản động, ĐCSTQ đã không giết các tướng lĩnh cao cấp của Quốc Dân Đảng như Long Vân, Phó Tác Nghĩa và Đỗ Duật Minh, mà thay vào đó là giết chết các quan chức cấp thấp và các binh sĩ của Quốc Dân Đảng.
Việc giết người của ĐCSTQ qua một thời gian dài đã làm méo mó tâm hồn của nhân dân Trung Quốc. Hiện nay ở Trung Quốc, nhiều người có khuynh hướng giết người. Khi bọn khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 11/09/2001, nhiều người Trung Quốc ăn mừng vụ khủng bố trên các diễn đàn trên Internet ở Trung Quốc Đại lục. Những người kêu gọi “chiến tranh tổng lực” lên tiếng ở khắp nơi làm cho mọi người run lên vì sợ.
******************
Kết luận
Do sự phong tỏa thông tin của ĐCSTQ, chúng tôi không có cách nào để biết chính xác bao nhiêu người đã chết trong những chiến dịch đàn áp đã xảy ra trong thời kỳ ĐCSTQ cầm quyền. Ít nhất 60 triệu người đã chết trong các phong trào mà chúng tôi đã đề cập đến trên đây. ĐCSTQ cũng đã giết hại các dân tộc thiểu số ở Tân Cương, Tây Tạng, Khu nội Mông Cổ, Vân Nam và các nơi khác; rất khó tìm được thông tin về những vụ việc này. Tờ Bưu điện Washington (Washington Post) đã từng ước tính rằng số người đã bị ĐCSTQ đàn áp đến chết lên tới 80 triệu [36]
Bên cạnh số người chết, chúng tôi không có cách nào để biết được bao nhiêu người đã bị tàn phế, bị rối loạn tâm thần, phát điên, trầm uất, hay sợ chết khiếp sau khi họ bị đàn áp. Mỗi một cái chết là một bi kịch cay đắng để lại những đau đớn khôn nguôi cho thân nhân của các nạn nhân.
Như hãng thông tấn Yomiuri News của Nhật đã từng đưa tin [37], chính quyền Trung ương Trung Quốc đã mở một cuộc điều tra về thương vong trong Cách mạng Văn hóa ở 29 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Kết quả cho thấy rằng gần 600 triệu người đã bị đàn áp hay đổ tội trong Cách mạng Văn hóa hay là khoảng một nửa tổng số dân Trung Quốc.
Xta-lin đã từng nói rằng “Cái chết của một người là một bi kịch, nhưng cái chết của một triệu người thì chỉ đơn thuần là một con số thống kê”. Khi được thông báo rằng nhiều người dân đã bị chết đói ở tỉnh Tứ Xuyên, Lý Tỉnh Tuyền, nguyên Bí thư Đảng ủy tỉnh Tứ Xuyên nhận xét, “Triều đại nào mà không có người chết?” Mao Trạch Đông nói, “Thương vong là không thể tránh khỏi trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào. Chết chóc thường xảy ra.” Đây là quan điểm của những người cộng sản vô thần về mạng người. Đấy là lý do tại sao 20 triệu người đã chết do bị đàn áp trong thời gian Xta-lin nắm quyền, chiếm 10% tổng số dân của Liên Xô cũ. ĐCSTQ đã giết hại ít nhất 80 triệu người hay cũng vào khoảng 10% tổng số dân Trung Quốc [tính cho đến lúc kết thúc Cách mạng Văn hóa]. Khơ-me Đỏ đã giết chết 2 triệu người, hay 1 phần tư của tổng số dân Cam-pu-chia lúc bấy giờ. Ở Bắc Triều Tiên, số người bị chết vì đói ước tính khoảng hơn 1 triệu. Đây là những món nợ máu của các đảng cộng sản.
Các tà giáo hiến tế con người và dùng máu của họ để cúng các tà ma. Ngay từ đầu cho đến tận bây giờ, Đảng Cộng sản đó đã liên tục giết hại nhân dân, khi nó không thể giết những người ngoài đảng, nó thậm chí sẽ giết cả những người ở trong đảng, tất cả để kỷ niệm “các cuộc đấu tranh giai cấp”, “các cuộc đấu tranh giữa các đảng phái” của nó và các ảo tưởng khác. Nó thậm chí đặt các tổng bí thư đảng, các tướng lĩnh, các bộ trưởng, và những đảng viên khác của chính nó lên bàn hiến tế của tà giáo này.
Nhiều người nghĩ rằng nên để cho ĐCSTQ có thời gian để tự biến mình trở nên tốt hơn, nói rằng hiện giờ nó đã rất kiềm chế trong việc giết chóc rồi. Trước hết, giết một người cũng là giết người. Hơn nữa, bởi vì giết chóc là một trong những cách mà ĐCSTQ dùng để thống trị thể chế khủng bố của nó, ĐCSTQ sẽ tăng giảm việc giết chóc tùy theo nhu cầu của nó. Việc giết người của ĐCSTQ nói chung rất khó đoán trước. Khi nhân dân không đủ sợ hãi, ĐCSTQ có thể giết nhiều hơn để tăng cảm giác hoảng sợ của họ lên; khi mọi người đã sợ rồi, thì giết một vài người cũng đủ để duy trì cảm giác hoảng sợ, khi mọi người đã quá sợ rồi thì chỉ cần tuyên bố ý định giết người chứ chưa cần giết thật cũng đủ để ĐCSTQ duy trì tình trạng khủng bố. Sau khi trải qua vô số các chiến dịch chính trị và giết người, nhân dân đã hình thành một phản xạ có điều kiện đối với sự khủng bố của ĐCSTQ. Do đó, ĐCSTQ thậm chí không cần phải nhắc đến việc giết chóc, chỉ cần bộ máy tuyên truyền chiến tranh tâm lý lên giọng phê bình trên diện rộng cũng đủ để gợi lại cho mọi người nhớ lại việc khủng bố.
ĐCSTQ sẽ điều chỉnh cường độ giết chóc của nó một khi cảm giác sợ hãi của nhân dân thay đổi. Bản thân cường độ của việc giết chóc không phải là mục đích của ĐCSTQ; điều cốt lõi là sự giết chóc thường xuyên của nó là để duy trì quyền lực. ĐCSTQ không bao giờ trở nên nhân hậu. Nó cũng sẽ không bao giờ hạ lưỡi dao đồ tể của nó xuống. Ngược lại, nhân dân đã trở nên phục tùng hơn. Một khi nhân dân đứng lên yêu cầu điều gì vượt quá sức chịu đựng của ĐCSTQ, thì ĐCSTQ sẽ không ngần ngại chém giết.
Xuất phát từ nhu cầu duy trì bầu không khí khủng bố, việc giết chóc tùy tiện đem lại hiệu quả tối đa để đạt được mục đích này. Trong những chiến dịch giết chóc trên diện rộng diễn ra trước đây, ĐCSTQ có chủ ý mập mờ về nhân dạng, tội danh và tiêu chuẩn buộc tội đối với các mục tiêu của nó. Để tránh bị trở thành mục tiêu tàn sát, mọi người thường tự giới hạn mình trong một “khu vực an toàn” dựa trên sự đánh giá của chính họ. Một “khu vực an toàn” như vậy nhiều khi thậm chí hẹp hơn cả giới hạn mà ĐCSTQ định đặt ra. Đó là lý do tại sao trong mỗi một phong trào, mọi người có xu hướng hành động như “một người tả khuynh hơn là hữu khuynh”. Kết quả là, một phong trào thường được “mở rộng” hơn so với phạm vi chủ định ban đầu, bởi vì nhân dân ở các cấp tự nguyện đặt ra những giới hạn cho mình để đảm bảo cho sự an toàn của họ. Cấp càng thấp, thì phong trào càng trở nên tàn bạo. Sự tăng cường khủng bố tự nguyện trong toàn xã hội như vậy là xuất phát từ việc giết chóc tùy tiện của ĐCSTQ.
Trong lịch sử chém giết lâu dài của nó, ĐCSTQ đã tự biến mình thành một kẻ giết người hàng loạt vô nhân đạo. Thông qua việc chém giết, nó đã thỏa mãn cảm giác bại hoại của mình là có quyền lực tuyệt đối trong việc quyết định sự sống chết của nhân dân. Thông qua việc chém giết, nó làm nguôi đi sự sợ hãi sâu thẳm trong thâm tâm của nó. Thông qua việc chém giết, nó trấn áp sự bất ổn định xã hội và bất mãn do những giết chóc trước kia của nó gây ra. Ngày nay, những món nợ máu chồng chất của ĐCSTQ đã làm cho việc hòa giải là không thể được nữa. Nó chỉ có thể dựa trên áp lực lớn và chế độ độc tài để duy trì sự tồn tại của nó cho đến thời khắc cuối cùng của nó. Bất chấp việc nó thỉnh thoảng tự cải trang cho mình bằng cách bồi thường cho các nạn nhân do chính nó giết hại, bản chất khát máu của ĐCSTQ vẫn chưa bao giờ thay đổi. Thậm chí lại càng có ít khả năng hơn nữa là nó sẽ thay đổi trong tương lai.
Chú thích:
[1] Thư của Mao Trạch Đông gửi cho vợ là Giang Thanh (1966).
[2] Thượng tầng kiến trúc trong ngữ cảnh của học thuyết về xã hội của chủ nghĩa Mác-xít dùng để nói đến cách thức tương tác giữa chủ thể là con người và của cải vật chất của xã hội.
[3] Hồ Phong, một học giải và là một nhà phê bình văn học phản đối chính sách văn học giáo điều của ĐCSTQ. Ông bị khai trừ ra khỏi Đảng năm 1955 và bị kết án 14 năm tù.
[4] Luận Ngữ của Khổng tử.
[5] Leviticus 19:18. (quyển giáo sĩ thứ 3 của Kinh Cựu Ước/chú thích của người dịch sang tiếng Việt)
[6] Marx, Bản tuyên ngôn Cộng sản (1848).
[7] Mao Trạch Đông, Chế độ chuyên chính Dân chủ Nhân dân (1949).
[8] Mao Trạch Đông, “Chúng ta phải xúc tiến đầy đủ [việc trấn áp các phần tử phản động] để mọi gia đình đều biết.” (30/03/1951).
[9] Mao Trạch Đông, “Chúng ta phải đánh những phần tử phản động một cách mạnh mẽ và chính xác.” (1951)
[10] Thái Bình Thiên Quốc (1851-1864), còn gọi là Cuộc nổi dậy Thái Bình, là một trong những cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nó là cuộc chạm trán giữa các lực lượng của Hoàng đế Trung Quốc và những người do Hồng Tú Toàn, một người thần bí tự xưng của nhóm văn hóa Hakka, lãnh đạo. Hồng Tú Toàn cũng là một người đã chuyển sang theo đạo Cơ Đốc. Người ta tin rằng ít nhất đã có 30 triệu người đã chết trong cuộc xung đột này.
[11] Những dữ liệu lấy từ phần trích của cuốn sách do tạp chí Chengming ở Hồng Kông xuất bản (www.chengmingmag.com), số ra tháng 10, 1996.
[12] Đại nhảy vọt (1958 – 1960) là một chiến dịch của ĐCSTQ nhằm khởi động các ngành công nghiệp của Trung Quốc, đặc biệt là ngành công nghiệp luyện thép. Dư luận rộng rãi coi đó là một thảm họa kinh tế nghiêm trọng.
[13] Xuất bản tháng 2/1994 bởi Nhà xuất bản Cờ Đỏ. Đoạn trích dẫn là do người dịch dịch.
[14] Đơn vị đo lường đất đai của Trung Quốc. 1 mẫu Trung Quốc = 0.165 mẫu Anh.
[15] Bành Đức Hoài (1898-1974): Một tướng lĩnh và là một người lãnh đạo chính trị của Trung cộng. Bành là chỉ huy trưởng trong chiến tranh Triều Tiên, phó thủ tướng của Hội đồng Nhà nước, Ủy viên Bộ chính trị, và Bộ trưởng Quốc phòng từ năm 1954-1959. Ông ta bị bãi nhiệm khỏi các chức vụ sau khi bất đồng quan điểm với các cách tiếp cận kiểu tả khuynh của Mao tại Phiên họp toàn thể Lộc Sơn của ĐCSTQ năm 1959.
[16] De Jaegher, Raymond J., Thù trong. Guild Books, Catholic Polls, Incorporated (1968).
[17] Thảm sát Đại Hưng xảy ra vào tháng 8/1966 trong khi thay đổi nhân sự cho vị trí Bí thư Thành ủy Bắc Kinh. Vào thời gian đó, Bộ trưởng Bộ Công an Xie Fuzhi có một bài phát biểu trong một cuộc họp với Nha Công an Bắc Kinh về việc không can thiệp vào các hoạt động của “hồng vệ binh” chống lại “năm giai cấp đen”. Bài phát biểu đó sớm được chuyển đến cuộc họp của Ban thường trực của Phòng Công an huyện Đại Hưng. Sau buổi họp, Phòng Công an huyện Đại Hưng ngay lập tức hành động và lập một kế hoạch kích động quần chúng nhân dân ở huyện Đại Hưng giết chết những người thuộc “năm giai cấp đen”.
[18] Trịnh Nghĩa, Kỷ niệm Đỏ (Đài Bắc: Nhà xuất bản Truyền hình Trung Quốc, 1993). Cuốn sách này cũng đã được xuất bản bằng tiếng Anh: Kỷ niệm Đỏ: Các câu chuyện ăn thịt người ở Trung Quốc hiện đại, của tác giả Yi Zheng, dịch và biên soạn bởi T. P. Sym (Boulder, Colorado: Westview Press, 1998.)
[19] “Xã hội cũ” theo cách nói của ĐCSTQ, dùng để chỉ thời kỳ trước năm 1949 và “xã hội mới” dùng để chỉ thời kỳ sau năm 1949 khi ĐCSTQ lên nắm quyền ở Trung Quốc.
[20] Áo bó là một dụng cụ tra tấn hình chiếc áo bó chặt. Hai tay của nạn nhân bị vặn chéo vào nhau và bị trói lại bằng dây thừng ở đằng sau lưng rồi sau đó bị giật qua đầu ra phía đằng trước; thủ đoạn tra tấn này có thể ngay lập tức làm què hai tay nạn nhân. Sau đó, nạn nhân bị đặt vào trong áo bó và bị treo hai tay lên. Hậu quả trực tiếp nhất của thủ đoạn tra tấn tàn bạo này là nạn nhân bị gẫy xương vai, xương khuỷu tay, xương cổ tay và lưng, làm cho nạn nhân bị chết trong đau đớn tột cùng. Rất nhiều học viên Pháp Luân Công đã chết vì bị tra tấn như thế này. Hãy đến các địa chỉ trên Internet sau đây để biết thêm thông tin:
Tiếng Hán:
http://minghui.org/mh/articles/2004/9/30/85430.html
Tiếng Anh:
http://clearwisdom.net/emh/articles/2004/9/10/52274.html
[21] Năm 1930, Mao ra lệnh cho Đảng giết hàng nghìn đảng viên, lính Hồng Quân, và thường dân vô tội ở tỉnh Giang Tây nhằm để củng cố quyền lực của mình ở những khu vực do ĐCSTQ kiểm soát. Hãy đến các địa chỉ trên Internet sau đây để biết thêm thông tin:
Tiếng Hán:
http://kanzhongguo.com/news/articles/4/4/27/64064.html
[22] Cao Cương và Nhiêu Thấu Thạch cùng là ủy viên Ban chấp hành Trung ương của ĐCSTQ. Sau khi thành công trong nỗ lực đấu đá tranh giành quyền lực, năm 1954, cả hai cùng bị buộc tội có âm mưu chi rẽ Đảng và sau đó bị khai trừ ra khỏi Đảng.
[23] Chu Ân Lai (1898-1976) là nhân vật đứng thứ hai sau Mao trong lịch sử ĐCSTQ. Ông ta là một trong những người đứng đầu của ĐCSTQ và là Thủ tướng của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa từ năm 1949 cho đến chết.
[24] Vương Hiền Căn, Tài liệu về ủng hộ Việt nam và Đánh Mỹ. (Bắc Kinh: Công ty Xuất bản Văn hóa Quốc tế, 1990)
[25] Trương Chí Tân là một nhà trí thức bị ĐCSTQ tra tấn đến chết trong Đại Cách mạng Văn hóa vì phê bình sự thất bại của Mao trong Đại nhảy vọt và do đã thẳng thắn nói lên sự thực. Bọn cai ngục đã nhiều lần lột hết quần áo của cô, còng hai tay cô ra đằng sau lưng và quẳng cô vào xà-lim giam những tội nhân nam để chúng hãm hiếp tập thể cho đến khi cô bị điên. Nhà tù sợ rằng cô sẽ hô khẩu hiệu phản đối khi cô bị tử hình nên chúng cắt cổ họng của cô cho hở ra trước khi tử hình cô.
[26] Từ Báo cáo ngày 12/10/2004 của Viện nghiên cứu Laogai:
http://www.laogai.org/news2/newsdetail.php?id=391 (tiếng Hán).
[27] Một trong ba công cụ (phương tiện sản xuất, phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất) do Mác dùng để phân tích giai cấp xã hội. Quan hệ sản xuất dùng để chỉ mối quan hệ giữa những người sở hữu công cụ sản xuất và những người không sở hữu công cụ sản xuất, ví dụ, mối quan hệ giữa những người chủ sở hữu đất đai và dân cày hoặc mối quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân.
[28] Từ Mạnh Tử, Quyển 3. Bộ Kinh điển Penguin, do D.C. Lau biên dịch.
[29] Tác giả Fan Zhongyan (989-1052), một nhà giáo dục, nhà văn và là một vị quan xuất chúng của Trung Quốc dưới Triều đại Bắc Tống. Đoạn trích này được lấy từ bài văn nổi tiếng của ông với nhan đề “Trèo lên tháp Nhạc Dương.”
[30] Tác giả Gu Yanwu (1613-1682), một học giả xuất sắc vào đầu Triều đại Thanh.
[31] Từ Mạnh Tử, Quyển 7. Bộ Kinh điển Penguin, do D.C. Lau biên dịch.
[32] Làng Ba Người là bút danh của ba nhà văn trong những năm 1960 là Deng Kuo, Wu Han và Liao Mosha. Wu là tác giả của vở kịch, “Hai Rui từ chức” mà Mao coi là một sự châm biếm chính trị về mối quan hệ của ông ta với tướng Bành Đức Hoài.
[33] Bạch Mao Nữ: Một huyền thoại dân gian Trung Quốc, Cô gái tóc bạc là một câu chuyện về một tiên nữ sống trong một hang động có các khả năng siêu thường có thể thưởng cho những người làm việc tốt và phạt những kẻ làm điều ác, ủng hộ chính nghĩa và trấn áp tà ác. Tuy nhiên, trong các vở kịch, opera và ba-lê ở Trung Quốc hiện đại cô bị mô tả như một cô gái buộc phải chạy trốn đến một cái hang sau khi bố cô bị đánh đến chết vì từ chối không gả cô cho một người địa chủ già. Cô bị bạc tóc vì thiếu dinh dưỡng. Dưới ngòi bút của các nhà văn theo ĐCSTQ, huyền thoại này đã bị biến thành một trong những vở kịch “hiện đại” nổi tiếng nhất ở Trung Quốc nhằm để kích động lòng hận thù giai cấp đối với những người chủ sở hữu đất đai.
[34] Lâm Bưu (1907-1971), một trong những lãnh đạo cao cấp của ĐCSTQ dưới thời Mao Trạch Đông đã từng là một ủy viên Bộ chính trị, Phó chủ tịch (1958) và Bộ trưởng quốc phòng (1959). Lin được coi là kiến trúc sư của Đại Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc. Lin được chỉ định làm người kế nhiệm Mao năm 1966 nhưng sau đó lại bị thất sủng năm 1970. Cảm nhận được sụp đổ của mình, có báo cáo cho rằng Lin đã dính líu vào một cuộc đảo chính bất thành và đã cố chạy trốn sang Liên Xô sau khi âm mưu được viện ra bị bại lộ. Máy bay của ông ta bị rơi ở Mông Cổ trên chuyến bay hòng trốn khỏi bị truy tố và ông ta đã chết.
[35] Ngộ La Khắc là một nhà tư tưởng và đấu tranh vì nhân quyền bị ĐCSTQ giết chết trong Cách mạng Văn hóa. Bài tiểu luận bất hủ của ông “Về lịch sử gia đình” viết ngày 18/01/1967 được lưu truyền rộng rãi nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất trong tất cả các bài tiểu luận phản ánh các tư tưởng không tuân theo đường lối của ĐCSTQ trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Lâm Chiêu, một sinh viên khoa báo chí trường Đại học Tổng hợp Bắc Kinh bị coi là một người hữu khuynh năm 1957 vì cô đã có những tư tưởng độc lập và phê phán thẳng thắn đối với phong trào cộng sản đó. Cô bị buộc tội là có âm mưu lật đổ chế độ chuyên chính dân chủ nhân dân và bị bắt năm 1960. Năm 1962, cô bị kết án 20 năm tù. Cô bị ĐCSTQ giết hại ngày 29/04/1968 với tội danh là phản cách mạng.
[36] Dữ liệu dựa trên http://www.laojiao.org/64/article0211.html (tiếng Hán).
[37] Từ “Một bức thư ngỏ của Song Meiling gửi Liao Chengzhi” (17/08/1982).
-Học viên Pháp Luân Công kể chuyện
--
-Mở bằng chương trình nghe nhìn khác
Cuộc tọa thiền tập thể của nhóm học viên Pháp Luân Công trước cửa lãnh sự quán TQ ở TP HCM nhân vụ xử hai học viên ở Hà Nội sáng thứ Năm 6/10 đã nhanh chóng bị giải tán.
Một người tham gia cuộc tọa thiền, ông Nguyễn Văn Nghĩa, nói với BBC rằng nhóm học viên khoảng 30 người, gồm "đủ loại thành phần và lứa tuổi".
Ông Nghĩa nói từ TP Hồ Chí Minh: "Cuộc tọa thiền bắt đầu vào khoảng 7:30 sáng trước tòa lãnh sự ở Quận 1, chừng một tiếng sau thì công an tới hốt cả nhóm đi".
"Chúng tôi tham gia ngồi thiền trước lãnh sự quán Trung Quốc với hai đòi hỏi: Trung Quốc phải chấm dứt việc đàn áp Pháp Luân Công ở trong nước họ; và chính phủ Việt Nam cần trả tự do cho hai người bị bắt vì phát thanh thông tin về Pháp Luân Công."
Phiên xử học viên Pháp Luân Công Vũ Đức Trung và anh rể ông, ông Lê Văn Thành, tội 'Đưa trái phép thông tin trên mạng viễn thông' đáng ra phải diễn ra vào buổi sáng 6/10, nhưng bị hoãn vào phút chót.
Cho tới 8 giờ tối giờ Việt Nam, phần lớn nhóm học viên Pháp Luân Công ngồi thiền trước lãnh sự quán Trung Quốc đã được cho về nhà.
Ông Nguyễn Văn Nghĩa đã nói chuyện với BBC.
-Học viên Pháp Luân Công kể chuyện
----------
-Pháp Luân Công 'thiền tập thể' tại TP HCM
-Cuộc tọa thiền ôn hòa trước LSQ Trung Quốc đã bị giải tán-
Cuộc tọa thiền tập thể của nhóm học viên Pháp Luân Công trước cửa lãnh sự quán TQ ở TP HCM nhân vụ xử hai học viên ở Hà Nội sáng thứ Năm 6/10 đã nhanh chóng bị giải tán.
-Một người tham gia cuộc tọa thiền, ông Nguyễn Văn Nghĩa, nói với BBC rằng nhóm học viên khoảng 30 người, gồm "đủ loại thành phần và lứa tuổi".--Pháp Luân Công 'thiền tập thể' tại TP HCM
-Cuộc tọa thiền ôn hòa trước LSQ Trung Quốc đã bị giải tán-
Cuộc tọa thiền tập thể của nhóm học viên Pháp Luân Công trước cửa lãnh sự quán TQ ở TP HCM nhân vụ xử hai học viên ở Hà Nội sáng thứ Năm 6/10 đã nhanh chóng bị giải tán.
Ông Nghĩa nói từ TP Hồ Chí Minh: "Cuộc tọa thiền bắt đầu vào khoảng 7:30 sáng trước tòa lãnh sự ở Quận 1, chừng một tiếng sau thì công an tới hốt cả nhóm đi".
"Chúng tôi tham gia ngồi thiền trước lãnh sự quán Trung Quốc với hai đòi hỏi: Trung Quốc phải chấm dứt việc đàn áp Pháp Luân Công ở trong nước họ; và chính phủ Việt Nam cần trả tự do cho hai người bị bắt vì phát thanh thông tin về Pháp Luân Công."
Phiên xử học viên Pháp Luân Công Vũ Đức Trung và anh rể ông, ông Lê Văn Thành, tội 'Đưa trái phép thông tin trên mạng viễn thông' đáng ra phải diễn ra vào buổi sáng 6/10, nhưng bị hoãn vào phút chót.
Cho tới 8 giờ tối giờ Việt Nam, phần lớn nhóm học viên Pháp Luân Công ngồi thiền trước lãnh sự quán Trung Quốc đã được cho về nhà.
Ông Nguyễn Văn Nghĩa nói với BBC rằng công an khi giải tán đám đông không sử dụng bạo lực, nhưng "có lôi kéo mọi người rất dữ".
Ông cũng nói có người mặc áo vàng in dòng chữ của môn phái Pháp Luân Công "đã bị lột áo".
"Họ giải thích việc tụ tập không có phép như vậy là gây mất trật tự trị an. Họ cũng lập biên bản và nói sẽ xử phạt hành chính những người tham gia."
Chúng tôi tham gia ngồi thiền trước lãnh sự quán Trung Quốc với hai đòi hỏi: Trung Quốc phải chấm dứt việc đàn áp Pháp Luân Công ở trong nước họ; và chính phủ Việt Nam cần trả tự do cho hai người bị bắt vì phát thanh thông tin về Pháp Luân Công."-
Học viên Pháp Luân Công Nguyễn Văn Nghĩa
Việt Nam, tuy chưa bao giờ chính thức cấm Pháp Luân Công, luôn bác bỏ rằng môn phái này tồn tại ở trong nước, và nói chỉ có người tập luyện dưỡng sinh vì sức khỏe.
Một số nhân chứng khác cho hay buổi tập công buổi sáng thứ Năm tại công viên Lê Văn Tám cũng đã bị công an giải tán "bằng cách phun nước".
Các học viên Pháp Luân Công đã tập họp tại công viên này để tập công vào khoảng 5:30 sáng, sau đó một nhóm rút đi để tham gia hoạt động ngồi thiền.
Hoãn phiên tòa
Trong khi đó bà Lê Thị Thu Hoà, vợ bị cáo Vũ Đức Trung trong phiên xử ở Hà Nội, cho hay bà nhận được tin hoãn xử từ tòa án khi vừa đặt chân tới cổng tòa án.
Ông Trung, nguyên giám đốc Công ty Phần mềm Nhân Hòa, và Lê Văn Thành, anh rể của ông Trung, bị bắt từ tháng 6/2010.
Luật sư Trần Đình Triển, người tham gia phiên tòa xử với tư cách là luật sư biện hộ cho ông Vũ Đức Trung cũng nhận được thông báo này vào hôm thứ Năm 6/10.
Việc trì hoãn phiên tòa lần này là do Cục tần số Vô tuyến điện Bộ Thông tin và Truyền thông làm văn bản yêu cầu.
Cục này tham gia phiên xử với tư cách cơ quan giám định, ông Triển cho biết.
“Thường là một vụ án hình sự thì kể cả luật sư vắng mặt và nếu giám định viên có trong hồ sơ vụ án, để đảm bảo cách xét xử một cách nhanh chóng thì người ta vẫn tiến hành bình thường.”
Ông nói thêm: “Trong trường hợp này, cho dù Cục tần số Vô tuyến điện đóng vai trò như cơ quan giám định, hay một nhân chứng và cơ quan có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì cũng không có lý do gì để trì hoãn phiên tòa.”
Trong bản cáo trạng, Cục này đã tiến hành thanh tra và đưa ra kết luận rằng những thiết bị của công ty phần mềm Nhân Hòa chưa có giấy phép sử dụng.
Luật sư Triển nói ông “rất cần Cục tần số tham gia tố tụng cho vụ án này” nhằm làm rõ mức độ vi phạm của ông Vũ Đức Trung.
Dựa vào Luật Bưu chính viễn thông, mức sóng mà thiết bị này phát tán ra chưa đủ lớn để bị truy tố hình sự, ông Triển nói thêm.
Ông nói vẫn chưa nhận được thông tin gì về phiên tòa xét xử tiếp theo tuy nhiên, dự tính sẽ diễn ra vào cuối tháng 10/2011.
Hai ông Trung và Thành đã bị bắt khẩn cấp ngày 10/06/2010 vì cáo buộc vi phạm điều 226 ‘đưa lên mạng những thông tin trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng’.
Cục Tần số Vô tuyến điện Bộ Thông tin và Truyền thông đã thu giữ ba hệ thống máy phát sóng và các phương tiện kỹ thuật "phục vụ việc phát sóng trái phép" đặt tại hai địa chỉ ở ngoại thành Hà Nội.
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nói qua quá trình điều tra, cơ quan chức năng đã xác định rằng vào khoảng giữa năm 2007, ông Trung "trở thành hội viên một môn phái bị cấm tại nước ngoài".
Theo Viện Kiểm sát, việc phát sóng đã được thực hiện từ tháng 4/2009 cho đến khi bị phát hiện là tháng 6/2010 với thời lượng từ 5h đến 23h hàng ngày.
Luật sư Triển cũng cho biết hiện nay Nhà nước Việt Nam vẫn chưa có văn bản nào cấm môn phái này, vốn bị chính phủ Trung Quốc cho là 'tà đạo' và cấm hoạt động ở trong nước.