Đã 34 năm trôi qua.
Hòa bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội, thay đổi số phận con người. Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hòa bình(1982). Nay nhìn lại tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau“mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã” yên vị “ khói hương trên bàn thờ gia đình. Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn Giải Phóng "sen hay bùn” về danh xưng khi nào thì gọi là thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi tp HCM, cái tệ nạn, cái xấu, cái "tồn đọng"thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo SGGP như trong một xã hội bình thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài Gòn Giải Phóng (nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)… Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
Đỗ Trung Quân
TẠ LỖI TRƯỜNG SƠNHòa bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội, thay đổi số phận con người. Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hòa bình(1982). Nay nhìn lại tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau“mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã” yên vị “ khói hương trên bàn thờ gia đình. Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn Giải Phóng "sen hay bùn” về danh xưng khi nào thì gọi là thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi tp HCM, cái tệ nạn, cái xấu, cái "tồn đọng"thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo SGGP như trong một xã hội bình thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài Gòn Giải Phóng (nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)… Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
Đỗ Trung Quân
(1982)
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sai Gon như thủ đô của rác
Của xì ke,gái điếm, ,cao bồi
Của tình dục,ăn chơi
“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sai Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sai Gòn không tiểu thư khuê các,cũng đĩ điếm giang hồ
các anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”
văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
ngòi bút các anh thay súng
bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
là thiêu thân ủy mị,yếu hèn
các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
mang tuổi trẻ Sai Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người sài gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội nghiệp nhưng đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp nhưng ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương,thi ca ,sách báo
những vị giáo sư trên bục giảng đường
ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi-của chúng ta.
có tiếng cười
và tiếng khóc
3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát .hy sinh…
4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời .
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi,casette .radio…
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn”khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
để yên cho xương rồng,gai góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy ,ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào” thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
Đỗ trung quân (1982)
------------------------------
(*) năm 1995-nhà xuất bản Trình Bày có ý định in bài thơ này với cái tên tác giả "Chung Do Kwan" trong phần" thơ dịch".sự cân nhắc này là nhã ý của nhà Trình Bày khi biết tác giả thật sự vẫn còn đang sống ở VN.cũng từ đó cái tên Chung Do Kwan ra đời với tinh thần (ngỡ như) hài hước (“phiên âm” từ tên tác giả).nó không liên quan gì đến tay độc tài quân phiệt Chung do kwan trong thập niên 60-70.
Nguồn: Chung Do Kwan's Blog
-------------------
Rồi đây lịch sử sẽ nói gì?
- "Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước" !
- "Ngày quốc hận" !
- "Sài Gòn sụp đổ ! (Fall of Saigon)"
- "Ngày có hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn" !...
Nó chỉ là một dấu mốc trên trục thời gian. Cảm nhận ra sao, gọi tên thế nào là tùy thuộc cảm xúc của từng người. Nhìn nhận chính xác nhất, có lẽ phải dựa vào phán xét của lịch sử. Lịch sử thì không thể sản xuất, không thể chế tạo được, mà cần phải có thời gian. 34 năm qua, thời gian đủ dài để nhận rõ bản chất của một biến cố, nhưng chưa đủ lâu để nó được nhìn qua lăng kính sử biên.
Dịch chuyển thời gian về quá khứ đúng 1000 năm, những năm đầu thế kỷ XI (trước 1009) là thời kỳ cai trị của Ngoạ triều Hoàng đế - một ông vua khét tiếng tàn ác và dâm loạn. Vào thời điểm đó, có sử gia nào dám ghi lại những thú tiêu khiển tàn độc như róc mía trên đầu nhà sư, dìm người xuống nước để nhử thuồng luồng, bắt tù nhân leo lên cây cao rồi cho người đốn hạ...? Lời nói gió bay cũng thể bị bêu đầu, há ai dám ghi chép tường minh? Nên nhớ thời ấy phương tiện viết lách, lưu trữ còn rất thô sơ so với ngày nay. Vậy mà công tội của ông vua ấy sau này đâu có thoát khỏi quan toà lịch sử!
So với thời đại số của truyền thông media và liên lạc internet như hiện nay, lịch sử sẽ phản ánh chính xác hơn nhiều, đầy đủ âm thanh và hình ảnh rõ nét.
Không có đôi cánh vượt thời gian để bay về tương lai xem lịch sử phán xét thế nào, thôi đành tự mô phỏng theo ngu ý của mình vậy...
Tháng 4/1975, nền Đệ nhị cộng hoà ở miền Nam sụp đổ, tiền đồn của khối Cộng sản ở Đông dương mở rộng trên toàn cõi Việt Nam. Đất nước thống nhất, vĩ tuyến 17 độ bắc đã không còn chia cắt dân chúng hai miền. Cha gặp con, vợ tìm chồng, anh em đoàn tụ... Nhưng niềm vui sum họp chỉ được phân nửa. Hàng triệu người Việt khác phải chịu cảnh ly tán, đau thương suốt mười năm sau đó.
Nguyên do là người cộng sản đã không biết cách chiến thắng. Họ làm được chuyện đưa xe tăng vào ủi sập cổng Dinh Độc Lập, nhưng không giữ được danh tiếng cho Hòn Ngọc Viễn Đông. Bài ca chiến thắng chưa hàn gắn được vết thương chiến tranh, nhiều vết thương khác lại nhức nhối lòng người:
- Nỗi đau của những người vợ oằn mình nuôi con vì chồng ở tù cải tạo. Nỗi bất công của những thanh niên mới vào đời mất đi cơ hội học hành vì ba mẹ chúng là "ngụy quân, ngụy quyền".
- Nỗi khổ của những người bỗng dưng mất sạch cơ ngơi, tài sản qua bao đời làm lụng tích góp chỉ vì bị gán danh "tư sản"
- Nỗi nhục của những người bên kia vĩ tuyến khi nhận ra mình bị lừa dối suốt mấy chục năm qua.
- Nỗi túng quẫn cùng cực của toàn dân Việt suốt mười năm cấm chợ ngăn sông, tiến hành công cuộc đi lên CNXH.
Trong suốt một thập kỷ, làn sóng vượt biên lớn nhất trong lịch sử 4000 năm của dân tộc đã diễn ra. Người Việt tị nạn ở khắp nơi trên thế giới, là những chứng nhân hùng hồn và chân thực phản ánh chính sách cai trị hà khắc của cộng sản: Tự do được đánh đổi bằng mạng sống! Chưa có con số chính xác, nhưng người ta ước lượng số người mất tích, vùi thây trên biển phải biểu diễn bằng 7 chữ số!
Phần lớn số người còn lại chấp nhận "sống chung với lũ" để sinh tồn. Chưa bao giờ đời sống tinh thần dân tộc trở nên thụ động, vô cảm như giai đoạn này. Trước tháng 12/2007, có bao nhiêu người Việt trong nước biết được sự thật về quần đảo Hoàng Sa, ngoài cụm từ vô vị là một huyện đảo thuộc Đà Nẵng? Thử hỏi tâm trạng của một người Việt Nam khi cầm lá phiếu trên tay, thực hiện cái gọi là quyền công dân của mình vào mỗi dịp bầu cử - Có bao nhiêu trong số họ dám nói thực lòng mình?
- Giá như (lịch sử luôn có những cái "nếu" và "giá như" éo le như vậy) người cộng sản biết vận dụng tinh thần nhân đạo của cha ông ngày xưa đã từng chu cấp lương thảo cho quân xâm lăng về nước, thì sẽ không có thảm trạng người Việt chết mòn trong trại tù "cải tạo" của chính người Việt khi đã hết chiến tranh.
- Giá như người cộng sản đã từng nghe qua bài diễn văn Gettysburg của Abraham Lincoln 112 năm trước đó, thì lòng dân Việt đâu có ly tán suốt mấy chục năm sau.
- Giá như người cộng sản thấy trước được tiền đồ của Liên Xô và khối Đông Âu 15 năm sau đó, thì sẽ chẳng có chuyện cấm chợ ngăn sông, toàn dân đói khổ hòng dắt nhau đến xã hội đại đồng.
- Giá như người cộng sản chịu khó hình dung lịch sử sẽ viết gì về họ sau vài chục năm nữa, thì sẽ không có chuyện bịt miệng tiếng nói đối lập, trấn áp người biểu tình đòi chủ quyền biển đảo, duy trì chính thể độc tài, theo đuổi chủ thuyết đã chết ngay trên chính quê hương sản sinh ra nó!
Việt Nam chưa dám sánh vai với cường quốc năm châu, nhưng chắc chắn không thua kém ai trong vùng Đông Nam Á, một khi chính thể độc tài đảng trị được thay thế bởi nhà nước dân chủ thực sự, theo đúng nghĩa CỦA DÂN, DO DÂN và VÌ DÂN.
-------------------
Rồi đây lịch sử sẽ nói gì?
P.V. Hai
“...người cộng sản đã không biết cách chiến thắng. Họ làm được chuyện đưa xe tăng vào ủi sập cổng Dinh Độc Lập, nhưng không giữ được danh tiếng cho Hòn Ngọc Viễn Đông. Bài ca chiến thắng chưa hàn gắn được vết thương chiến tranh, nhiều vết thương khác lại nhức nhối lòng người...”
Ba mươi tháng tư - một ngày với nhiều tên gọi:- "Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước" !
- "Ngày quốc hận" !
- "Sài Gòn sụp đổ ! (Fall of Saigon)"
- "Ngày có hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn" !...
Nó chỉ là một dấu mốc trên trục thời gian. Cảm nhận ra sao, gọi tên thế nào là tùy thuộc cảm xúc của từng người. Nhìn nhận chính xác nhất, có lẽ phải dựa vào phán xét của lịch sử. Lịch sử thì không thể sản xuất, không thể chế tạo được, mà cần phải có thời gian. 34 năm qua, thời gian đủ dài để nhận rõ bản chất của một biến cố, nhưng chưa đủ lâu để nó được nhìn qua lăng kính sử biên.
Dịch chuyển thời gian về quá khứ đúng 1000 năm, những năm đầu thế kỷ XI (trước 1009) là thời kỳ cai trị của Ngoạ triều Hoàng đế - một ông vua khét tiếng tàn ác và dâm loạn. Vào thời điểm đó, có sử gia nào dám ghi lại những thú tiêu khiển tàn độc như róc mía trên đầu nhà sư, dìm người xuống nước để nhử thuồng luồng, bắt tù nhân leo lên cây cao rồi cho người đốn hạ...? Lời nói gió bay cũng thể bị bêu đầu, há ai dám ghi chép tường minh? Nên nhớ thời ấy phương tiện viết lách, lưu trữ còn rất thô sơ so với ngày nay. Vậy mà công tội của ông vua ấy sau này đâu có thoát khỏi quan toà lịch sử!
So với thời đại số của truyền thông media và liên lạc internet như hiện nay, lịch sử sẽ phản ánh chính xác hơn nhiều, đầy đủ âm thanh và hình ảnh rõ nét.
Không có đôi cánh vượt thời gian để bay về tương lai xem lịch sử phán xét thế nào, thôi đành tự mô phỏng theo ngu ý của mình vậy...
Tháng 4/1975, nền Đệ nhị cộng hoà ở miền Nam sụp đổ, tiền đồn của khối Cộng sản ở Đông dương mở rộng trên toàn cõi Việt Nam. Đất nước thống nhất, vĩ tuyến 17 độ bắc đã không còn chia cắt dân chúng hai miền. Cha gặp con, vợ tìm chồng, anh em đoàn tụ... Nhưng niềm vui sum họp chỉ được phân nửa. Hàng triệu người Việt khác phải chịu cảnh ly tán, đau thương suốt mười năm sau đó.
Nguyên do là người cộng sản đã không biết cách chiến thắng. Họ làm được chuyện đưa xe tăng vào ủi sập cổng Dinh Độc Lập, nhưng không giữ được danh tiếng cho Hòn Ngọc Viễn Đông. Bài ca chiến thắng chưa hàn gắn được vết thương chiến tranh, nhiều vết thương khác lại nhức nhối lòng người:
- Nỗi đau của những người vợ oằn mình nuôi con vì chồng ở tù cải tạo. Nỗi bất công của những thanh niên mới vào đời mất đi cơ hội học hành vì ba mẹ chúng là "ngụy quân, ngụy quyền".
- Nỗi khổ của những người bỗng dưng mất sạch cơ ngơi, tài sản qua bao đời làm lụng tích góp chỉ vì bị gán danh "tư sản"
- Nỗi nhục của những người bên kia vĩ tuyến khi nhận ra mình bị lừa dối suốt mấy chục năm qua.
- Nỗi túng quẫn cùng cực của toàn dân Việt suốt mười năm cấm chợ ngăn sông, tiến hành công cuộc đi lên CNXH.
Trong suốt một thập kỷ, làn sóng vượt biên lớn nhất trong lịch sử 4000 năm của dân tộc đã diễn ra. Người Việt tị nạn ở khắp nơi trên thế giới, là những chứng nhân hùng hồn và chân thực phản ánh chính sách cai trị hà khắc của cộng sản: Tự do được đánh đổi bằng mạng sống! Chưa có con số chính xác, nhưng người ta ước lượng số người mất tích, vùi thây trên biển phải biểu diễn bằng 7 chữ số!
Phần lớn số người còn lại chấp nhận "sống chung với lũ" để sinh tồn. Chưa bao giờ đời sống tinh thần dân tộc trở nên thụ động, vô cảm như giai đoạn này. Trước tháng 12/2007, có bao nhiêu người Việt trong nước biết được sự thật về quần đảo Hoàng Sa, ngoài cụm từ vô vị là một huyện đảo thuộc Đà Nẵng? Thử hỏi tâm trạng của một người Việt Nam khi cầm lá phiếu trên tay, thực hiện cái gọi là quyền công dân của mình vào mỗi dịp bầu cử - Có bao nhiêu trong số họ dám nói thực lòng mình?
- Giá như (lịch sử luôn có những cái "nếu" và "giá như" éo le như vậy) người cộng sản biết vận dụng tinh thần nhân đạo của cha ông ngày xưa đã từng chu cấp lương thảo cho quân xâm lăng về nước, thì sẽ không có thảm trạng người Việt chết mòn trong trại tù "cải tạo" của chính người Việt khi đã hết chiến tranh.
- Giá như người cộng sản đã từng nghe qua bài diễn văn Gettysburg của Abraham Lincoln 112 năm trước đó, thì lòng dân Việt đâu có ly tán suốt mấy chục năm sau.
- Giá như người cộng sản thấy trước được tiền đồ của Liên Xô và khối Đông Âu 15 năm sau đó, thì sẽ chẳng có chuyện cấm chợ ngăn sông, toàn dân đói khổ hòng dắt nhau đến xã hội đại đồng.
- Giá như người cộng sản chịu khó hình dung lịch sử sẽ viết gì về họ sau vài chục năm nữa, thì sẽ không có chuyện bịt miệng tiếng nói đối lập, trấn áp người biểu tình đòi chủ quyền biển đảo, duy trì chính thể độc tài, theo đuổi chủ thuyết đã chết ngay trên chính quê hương sản sinh ra nó!
Việt Nam chưa dám sánh vai với cường quốc năm châu, nhưng chắc chắn không thua kém ai trong vùng Đông Nam Á, một khi chính thể độc tài đảng trị được thay thế bởi nhà nước dân chủ thực sự, theo đúng nghĩa CỦA DÂN, DO DÂN và VÌ DÂN.
P. V. Hai
Nguồn: FreeOrDead blog
© Thông Luận 2009 Nguồn: FreeOrDead blog