Nguyễn Đình Tường, Giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học phương Tây, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Tạp chí Triết học
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một cách khái quát quan niệm của G.V.Ph.Hêghen về xã hội công dân (xã hội dân sự), về các mối quan hệ kinh tế của xã hội công dân cũng như cơ cấu đẳng cấp và biện chứng của xã hội công dân. Theo tác giả, Hêghen đã đứng trên cơ sở của chủ nghĩa duy tâm khách quan, thần bí để xem xét mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước, coi nhà nước là cái có trước, là cơ sở và động lực của xã hội công dân. Vì vậy, có thể nói, quan niệm của Hêghen về xã hội công dân nói riêng và triết học của ông nói chung có tính chất mâu thuẫn.
Qua sách báo và các phương tiện truyền thông trong những năm gần đây, vấn đề xã hội công dân (hay xã hội dân sự) ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Khái niệm xã hội công dân có một quá trình ra đời và tồn tại khá phức tạp. Nó xuất hiện trong ngôn ngữ phương Tây từ cuối thế kỷ XVI và ở nước ta trong những thập niên gần đây. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu khái niệm này một cách đầy đủ và đúng đắn. Nghiên cứu các tài liệu hiện có cho thấy, có nhiều định nghĩa, nhiều ý kiến và tranh luận khác nhau về khái niệm xã hội công dân. Mỗi một cách tiếp cận đều có tính hợp lý của nó tuỳ theo góc độ triết học, chính trị học, xã hội học, luật học…
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đưa ra quan niệm của Hêghen về xã hội công dân nhằm phần nào làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm này trong một giai đoạn lịch sử triết học trước Mác.
Trong tác phẩm Triết học pháp quyền của G.V.Ph.Hêghen, lĩnh vực đạo đức hay từ của ông dùng là “thực thể đạo đức” bao gồm ba giai đoạn; giai đoạn thứ nhất là gia đình, giai đoạn thứ hai là xã hội công dân, giai đoạn thứ ba là nhà nước. Học thuyết về xã hội công dân là một trong những nội dung quan trọng nhất trong Triết học pháp quyền của Hêghen. Theo ông, “thực thể đạo đức”, là sự liên kết giữa cá nhân và xã hội, còn xã hội con người là sự thể hiện của “thực thể đạo đức”. Chính điều này đã thể hiện rõ nét chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen.
“Thực thể đạo đức” là giai đoạn cao nhất trong sự phát triển của tinh thần khách quan. Trong giai đoạn này đã có sự thống nhất giữa con người và xã hội.
Nếu trước đây, trong các học thuyết của Xpinôda, Hốpxơ và của những nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, cá nhân đã được chọn làm điểm xuất phát cho quan niệm của các ông về xã hội, nghĩa là xã hội là cái thứ hai được sinh ra từ cá nhân, thì ngược lại, đến Hêghen, ông đã nêu ra quan điểm đúng đắn khi coi xã hội chứ không phải là cá nhân là cái khởi đầu. Đồng thời, Hêghen đã xem xét những hình thức khác nhau của đời sống xã hội là gia đình, xã hội công dân và nhà nước.
Khái niệm xã hội công dân
Hêghen đã xác định xã hội công dân như là sự tổng hợp những điều kiện vật chất của đời sống xã hội, là hệ thống những nhu cầu dựa trên chế độ tư hữu, là những quan hệ tài sản, pháp luật và đẳng cấp. Về điều này, C.Mác cho rằng, theo cách của người Anh và người Pháp thế kỷ XVIII, Hêghen đã gộp toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất lại và gọi chung là xã hội công dân. Hêghen nói, “xã hội công dân là mối liên hệ giữa các thành viên với tư cách là cái riêng độc lập trong tính chung hình thức, là một liên hệ thông qua nhu cầu của các thành viên đó, thông qua các thiết chế pháp luật là phương tiện bảo vệ cá nhân và sở hữu”. Đồng thời, ông coi xã hội công dân là lĩnh vực những điều kiện sinh hoạt vật chất, là sản phẩm có tính chất tự nhiên, trong đó các cá nhân ràng buộc với nhau thông qua những lợi ích vật chất ích kỷ.
Với quan niệm như vậy, Hêghen rút ra hai đặc điểm cơ bản của xã hội công dân:
Thứ nhất, trong xã hội công dân từng cá nhân cụ thể là mục đích của chính mình, nghĩa là hoạt động của nó nhằm vào việc đáp ứng những nhu cầu riêng tư.
Thứ hai, từng cá nhân cụ thể chỉ có thể đáp ứng được mục đích của mình thông qua quan hệ với những cá nhân khác.
Như vậy, trong xã hội công dân, những người khác chỉ là phương tiện để từng cá nhân cụ thể đạt được mục đích riêng của mình. Hêghen cho rằng, “Trong xã hội công dân, mỗi người đều là mục đích đối với mình, mọi người khác thực chất là hư vô đối với nó. Nhưng nó không thể đạt được cống số các mục đích của mình nếu thiếu quan hệ với người khác. Do vậy, những người này thực chất chỉ là phương tiện cho mục đích riêng. Nhưng mục đích riêng cũng đem lại cho nó hình thức của cái chung và tự đáp ứng thông qua quan hệ với những mục đích khác, nhờ đó mà nó cũng đồng thời đáp ứng những lợi ích của người khác” (2).
Như vậy, xã hội công dân là lĩnh vực để thực hiện những mục đích riêng của các cá nhân, còn những người khác chỉ có ý nghĩa như là phương tiện để cá nhân đạt được mục đích đó. Theo đó, mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng được thiết lập và xuyên suốt toàn bộ đời sống của xã hội công dân. Trong hoạt động của mỗi cá nhân riêng biệt, khi đáp ứng mục đích của mình, thì đồng thời nó cũng đáp ứng mục đích của những người khác và bằng cách đó, những cá nhân này cũng góp phần thực hiện lợi ích chung. Ngoài ra, Hêghen còn xác định những mối quan hệ khác giữa các thành viên của xã hội công dân. Trong xã hội công dân, mục đích riêng của cá nhân và mục đích chung của mọi người có sự độc lập với nhau, nhưng giữa chúng vẫn có môi liên hệ hữu cơ. Một mặt, Hêghen coi xã hội công dân như là kết quả của “sự mở rộng” các gia đình; mặt khác, ông nhấn mạnh tư tưởng cho rằng sự phát triển của xã hội công dân muộn hơn so với sự phát triển của nhà nước. Theo ông, các yếu tố và đặc điểm của xã hội công dân cũng chính là của xã hội tư sản dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự cạnh tranh tự do, “xã hội công dân chỉ được tạo ra trong thế giới hiện đại” (3). Hơn nữa, Hêghen coi sở hữu tư nhân là điều kiện cần thiết cho sự ra đời và phát triển của xã hội công dân cũng như của tự do cá nhân. Ở đây, ông đã thần bí hoá và coi quy luật giá trị của xã hội tư sản là “ánh hào quang của lý tình”, là sự thể hiện của “thực thể đạo đức” trong xã hội công dân.
Dưới góc độ triết học xã hội, Hêghen đã nêu lên được những mối quan hệ kinh tế tư sản, cũng như sự hình thành và bảo đảm chúng bằng pháp luật trong xã hội công dân. Khi xây dựng hệ thống triết học của mình trên cơ sở duy tâm khách quan, Hêghen đã mô tả xã hội công dân theo sơ đồ tam đoạn thức. Cụ thể là nó được tạo ra bởi 3 yếu tố sau:
Thứ nhất, hệ thống những nhu cầu được hiểu như là tính gián tiếp của nhu cầu và sự thoả mãn nhu cầu của cá nhân thông qua hoạt động của nó. Chính nhờ đó mà nó cũng thoả mãn nhu cầu của những người khác nữa.
Thứ hai, hệ thống pháp luật nhằm bảo hộ cho tự do và quyền sở hữu cá nhân.
Thứ ba, cảnh sát và các tổ chức đoàn thể không chỉ giải quyết nhiệm vụ pháp luật, mà còn thực hiện ở những phương diện khác nữa.
Từ quan niệm trên đây của Hêghen về xã hội công dân, có thể nhận thấy rằng, các yếu tố của xã hội công dân cũng chính là các yếu tố cơ bản của xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự cạnh tranh tự do. Xã hội đó không phải là cái gì khác, mà chính là xã hội tư sản. Ở đây, Hêghen đã nhận thấy một cách sâu sắc sự xuất hiện của xã hội công dân trong thời đại chủ nghĩa tư bản, ở những nước tư bản.
Khi khẳng định tính hợp pháp của những mối quan hệ kinh tế được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất của xã hội công dân, Hêghen đã đối lập lại với triết học xã hội của Platôn và với những nhà tư tưởng phản động của chế độ phong kiến. Ông đã phê phán tư tưởng chống lại sở hữu tư nhân, chủ nghĩa bình quân cũng như khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của J.Rút xô. Ngoài ra, quan niệm của Hêghen về xã hội công dân cũng chống lại học thuyết của Phích tơ về “Nhà nước thương mại đóng kín”.
Những mối quan hệ kinh tế của xã hội công dân
Trong học thuyết về xã hội công dân, Hêghen đã đề cập đến những vấn đề có liên quan đến lĩnh vực đời sống kinh tế, cũng như những vấn đề thuộc về pháp luật. Đặc biệt, ông đã đi sâu nghiên cứu những điều kiện sinh hoạt vật chất, trước hết là những mối quan hệ kinh tế của xã hội công dân. Khi trình bày quan niệm về xã hội công dân, Hêghen đã nghiên cứu luận điểm có tính chất đặt nền tảng không phải theo lối suy diễn trừu tượng, mà trực tiếp từ kinh tế chính trị học.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh tế chính trị học, Hêghen đã rút ra kết luận rằng, trong xã hội công dân mỗi người đều là mục đích đối với mình, còn những người khác thực chất chỉ là phương tiện cho mục đích riêng. Nhưng nhờ có mối quan hệ với những người khác mà việc thực hiện mục đích riêng mang một hình thức chung, vừa thoả mãn nhu cầu của cá nhân, vừa thoả mãn quyền lợi của những người khác.
Mặc dù xác định xã hội công dân là sự tổng hợp những điều kiện vật chất của đời sống xã hội và coi hệ thống những mối quan hệ kinh tế - xã hội là xã hội công dân, song với lập trường duy tâm, Hêghen đã giải thích sự tổng hợp những mối quan hệ kinh tế như là hệ thống những mối quan hệ đạo đức giữa các cá nhân và xã hội. Tương tự như vậy, kinh tế chính trị học được ông hiểu như là khoa học về những quy luật kinh tế của xã hội công dân, mà ở một mức độ nào đó nó mang hình thức đạo đức ở đây Hêghen không coi những cái gì có liên quan đến hệ thống của những mối quan hệ kinh tế như là hệ thống của những mối quan hệ sản xuất; ngược lại, ông xem chúng như hệ thống của những nhu cầu, như sự thoả mãn những nhu cầu của con người. Hệ thống này được Hêghen xây dựng trên cơ sở “sự gắn kết một cách toàn diện của sự phụ thuộc tất cả vào tất cả”.
Có thể nói, hoạt động sản xuất của con người được Hêghen xem là cái thứ hai đối với nhu cầu của con người. Hơn nữa, ông cũng xem xét tính chất của lao động và phân công lao động trong sự phụ thuộc vào tính chất và phân loại của những nhu cầu. Tuy nhiên, Hêghen đã nhận thấy đặc trưng nhu cầu của con người trong tiến trình của vụ phát triển xã hội, cho rằng trong tiến trình đó thì những nhu cầu của con người ngày càng phát triển. Theo ông, ý kiến xã hội cũng tham gia vào việc hình thành những nhu cầu của con người ở một mức độ đáng kể. Thêm vào đó, Hêghen còn đề cập tới các phương tiện nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người, làm cho những nhu cầu đó ngày càng phong phú thêm và trở nên sâu sắc hơn. Cuối cùng, những nhu cầu đó trở thành những mục đích của con người và khiến việc thoả mãn chúng trở thành không có giới hạn. Đối với Hêghen, sự phát triển của những nhu cầu con người và những phương tiện thoả mãn chúng là sự biểu hiện đặc trưng của “tính phổ biến” tinh thần vốn có của con người ở trình độ cao hơn nhiều so với nhu cầu hạn chế của động vật. Theo ông, đó chính là sự biểu hiện văn hoá của con người. Hêghen, một mặt, quan niệm văn hoá, theo nghĩa rộng, là sự hình thành tồn tại người; mặt khác, giải thích văn hoá như là yếu tố nội tại của các tuyệt đôi có giá trị vô tận. Hơn nữa, đối với ông, văn hoá trong sự xác định tuyệt đôi của nó là sự giải phóng và hoạt động giải phóng cao nhất của cái tuyệt đôi để đạt đến cái hình ảnh chung của tinh thần, của thực thể đạo đức. Có thể nới, Hêghen đã xem xét sự phát triển của văn hoá như là mục đích có xu hướng của lý tính (4). Như vậy, hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hêghen về sự phát triển văn hoá bị bao trùm bởi cái vỏ thần bí duy tâm. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, ý nghĩa hợp lý trong quan niệm trên đây của ông về văn hoá phù hợp với sự giải thích về văn hoá trong triết học Khai sáng. Cùng với nền triết học này, nó đã chống lại mọi chính sách ngu dân và chế độ gia trưởng.
Như đã nêu trên, tính chất của những nhu cầu và sự thoả mãn chúng là yếu tố đầu tiên trong tam đoạn thức về “hệ thống nhu cầu”, còn tính chất “lao động” được coi là yếu tố thứ hai của hệ thống này. Cũng cần phải nhấn mạnh là, Hêghen đã xem xét sự phát triển của văn hoá gắn liền một cách chặt chẽ với hoạt động lao động và sự tiến bộ của nó. Ông đã từng chỉ ra rằng, thông qua lao động, mỗi con người trong nhu cầu của mình có mối quan hệ chủ yếu với nhũng sản phẩm của những con người khác. Chính lao động đã phân loại một cách trực tiếp vật liệu tự nhiên để đáp ứng những nhu cầu đa dạng này. Hêghen cho rằng, nếu “văn hoá lý luận” được phát triển trên cơ sở sự phong phú của những đối tượng được con người quan tâm, thì “văn hoá thực tiễn” xuất hiện ngay trong quá trình lao động. Văn hoá này được thể hiện qua những kỹ năng nghề nghiệp và trình độ tay nghề cao, cũng như qua thói quen và nhu cầu lao động. Đồng thời, ông đã chỉ ra vai trò quan trọng của sự phân công lao động đối với việc nâng cao năng suất lao động và tăng cường sự khéo léo của người lao động. Ở đây, Hêghen đã nhận thấy “việc phân công lao động sẽ làm cho lao động có tính chất cơ học hơn”(5), nhờ đó mà nó chuẩn bị điều kiện để thay thế lao động cơ học bằng máy móc.
Yếu tố cuối cùng trong tam đoạn thức của “hệ thống nhu cầu” của là tài sản. Theo Hêghen, tài sản công cộng được tạo ra bằng sự lao động tổng hợp, bằng sự sáng tạo và những khả năng thực tiễn của mỗi người. Ngoài ra, ông còn xem xét vấn đề phân phối tài sản công cộng giữa những thành viên của xã hội công dân và sự phân chia chúng theo đẳng cấp. Điểm chủ yếu của những điều khoản về tài sản là cơ sở lý tính cao nhất của sự bất bình đẳng giữa các thành viên của xã hội công dân. Theo Hêghen, tính khách quan của pháp luật trong ý niệm không những không gạt bỏ sự bất bình đẳng của con người trong xã hội công dân, mà còn làm cho sự bất bình đẳng này được thiết lập một cách tự nhiên, được nảy sinh ra từ tinh thần. Còn đối với Rút xô và những người kế tục ông thì yêu cầu của sự bình đẳng trong lĩnh vực tài sản là điều hợp lý, hiển nhiên. Tuy nhiên, Hêghen đã coi yêu cầu trên của Rút xô như là tính chất của lý tính trống rỗng không thể thực hiện được. Ông nhận thức lao động công ích xã hội của các cá nhân chỉ diễn ra trong phạm vi xác định đẳng cấp này hay đẳng cấp khác. Hêghen viết, “con người cần phải trở thành một cái gì đó, chúng ta phải hiểu ngầm rằng, con người cần phải thuộc về một đẳng cấp nhất định… Còn con người không có đẳng cấp chỉ là bộ mặt riêng biệt mà nó không có ở trong tính phổ biến hiện thực” (6). Ở đây, Hêghen đã lập luận về mặt triết học cho cấu trúc đẳng cấp của xã hội công dân mà nước Phổ là một điển hình.
Cơ cấu đẳng cấp của xã hội công dân
Trong quan niệm của Hêghen, một mặt, đẳng cấp như là đẳng cấp thực thể hay đẳng cấp trực tiếp; mặt khác, như là đẳng cấp phản ánh hay đẳng cấp hình thức và cuối cùng, như là đẳng cấp chung. Tam đoạn thức của ông về đẳng cấp hoàn toàn có tính chất kinh nghiệm. Nó được thể hiện khi ông tái tạo lại đẳng cấp của xã hội Phổ dưới những tên gọi triết học. Vì vậy, tam đoạn thức này là một bước lùi so với những tư tưởng triết học và kinh tế chính trị thế kỷ XVIII về cơ cấu giai cấp của xã hội đương thời. Theo Hêghen, trong xã hội công dân tồn tại ba đẳng cấp khác nhau: đẳng cấp thực thể, đẳng cấp công nghiệp và đẳng cấp chung. Ông coi đẳng cấp thực thể là chủ điền, đẳng cấp công nghiệp là thợ thủ công, chủ xưởng, còn đẳng cấp chung là những người bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Hêghen cho rằng, ruộng đất, đất đai tự nhiên là của đẳng cấp thực thể, hơn nữa nó thuộc về sở hữu tư nhân. Ông xác định loại đẳng cấp này là chủ điền, nhưng lại không nói đến sự phân chia thành giai cấp địa chủ và nông dân, cũng như sự đối kháng giữa các giai cấp này; đồng thời ám chỉ giai cấp nông dân như một bộ phận của đẳng cấp thực thể.
Hêghen có tham vọng xóa bỏ những mâu thuẫn giai cấp khi nêu lên đẳng cấp công nghiệp và đưa sự phân loại nghề nghiệp lên vị trí hàng đầu, coi công việc của đẳng cấp công nghiệp là tạo nên những sản phẩm từ tự nhiên thông qua lao động và nhu cầu của những người khác. Ngoài ra, ông còn phân loại những cá nhân thuộc đẳng cấp này thành những người sản xuất thủ công, sản xuất trong xí nghiệp và lĩnh vực thương mại. Ở đây, Hêghen đã chú ý đến đẳng cấp công nghiệp như là giai cấp tư sản với vai trò lãnh đạo trong hoạt động kinh tế cũng như trong tính tích cực chính trị - xã hội của nó; đồng thời chỉ ra sự tiến bộ đã đạt được trong việc đảm bảo về mặt pháp luật đối với tự do cá nhân và chế độ tư hữu. Cùng với việc đặt ra những nhiệm vụ nhất định cho sự tiến bộ hơn nữa trong lĩnh vực này, ông thừa nhận đẳng cấp công nghiệp là trụ cột của xã hội công dân, thấy được ưu thế của xã hội công dân là chế độ tư hữu và tự do cá nhân trong xã hội đó được pháp luật đảm bảo. Đồng thời, các thành viên của xã hội công dân có quyền tìm kiếm toà án cho mình mà không phải lo sợ toà án không công bằng như trong thời kỳ chuyên chế phong kiến. Gạt bỏ một cách kiên quyết sự biểu hiện thô bạo bằng bạo lực trong việc xét xử, sự đàn áp tự do và chuyên chế, Hêghen đã tuyên bố sự công bằng là một điều vĩ đại trong xã hội công dân. Hơn nữa, ông còn đưa ra cơ sở triết học cho sự công bằng của các công dân trước pháp luật, cho việc công bố mọi đạo luật cho việc thực hiện chúng phù hợp với những yêu cầu của tự do, của việc công khai thủ tục tố tụng, cho việc thi hành án một cách nghiêm túc, phù hợp với những hoạt động của cảnh sát và nhiệm vụ ủng hộ pháp luật. Theo Hêghen, cần phải loại bỏ những biểu hiện xấu xa do sự chuyên quyền và bất hợp pháp của cá nhân ra khỏi những hoạt động này. Có thể nói rằng, ngoài những hạn chế do lập trường tư sản của Hêghen về phương diện pháp luật của xã hội công dân, thì những quan điểm trên của ông là có tính chất tiến bộ và ở trong một phạm vi nhất định, chúng đã thể hiện những nguyên tắc dân chủ xã hội.
Biện chứng của xã hội công dân
Hêghen đã từng đi sâu vào việc xem xét phương diện kinh tế của những mối quan hệ tư bản chủ nghĩa, nhưng ông không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn vốn có của chúng. Ngược lại, Hêghen nhận thấy rằng, “chừng nào xã hội công dân tác động một cách thuận lợi” thì trong xã hội đó công nghiệp sẽ phát triển và của cải xã hội tăng nhanh; đồng thời, trong điều kiện đó, một bộ phận đáng kể quần chúng lao động lại nghèo đi. Từ đó, ông đưa ra kết luận: “Trong điều kiện của cải dư thừa, thì xã hội công dân lại không đủ của cải, nghĩa là không có đủ tài sản riêng để đấu tranh với sự nghèo nàn quá mức và sự xuất hiện của những người dân đen” (7). Kết luận đó là sự thể hiện theo một cách mới luận điểm nổi tiếng của Rútxô về sự phân cực của cải và sự nghèo khổ tuỳ theo sự tiến bộ xã hội. Cần lưu ý là, ông đã nói về những người giàu và những người nghèo trong xã hội hiện đại như là “các giai cấp” khi sử dụng thuật ngữ này để nhận thức cấu trúc xã hội hiện tồn.
Cấu trúc này không thể được xác định một cách phù hợp nếu dựa vào thuật ngữ “đẳng cấp”. Điều quan trọng là, Hêghen đã nhận thấy “giai cấp nghèo không” không có khả năng “cảm giác và tận hưởng. . . tự do, đặc biệt là những ưu thế tinh thần của xã hội công dân” và mức sống thấp của giai cấp này đã làm họ mất “cảm giác về pháp luật, tính hợp pháp và niềm danh dự tồn tại nhờ hoạt động sở hữư” (8).
Tuy nhiên, những hiểu biết của Hêghen về những gì mà chính ông gọi là “phép biện chứng của xã hội công dân” là rất hạn chế. Hêghen đã nhận thấy được những mâu thuẫn chủ yếu của xã hội công dân, nhưng ông không những không nhận thấy sự đối lập với những yêu cầu của phép biện chứng, mà còn gạt bỏ một cách có ý thức con đường giải quyết chúng một cách biện chứng, nghĩa là bằng cách mạng xã hội. Khi gọi quần chúng lao động nghèo khổ một cách khinh miệt là “dân đen”, ông đã gán cho thuật ngữ này mối quan hệ phủ định đối với giai cấp vô sản. Hêghen viết: “Chỉ có tâm trạng hướng về sự nghèo khổ, sự căm phẫn bên trong chống lại những người giàu có, xã hội, chính phủ… đã tạo thành dân đen”(9). Đồng thời, ông đã gạt bỏ một cách kiên quyết sự lựa chọn chế độ xã hội chủ nghĩa khi so sánh với chủ nghĩa tư bản và tuyên bố rằng việc trao cho người nghèo số phận của họ, ban cho họ khả năng kiếm kế sinh nhai là phương tiện hữu hiệu nhất để chống lại sự nghèo nàn. Tuy nhiên, theo Hêghen, xã hội công dân có thể giúp đỡ những người nghèo bằng con đường phát triển thương mại với nước ngoài. Thông qua việc khuyến khích sản xuất trong nước, con đường này sẽ đưa lại cho họ việc làm, đồng thời cho phép họ có điều kiện ra nước ngoài. Như vậy, thay vì tìm cách giải quyết những mâu thuẫn của xã hội công dân ở bên trong xã hội, Hêghen lại tìm phương thức giải quyết mâu thuẫn đó ở bên ngoài xã hội công dân. Hơn nữa, ông còn ủng hộ chính sách xâm lược các nước khác làm thuộc địa của giai cấp tư sản. Như chúng ta đều biết, các nhà tư tưởng và triết học trước C.Mác đã đưa ra và phân tích cơ sở, điều kiện tồn tại và bản chất của xã hội công dân. Nhưng cũng phải khẳng định rằng, sự phân biệt xã hội công dân với nhà nước đã được Hêghen thực hiện đầy đủ và sâu sắc nhất trong Triết học pháp quyền của ông. Có thể nói, trong lịch sử triết học trước Mác, Hêghen là nhà triết học đầu tiên nghiên cứu đầy đủ nhất mối quan hệ biện chứng giữa xã hội công dân và nhà nước. Theo ông, cơ sở của sự phân biệt xã hội công dân với nhà nước là quan niệm về xã hội và nhà nước như là các hiện tượng khác nhau có những đặc điểm riêng. Trong quá trình nghiên cứu vấn đề này, Hêghen đã chịu ảnh hưởng và có sự kế thừa những tư tưởng của các bậc tiền bối, đặc biệt là Platôn, Arixtốt, Rút xô, Phích tơ…
Hêghen cho rằng, gia đình, xã hội công dân và nhà nước là những giai đoạn trong sự phát triển của “thực thể đạo đức”. Ở đây, ông đã coi nhà nước là mục đích tự thân, là cái hợp lý tự nó và cho nó, trong đó nhà nước tự do đạt tới pháp luật tối cao phù hợp với nó. Ngược lại với quan niệm của triết học Khai sáng Pháp coi nhà nước phải phục vụ lợi ích của cá nhân, Hêghen cho rằng nhà nước có ý nghĩa tuyệt đối bậc nhất đối với lợi ích của từng cá nhân cụ thể, nó là sự thực hiện tự do đích thực trong thế giới. Theo Hêghen, nhà nước thể hiện sự thống nhất của cái cá biệt và cái chung. Ở đây, cái chung hay ý chí chung thể hiện ở pháp luật và các thiết chế của nhà nước, còn cái cá biệt hay ý chí riêng là hình thức biểu hiện của ý chí chung. Ngoài ra, ông không chỉ tuyên bố nhà nước là sự thực hiện tự do, mà còn là sự chu du của Thượng đế trong thế giới. Vì vậy, khái niệm nhà nước của Hêghen không chỉ mang tính chất duy tâm, mà còn có tính chất thần thánh nữa.
Trong mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước, Hêghen thừa nhận sự phụ thuộc của xã hội công dân vào nhà nước, còn nhà nước được ông coi là hình thức chân chính và cao nhất của thực thể đạo đức, của đời sống xã hội. Theo ông, với tư cách là sự thống nhất của những cá nhân khác nhau, cộng đồng người không phải là nhà nước, mà là xã hội công dân. Đồng thời, Hêghen coi hệ thống những mối quan hệ kinh tế xã hội là xã hội công dân nhằm để phân biệt với nhà nước là tổ chức chính trị của xã hội. Để phân biệt sự khác nhau giữa xã hội công dân và nhà nước, Hêghen đã xuất phát từ sự tách rời giữa lĩnh vực tư nhân với lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của ông là khắc phục sự tách rời đó trong sự thống nhất tối cao của nhà nước. Như vậy, tính chất duy tâm và thần bí trong quan niệm của Hêghen về nhà nước là quá rõ ràng, nhưng khi đề cập đến mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước thì ông cũng đã thể hiện được nhiều tư tưởng hợp lý và quý giá. “Hêghen là người đầu tiên đã phân tích các khái niệm này từ góc độ quan hệ biện chứng của chúng. Đóng góp của ông không phải là ở chỗ phân định rõ các khái niệm “xã hội” và “nhà nước” mà còn làm sáng tỏ mối liên hệ qua lại và sự tương tác giữa các thành viên xã hội công dân với tư cách là người sản xuất và những người tiêu dùng. Việc Hêghen phê phán chế độ phong kiến và phân tích các mâu thuẫn của xã hội công dân có một ý nghĩa to lớn”(l0). Tuy nhiên điều cần lưu ý là khi phân tích một quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước theo nhiều cách tiếp cận khác nhau, thì bản thân ông lại rơi vào vòng mâu thuẫn không triệt để. Trong Triết học pháp quyền, nếu căn cứ vào cấu trúc thì Hêghen nghiên cứu xã hội công dân như là giai đoạn trước nhà nước. Điều này phần nào thể hiện tư tưởng của ông coi xã hội công dân là cái tồn tại có trước nhà nước. Đồng thời, khi phân tích một nhà nước hiện thực cụ thể thì nội dung tư tưởng của Hêghen cũng thể hiện xã hội công dân như là cơ sở của nhà nước.
Mặc dù vậy, khi coi nhà nước là giai đoạn phát triển cao nhất của thực thể đạo đức so với gia đình và xã hội công dân, Hêghen đã đặt nhà nước đứng trên nấc thang phát triển cao hơn so với xã hội công dân và xã hội công dân hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nước. Hơn nữa, ông đã phân biệt nhà nước hiện thực với nhà nước lý tưởng và cho rằng nhà nước hiện thực có thể xấu xa, còn nhà nước lý tưởng là tốt đẹp, bởi nó là “Thượng đế hiện thực”.
Với cách tiếp cận như vậy, Hêghen đã đứng trên cơ sở của chủ nghĩa duy tâm khách quan, thần bí để xem xét mối quan hệ giữa xã hội công dân với nhà nước. Từ đó, ông khẳng định rằng nhà nước là cơ sở đích thực của xã hội công dân, còn sự phát triển của xã hội công dân diễn ra sau sự phát triển của nhà nước; rằng, nhà nước trong hiện thực nói chung là cái thứ nhất mà chỉ trong phạm vi ấy thì gia đình mới phát triển thành xã hội công dân (11). Khi đề cập đến tư tưởng của Hêghen về mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước, C Mác viết: “Gia đình và xã hội công dân được Hêghen coi là những lĩnh vực của khái niệm nhà nước, là tính hữu hạn của nhà nước. Đó là cái nhà nước đang phân chia bản thân thành những lĩnh vực ấy, lấy những lĩnh vực ấy làm tiền đề và nhà nước làm việc đó chính là “để từ ý tưởng của hai lĩnh vực ấy trở thành tinh thần hiện thực vô hạn của mình” (12). Ở đây, mối quan hệ hiện thực giữa xã hội công dân và nhà nước đã bị đảo ngược. Đồng thời, C.Mác cũng phê phán quan niệm của Hêghen coi nhà nước như là cơ sở và động lực của xã hội công dân hoặc coi nhà nước đứng trên chế độ tư hữu. Theo C.Mác, chế độ nhà nước trên thực tế là chế độ nhà nước của sở hữu tư nhân, còn biện chứng của quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước thể hiện ở chỗ, xã hội công dân đã sinh ra nhà nước, nhà nước là kết quả phát triển lịch sử của gia đình và của xã hội công dân. Nhà nước nói chung không thể tồn tại nếu thiếu sự tồn tại của gia đình và xã hội công dân. Chính sự phân tích một cách biện chứng duy vật mối quan hệ hiện thực của xã hội công dân và nhà nước như trên có ý nghĩa quyết định đối với C Mác trong việc xây dựng học thuyết duy vật lịch sử về nhà nước sau này.
Có thể khẳng định rằng, quan niệm của Hêghen về xã hội công dân đòi hỏi chúng ta phải có sự đánh giá một cách lịch sử cụ thể. Quan niệm về xã hội công dân của Hêghen nói riêng và triết học của ông nới chung có tính chất mâu thuẫn. Ông đã từng đoạn tuyệt với những tư tưởng Khai sáng về sự hài hoà tập thể trong lĩnh vực những mối quan hệ kinh tế, đồng thời phê phán những lý tưởng tương tự của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Có thể nói, ở đây Hêghen đã đi một bước lùi so với các bậc tiền bối, như Cantơ, Phích tơ và Sêlinh. Hơn nữa, khi chỉ ra sự thất bại hoàn toàn của những dự định nhằm thực hiện những lý tưởng trên đây ông đã không nhìn thấy được viễn cảnh để thực hiện chúng trong tương lai. Bởi vì, để thực hiện điều này, chúng cần phải có cơ sở khoa học, mà điều này thì ở Hêghen còn thiếu. Những mối quan hệ tư sản tiến bộ về mặt lịch sử đã được phát triển trong lòng của xã hội Đức, vì vậy mà nó đã đoạn tuyệt một cách sâu sắc với chế độ phong kiến. Chính trong hoàn cảnh đó, Hêghen đã có những đánh giá sáng suốt và ủng hộ sự phát triển hơn nữa của các mối quan hệ tư sản, mà sự phát triển này hoàn toàn không bị ràng buộc bởi nhà nước phong kiến chuyên chế. Đồng thời, cách luận chứng của ông về pháp luật là sự kế tục trực tiếp những tư tưởng trong triết học Cổ điển Đức và những khuynh hướng tương tự về mặt nguyên tắc của phái Khai sáng.
(1) G.V .Ph.Hêghen. Toàn tập t.VII. Nxb Kinh tế - xã hội. Mátxcơva, 1934, tr.189.
(2) G.V.Ph.Hêghen. Sđd., t.VII., tr. 211.
(3) G.V.Ph.Hêghen. Sđd., t.VII., tr. 211.
(4) G.V.Ph.Hêghen. Sđd., t.VII., tr. 215.
(5) G.V.Ph.Hêghen. Sđd.. t.VII., tr. 223.
(6) G.V.Ph.Hêghen. Sđd., t.VII., tr. 229.
(7) G.V.Ph.Hêghen. Sđd., t.VII., tr. 254.
(8) G.V.Ph.Hêghen. Sđd.. t.VII., tr. 255.
(9) G.V.Ph.Hêghen. Sđd.. t.VII., tr. 254, 225.
(l0) Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp. Triết học pháp quyền của Hêghen. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. tr. 146.
(11) G.V.Ph.Hêghen. Sđd., t.VII., tr. 262.
(12) C.Mác và Ph.ăng ghen. Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 312 - 313.