Thứ Hai, 13 tháng 7, 2009

Ngô Kha và Cuộc chuyện trò cuối năm

Ngô Kha và Cuộc chuyện trò cuối năm – Phần 1
LTS:

Bài viết dưới đây, “Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm,” kể lại nội dung “bức thư” của Ngô Kha viết ngày 28.01.1973 trong căn nhà của bà dì tác giả Chu Sơn ở An Cựu trên những tờ giấy gói trà hiệu Tam Hỷ và bao hương (nhang). Theo lời tác giả, bức thư viết trên những tờ giấy gói trà này đã bị tịch thu (và do đó không còn có thể truy lục) cùng với tập thơ Ngụ ngôn của Người Đãng Trí của Ngô Kha khi ông (Chu Sơn) bị bắt vào năm 1974 tại Sài Gòn. Như vậy, nội dung bức thư của Ngô Kha hoàn toàn dựa trên ký ức của Chu Sơn như ông tuyên bố trong bài viết: Nay tôi chép lại theo ký ức nội dung bức thư đặc biệt mà ngay từ lần đọc đầu tiên (tôi đã đọc bức thư nhiều lần) tôi đã mường tượng như một lời trăn trối.

Bài viết, mà phần chủ yếu là bức thư của Ngô Kha gởi Chu Sơn, trình bày một cách khá chi tiết về suy nghĩ của nhà thơ này trước thời cuộc và cách thế ứng xử của ông trong một giai đoạn quan yếu của chiến tranh Việt Nam. Ngoài ra, còn có phần đóng góp của chính tác giả Chu Sơn về một số vấn đề, đặc biệt những nghi án liên quan đến cái chết của Ngô Kha sau lần ông bị bắt vào ngày 30.01.1973.

Cũng như bài viết “Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị” của Trịnh Cung trước đây, “Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm” nhất định sẽ nhận được một số phản hồi đáng kể từ những người đồng ý hoặc không đồng ý với những điều được chuyên chở bởi nội dung bài viết.

Việc đăng tải “Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm” của Chu Sơn đến từ ước muốn của tạp chí Da Màu kiến tạo một cơ hội cho quý độc giả xem xét, phân tích, và đóng góp vào cái nhìn của một cá nhân hoặc phe nhóm, một phiên bản lịch sử cá nhân, về một giai đoạn lịch sử cận đại. Ở đây, Ban biên tập tạp chí Da Màu trông cậy rất nhiều vào hai điều: 1. Độ bền và sự khả tín của “bộ nhớ” của tác giả Chu Sơn, điều mà chúng tôi không thể kiểm chứng và 2. Khả năng đọc giữa hai dòng chữ của quý độc giả thân mến, điều mà chúng tôi không hề nghi ngờ.

Trân trọng

BBT tạp chí Da Màu

Đôi dòng về nhà thơ Ngô Kha (theo Lê Minh Quốc)

"Ngô Kha sinh năm 1935 tại Huế, là bạn thân với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư phạm Huế (1958 – 1959) và sau đó đi dạy học. Anh cùng Trịnh Công Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San chủ trương tập san Tự quyết. Từ năm 1972, anh chủ trương tập san Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung do Thành ủy Huế chỉ đạo. Trong thời gian hoạt động phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, Ngô Kha đã bị chính quyền Sài Gòn bắt giam ba lần vào các năm 1966, 1971 và lần cuối cùng bị thủ tiêu bí mật sau Hiệp định Paris, 1973. Hiện nay, Ngô Kha đã được Nhà nước ta (Cộng sản VN) phong liệt sĩ. Hội Văn học Thừa Thiên – Huế đã xuất bản tập Thơ Ngô Kha – gồm 3 tập thơ của anh xuất bản trước 1975: Hoa cô độc, Ngụ ngôn của người đãng trí, Trường ca hòa bình.


Trích “Sự thật về lá thư Trịnh Công Sơn gửi Ngô Kha” của Lê Minh Quốc





Viết để tưởng nhớ Ngô Kha,
tưởng nhớ những người bạn đã nằm xuống,
đã tan tác, chia lìa…


Chu Sơn







PHẦN I:



Những ngày cuối năm 1972, anh Ngô Kha thường xuyên bị ám ảnh bởi những đeo bám, theo dõi, đe doạ của mạng lưới công an mật vụ ngày một siết chặt. Không giấu được vẻ hoảng sợ, hoang mang, anh thường xuyên đổi chỗ ở, ít về nhà, bớt đến những nơi hay lui tới.

Nơi tôi ghé đậu mỗi lần về Huế là một ngôi nhà vườn vắng vẻ hoang sơ ở An Cựu. Anh Kha đã từng lúc đến đây vào cái thời điểm căng thẳng ấy dù có tôi hay không. Bà dì tôi, người chủ cô quả của ngôi nhà, quí mến che chở cho anh như một bà mẹ đối với con mình. Bà thường nói:

- Tội nghiệp quá, ông giáo hà cớ gì mà phải lận đận như rứa. Như người ta thì vợ đẹp, con khôn, gia đình rân rác đề huề sung sướng.

Nói thì nói vậy chứ trong lòng dì tôi cũng như nhiều bà mẹ Huế khác có cùng tâm cảnh đâu có mơ hồ gì về cái lí do khiến anh Kha và nhiều thế hệ tuổi trẻ kế tiếp nhau đi vào chốn lao lung. Chừng năm ngày sau Tết dương lịch, tôi về Huế và gặp anh Kha đã nằm dài ở đó mấy ngày. Tôi ái ngại nhìn anh Kha mặt mày xanh xao hốc hác, tóc dài, râu không cạo lởm chởm xanh đen. Trông anh mệt mỏi bồn chồn, dao động. Căn phòng bà dì dành cho chúng tôi bề bộn tàn, bao thuốc lá và sách báo. Đêm hôm ấy tôi là kẻ nói nhiều. Tôi có nhiều thông tin cần san sẻ. Tôi cũng có nhiều điều cần hỏi han anh. Cuộc chiến đang chuyển động theo một chiều hướng đặc biệt phức tạp. Cả hai bên đang cố giành giựt chừng nào hay chừng ấy lãnh thổ, đất đai và quần chúng trước khi có một kí kết gì đó ở bàn hội nghị. Cả hai bên cùng ráo riết thuyết phục, níu kéo, ve vãn, phỉnh phờ các phe nhóm chính trị, tôn giáo về phía mình để giành thế mạnh tại một chính phủ liên hợp ba thành phần sẽ được khai sinh sau khi hiệp định hoà bình được công bố và có hiệu lực. Mãi cho đến khuya anh Kha mới lên tiếng:

“— Bọn Liên Thành sau nhiều lần bắn tiếng, gần đây chúng còn cho tay chân về nhà gặp mẹ mình, chặn mình giữa đường bảo là chúng sẽ không nương tay nếu mình cứ tiếp tục hành xử như trước đây. Mình biết chúng không doạ suông. Chiến tranh chưa kết thúc, bạo lực và tội ác sẽ tràn lan cho dù một hiệp định hoà bình sắp được kí kết giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn. Có được bài học từ hiệp định Genève, Hà Nội đã vượt thoát trong những mức độ căn bản trước các áp lực của Trung Quốc, Liên Xô và đã dành được thế chủ động trong các mưu lược, bản lĩnh tiến hành chiến tranh và kiến tạo hoà bình. Không còn một hội nghị được gọi: lập lại hoà bình, thực tế là những mặc cả, thoả hiệp, dàn xếp trên những mưu cầu mờ ám trước mắt cũng như lâu dài trong bối cảnh tương quan lực lượng của các nước lớn núp dưới chiêu bài có tên gọi: hai thế giới, hai phe Cọng sản và Tự do như hồi năm 1954. Ở Paris từ mấy năm nay một cuộc chiến tranh ngoại giao vừa công khai vừa bí mật đã diễn ra song song với cuộc chiến tranh ác liệt trên chiến trường chỉ với Mỹ và Việt Nam.

“Nói là hội nghị bốn bên, thực ra chỉ có hai phía.

“Phía bên này là đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cọng hoà và Cọng hoà miền Nam Việt Nam.

“Phía bên kia là chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam Cọng hoà.

“Đã đến lúc không cần phải giấu diếm, che đậy. Bởi ai cũng biết rõ về vai trò, vị trí và thực lực của các chính phủ Cọng hoà miền Nam Việt Nam, chính phủ Việt Nam Cọng hòa trước các con ác chủ bài là Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn.

“Từ lâu Mỹ và đồng minh của họ, bằng các phương tiện truyền thông đã không ngừng rêu rao về một cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai thế giới Cọng sản và Tự do. Một bộ phận không nhỏ người Việt Nam, kể cả moi cũng có lúc nghĩ tưởng như thế. Nhưng thực tế trên chiến trường cũng như trên bàn hội nghị ngày một sáng tỏ rằng đây chỉ là cuộc chiến tranh giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc Mỹ xâm lược. Cái được gọi là phe Xã Hội Chủ Nghĩa và phe Thế Giới Tự Do tuy không hoàn toàn là huyền thoại nhưng chắc chắn không phải cái cốt lõi của vấn đề. Hà Nội đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vừa đánh Mỹ vừa thoát khỏi o ép, ràng buộc của hai đồng minh đàn anh là Trung Quốc và Liên Xô mà thực tế trong những mức độ khác nhau đã có cậy nhờ. Người như ông Hồ Chí Minh dẫu có theo Cọng sản cũng chỉ vì mục tiêu cuối cùng là Độc lập Dân tộc chứ không phải đánh Tây đuổi Mỹ để rồi lệ thuộc ngoại bang nào khác dù là Nga hay là Tàu. Độc lập tất yếu gắn liền với Thống nhất, bởi nói như ông Hồ: Nước này là một, Dân tộc này là một. Miền Bắc hay miền Nam cũng chỉ là Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Cọng hoà từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu đều thoát thai từ cái chính phủ gọi là Quốc gia của ông vua bù nhìn Bảo Đại do thực dân Pháp đẻ ra và do đế quốc Mỹ dàn dựng, nuôi dưỡng sẽ sụp đổ tức thì khi Mỹ rút quân.

“Mỹ cút nguỵ nhào không chỉ là một khẩu hiệu của những người kháng chiến mà là một tất yếu.

“Chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị với Hà Nội có nghĩa là Mỹ đã thừa nhận chiêu bài chiến tranh ý thức hệ cáo chung.

“Chấp nhận đàm phán tay đôi với Hà Nội, bất chấp ý đồ, nguyện vọng của Nguyễn Văn Thiệu, vô hình chung Mỹ đã chấp nhận Hà Nội là đại diện duy nhất của nhân dân, đất nước Việt Nam, và đồng thời Mỹ đã nói giùm cho Hà Nội là không hề có một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc hoặc giữa Quốc gia và Cọng Sản. Hãy nhìn lại coi cái chính phủ gọi là quốc gia với Đức quốc trưởng Bảo Đại đã hình thành sau vở kịch Hạ Long (1948): Từ người đứng đầu là Bảo Đại cho đến tên lính thấp nhất đều do thực dân tuyển chọn, nuôi dạy, trả lương và sai khiến. Ngô Đình Diệm và tập đoàn của ông ta là ai? Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm và bầu đoàn thê tử của họ là ai? Chính cuộc đời của họ là câu trả lời cho các thế hệ mai sau cái chân tướng đích thực của họ. Pháp bị đo ván ở Điện Biên Phủ, chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc, sau lưng Pháp bại trận có đế quốc Mỹ giàu mạnh và hung hãn. Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai sắp đến hồi tàn cuộc. Sau lưng đoàn quân viễn chinh Mỹ bại hoại, rã rời, tơi tả, sau lưng bọn cầm quyền Mỹ lúng túng, dao động là đông đảo quần chúng Mỹ phẫn nộ, kêu đòi chấm dứt chiến tranh và nhân dân tiến bộ trên khắp các châu lục đồng loạt đấu tranh cho hoà bình. Mỹ phải rút quân thôi. Mỹ chấp nhận thua điểm để khỏi bị đo ván như người bạn đồng minh một thời mà họ đã chê bai, bêu riếu là kém cõi, hèn nhát. Mỹ sẽ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng quân đội miền Bắc sẽ ở lại cùng quân giải phóng, với chính phủ Cọng hoà miền Nam Việt Nam, với Mặt Trận Giải Phóng và với một phần không nhỏ nhân dân miền Nam. Bởi ở đâu cũng là đất nước Việt Nam. Đối với phần đông nhân dân Việt Nam và nhất là đối với người lãnh đạo kháng chiến, đảng Cọng sản Việt Nam: sẽ không có Hoà bình thực sự một khi Độc lập chưa được vãn hồi, Thống nhất chưa được thực hiện. Kinh nghiệm đắng cay sau năm 1954 chắc chắn là Hà Nội không thể nào quên. Chiến thắng Điện Biên Phủ quá ư lẫy lừng, oanh liệt mà hiệp định Genève rốt cũng chỉ là thời đoạn giải lao giữa hai hiệp đấu trên sân cỏ Đông Dương.

“Hiệp một giữa thực dân Pháp và Việt Nam.

“Hiệp hai giữa Việt Nam và đế quốc Mỹ.

“Cái dân tộc nghèo đói lạc hậu này trong một tình thế chẳng đặng đừng buộc phải chấp nhận một trận xa luân chiến với hai tên thực dân đế quốc sừng sỏ giàu mạnh vào bậc nhất địa cầu. Đối với moi hiệp định Paris sắp được ký kết chỉ là khoảnh khắc đá bù giờ ở cuối hiệp hai. Bây giờ trên sân cỏ Đông Dương về phía đội tuyển Mỹ chỉ còn lại những cầu thủ dự bị, chầu rìa bị bỏ rơi, hụt hẫng, hỗn loạn bởi các cầu thủ chính của cuộc đấu (quân đội Mỹ) đã rời sân. Cái thế tất thắng của đội banh có màu cờ sắc áo Việt Nam đã quá rõ ràng. Đấu tranh chính trị hay quần thảo quân sự kết cuộc cũng chỉ còn là vấn đề thời gian. Đế quốc Mỹ rút lui từ từ từng bước để khỏi nếm trải đắng cay nhục nhã như đồng minh của họ là thực dân Pháp thời Điện Biên Phủ. Cái được gọi là chính phủ ba thành phần ngang nhau mà cả hai phía đang chạy đua, nhào nặn, bơm thổi, níu kéo, mua chuộc dù chỉ là thời đoạn mánh lới chính trị, là thủ pháp tâm lý chỉ làm gia tăng tình trạng hoang tưởng của một số cá nhân, phe nhóm ngây thơ, cơ hội và tham vọng hảo huyền. Từ lâu bọn cầm quyền đã biết moi đã đi xa cái lằn mức của một cổ động viên nhiệt tình. Tuy nhiên bọn chúng không có chứng cớ để bắt bớ moi như một người kháng chiến thực thụ. Dụ hoặc, hù doạ không xong, vậy chúng sẽ làm gì moi đây? Một tình thế nguy hiểm, ác độc đang vây bủa moi ngày một chặt. Hội nghị bốn bên – hai phía, hoà bình với chính phủ liên hợp ở miền Nam, gồm ba thành phần chính trị ngang nhau … Thực chất chỉ là cuộc giằng co tay đôi giữa xâm lược và Dân tộc. Sau hơn một trăm năm chống xâm lăng với bao nhiêu xương máu đã đổ, bao nhiêu nước mắt đã chảy, bao nhiêu gia đình, dòng họ tan tác chia lìa, bao nhiêu triệu con người đã chết chóc, thương tật tù đày, bao nhiêu làng mạc, ruộng đồng, phố thị đổ nát hoang tàn, cái giá dù có đắt đến đâu cũng phải trả để có Độc Lập, Thống nhất và Hoà bình.

“Năm 1954 kháng chiến đã giành lại được một nửa đất nước. Một nửa còn lại đến thời điểm này hầu như khắp núi rừng, nông thôn, thành thị đâu cũng có người kháng chiến. Người kháng chiến, không những thế, có cả trong những dinh luỹ cao nhất, kiên cố nhất của quân đội, chính quyền tay sai. Hơn ai hết, tập đoàn chóp bu của chính quyền Việt Nam Cọng hoà đã thấy rất rõ hồi kết của những vai diễn bạo tàn, nhục nhã mà họ đóng suốt cả cuộc đời chống lại đất nước, phản lại dân tộc.

“Sự hung ác, nham hiểm của bầy thú cùng đường sẽ trút lên đầu lên cổ những người mà chúng thường hằn học gọi là kẻ tiếp tay cho Cọng sản xâm lược.

“Chúng sẽ giết moi thôi.

“—Thế tại sao anh không lên núi? Tôi hỏi anh.

“—-Không phải bây giờ và không phải chỉ có toi mới hỏi moi câu này. Moi biết những giới hạn của bản thân. Moi không hề lấy cái bé nhỏ của cá nhân để đo lường lịch sử. Moi học luật, moi biết thế nào là chính trị. Chính trị và cách mạng là hai phạm trù ít khi chung sống hoà bình. Chiến tranh rồi sẽ kết thúc, những người cách mạng hôm nay sẽ là ngưới chính trị ngày mai. Mà người chính trị từ bản chất không thể chấp chứa, dung tha người cách mạng. Moi cũng học văn, cũng quan tâm đến lịch sử và triết học, moi hiểu thế nào là nhân tình thế thái, moi chẳng ảo tưởng về những con người tuyệt đối, những con người không giới hạn bất cứ đâu. Cách mạng hay tôn giáo hay gì gì đi nữa cũng chỉ là những con người. Chính quyền này — bọn Liên Thành — giết moi thì hợp lý và dễ coi hơn. Lúc này moi nhớ VT* quá, không hiểu tại sao thời gian gần đây, càng ngày moi càng nhớ nàng da diết đến thế. Moi cũng nhớ thằng Tường, thằng Đính…, moi mong tụi bạn trên núi có nghị lực hơn moi, sáng suốt hơn moi – hoà nhập được vào cái lớn, cái chung, biết quên cái tôi bé nhỏ và biết kiên trì chờ đợi. Độc lập, Thống nhất, Hoà bình quả là khó, khó gấp ngàn vạn lần sự tưởng tuợng của nhiều người. Vì quá khó nên nhiều người đứt gánh nửa đường. Và cũng vì quá khó nên những người còn lại trở nên chai lòng hẹp trí. Nhưng Tự do Hạnh phúc còn khó gấp vạn lần. Tự do và Hạnh phúc luôn là cái đích phía trước. Chân lý bao giờ cũng đến chậm. Dường như Dostoievsky đã nói như thế. Nói gì đi nữa thì nhất thiết đất nước cũng phải Độc lập, Thống nhất và Hoà bình. Tự do, Hạnh phúc là mục tiêu, là nhiệm vụ của nhiều đời…”

Anh Ngô Kha đột ngột dừng lại. Cái dòng chảy tưởng không bao giờ đứt ấy đột ngột dừng lại. Mới hơn một phút trước đây thôi, con người có tài hùng biện ấy đã nhóm cho tôi một hy vọng, một niềm vui là một ngày rất gần Bông Hoa Cô độc, kẻ Đãng Trí ấy, chàng thi sĩ làm thơ siêu thực một thời ấy sẽ bỏ lại đàng sau thế giới phi lí lạc lõng, tuyệt vọng của tâm hồn mình mà nối kết mà hoà nhập vào biển người hò reo, múa hát đón chào đoàn quân chiến thắng. Trường ca Hoà Bình và những bài thơ, đoản văn, những tiểu luận chính trị anh đã viết từ sau 1968 chẳng phải là những tiên báo cho cái thời điểm huy hoàng đó sao? Tôi nhớ một vài đoạn anh Kha đọc cho tôi nghe tại căn gác số 42 Bạch Đằng hay tại căn chái ngôi nhà rường ở Thế Lại trong những đêm hồng hào hy vọng. Tôi không bắt chước được giọng đọc sang sảng của anh. Tôi đọc thấp nhỏ giọng nhưng rõ ràng cốt đưa anh khỏi không khí nặng nề đến rợn người vừa phủ chụp lên chúng tôi.



Ta buộc chặt vào nhau
ba mươi triệu người đứng lên
từ bỏ kiếp bọt bèo
thân trâu ngựa
ta đồng hành tiến bước
ca lên bài Việt Nam Thống nhất( Trường Ca Hoà Bình )

Mừng gặp anh em như mới chào đời
ngày Việt Nam khai sinh ngôn ngữ mới
ba mươi triệu đồng bào anh em đứng dậy
như Trường Sơn hùng vĩ đời đời
Hoà bình về trong trái tim người
như sự sống một lần trở lại
Hoà bình khởi công
Hoà bình vùng dậy
Hoà bình ấm no độc lập
Hoà bình thống nhất muôn nơi
ta bỗng nghe xao xuyến trên thân người
muôn vó ngựa dập dồn trong thớ thịt

( Trường Ca Hoà Bình)Cố gắng của tôi là vô ích. Tôi thất vọng dừng lại. Đêm đã khuya, khu nhà im ắng. Cái giá lạnh như chực chờ ập đến. Tôi co rút người lại nhưng cái giá buốt cũng không được đẩy lùi, ngăn chận. Nó như một đoàn quân vô hình len lén đột nhập vào từng lỗ chân lông, len lỏi vào da thịt, thấm vào tim gan, não tuỷ tâm hồn tôi. Tôi nghiến răng chịu đựng để khỏi phải run lên cầm cập. Ngọn đèn sáp trên chân đế sắp tàn. Những giọt sáp cuối cùng không chảy được thành dòng mà đọng quanh như những giọt nước mắt lưng tròng. Qua màn sương của cảm xúc tôi mơ hồ nhìn ngắm khuôn mặt đẹp tuyệt vời với nụ cười đắng cay héo hắt. Khuôn mặt ấy mới nhìn rất giống với Ché Guevara — người dũng sĩ châu Mỹ La Tinh hừng hực lửa cách mạng, một Kinh Kha của thời đại mới, một sớm máu loang dưới ánh sáng mặt trời trước làn đạn tiểu liên của bọn sát thủ được phái đi từ bạo chúa Hoa Kỳ. Khuôn mặt ấy nhìn sâu thấp thoáng vẻ u hoài, sầu muộn và vô vọng của Giả Bảo Ngọc, nhân vật chính trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, đứa con bị bỏ quên của bà Nữ Oa luyện đá vá trời trong huyền thoại Trung Hoa. Tôi mường tượng thế nào anh Kha cũng như Giả Bảo Ngọc sẽ bỏ chúng ta mà ra đi thôi. Tôi như chợt tỉnh, như vừa mới thoát ra từ một giấc mơ não nùng. Tôi mở mắt thật to nhìn căn phòng tối đen như mực. Ngọn đèn sáp đã lụn bất tự bao giờ chỉ có tiếng côn trùng rên rỉ ngoài vườn và tiếng mỏ cầu kinh đều đều vọng lại từ ngôi chùa ở phía bên kia hàng rào.

Mấy câu cuối cùng trong Trường Ca Người Đãng Trí chợt hiện ra trong ký ức lạnh cóng của tôi:



con đã đi bao năm
mẹ chưa rời ngưỡng cửa
và nay
gió cũng tang bồng
nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cửu …

Tôi vừa dứt thì Ngô Kha như bừng tỉnh, anh vùng dậy, trong bóng đêm tôi có cảm tưởng hai mắt của anh chĩa vào tôi như hai mũi tên. Anh nói nhỏ, trầm và dằn mạnh từng tiếng: “ Xin lỗi toi, xin lỗi người cách mạng hồn nhiên các toi. Moi không hề tơ tưởng gì về một chia sẻ của cuộc đời. Moi là thi sĩ, cho dù thân phận của chủng loại này có ra sao đi nữa thì moi cũng không hoang tưởng rằng lâm thời sẽ thiết lập được sự tương thông với thiên hạ. Cũng như các đạo sư, ở một khía cạnh nào đó, những trải nghiệm của người thi sĩ vừa mang dấu vết riêng tư vừa là tiếng nói thầm kín của nhân loại. Đã là riêng thì không nên, cũng chẳng hy vọng gì về một nhân nhượng nào đó của lịch sử và đồng thời cũng chẳng quan ngại gì trước những áp lực, những điều kiện nào đó của bất cứ ai, cho dù là bạo lực hay là những vuốt ve mời gọi …”

Tôi chưng hửng trước phản ứng dữ dội, phi lí của anh Kha, nhưng tôi chẳng giận dữ gì hay tỏ ra khó chịu vì chúng tôi đã quá quen với những thất thường, lạ lẫm nơi anh, một con người quá ư mẫn cảm và huyền bí. Lại nữa, không riêng gì anh, mà rất nhiều người trong chúng tôi, những đứa con của Huế, của thành thị miền Nam trong bối cảnh của cuộc chiến chống ngoại xâm, không hiếm khi chúng tôi chẳng kiềm chế, che giấu được các biểu hiện trái tính trái nết, thất thường khó hiểu. Có thể chúng tôi là những con thú chưa bị thuần hoá, cảm ứng được cái xung động tiên khởi báo hiệu những cơn cuồng nộ dữ tợn sắp xảy ra của trời đất.


*

Năm ngày sau hiệp định Paris công bố, từ Sàigòn tôi nhận được một gói quà do bà dì tôi gởi qua một người bạn thân quen. Gói quà là một cái cớ. Trong gói quà có một mảnh giấy nhỏ dì viết báo tin anh Kha bị bắt và một tập nhiều tờ giấy gói trà Tam Hỷ và bao hương chi chít những chữ. Tôi nhận ra chữ viết của anh Ngô Kha. Theo dì tôi và những gì tôi nhận được từ những tờ giấy gói trà và bao hương anh Kha dùng để viết thư cho tôi, thì anh Kha ở lại nhà dì tôi thêm một ngày một đêm sau buổi tối chúng tôi trò chuyện. Như vậy anh Kha đã viết cho tôi vào tối ngày 28 tháng 1 năm 1973. Cuối năm 1974 tôi bị bắt thêm một lần nữa. Cảnh sát đã lục lọi nơi tôi ở và lấy đi những thứ họ cần cho cuộc điều tra trong đó có tập thư anh Kha viết cho tôi trước khi rời nhà bà dì và tập thơ Ngụ Ngôn Của Người Đãng Trí do anh Kha tặng tôi hồi 1969. Nay tôi chép lại theo ký ức nội dung bức thư đặc biệt mà ngay từ lần đọc đầu tiên (tôi đã đọc bức thư nhiều lần) tôi đã mường tượng như một lời trăn trối.

["Bức thư” gởi Chu Sơn của Ngô Kha bắt đầu ở đây – ghi chú của BBT Da Màu]




“Moi cứ tưởng toi sẽ trở lại nhà bà dì nên moi nằm chờ. Sáng, trưa, chiều rồi tối vẫn không thấy toi về. Moi đi tìm giấy bút viết thư cho toi. Bút thì có, giấy thì không. Mấy ngày nằm dài ở đây, moi đã sử dụng hết giấy mang theo. Trong nhà bà dì lúc này chỉ còn giấy gói trà được xếp vuốt phẳng phiu và những bao hương ở góc sau bàn thờ. Biết đâu đây cũng là dịp cuối cùng chúng mình nói chuyện với nhau, những câu chuyện của hàng chục năm trước và không bao giờ kết thúc. Lại nữa moi còn nợ toi một lời giải đáp cho một câu hỏi mà thời gian gần đây mỗi lần gặp nhau là toi cứ hỏi:

“— Tại sao anh không lên núi?

“ Sáng nay bà dì mở radio nghe đài BBC như thường lệ. Lúc ấy moi đang ở trong tình trạng nửa thức nửa ngủ. Khi nghe đến đoạn Hiệp định Paris đã được công bố, bà chạy qua đánh thức moi dậy báo tin mừng. Gần trưa đi chợ về bà kể chuyện chợ búa rộn rã tiếng nói cười, ai cũng bảo cứ có hoà bình cái đã, mọi chuyện rồi sẽ tính sau. Đói no, nóng lạnh, cực khổ thế nào cũng được, miễn là không còn bom đạn chiến tranh, không còn chém giết đầu rơi máu đổ, ruột thịt tương tàn. Hồi sáng sau khi báo tin mừng cho moi bà dì liền đi tới bàn thờ thắp hương, đánh chuông khấn vái cám ơn Trời Phật phò trợ để Hoà bình được vững bền, người chồng đi tập kết trở về. Bà cũng đã cầu nguyện cho toi, cho moi và mọi người được tai qua nạn khỏi, cưới vợ có con nối dỏi tông đường. Bữa trưa, rồi tối trước khi ăn cơm bà dì cũng đã cầu nguyện như vậy trước bàn thờ. Còn moi suốt cả ngày nay, rất tệ là moi không có được sự mừng vui hồ hởi như nhiều người trên cả hai miền đất nước vào cái thời điểm đặc biệt ấy.

“Những giây, phút, ngày, tháng liền sau khi hai bên ngồi lại với nhau ở Paris, moi cũng đã náo nức, reo ca, vẽ vời bao nhiêu cảnh huống với bao nhiêu niềm vui, hạnh phúc về một cuộc trùng phùng, hội ngộ mà cả dân tộc đang mong chờ, ước mơ hàng mấy chục năm. Moi cũng đã vẽ với bao nhiêu cảnh huống về một đất nước hồi sinh, người người nắm tay nhau vượt qua muôn trùng đau thương, thù hận, chia lìa, đổ nát, đói nghèo – xây dựng lại quê làng, thiết kế và kiến tạo lại đất nước. Cũng như bà dì toi, cũng như mạ moi, cũng như hàng triệu bà mẹ, ông cha, cũng như hàng triệu anh em đồng bào cả nước trong ngày hôm nay, suốt gần năm năm qua, moi đã có được những giờ phút hạnh phúc — hạnh phúc hồn nhiên như trẻ thơ. Bởi moi đã nghĩ: cho dù đàm phán cũng là một dạng thái của chiến tranh, cho dù đàm phán có kéo dài đi nữa thì cũng có ngày kết thúc chiến tranh. Và Hoà bình nhất định phải đến. Moi đã hy vọng, đã phấn chấn và bằng tất cả tinh huyết có thể vận dụng được moi đã cùng với anh em lao vào cuộc chiến tranh hiểm nguy và gian khổ với một thôi thúc mãnh liệt và duy nhất là góp phần trong muôn một làm cho hoà bình đến nhanh hơn dù cho một giây một phút.

“ Điều bất hạnh cho moi là niềm vui sướng hồn nhiên ngây ngất về một nền hoà bình sắp đến ấy cứ một ngày nhỏ dần, yếu dần, mờ dần. Mãi đến lúc này đây, khi hoà bình đã gõ cửa thì tất cả mọi thứ đối với moi đã nguội lạnh. Và ở một xó xỉnh nào đó sâu thẳm của tâm thức moi đã nhú lên, rồi lớn thật nhanh, một hiện thực mới nặng nề và tiêu cực làm cho moi rối bời.

“Chúng ta sinh ra và lớn lên trên một vùng đất, một thời đoạn lịch sử đặc biệt. Cái vùng đất và thời đoạn lịch sử mà hầu như tất cả mọi khúc mắc lớn nhất của đất nước tụ hội nơi đây. Và những giải đáp để tháo gỡ, để giải quyết những khúc mắc ấy đa phần cũng nảy sinh từ những con người của khúc đoạn trường này.

“Những khúc mắc đó là gì? Đó là nô lệ, nghèo đói và dốt nát. Vấn đề vô cùng cấp bách, xưa cũ và đồng thời cũng mới mẻ từng ngày. Giải pháp nào đã được đưa ra, được vận dụng để đối phó với tình trạng nước sôi lửa bỏng, thiên nan vạn nan ấy?

“Đầu tiên là giải pháp nửa dơi nửa chuột, đánh đàm — đàm đánh bát nháo thiếu hiểu biết địch – ta, thiếu tự tín, thiếu bản lĩnh của một triều đình cũ nát, lạc lõng và thoái trào trong một đất nước nghèo đói, dốt nát và phẫn nộ.

“Tiếp đến là tiếng thét nộ khí xung thiên của những người thà chết nhất định không chịu làm nô lệ: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Thái Phiên, Trần Cao Vân, Trần Quí Cáp, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Thành, Nguyễn Thái Học …

“Thứ ba là tiếng còi đổi mới, canh tân, tự lực và hội nhập, đề huề và hoà hoãn. Giải pháp này bắt đầu từ Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đến Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và phong trào Duy Tân.

“Thứ tư là tìm đường học tập cầu viện nương cậy một nước giàu mạnh nhờ canh tân và ý thức đại dân tộc ở Á châu là Nhật Bản. Chủ xướng và lãnh đạo phong trào này là nhà yêu nước Phan Bội Châu dưới ngọn cờ Cường Để và thể chế Quân chủ lập hiến.

“Tất cả mọi tìm tòi nỗ lực chiến đấu, dấn thân của các khuynh hướng trên đều thất bại trong bất khuất hoặc trong ê chề tuyệt vọng.

Cuối cùng là con đường của Hồ Chí Minh và những nhà yêu nước tân học sau này hình thành nên đảng Cọng sản. Đây là một cuộc trường chinh vừa học tập, tìm hiểu đối phương, vừa tiếp thu văn minh nhân loại đặc biệt là ý thức hệ Marx –Lénin, phong trào Công nhân, phong trào Xã hội, phong trào Cọng sản và phe Xã Hội Chủ Nghĩa. Sự lựa chọn, tiếp thu và vận dụng, kết hợp các sức mạnh truyền thống và hiện đại, sự khôn khéo, thông minh trong mưu lược, sách lược, chiến lược, chiến thuật, ý chí và bản lãnh chiến đấu kiên cường, bất khuất, niềm tin tất thắng và sự hy sinh chịu đựng vô bờ bến của dân tộc, của cụ Hồ, của đảng Cọng sản… tất cả đã dẫn đến những thắng lợi to lớn như nhiều người trong chúng ta đã biết.

“Về phía moi, moi chỉ biết đại khái là như thế. Mà không phải dễ dàng gì, không phải ngày một ngày hai để moi có được những hiểu biết đại khái như thế về Cách mạng Việt Nam. Nếu không phải ngày một ngày hai, vậy toi có biết moi phải mất bao nhiêu thời gian để đi từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đại khái như thế? Trên dưới mười năm đó.

“Và cho dù thời gian nào đi nữa nếu không có một yếu tố mà rất nhiều năm sau moi mới phăng dần cái nội dung đích thực ẩn tàng đằng sau lời trối trăn của ông nội moi trước khi nhắm mắt. Ông nội moi là một nhà Nho, một quan lại cao cấp của triều đình nhà Nguyễn, có tham gia tí chút trong phong trào chống thuế năm 1908, bị cách chức về làng dạy học. Năm moi sinh, ông nội moi đã ngoài 80, và cha moi cũng gần 50, cũng làm quan và đang trấn nhiệm một huyện nào đó ở Hà Tĩnh. Ông nội moi mất khi moi lên 4, bây giờ cha moi đã về hưu. Lời trăn trối của ông nội moi thực ra chỉ là lời ông nói đã nhiều lần lúc còn sống, nay nhắc lại trước khi nhắm mắt: “Ráng mà nuôi thắng Tú (anh trai moi), thắng Kha học hành tử tế và bảo với chúng đừng làm nghề gì khác ngoài nghề dạy học. Thời thế sẽ còn phải nhiễu nhương nhiều hơn nữa. Nghề dạy học tốt cho chúng nó hơn… Theo nhận thức của ông nội moi và đồng thời của cha moi, thời bấy giờ người con trai đến tuổi trưởng thành, đỗ đạt chỉ có hai con đường để lập thân là làm quan hoặc làm thầy đồ, hay một nghề tự do nào khác như thầy thuốc, thầy địa, làm nông…

“Cha moi sau hồi về hưu là một người trầm mặc, ít lời. Theo như mạ moi, thì thời trai trẻ ông không có vậy, mà trái lại, hoạt bát và xông xáo. Ông lần hồi thay đổi tính nết theo năm tháng bất đắc dĩ ở chốn quan trường. Trong nhà có hai người đàn ông lớn tuổi là ông nội và cha moi. Ông nội bị cách chức, làm thầy đồ thầy đạt đã quá đủ. Cha moi không chịu đi con đường ông nội moi chỉ. Mon men đi về hướng Đông Du một thời gian rồi nản chí, tuyệt vọng quay lại phía quan trường với một mục đích duy nhất là cứu vãn tình trạng suy sụp của gia đình. Ông hoàn toàn như một chiếc bóng suốt mấy chục năm làm quan. Thời Xô Viết Nghệ Tĩnh, ông làm tri huyện ở Hà Tĩnh. Liền sau đó xin về triều nhận một chức thư lại ở bộ hình và về hưu trước hồi Nhật đảo chánh. Ông nghiêm khắc với chính mình mà lại rộng lượng với con cái, gia đình. Việc học hành của tụi moi ông chỉ nhắc nhở qua loa và tuyệt đối không can thiệp vào việc chọn hướng đi của con cái. Anh moi đi kháng chiến từ những ngày đầu vỡ mặt trận. Dường như ông không đồng tình nhưng cũng không ngăn cản. Năm 1954 anh moi truớc khi đi tập kết có về thăm nhà, ông nói xa nói gần gì đó về Xô Viêt Nghệ Tĩnh, nhưng rồi cũng tham gia chuẩn bị mọi thứ để con trai lên đường.

“ Việc thực hiện lời trăn trối của ông moi chỉ có mạ moi là chú tâm một cách nghiêm túc và khó nhọc. Trong nhà mạ moi là một nội tướng đích thực. Chồng con, mồ mả, kỵ chạp một tay bà quán xuyến hết mọi việc. Là con gái trong một gia đình quan lại cao cấp, khoa bảng nhiều đời, chẳng biết có phải vì vậy hay vì lí do anh moi đi tập kết mà mạ moi luôn gắn lòng mình với cuộc kháng chiến và tin tưởng nước nhà sẽ thống nhất, anh moi sẽ trở về sau hai năm ký hiệp định Genève.

“ Bản thân moi thì chẳng khó khăn gì lắm để làm thầy giáo theo ý nguyện của ông nội . Moi học thong thả, sính văn chương lại ưa nói năng giao tiếp nên gõ đầu trẻ xem ra là một việc thích hợp.

“ Có điều khi đứng trước bảng đen đối diện với học trò mọi chuyện đối với moi không đơn giản. Dạy cái gì, dạy như thế nào, dạy để làm gì, đó là những vấn nạn. Trước đó moi không biết ông nội moi muốn gì khi trăn trối như vậy. Nhưng chắc chắn không chỉ đơn giản là chuyện kiếm cơm. Ở Huế vào thời điểm ấy thang giá trị vẫn còn là “dân hữu tứ sĩ vi chi tiên”. Nhưng thế nào là sĩ? Phải chăng đó là kẻ câu cơm bằng cái vốn liếng chữ nghĩa cóp nhặt được nhiều năm trên ghế nhà trường? Nếu chỉ để câu cơm thì tại sao ông nội moi không khuyên con cháu đi làm quan để nhũng lạm hoặc đi buôn để làm giàu? Moi sinh ra, lớn lên trong một gia đình quan lại và Nho giáo. Quan lại, Nho giáo trong cái thời buổi suy tàn. Triều đình là một bộ máy rệu rã, đầu hàng, thối nát, là công cụ bất đắc dĩ của thực dân. Nho giáo thì lỗi thời, hết sinh lực lại bị vận dụng tuỳ tiện theo các nhu cầu tầm thường, cơ hội, cá nhân, bè phái, phe nhóm. Vua như Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại mà cũng kêu gọi trung quân với ái quốc. Thiên Chúa giáo và cát cứ như tập đoàn Ngô Đình Diệm mà cũng nhân danh mệnh trời, quốc gia để đè đầu vít cổ thiên hạ. Trong gia đình, người đàn ông, đặc biệt là những ông cả, ông trưởng, ông chồng cũng là những ông vua, những Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại tại gia. Tóm lại, tam cương ngũ thường là giềng mối là tinh tuý của Nho giáo thì tam cương được vận dụng, cổ xuý một chiều, cô lệch. Và ngũ thường thì gần như không còn dấu vết trong ký ức của rất nhiều kẻ mạo nhận, giả danh; nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.

“ Đại khái là như thế, Nhưng hiểu thế nào vẫn còn là vấn đề bảo lưu đậm nhạt khác nhau, những khía cạnh tích cực của một thể thống Nho giáo đã được Việt hoá nơi một ít cá nhân, gia đình, dòng họ và địa phương. Đối với họ cá nhân, gia đình và tổ quốc đã kết tụ thành một mối, và trong những tình thế đặc biệt phải chọn lựa, họ sẵn sàng hy sinh cá nhân, gia đình cho sự an vui, sự tồn vinh của dân của nước. Lo trước thiên hạ, khổ trước thiên hạ và chết trước thiên hạ là cốt cách của những kẻ sĩ tiêu biểu như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp, Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Khôi và thành tựu sau cùng là người thanh niên Nguyễn Tất Thành.

“Không phải là chuyên tình cờ mà sĩ phu Nghệ Tĩnh, Nam Ngãi đã chọn nhà tù, pháp trường làm nơi đến của mình hơn là bất cứ nơi nào trên đất nước bị giặc chiếm đóng.

“ Cũng không phải là chuyên tình cờ mà Huế — nơi một thời là đất dụng võ của những hào kiệt từ Nguyễn Hoàng đến Quang Trung: một người thì mở mang bờ cõi, một người thì Nam chinh Bắc chiến quét đuổi xâm lược, giữ vững cơ đồ, thống nhất giang sơn — một trăm năm mươi năm sau nhà Nguyễn thiết lập Vương triều, gần một trăm năm thực dân Pháp đặt ách đô hộ, người Huế cứ nhỏ dần từ dáng vóc đến giọng nói. Rùn vai, hạ giọng, gọi dạ bảo vâng là mẫu mực của đám thần dân đâu phải của chỉ vương triều nhà Nguyễn mà của tất cả các triều đại chuyên chính. Một trăm năm qua, ở Huế chỉ còn lại những hào kiệt hạng hai, rất nhiều thi sĩ, và thư lại thì hằng hà sa số. Huế dễ thưong, Huế sâu lắng, Huế tinh tế, Huế thâm trầm là những đánh giá của anh em bạn bè. Năm phần chính xác và năm phần rộng lượng.

“ Moi xuất thân trong một gia đình Nho giáo và quan lại. Nho giáo chỉ đọng lại trong bản thân moi là những tập quán đạo đức, luân lí và tình cảm được thấm dần từ bà mẹ. Cha moi là một người khó hiểu và câm lặng, chỉ về nhà trước khi đã nghỉ hưu. Nơi ông, moi thấy rất mơ hồ dấu vết của học thuật (Nho giáo) và nghề nghiệp (quan lại). Moi chỉ nhận được từ ông những tình cảm dịu dàng và trìu mến. Ông không dạy moi chữ Hán, ông cũng không áp đặt những nguyên lí, những chuẩn mực triết lí, đạo đức Nho gia. Dường như ông muốn phủ nhận hoặc muốn quên đi những gì mà ông đã bỏ công kết tập. Có cái gì đó vừa trống rỗng vừa tuyệt vọng nơi ông. Ngoài sự câm lặng, ông không hề hở môi, ca thán về bất cứ gì như những người đồng thời cùng cảnh ngộ trước những đổi thay đến chóng mặt của cuộc sống nhãn tiền. Ông nội moi thì qua đời khi moi chưa đến tuổi lên năm. Ông chỉ để lại trong ký ức moi một ông già nhân hậu và lời trăn trối mà moi phải mất nhiều thời gian và công sức để lãnh hội và thực hành.

“Moi bắt đầu đi dạy vào cuối năm 23 tuổi, năm ấy là năm 1958. Chính quyền Ngô Đình Diệm đang say sưa chiến thắng và những thành tựu đạt được sau năm năm đầu cầm quyền với cơ man nào là âm mưu thủ đoạn. Họ tiếp tục lao vào con đường âm mưu thủ đoạn ấy. Chắc họ nghĩ rằng chỉ với âm mưu thủ đoạn thôi họ có thể làm chủ thiên hạ. Cha moi ngày một ít nói hơn. Hình như ông cố che giấu, cố kiềm chế những rối rắm, những bức xúc trong lòng. Mạ moi thì ngày một sốt ruột. Tháng 7 năm 1956 đã qua, một tháng, một năm, rồi hai năm mà không thấy dấu hiệu gì để thống nhất hai miền. Anh Tú moi thì biệt vô âm tín. Nỗi nhớ thương mong đợi con khiến bà ngày một thêm héo hon buồn khổ. Nhiều lúc moi bắt gặp bà ngồi khóc âm thầm trong một góc tối của căn nhà rường. Bà thắp hương khấn vái nhiều hơn trên bàn thờ tổ tiên. Mọi tội lỗi bà trút hết lên tập đoàn Ngô Đình Diệm. Bà nói nhỏ, nói một mình nhưng moi cũng nghe được: “Tụi chúng ác, chúng muốn kéo dài vĩnh viễn sự chia cắt. Chúng muốn dẹp hết bàn thờ Tổ tiên Trời Phật, bắt ép mọi người chỉ thờ một ông chúa bà chúa gì đó của bọn Tây, của bọn cướp nước ấy…”

“Ngô Đình Diệm khi mới về nước, không ít người Huế chào đón và hy vọng. Nhưng rồi ngày lại ngày khi cái ghế Tổng Thống của ông tạm vững, anh em của ông ấy đã quay lưng lại với đại bộ phận người Huế. Diệt Cọng, bài Phong, đả Thực, tất cả chỉ là chiêu bài. Nép sau cái chiêu bài này, tập đoàn Ngô Đình Diệm đã trắng trợn gây ra bao nhiêu tội ác: giết người, cướp của, chà đạp, đàn áp, cưỡng bức là hành động hàng ngày của tập đoàn này. Không có cái gì ăn nhập với nhau giữa lời nói và hành động. Tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc là những lời nói hàng ngày của tập đoàn Ngô Đình Diệm. Chúa Trời và Quốc gia. Có cái gì đó quá mờ ám, quá đen tối, ở cái mô hình này.

“—- Sao lại Chúa Trời mà không phải là Ông Bà Tổ Tiên Trời Phật được thờ cúng ở cái nơi trang trọng nhất của căn nhà trong tâm thức dân tộc.

“—- Sao lại Quốc gia độc lập trong khi miền Nam chỉ là một phần, một bộ phận của đất nước Việt Nam duy nhất chạy dài từ Bắc chí Nam, là kết quả của biết bao nhiêu máu xương, mồ hôi, nước mắt người Việt Nam đã đổ ra suốt cả ngàn năm.

“—- Sao lại là tiền đồn, là nơi đầu tên mũi đạn cho một thế giới Tự Do nào đó xa lắc xa lơ? Té ra tập đoàn Ngô Đình Diệm đã đem một phần lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc thế chấp cho Hoa Kỳ và để đổi lại tên đế quốc này đổ tiền bạc, bom đạn bảo vệ sự an toàn cho ông ta trong quá trình chống lại đất nước, chống lại nhân dân.

“ Moi đã mường tượng ra cái công việc, cái mục đích của Người Thầy Giáo mà ông nội moi đã gợi mở, đã dặn dò.

“ Lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, giữa Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát, giữa hai con người tài hoa có hai số phận ngược chiều của thế kỷ 19, moi thích và cảm phục Cao Bá Quát hơn. Cái khí phách ngang tàng, cái hào khí ngất trời của kẻ muốn “xoay bạch ốc lại lâu đài” ấy hấp dẫn, chinh phục, và cuốn hút moi. Và thế là moi đã bỏ rơi cái ông già ham chơi lận đận lao đao đi xe cỏ chờ vận hội nơi cái triều đình ruỗng mục và chuyên chính nhà Nguyễn. Thế mà đến khi trở thành thầy giáo, moi lại phát hiện ra ở Nguyễn Công Trứ một khía cạnh mới.

Có giang sơn thì sĩ đã có tên

“Té ra sông núi, đất nước, dân tộc, tổ quốc đã sản sinh ra đứa con đầu lòng là kẻ sĩ. Giềng mối quốc gia, ý thức dân tộc, cái Nam quốc sơn hà, cái tinh tuý, cái hạo nhiên của mọi thời đại và cụ thể là con đường cứu nước mà cụ Hồ và những người Cọng sản đã đi tìm đều được tinh lọc qua khối óc, trái tim, hoài bảo, bản lãnh và khát vọng của những đứa con đầu lòng ấy của Mẹ Cha Giang Sơn Tổ Quốc.

“Trước khi giảng bài Kẻ Sĩ ở lớp đệ tứ, moi phải rủ về nhà vài đứa học trò đã qua chọn lựa để moi thực tập. Bọn moi ngồi ở căn chái mà sau này toi đã nhiều lần về ngủ. Sau khi đám học trò ra về, cha moi đã nhẹ nhàng, điềm đạm bảo Moi:

—“Nhìn ở một góc độ khác, chính cái chất sĩ nơi loài người là nguồn cội sản sinh ra mọi khái niệm từ Dân tộc, Quốc gia, Độc lập, Tự chủ, Nhân loại v…v…

“Con người vượt qua dạng thái tồn tại của thú, yếu tố đầu tiên nảy sinh trong đầu nó là trí khôn. Không có trí khôn con người chỉ là bầy thú. Để phân biệt giữa sĩ và ba hạng dân còn lại, yếu tố trí khôn và các phẩm chất ưu tú khác nơi kẻ sĩ nổi trội hơn.

—- “Mà sao con lại muốn làm một thầy giáo cá biệt? Gian nan và nguy hiểm lắm…”

“Moi sững sờ trước những lời nói và thái độ của cha moi. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng moi thấy ông bày tỏ một thái độ nghiêm túc về một vấn đề nghiêm túc. Có thể ông là một người tuyệt vọng, chứ không phải là người trống rỗng như moi đã từng nhận xét. Moi đã ôm chầm lấy ông, và moi đã khóc như một đứa con trẻ.

Moi đã sáng tỏ vai trò của mình, chức năng của mình — Thầy Giáo — trước tình thế đặc biệt của đất nước như moi đã nói ở trên. Nhưng thế nào là tình thế đặc biệt moi còn rất mơ hồ. Nhưng hiểu được đến lúc này (1959) một cách đúng đắn về cuộc kháng chiến chống Pháp, về Điện Biên Phủ, về hiệp định Genève là nhờ những thông tin đơn giản và những tình cảm sâu sắc từ mạ moi. Ngoài ra không còn có gì nữa. Trong khi đó trong gần năm năm, ngày đêm ra rả bên tai, nhan nhản trước mắt mọi người dân miền Nam là những tuyên truyền của một bộ máy đồ sộ đông đảo nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều vòng, nhiều phương tiện của tập đoàn Ngô Đình Diệm và Mỹ. Phong trào cách mạng quốc gia, Liên đoàn công chức cách mạng, đảng Cần Lao, Thanh niên cọng hoà, Phụ nữ liên đới, Cảnh sát công an, Công dân vụ, Xây dựng nông thôn Phượng hoàng, cán bộ phường xã, thôn ấp, liên gia. Đặc biệt là cơ quan thông tin Mỹ Việt các cấp từ Sàigòn, Huế, các đội chiếu phim, các đoàn thông tin tâm lý chiến. Và cả hệ thống báo chí, sách vở, áp phích truyền đơn, loa phóng thanh…

“Cũng không thể không nhắc đến những cái loa chống Cọng trong đạo Thiên Chúa, trong gần một triệu người di cư từ miền Bắc và nhất là một số cán bộ kháng chiến bỏ hàng ngũ trở về đầu thú.

“Moi đã đọc Le Zeros et L’infini của Koesler, moi đã đọc Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc. moi đã đọc Trăm Hoa Đua Nở, Trăm Nhà Đua Tiếng trên đất Trung Hoa của Mao Trạch Đông, moi đã đọc tạp chí Sáng Tạo, nhật báo Tự Do, tạp chí Đại Học và rất nhiều sách báo chống Cọng, chống miền Bắc chống Cọng sản và ca ngợi Ngô Đình Diệm, ca ngợi Mỹ và thế giới Tự Do.

“ Đại học Huế, nơi moi đã học một năm ở Trường sư phạm, ba năm ở trường luật, phải chăng là nơi của một cái loa to, đào tạo nhiều cái loa nhỏ cổ xuý, động viên rao giảng, tô vẽ cho cái Quốc Gia Chúa Trời La Mã, cho cái tiền đồn chống Cọng của Ngô Đình Diệm và đế quốc Mỹ. Các trường trung học, đại học của chính quyền, của đạo Thiên Chúa cũng là nơi đặt để, sản xuất những cái loa như thế.

“ Không thể phủ nhận những năm đầu của chế độ Ngô Đình Diệm với tiền bạc từ viện trợ Mỹ, với hệ thống tuyên truyền khổng lồ, nham hiểm tinh vi của CIA và tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa giáo — miền Nam trong đó có Huế đã đạt được những thành tựu nào đó. Một bộ phận không nhỏ quần chúng đã hy vọng và tin theo. Đồng thời, kinh tế ở đô thị tương đối ổn định. Thanh niên học xong tú tài hay tốt nghiệp từ các trường chuyên nghiệp sơ trung cấp có việc làm. Thanh niên ít học bị gọi đi lính được chu cấp đầy đủ các nhu yếu phẩm. Hạ sĩ quan, công chức sơ cấp có cuộc sống tạm ổn định. Sinh viên tốt nghiệp đại học, sĩ quan, công chức cao cấp, thì đời sống đầy đủ, phủ phê hoặc giàu có, con cái họ nếu có khả năng thì học đến nơi đến chốn.

“ Tất cả những thứ đại loại như thế dưới mắt nhìn đơn giản hời hợt của một bộ phận không nhỏ thị dân thì miền Nam có đủ vóc dáng và sức mạnh của một quốc gia dân chủ đồng thời là một pháo đài mẫu mực của thế giới Tự Do “ngăn chặn hữu hiệu sự xâm lăng của Cọng sản miền Bắc”.

“ Mãi cho đến khi nổ ra vụ Phật giáo và kết thúc chế độ Ngô Đình Diệm, bản thân moi mới nhận ra sự thật của vấn đề miền Nam.

“Trong khi đó mạ moi và tất cả các bà mẹ có chồng con anh em đi tập kết, đi kháng chiến và nhiều đồng bào ở nông thôn, đồng bào theo đạo Phật — những nạn nhân trực tiếp của sự cấu kết Mỹ – Diệm không cần phải vòng vo sách vở như moi, mà bằng sự trải nghiệm đau thương của mình đã không khó khăn gì nhận biết các mưu đồ đen tối, tàn ác, bạo ngược của guồng máy Phát xít và mỵ dân. Đối với họ, miền Nam không thể là tiền đồn, không thể là một nước, cũng không thể là một quốc gia trong vòng tay quan phòng của Chúa Trời La Mã. Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một. Ai đó nói với moi rằng cụ Hồ đã khẳng quyết chân lí ấy. Và moi đã nói lại với mạ moi, bà ấy bảo: Chỉ có cụ Hồ. Trước sau gì cũng chỉ có cụ Hồ.

“Moi bắt đầu đi dạy từ mùa thu năm 1958, bốn năm sau khi Ngô Đình Diệm về nước và năm năm trước anh em Ngô Đình Diệm bi giết, quốc gia Chúa Trời La Mã của đảng Cần Lao Thiên Chúa sụp đổ. Anh em Nhu Diệm và đảng của họ biết hết các việc họ làm… Duy có một điều đơn giản mà họ không biết là chính họ đã tự đào hố chôn mình. Bài học đơn giản mà rất nhiều người trong nhiều thời đại không chịu học là bất cứ ai muốn sống yên bình là sống giữa thiên hạ, sống phải chăng với thiên hạ, chứ không thể sống một mình, sống trên đầu trên cổ thiên hạ. Ngày trước anh em họ Ngô đã không biết điều đó. Mới chân ướt chân ráo về miền Nam, Ngô Đình Diệm đã ra tay tàn sát người Cọng sản. Tiếp theo ông ta loại khỏi mưu đồ vương bá của mình các thế lực của một miền Nam bát nháo đã từng liên kết hay ủng hộ ông là phe Bảo Đại, các đảng phái, các giáo phái. Hành động cuối cùng chẳng phải là giọt nước mà là thác nước nên không chỉ làm tràn mà làm đổ bể, cuồn trôi cái ly nước đang trên thế chông chênh của tập đoàn Ngô Đình Diệm là thách đố một bộ phận đông đảo của quần chúng miền Nam: những người theo đạo Phật. Vậy Ngô Đình Diệm và bộ sậu của ông sống với ai giữa miền Nam như thế đó?

“— Chừng bảy tám phần trăm người theo đạo Thiên Chúa không muốn hoặc chưa bám rễ vững chắc vào đất nước vào dân tộc ư? Chừng ấy sức mạnh không đủ để đối chọi, để tranh hùng với hơn chín mươi phần trăm người miền Nam còn lại. Huống hồ gì ở phía bên kia vĩ tuyến 17 còn có một miền Bắc ruột thịt, một đảng Cọng sản đã tôi luyện dày dạn trong chiến tranh giải phóng và tiếp tục nắm vững ngọn cờ Dân tộc. Huống hồ gì ngoài cương thổ Việt Nam, ít nhiều mạnh yếu từng nơi, còn có tình liên đới nhân loại. Huống hồ gì còn có ông chủ của cái tiền đồn chống Cọng của thế giới Tự Do — người bạn đồng minh giàu có Hoa Kỳ. Dưới con mắt của người Mỹ, Ngô Đình Diệm chỉ là một thủ lãnh trông coi, bảo vệ tiền đồn. Một khi thủ lãnh đó không còn có khả năng canh gác tiền đồn, thậm chí còn là nguyên nhân khiến cái tiền đồn ấy suy sụp, thì lẽ đương nhiên ông chủ Mỹ sẽ tuyển chọn một thủ lãnh khác trong đám ứng viên dự bị để thay vào chỗ của ông ta.

“Moi phải mất năm năm mới vỡ lẻ những vấn đề tưởng chừng như quá đơn giản ấy. Sự sáng tỏ moi có được là cả một chặng đường gian nan và cũng không phải một mình moi mày mò mà có sự tác động, hổ trợ ba bên bốn bề:

“ Trước hết là sự chuyển biến của toàn cảnh xã hội, kinh tế, chính trị và an ninh của miền Nam. Chỉ trong vòng bốn năm năm mà:

“— một nhà yêu nước, một lãnh tụ cách mạng quốc gia anh minh, một nhà cai trị sáng giá của thế giới Tự do Ngô Đình Diệm,

“— một lí thuyết gia, một đảng trưởng đảng Cần Lao Nhân Vị, một ngài cố vấn tối cao Ngô Đình Nhu và vợ ông ta — đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân,

“— một Giám mục, rồi Tổng giám mục Ngô Đình Thục, thành viên cao cấp của vương triều Thiên Chúa giáo La Mã, đại diện cho đức Chúa Trời, Đấng sáng tạo quyền năng và bác ái,

“— một Ngô Đình Cẩn, lãnh chúa miền Trung,

“— một đảng Cần Lao Thiên Chúa giáo …

đã trở thành một băng nhóm tội phạm chẳng từ một tội ác nào: cướp của, giết người, buôn lậu, tham ô những lạm và độc tôn tôn giáo.

“Và cũng trong chừng ấy thời gian mà các đảng phái, giáo phái, phe nhóm chính trị đã từng đứng chung với Ngô Đình Diệm dưới cái lọng đoàn kết quốc gia chống Cọng, trước sự phản trắc và lật lọng của anh em nhà họ Ngô và đảng Cần Lao Thiên Chúa giáo, đã bày tỏ sự căm thù, tức giận, quyết không đội chung trời, để rồi sau đó thể hiện qua các cuộc đảo chánh, tập hợp tuyên ngôn không mưu lược, không quyết tâm, rã rời, cạn kiệt sức sống, vỏ biền và xôi thịt.

“Những rối rắm, xuống dốc chính trị kéo theo sự suy sụp kinh tế, sự đổ vỡ niềm tin, sự bất mãn căm giận của đông đảo quần chúng không những ở nông thôn mà cả những thị dân đã một thời tin tưởng và ủng hộ Diệm.

“ Đó là những điều mắt thấy tai nghe. Ngoài ra sự sáng tỏ của moi một phần thông qua các cuộc trao đổi bàn luận với bạn bè, với đồng nghiệp ở trường Nguyễn Du, ở căn nhà tranh phên tre nền đất của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong hẻm Mai Thúc Loan gần chợ Xép, rồi căn nhà của Đinh Cường thuê trên dốc Bến Ngự là nơi bọn moi tụ tập, đấu đá, tranh cãi mọi thứ chuyện trên đời: triết học, sử học, văn nghệ, chính trị xã hội…

Ngoài Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Đinh Cường thường trú, moi còn gặp nơi đây hết tuần này qua tuần nọ, hết tháng này qua tháng kia của những năm sau 1963 nào là Đỗ Long Vân, Nguyễn Văn, Lê Tử Thành, Bửu Ý, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Tuấn Khanh (Rừng) và đám bạn bè đồng chí của Phan: Phan Duy Nhân, Lê Hiếu Đằng… Thỉnh thoảng moi còn gặp một vài người bạn phương xa có dịp tạt qua Huế. Lúc đầu bọn moi mỗi người mỗi vẻ, một xu hướng triết học, một lập trường chính trị, một quan điểm lich sử, một trường phái văn nghệ. Mọi người đều tha hồ giải bày, tha hồ mà bài bác, tha hồ tuyên dương. Marxism? Hiện sinh? Phật giáo? Hiện thực? Trừu tượng? Siêu thực? … Quả đây là một salon, một câu lạc bộ của một nhóm trí thức Huế. Có điều cái salon trí thức này không ở trong một lâu đài, một phòng khách sang trọng như ở châu Âu mà ở trong một túp lều, và bọn Tường Phan đặt cho nó một cái tên rất kiếm hiệp là Tuyệt Tình Cốc.

“ Moi đến Tuyệt Tình Cốc hay đến căn nhà trên Bến Ngự lúc đầu với mục đích cấp bách là xác lập hướng đi cụ thể cho công việc dạy học của mình.

“Nhiều sinh viên khi đến trường Đại học Sư phạm, là đã giải quyết xong vấn đề này. Với moi thì chưa. Moi không thể dạy cho đám học trò trở thành những công bộc cho chế độ Mỹ Diệm. Ông nội moi không muốn thế. Mạ moi không muốn thế. Hàng triêu người Việt Nam bình thường không muốn thế. Cao Bá Quát bảo moi nên cùng đám học trò mưu tính lật đổ chế độ. Nguyễn Công Trứ đề nghị moi khi thì “ Phù thế giáo một vài câu thanh nghị ”, khi thì “ Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương”.

“Một vài câu thanh nghị là cách nói tượng trưng và khiêm tốn. Khi một chế độ tàn ác, độc tài như chế độ Mỹ Diệm thì hơi thở của kẻ sĩ không chỉ là một vài câu thanh nghị mà toàn sinh lực của kẻ sĩ phải trở thành vũ khí góp phần đánh đuổi, lật đổ chúng.

“Nghĩ như thế đối với moi không phải là hết bế tắc, bởi vì bây giờ trên bình diện tư tưởng và cảm thức chính trị moi cùng tồn tại ba luồng nội lực khó bề hoá giải:

“Thứ nhất là con đường cách mạng tiến hành cùng lúc hai cuộc cách mạng Dân tộc Độc lập và Chủ Nghĩa Xã Hội hoặc ngược lại do đảng Cọng sản Việt Nam xướng xuất và lãnh đạo.

“Thứ hai là con đường Dân tộc và Đạo pháp hay Đạo pháp và Dân tộc do các vị cao tăng Phật giáo Bắc tông ở Huế, ở miền Trung âm thầm gợi mở và phát động.

“ Thứ ba là tư tưởng Tư sản Dân quyền và học thuyết của Rousseau mà moi đã tiếp thu từ trường Luật và mấy năm nghiền ngẫm sách báo.

“ Moi bế tắc bởi moi không thể gây cho học trò ý thức đuổi Mỹ, lật Diệm một cách chung chung rồi bỏ đó, mà tại sao moi không chỉ cho chúng luôn ngọn cờ nào chúng có thể theo để thực hiện nghĩa vụ công dân của mình?

“ Các cuộc trao đổi, thảo luận ở Tuyệt Tình Cốc, ở căn nhà trên dốc Bến Ngự nhất là những đóng góp của các anh Trần Hữu Trung, Hoàng Hữu Pha, và cả Lê Phước Tâm, Nguyễn Hữu Châu Phan sau này ở trường Ngưyễn Du đã giúp moi định hướng ngày một đúng đắn hơn công việc dạy học của mình.

“ Đối với moi từ trước cho đến thời điểm này, học thuyết Tư sản Dân quyền là tư tưởng cách mạng triệt để và đúng đắn nhất. Triệt để và đúng đắn như thế nào moi sẽ giải thích sau. Tuy nhiên không có tư tưởng, học thuyết nào có thể thực hiện được trong một nước bị chiếm đóng bị lệ thuộc. Vấn đề cấp bách và ưư tiên hàng đầu là đánh đuổi ngoại xâm và đánh sụp các chính quyền, các thế lực lệ thuộc, tay sai, giành lại độc lập, chủ quyền, thực hiện Thống nhất.

“Gác lại một bên thể chế Tư sản Dân quyền mà moi cho là cách mạng triệt để. Vấn đề còn lại là giữa Phật giáo miền Trung và đảng Cọng sản Việt Nam, moi sẽ đóng góp sức mình với ai, cọng tác với ai để thực hiện khát vọng Độc lập, Thống nhất và kiến tạo Hoà bình?

“ Với Phật giáo ư? trước khi gặp đám Hoàng Phủ Ngọc Tường và bạn bè ở Tuyệt Tình Cốc, trước khi trao đổi với các anh Trần Hữu Trung, Hoàng Hữu Pha, Lê Phước Tâm, Nguyễn hữu Châu Phan ở trường Nguyễn Du. Trước khi nghe toi, Nguyễn Đính, Võ Đông và nhiều anh em khác … Moi đã nghe quá nhiều, thấy quá nhiều những lời, những cảnh, những thiên đường, địa ngục từ guồng máy khổng lồ Mỹ Diệm, ở giữa những náo động gai mắt chói tai, ồn ào xa lạ và độc hại ấy, moi nghe được một tiếng nói khác nhỏ nhẹ, bao dung, từ ái … phát ra từ các vị lãnh đạo Phật giáo miền Trung. Các vị ấy nói rằng: đất nước đang bị qua phân, nhân dân ở hai miền Nam Bắc do sự thúc bách, áp đặt của hai thế lực quốc tế là Cọng sản độc tài vô thần và Tư bản Thiên Chúa giáo toàn trị đã và đang tiến hành cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, tan tác thương đau. Phật giáo Việt Nam, không như một tôn giáo nào khác, mà là một tôn giáo đặt nền tảng trên tư tưởng Đại hùng, Đại lực, Đại Từ bi, trên ý thức trách nhiệm và lòng yêu nước thương nòi của người Việt Nam, đã gắn kết thân phận mình với thân phận quốc gia dân tộc, đã có những đóng góp to lớn trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dựng nước, chống ngoại xâm, mở mang bờ cõi và kiến tạo đất nước trong hoà bình thịnh vượng. Trong quá khứ rất nhiều vị tăng sĩ Phật giáo qua những đóng góp to lớn đã được phong làm quốc sư, đặc biệt là hai triều Lý Trần.

“Với nền tảng sức mạnh tâm linh hùng hậu thâm viễn như vậy, với khối lượng tín đồ đông đảo gồm ba phần tư dân số, với một đội ngũ tăng ni đạo cao đức trọng và Phật tử có đủ tâm năng do được đào tạo chuẩn bị từ sau cuộc chấn hưng Phật giáo vào những năm đầu của thập kỷ ba mươi và tiếp tục phát triển qua nhiều thập niên đến ngày nay, Phật giáo Việt Nam nguyện đem hết sức mình thực hiện hoà giải dân tộc, thống nhất tổ quốc. Với một quốc gia độc lập, thống nhất, an bình thịnh vượng, một nước Việt Nam được trang bị bởi tư tưỏng Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi sẽ hoá giải các mâu thuẫn, tương tranh quốc tế góp phần đem lại an bình cho nhân loại.

“ Nhiều năm bị vây hãm giữa những tiếng nói, âm thanh chát chúa hung tợn của sắt thép, hận thù, đổ vỡ, moi đã sững sờ và vui sướng như kẻ lạc đường giữa sa mạc nắng cháy tìm được giếng nước và bóng râm khi nghe được tiếng nói bao dung hoà ái như thế. Độc lập Hoà bình, ngàn năm trước, ngàn năm sau dân tộc Việt Nam cũng chỉ mơ ước như thế. Rất nhiều người Huế, người miền Trung và cả miền Nam nữa, là nạn nhân của những giấc mơ đẫm máu, đã bị cuốn hút vào cơn mộng du tập thể tràn ngập ánh đạo vàng, nắng chiều, kinh cầu và nhạc tụng.

“Trong đêm dài của nô lệ và đói nghèo, dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc mộng du lớn. Một của người Cọng sản, và một là của các người Phật giáo miền Trung. Là một người ngoại đạo và cũng khá muộn màng, nhưng bởi là người Việt Nam, là thi sĩ, nên ít nhiều gì moi cũng đã tham dự vào hai cuộc mộng du ấy.

“Tuy nhiên, moi lại còn là người học luật, là kẻ duy lý, là học trò của J. Rouseau (moi nói trước để toi khỏi phân vân gì khi cần phải tố cáo moi là con đẻ của chủ nghĩa Tư bản, tên tư sản đội lốt mai phục) nên moi đã nhanh chóng nhận ra rằng con đường của các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung chẳng phải là thông lộ cho vấn đề Việt Nam như cảm giác ban đầu của moi và của nhiều người khác. Bởi tiền đề mà các vị ấy nêu ra dựa trên những chi tiết chứ không phải là cốt lõi của vấn đề Việt Nam. Từ khi người Pháp xâm chiếm đất nước này cho đến bây giờ vẫn là xâm lược, chống xâm lược. Những vấn đề khác: vô thần hay hữư thần, độc tài hay dân chủ, cọng sản hay quốc gia…, không phải là hoàn toàn bịa đặt, nó có đó, nhưng là những nhân tố phát sinh, phụ thuộc, được thổi phồng, cường điệu và huyền thoại hoá. Tất cả sẽ được giải quyết sau khi nền độc lập của đất nước được thu hồi, việc thống nhất đất nước được thực hiện, và hoà bình được tái lập. Vả lại: ước mơ, hoài bảo, khát vọng của các vị lãnh đạo Phật giáo miền Trung quá to lớn, hảo huyền, ở ngoài khả năng, chức năng của một tôn giáo trước tình hình đất nước.

“ Về mặt lí thuyết, moi tâm đắc với học thuyêt Tư sản Dân qưyền, và không mặn mà gì với chủ nghĩa Cọng sản. Tuy nhiên để đạt được cái mục đích cấp bách: Độc lập và Thống nhất, moi sẵn sàng đứng chung ngọn cờ Dân tộc mà đảng Cọng sản giương cao. Moi là người dân như hàng triệu người dân miền Nam khác, không có tham vọng chính trị, không phe nhóm, tham gia kháng chiến theo khả năng và nhận thức của mình, một khi sáng tỏ ra rằng đảng Cọng sản có quyết tâm và có khả năng đưa cuộc kháng chiến chống đuổi Mỹ đến thắng lợi cuối cùng, moi đi chung với các toi một đoạn đường. Có thế thôi.

“Còn vấn đề học thuyết Tư sản Dân quyền của moi, như có lần toi đã hỏi?

“ Không có học thuyết nào của moi cả. Chọn một con đường để đi là việc của cả nhân dân. Học thuyết Tư sản Dân quyền phải chăng là những khôn ngoan, chứ không phải là chân lí tuyệt đối như chủ nghĩa Cọng sản hoặc như tín điều tôn giáo. Những khôn ngoan mà các ông Montesquieu và Rousseau đề nghị nếu nhân dân thấy có lợi thì dùng, không có lợi thì thôi. Không ai có quyền và có khả năng áp đặt, dạy dỗ người khác về bất cứ học thuyết nào khi người ta không thấy có nhu cầu hoặc khi người ta không có khả năng để tiếp cận. Học thuyết Tư sản Dân quyền là sản phẩm của một trình độ văn minh. Nó ra đời sau cuộc cách mạng đại công nghiệp, nó là những khế ước được thừa nhận, vận dụng cho cả hai phía: phía người cai trị được bầu vào các cơ quan công quyền và phía những người công dân chấp nhận sự cai trị của người mình đề cử thông qua lá phiếu. Cả hai đều công nhận, ràng buộc, bảo vệ các quyền hạn chức năng và các trách nhiệm thông qua hiến pháp và luật pháp. Không một ai, từ người đứng đầu các cơ quan quyền lực cao nhất (lập pháp, hành pháp, tư pháp) đến đảng cầm quyền, ở trên, ở ngoài pháp luật cả. Tất cả mọi người đều được pháp luật thừa nhận các quyền căn bản bất khả nhượng. Có lẽ sau chiến tranh, các quyền dân chủ chưa có điều kiện và khả năng thực hiện đầy đủ, trong khi đó nhu cầu cấp bách là bảo vệ các thành quả của cuộc kháng chiến, bảo vệ an ninh trật tự và các điều kiện sống căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt, hạn chế và đề phòng sự lạm quyền của một số người say mê chiến thắng, cần nhanh chóng và nghiêm chỉnh xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh và trong sạch.

“ Câu hỏi tối qua của toi về lực luợng thứ ba, moi đã trả lời đại khái. Suốt mấy ngày nay, moi suy nghĩ khá nhiều về vấn đề này. Theo moi đây là một vấn đề tế nhị và phức tạp. Moi nhắc lại quan điểm của mình: không có lực lượng chính trị thứ ba trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nhưng thực tế là đảng Cọng sản đã khẳng định: hai cuộc cách mạng tiến hành cùng một lúc là: cách mạng Dân tộc Dân chủ nhân dân và cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa.

“Ở miền Nam, có rất nhiều người kể cả một số người trong quân đội và chính quyền Saigòn có ý thức chống Mỹ nhưng đồng thời không đồng tình với người Cọng sản về chủ nghĩa Xã hội. Họ thuộc thành phần chính trị thứ ba.

“ Tuy nhiên do nhu cầu và thủ đoạn chính trị, không những người Cọng sản các toi mà cả Mỹ cũng đã khẳng định một cách giả dối rằng có một lực lượng thứ ba. Vả lại trong số đông đảo thuộc thành phần chính trị thứ ba cũng không thiếu những cá nhân, tổ chức do ảo tưởng chính trị, cọng với sự hồn nhiên cả tin, cũng vỗ ngực nhận mình là lực lượng thứ ba nhằm mơ lấy vị trí nào đó trong sinh hoạt chính trị sau này.

“Moi đã học môn chính trị ở trường luật, moi đọc lịch sử, moi đọc Machiavelle, Lenin, Chiến quốc sách và qua kinh nghiệm hợp tác với các toi trong một số hành động của phong trào đô thị như tham gia phong trào Tự quyết, Mặt trận văn hoá miền Trung, làm báo Tự Quyết, báo Mặt trận Văn hoá và đặc biệt cùng với đám Bửu Chỉ, Võ Quê, Nguyễn Duy Hiền, Phan Hữu Lượng, Trần Đình Sơn Cước, và đám học trò trực tiếp như Dung, Nhân, Hoàng Thị Thọ và hàng ngàn sinh viên, học sinh Huê xuống đường, mitting, hội thảo, tổ chức đêm không ngủ… Chúng ta đã gần gũi chia sẻ những khó khăn, khổ nạn buồn vui và cả tâm sự … Qua đó moi đã có được những hiểu biết chưa đầy đủ nhưng cũng đã khái quát được mưu lược, thủ đoạn của người Cọng sản các toi. Moi chẳng mơ hồ gì về các gợi ý, xúi giục ngầm, những đề nghị ẩn tàng tính chất cơ hội, những thủ pháp câu kéo, hứa hẹn ỡm ờ mà các toi đã thao tác thành thục như bọn lầu xanh lão luyện các ngón nghề. Gần như trong rất nhiều trường hợp, moi đã tỏ ra ngây thơ, ngớ ngẩn để các toi mặc sức múa máy. Quả tình các toi chưa hiểu biết gì hết về một bộ phận trí thức giữa cái thời đoạn đau thương này.

“ Làm chính trị xôi thịt mà bẩy bịp, huyễn hoặc nhau, mua chuộc nhau là chuyện bình thường. Đằng này các toi làm cách mạng. Các toi xây dựng thế giới, con người mới. Các toi nhân danh cái nhân loại sáng láng, ưu việt nhất, cái nhân loại đã đạt được tới đỉnh điểm của văn minh, không ai có thể vượt qua, không cần phải thêm bớt, biến hoá nữa, cái nhân loại thoả thuê sung mãn tuyệt vời sau khi đã chia chác đầy đủ các nhu cầu sinh thực. Đồng thời, các toi cũng nhân danh mấy ngàn năm văn hiến mà đối xử với quần chúng, với bạn đường như là những phương tiện, thậm chí nếu cần thì biến họ thành kẻ thù. Moi đề nghị các toi coi lại. Nhất là toi, kẻ đi làm lực lượng thứ ba. Toi có biết khi Mỹ cút Nguỵ nhào thì ai là kẻ thù của cách mạng không? Chắc chắn là những người chống Mỹ tự phát, những người chống Mỹ mà không chịu sự lãnh đạo của đảng Cọng sản, thậm chí là những ngưòi kháng chiến mà không phải là đảng viên Cọng sản.

“ Qua sông bỏ đò, đặng cá quăng câu, đặng chim bẻ ná, vắt chanh vứt vỏ. Tất nhiên. Nhưng tuyệt đối: nhân dân và những người chống Mỹ không Cọng sản không phải là đò, không phải là câu, không phải là ná, không phải là chanh. Họ là những con người, cho dù họ tự phát, cho dù họ không ở trong guồng máy, cho dù ít nhiều họ có tham vọng tính toán riêng tư, cho dù họ mơ mộng hảo huyền. Tại sao các toi lại độc quyền tính toán riêng tư, độc quyền chỉ huy guồng máy, độc quyền mơ mộng hảo huyền, mà người khác lại không được? Chẳng phải các toi đã nói rát cổ rách miệng rằng cách mạng là sự nghiệp của nhân dân đó sao?

“ Hay là các toi nghĩ: sau khi xây dựng xong xã hội Cọng sản, các toi sẽ cho không nhân loại một thiên đường, do vậy mà sá gì cái văn hiến của một dân tộc hẹp hòi, sá gì cái đói, cái khát, cái nhục, cái đau, và cả cái chết nữa của một vài thế hệ mà các toi cho là tàn dư của một nền văn minh lỗi thời, là con đẻ của đế quốc thực dân?

“Khi hết giặc, ngày đó không xa, các toi không nên thừa thắng xông lên vội mà nên đọc kỹ, nghĩ sâu hơn lịch sử dân tộc, các toi sẽ thấy:

“Ở hai đầu cuộc chiến tranh giải phóng thông thường là hai cuộc nội chiến”

“Bao giờ cũng vậy, bọn hiếu chiến, bọn bành trướng bá quyền, thực dân, đế quốc (cứ gọi như vậy) luôn chực chờ cơ hội, lợi dụng và khoét sâu các mâu thuẫn, các tranh chấp xâu xé nội bộ dân tộc để tiến hành chiến tranh xâm lược. Không có triều đại nào trong lịch sử đất nước mà không để lại cho đời sau bài học cay đắng đau lòng ấy.

“ Nội chiến – ngoại xâm, ngoại xâm – nội chiến …

“ Cứ thế mà trùng trùng duyên khởi.

“Tối qua không biết moi nghe nhớ có đầy đủ không, khi toi bảo những ngày tới, toi sẽ tất bật với công tác lực lượng thứ ba.

Người Cọng sản mà đi làm lực lượng thứ ba thì làm sao có được một lực lượng thứ ba đích thực như hai lực lượng kia? Chắc chắn là lực lượng thứ ba trá hình. Trá hình Cọng sản hay trá hình Mỹ. Trong chiến tranh, việc đội lốt, trá hình, giả danh, mạo nhận là chuyện bình thường và cần thiết cho mỗi bên. Bên nào làm tốt công tác ấy là có thêm một yếu tố để chiến thắng.

“Thế tuy nhiên, bên cạnh và tiếp liền sau mục tiêu cách mạng Dân tộc, các cậu còn có mục tiêu to lớn và cao cả tuyệt đối là cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Và để tiến hành mục tiêu này, một số người đã đứng chung chiến hào với các toi hôm nay, các toi sẽ biến họ thành kẻ thù ngày mai.

“Sau cái đêm dài nô lệ sẽ là bình minh của cuộc đấu tranh giai cấp. Cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp. Cải tạo văn hoá, văn nghệ …

“Bao nhiêu con người bị đày đoạ, bị sỉ nhục, bị giết chóc ở Nga, ở Tàu và ở cả miền Bắc. Moi biết cuộc hành trình bi thảm ấy từ Boris Pasternak, Koesler, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt … và có lẽ từ sự câm nín của cha moi ”.

“ Moi nói lại: Theo moi ở miền Nam vào cái thời điểm cuối của cuộc chiến tranh Việt Mỹ này không có lực lượng thứ ba mà chỉ có thành phần chính trị thứ ba. Tại sao moi phải nhăc đi nhắc lại nhiều lần vấn đề này? Bởi vì moi hy vọng các toi sẽ bớt ám ảnh về một lực lượng chờ chia với các toi quyền lãnh đạo đất nước, và để các toi đỡ phải tốn công sức đề phòng, đối phó với một kẻ thù ảo do quá máy móc trong suy luận và quá tha thiết bảo lưu vai trò lãnh đạo duy nhất, độc nhất của mình sau chiến tranh. Còn một lí do quan trọng, có lẽ quan trọng nhất khi moi khẳng định về một thành phần chính trị thứ ba bao gồm đại đa số quần chúng là để lưu ý các toi: cái khối lượng quần chúng đông đảo này tuy họ không đồng tình với các toi về chủ nghĩa Cọng sản nhưng họ không phải là kẻ địch. Và theo cái đạo lí bình thường họ có quyền và đồng thời có trách nhiệm trong việc hình thành đường hướng và cách thức xây dựng đất nước.

“ Suốt ngày này bà dì toi cứ nhắc đi nhắc lại câu nói của bà và những người đi chợ: Hoà bình cái đã, mọi chuyện tính sau. Câu nói cửa mệng ấy không hề đơn giản. Cái gọi là tính sau ấy, hệ trọng hàng đầu vẫn là đường hướng xây dựng đất nước sau chiến tranh. Chắc là toi không kìm dấu được sự bực mình nóng giận: Còn tính toán gì nữa, Đảng đã suy nghĩ tính toán cả rồi, chỉ sợ nhân dân không đủ sức, đủ tài thực hiện. Toi sẽ nói với bà dì như vậy bằng cái giọng hơi xẵng, toi không thấy cần phải giữ gìn lễ phép như hồi còn chiến tranh mà mỗi lần về Huế toi được chăm nuôi che chở.

“ Thôi tạm gác câu chuyện chưa tới. Chúng ta trở lại câu chuyện đã qua. Bởi chuyện qua cũng là chuyện sẽ tới.

“Sự hình thành thành phần chính trị thứ ba là kết quả của một quá trình vận động, là sự chuyển hoá tất yếu sau hàng chục năm đụng độ khốc liệt một bên là nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Cọng sản và bên kia là đế quốc Mỹ và các chính quyền phụ thuộc từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu và các bộ phận phụ thuộc khác ở miền Nam. Các bộ phận phụ thuộc ấy gồm các thành phần kinh tế tư nhân, các đảng phái, các tôn giáo. Tất cả các lực lượng lớn nhỏ trên làm thành một cái khung sườn cho mô hình dân chủ kiểu Mỹ có nhiệm vụ canh gác tiền đồn của thế giới Tự do, chống Cọng, và cát cứ. Không có một lực lượng thứ ba nào ở giữa xâm lược và chống xâm lược cả.

“Tuy nhiên, nhân dân miền Nam thì một phần theo bên này một phần theo bên kia và đa phần không theo ai cả. Có nhiều lí do để cái thành phần thứ ba thầm lặng ấy chọn lựa chỗ đứng của mình, nhưng tập trung nhất thì có hai:

— “Không theo Mỹ vì Mỹ là ngoại nhân, là kẻ can thiệp, chiếm đóng, xâm lược.

— “Không theo kháng chiến, vì kháng chiến là Cọng sản, là độc tài, là chuyên chính vô sản, vô tôn giáo. Ba thành phần dị ứng với Cọng sản nhất là: tư sản, tôn giáo, trí thức.

“ Cuộc chiến tranh Việt Mỹ, không chỉ diễn ra sau trận Ấp Bắc và sau khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời, mà thực chất nó đã diễn ra từ khi người Mỹ ủng hộ, bày mưu tính kế, nuôi dưỡng chế độ Ngô Đình Diệm tố Cọng, diệt Cọng và đặt Cọng sản ra ngoài vòng pháp luật. Ngô Đình Diệm thanh toán các đảng phái, các giáo phái và các thành phần quần chúng có quan hệ sâu sắc với Pháp (gồm cả Bảo Đại). Anh em Ngô Đình Diệm cướp bóc của cải, bách hại các nhà tư sản không cùng vây cánh , hạn chế Phật giáo và chủ trương Thiên Chúa giáo toàn trị.

“ Sau gần chín năm cai trị, chính quyền phụ thuộc Ngô Đình Diệm đã đẩy một bộ phận rất lớn quần chúng miền Nam hoặc đứng hẳn về phía người Cọng sản kháng chiến chống Mỹ, hoặc qui tụ dưới ngọn cờ Phật giáo miền Trung hình thành nên một lực lượng chính trị quyết liệt chống chế độ độc tài, hoặc tách ra khỏi chế độ mà trước đây mình ủng hộ để từng bước tham dự vào cái đám đông thầm lặng đứng giữa .

“Từ năm 1960 trở về sau, trên bình diện luật pháp của chế độ, ở miền Nam có hai lực lượng tranh hùng là các chính quyền phụ thuộc Mỹ và Mặt Trận Giải Phóng do đảng Cọng sản Việt Nam lãnh đạo: — một hợp pháp ( Cọng hoà ), và — một bất hợp pháp ( Cọng sản).

“Trên góc nhìn chính trị trong vòng luật pháp, ở miền Nam vào những năm cuối của chế độ Diệm đã phát sinh một phong trào đấu tranh của đồng bào theo đạo Phật. Động cơ gần của phong trào Phật giáo là chống chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp, bất công, kêu đòi tự do và bình đẳng tôn giáo. Phong trào không những được đông đảo Phật tử hưởng ứng mà còn thu hút nhiều thành phần quần chúng khác tham gia. Nhiều tướng lãnh, chính khách của chế độ cũng quay lưng lại với anh em nhà Ngô.

“Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng, đồng bào miền Bắc, chính phủ và đảng Cọng sản ở Hà Nội cổ vũ và ủng hộ nhiệt tình phong trào Phật giáo và xem phong trào này như là một đồng minh, một bộ phận của mặt trận chính trị đánh Mỹ.

“ Đến khi các giới cầm quyền của Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn, ở Sàigòn hoàn toàn thất vọng về anh em nhà họ Ngô thì cuộc lật đổ chính quyền này đã xảy ra. Cuộc lật đổ do các tướng lãnh của quân đội Saigòn tổ chức và phát động với sự hậu thuẫn của Phật giáo, của học sinh, sinh viên. Chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung, nhưng chế độ Việt Nam Cọng hoà vẫn còn và Mỹ vẫn là ông chủ của tiền đồn chống Cọng.

“ Phật giáo nhận mình đã nắm vai trò chính trong cuộc chính biến mà họ gọi là cách mạng 1- 11- 1963.

“ Phật giáo nhanh chóng tổ chức phát triển và kiện toàn guồng máy giáo hội thống nhất.

“ Phật giáo nóng vội và đưa người của mình vào các cơ cấu quyền lực lâm thờì của chế độ Việt Nam Cọng hoà.

“Phật giáo còn muốn có một quốc hội lập hiến, một hiến pháp mới qua bầu cử dân chủ và từ đó hình thành một chính quyền dân sự mà những nhân vật chủ chốt trong các cơ quan công quyền từ trung ương xuống địa phương là người của Phật giáo hoặc đồng tình với Phật giáo trong các tư tưởng, đường hướng về đất nước, về thế giới. Nền tảng của tư tưởng và phương lược hánh động này lập cước trên tư tưởng Vô uý, Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi của đạo Phật. Một chính phủ như thế sẽ có những cao tăng làm cố vấn, bắt tay vào công việc ổn định tình thế, xây dựng lại miền Nam, thiết lập quan hệ với miền Bắc, hiệp thương thực hiện thống nhất, đưa đất nước thoát khỏi áp lực của hai thế giới Cọng sản và Tư bản.

“Chúng ta có thể hình dung, theo dự ước của lãnh đạo Phật giáo, chủ yếu là các vị lãnh đạo Phật giáo miền Trung, sau khi hoà giải hoà hợp dân tộc và thống nhất đất nước, Việt Nam sẽ là một quốc gia Phật giáo xã hội chủ nghĩa. Việt Nam sẽ là một nước phồn thịnh, có một nền văn hoá nhân bản, nhân văn không độc tài vô thần và cũng không quá thiên trọng vật chất. Việt Nam sẽ là một trung tâm Phật giáo thế giới, sẽ là nhân tố hoá giải các xung đột đẫm máu trên bình diện toàn cầu, góp phần xây dựng một nhân loại an lạc trong một thế giới hoà bình.

“ Trong khuôn khổ cho phép của một thứ dân chủ tiền đồn kiểu Mỹ, bằng phương pháp đấu tranh bất bạo động, bằng tinh thần vô uý của đạo Phật, bằng sức nhẫn nhục chịu đựng hy sinh vô bờ bến trong truyền thống dân tộc, bằng các kỹ thuật kêu gọi, vận động, tổ chức quần chúng đấu tranh học tập được từ người Cọng sản qua sự đóng góp tích cực của rất nhiều cựu kháng chiến nương nhờ cửa Phật sau các đợt tố Cọng, diệt Cọng của Ngô Đình Diệm, phong trào Phật giáo trong quá trình đấu tranh đã phô diễn một sức mạnh kỳ lạ, một bản sắc Việt Phật tuyệt vời, gây sửng sốt cho cả thế giới — đặc biệt là nhân dân và chính phủ Mỹ.

“ Do vậy, không dừng lại ở mục tiêu tôn giáo, sau khi chế dộ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Phật giáo đã vội vã dấn thân vào một chương trình chính trị, văn hoá, xã hội đầy tham vọng, khiến nhà cầm quyền Mỹ và các bộ phận phụ thuộc chống Cọng khác ở miền Nam lúng túng lo sợ về một cuộc giáp công có thể xảy ra giữa Cọng sản và Phật giáo, nên một mặc họ ra sức dùng các âm mưu thủ đoạn gây chia rẽ, phân hoá nội bộ giáo hội, mặt khác bằng bạo lực và các phương tiện dư thừa, Mỹ và đồng minh của họ ở Sàigòn đã xuống tay đánh nát các cơ cấu sức mạnh thế tục mà Phật giáo mới gây dựng có mấy năm.

“Thế là Phật giáo, một tôn giáo bị áp bức, bị phân biệt đối xử mới vươn lên thành một lực lượng chính trị, trong bối cảnh miền Nam đang diễn ra cuộc giao tranh ngày một ác liệt giữa xâm lược và chống xâm lược, đã tạo tác nên tình trạng đại náo loạn trong lòng các đô thị — địa bàn của các thế lực phụ thuộc, chỗ dựa tin cậy của Mỹ, và đã nhanh chóng trả giá cho những tham vọng, những hoài bão vượt quá giới hạn và khả năng của một tôn giáo lấy từ bi hỷ xả và sự buông bỏ làm lẽ sinh tồn.

“ Cuộc mộng du tập thể kết thúc. Giấc mộng lớn không thành (cứu đời lầm than, hoá giải hai thế giới), giấc mộng nhỏ dang dở (thống nhất Phật giáo,biến Phật giáo thành quốc giáo, hoà giải Dân tộc, Thống nhất đất nước). Tuy nhiên nếu nhìn trên góc độ lịch sử, vô hình chung, phong trào Phật giáo từ những năm 1963 đến cuối 1966 đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ của toàn dân dưới sự lãnh đạo của đảng Cọng sản.

“Các toi nên nhớ một điều, không nhất thiết, chỉ có những lãnh tụ, những vị anh hùng, những đảng viên, những kháng chiến quân kỳ cựu mới có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Phong trào Phật giáo nói chung và Hoà thượng Thích Quảng Đức … cũng đã bày tỏ lòng yêu nước, đã góp phần to lớn theo cách riêng của mình.

“Khi tham dự vào cuộc mộng du của Phật giáo, moi đã chẳng mơ hồ gì về một kết cục bế tắc đang chờ phía trước. Tuy nhiên những ngày bị giam cầm ở nhà ngục Phú quốc, moi mới có dịp nghiền ngẫm sâu hơn những nguyên nhân thất bại của con đường Đạo pháp và Dân tộc mà các vị lãnh đạo Phật giáo miền Trung khởi xướng.

Moi không phải là Phật tử, do vậy mà mục tiêu đạo pháp đối với moi cũng tương tự như mục tiêu Xã Hội Chủ Nghĩa mà các toi thường thuyết kèm mỗi lần có dịp từ sau sáu mươi tám (chiến dịch Mậu thân).

“Đối với moi Đạo pháp và Xã Hội Chủ Nghĩa rất xa và cũng rất gần. Xa trong nhận thức và gần trong tình cảm. Không ai phủ nhận yếu tố “tình” đóng một vai trò rất quan trọng trong các quan hệ thế thái.

“ Ngoài các ngôi nhà thờ họ tộc, các đình làng, rất nhiều người Thừa Thiên Huế lớn lên, hít thở, thâm nhập một cách tự nhiên trong bầu không khí của hương trầm, chuông mõ, kinh kệ, chùa chiền và Phật tự.

“Qua lịch sử, qua văn chương, qua địa chí, qua các mối giao tiếp hàng ngày của mạ moi, của chính bản thân moi ở xóm giềng, ở trường học, ở cảnh quan và đặc biệt ở trong tù… Gần như ngày nào, ở đâu moi cũng có thể gặp được Phật cả, không những moi gặp Phật qua các Tăng Ni thỉnh thoảng giao tiếp ở chùa, ở các tổ chức từ thiện, các hoạt động xã hội, mà moi còn gặp Phật qua các Phật tử như bà Huyện (mẹ của đám Kim Lan, Nguyên Hạnh …), như anh Trung, như Trụ Vũ, như Thanh Thuyền, như Võ Đình Cường — trực tiếp hay gián tiếp, không phải bằng thuyết giáo mà bằng hơi thở sự sống . Còn cái khối thiên kinh vạn quyển của đạo Phật thì moi chưa hề đụng đến. Do vậy Đạo pháp đối với moi vừa thân quen vừa xa lạ.

“Chủ Nghĩa Xã Hội đối với moi cũng như thế. Những gì moi đọc được qua sách báo, moi nghe được qua các phương tiện truyền thông, qua các cuộc trò chuyện, tranh luận – cho dù người đối thoại, trao gởi dẫn truyền là “địch” hay là “ta”, moi cũng không chia xẻ được. Đó là phần nhận thức. Tuy nhiên Marx, chủ nghĩa Cọng sản, Chủ Nghĩa Xã Hội đối với moi lại khá gần. Có lẽ những gì gần với tên tuổi Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, cũng gần gũi đáng tin. Và bởi vì giữa Nguyễn Ái Quốc và moi còn có những con người ruột thịt, những bạn bè thân thiết, những người mà moi biết chắc họ đã đi vào cuộc kháng chiến với những động cơ trong sáng với lòng yêu nước thương nòi chứ không phải vì một lí do nào khác. Có thể họ mơ mộng, chứ họ không gian dối ích kỷ. Anh Tú moi đi kháng chiến rồi đi tập kết, đám Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngưyễn Đính, đám bạn trẻ moi (Bửu Chỉ, Võ Quê, Nguyễn Duy Hiền, Phan Hữu Luợng,Trần Đình Sơn Cước… ) và đám học trò lớp sau như Nguyễn Thị Nhân, Hoàng Thị Thọ, Phan thị Dung… là những ví dụ.

“ Những ngày bị giam ở Phú Quốc, thường xuyên bị biệt giam vì moi là một tên tù bất trị, trong cái bối cảnh khắc nghiệt của cái celulle chật chội, hôi hám tối tăm và nóng bức, moi đã chống đỡ, đã phản ứng để tự tồn bằng cách tập luyện và để tâm trí suy nghĩ miên man về nhóm từ: Đạo pháp và Dân tộc, theo như dự phóng của các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung.

“Theo moi, cả Ngô Đình Diệm, cả Phật giáo miền Trung và cả người Cọng sản các toi, tuy có những nhận thức khác nhau về dân tộc nhưng đều có một điểm chung là xem dân tộc như một phương tiện (Ngô Đình Diệm) hoặc như một chặng đầu của cuộc hành trình của mình (Phật giáo và Cọng sản). Nước Chúa của Ngô Đình Diệm, Đạo pháp của Phật giáo, Chủ Nghĩa Cọng sản của người Cọng sản Việt Nam mới là cái đích cuối cùng.

“ Câu chuyện nước Chúa của Ngô Đình Diệm đã đi vào quá khứ, chỉ để lại cho người đời sau một ký ức đáng buồn.

“ Câu chuyện Đạo pháp vẫn còn lằng nhằng chưa ngã ngũ. Sau những cuộc đấu tranh chính trị từ 1964 – 1966 với hàng trăm cuộc xuống đường, biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu, li khai và nhất là cuộc xuống đường kỳ lạ của bàn thờ, lư hương, bài vị, chuông mõ, ảnh tượng — Phật giáo đã bị đàn áp thẳng tay bởi Mỹ — Thiệu Kỳ, và bị tan rã, xâu xé, đổ nát từ bên trong. Nhưng một bộ phận lãnh đạo Phật giáo vẫn chưa buông bỏ cái khát vọng cứu nước, cứu đời bằng chuông mõ kinh kệ, bằng tinh thần vô uý bất bạo động, bằng đại hùng, đại lực, đại từ bi.

“ Theo moi, Đạo pháp dù có ưu việt đến đâu, uyên áo như thế nào cũng chỉ là một phạm trù thuộc lãnh vực tôn giáo. Tôn giáo nếu có một sức mạnh nhân bản thật sự và người lãnh đạo, người thực hành tôn giáo có nhận thức đúng đắn và tích cực đối với đất nước, dân tộc đến đâu cũng không nên gộp chung việc đạo, việc đời làm một. Đặc biệt dân tộc trong tình thế đất nước bị xâm lược là một vấn đề thuộc lãnh vực chính trị và cách mạng. Tinh thần vô uý, đại hùng, đại lực, đại từ bi chống trả với đồng đô la, với các ghế lớn nhỏ trong hệ thống quyền lực đời thường đã rất khó, huống hồ chi đương đầu với sức huỷ diệt của hàng triệu tấn bom B52, súng lớn súng nhỏ, chất độc hoá học, xe tăng, và hạm đội?

“Cuộc cách mạng Tư sản Dân Quyền tại Pháp năm 1789 đã giải quýêt triệt để những vấn đề căn bản của cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu rộng ở nước Pháp và châu Âu. Một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến khủng hoảng ấy là sự cưỡng bức, sự tiếm quyền của nhà thờ Thiên Chúa giáo trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lãnh vực chính trị, văn hoá và khoa học. Một trong những thành tựu lớn nhất của cách mạng Pháp (1789) là đánh sập quyền lực nhập nhằng giữa giáo quyền và thế quyền, cưỡng bức tôn giáo trở lại nhà thờ, trả lại các quyền lực, các của cải mà giáo hội đã tiếm đoạt lại cho nhân dân, trả lại chính trường cho các nhà hoạt động chính trị kiểu mới — những đại diện của các tầng lớp lao động tiên tiến gồm tư sản, trí thức và công nhân.

“Lúc mãn hạn tù, rời khỏi Phú quốc, trở lại đất liền, trở lại Huế, moi — một thành viên vòng ngoài của phong trào Phật giáo, ở những năm từ 1963 đến 1966, cảm thấy lòng mình có phần nhẹ nhàng thanh thản vì đã trả xong món nợ tình cảm qua mối liên hệ Dân tộc với các nhà tu hành làm chính trị viễn mơ.

“ Phong trào Phật giáo nói cho rốt ráo chẳng bao giờ nên, và chẳng có khả năng trở thành một lực lượng chính trị. Đừng nói chi đến một lực lượng chính trị gọi là “thứ ba” có tham vọng đứng trên, đứng ngoài hai thế lực tương tranh, mà xương sống của hai thế lực tương tranh ấy là bạo lực và của cải vật chất.

“ Phật giáo không có hai thứ đó — bạo lực và của cải vật chất — vậy thì Phật giáo lấy gì để nuôi dưỡng, để bảo vệ cho một thế quyền (Chính trị) ?

“ Cuộc đàn áp thẳng tay, bạo tàn của Mỹ — Thiệu Kỳ hồi 1966 đã đẩy những thành phần của phong trào Phật giáo, trong đó có moi, trở lại vị trí và chỗ đứng của mình — ấy là chỗ đứng và vị trí của đám đông thầm lặng: Thành phần thứ ba.

“ Phật giáo thì như thế.Vậy thì ở miền Nam không còn nhóm nào, nhân vật nào có khả năng, có điều kiện trở thành lực lượng thứ ba sao? Chắc chắn toi sẽ hỏi moi câu này. Bởi mỗi lần về Huế là toi say sưa kể và mô tả các cuộc đấu tranh quyết liệt của nhóm này, nhân vật nọ trong phong trào chống Mỹ, chống Thiệu — Kỳ ở Saigòn.

“Moi đồng ý với toi là những ngày sắp tới phong trào đô thị càng sôi nổi và quyết liệt hơn bao giờ hết. Và chính những cuộc đấu tranh này qua các hệ thống truyền thông sẽ tạo nên một áp lực to lớn trong dư luận quốc nội và quốc tế đối với các thế lực phi dân tộc ngày càng teo co ốm yếu ở Sàigòn và các đô thị, Tuy nhiên theo nhận định của moi trong các vận động đầy phấn khích dưới con mắt của các toi, trong cái thế trận ngày càng qui tụ nhiều màu, nhiều sắc ấy sẽ không bao giờ có được một lực lượng chính trị nào khác ở ngoài cái quỹ đạo đang vận hành theo lực hút của cuộc chiến tranh nhân dân mà đảng Cọng sản là người chỉ huy tối thượng và duy nhất. Toi thử kiểm điểm đi. Nhóm Dương Văn Minh ư? Nhóm Công giáo cánh tả của các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, và của các trí thức như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Nguyên, Diễm Châu … ư? Nhóm đối lập ở Hạ viện của Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quí Chung, Phan Xuân Huy, Kiều Mộng Thu ư? Phong trào học sinh, sinh viên ư? … Nhóm Phụ Nữ Đòi Quyền Sống của bà Ngô Bá Thành và Ni sư Huỳnh Liên ư? Phong trào Dân Tộc Tự Quyết của Luật sư Nguyễn Long ư? Tất cả các vị ấy, ai cũng nôn nóng, ai cũng dấn thân hết mình, hay tỏ ra hết mình tuỳ theo gốc gác và động cơ mà chính họ mới biết và các toi cũng biết được phần nào. Nhưng đối với người Cọng sản, đảng Cọng sản thì, một mặt cảnh giác, điều nghiên, một mặt níu bên này, kéo bên kia, thúc giục bên nọ, cốt sao cho sào huyệt của đối phương rối loạn và tan nát được chừng nào tốt chừng đó.

“Thực chất cái mà các toi dán cho nhãn mác, huyền thoại là lực lượng thứ ba bao gồm:

“— Một phần lực lượng thứ ba trá hình mà những nhân vật nòng cốt là những người Cọng sản được lệnh mai phục từ sau 1954 và được bổ sung thường xuyên trong các tổ chức, các toi gọi là công khai, biến tướng, hợp pháp hay nửa hợp pháp. Những người này luôn luôn vỗ ngực là người Quốc Gia đấu tranh vì các mục tiêu dân chủ, dân sinh, hoà bình.

“Một phần những lương tri Dân tộc trỗi dậy từ trong lòng chế độ phụ thuộc Mỹ. Do sự chuyển đổi của tình hình đất nước và thế giới, do sự đấu tranh không ngừng của bản thân và các mối quan hệ cục bộ, họ nhích từng bước, tách dần ra khỏi guồng máy phụ thuộc, lợi dụng cái gốc gác, cái thế Quốc gia sâu dày sẵn có của mình (chính trị, kinh tế, tôn giáo, trí thức), đấu tranh vì các mục tiêu trong sạch và lành mạnh xã hội ở bước khởi đầu. Bước tiếp theo là đấu tranh chống sự can thiệp ngày càng lộ liễu và trắng trợn của Mỹ, và chống chế độ phụ thuộc ngày càng đổ nát hư hỏng. Bước tiếp theo nữa là đấu tranh cho một miền Nam hoà bình, hoà hợp, một miền Nam là một phần của nước Việt Nam độc lập và thống nhất, chứ không phải là một quốc gia riêng biệt mà một thời họ đã thụ nhận và tin tưởng. Thành phần này tương đối trẻ, lớn lên sau Genève, được đào tạo hay tự đào tạo bài bản, nghiêm túc, có trình độ văn hoá cao, có lý tưởng. Ở giai đoạn cuối của cuộc hành trình của họ là chấp nhận Độc Lập, Thống Nhất, Hoà Bình dưới ngọn cờ và sự lãnh đạo của đảng Cọng sản, mặc dù đa phần trong số họ sẽ là đối tượng cải tạo, canh chừng của các toi. Bởi dưới con mắt của người Cọng sản , họ là những thành phần có khả năng, có điều kiện chia phần lãnh đạo đất nước.

“Họ là đại diện chân chính của thành phần chính trị thứ ba. (không phải là lực lượng chính trị thứ ba).

—“ Một phần là những nhân vật trung gian của cả hai phía đang chờ đợi một sắp xếp, một nâng đỡ quốc tế. Theo họ, cuộc chiến tranh này kết thúc như thế nào tuỳ thuộc tương quan lực lượng và quyền lợi của các nước lớn.

—“ Cũng còn một thành phần thứ ba là những con bài chiến lược của Mỹ hoặc là những tay trở cờ không chịu kết chùm với đám Nguyễn Văn Thiệu.

“Chắc chắn là toi biết rõ hơn moi, nên toi thử trả lời xem lấy gì để nối kết các thành phần trên làm một lực lượng chính trị? Tình tự dân tộc, tinh thần yêu nước, sự chán ghét chiến tranh một cách chung chung ư? Lấy gì để cái mà toi gọi là lực lượng chính trị thứ ba bảo vệ mình khi cần chiến đấu với hai lực lượng tua tủa bom đạn kia? Lại nữa, lực lượng chính trị thứ ba lấy gì để nuôi sống một khi những dành dụm trong gia đình sẽ cạn kiệt sau vài ba tháng, hoặc những đóng góp chia sẻ của “bạn bè” vì một lí do nào đó đứt đoạn? Và cuối cùng, lực lượng chính trị thứ ba có nơi nào làm chốn dung thân một khi bị chính quyền Sàigòn đánh bật ra khỏi địa bàn ký trú của mình? Nguyễn Hoàng còn có châu Thuận, Châu Hoá. Lưu Bị còn có Ba Thục, còn lực lượng chính trị thứ ba chỉ có cách chạy lên Lộc Ninh. Mà chạy lên Lộc Ninh thì còn đâu là thứ ba nữa!

“ Bốn yếu tố nền tảng là tư tưởng chính trị (sách lược, chiến lược), sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế và địa bàn đứng chân đều không có thì lấy gì cho một lực lượng chính trị tồn tại?

“Cũng như phong trào Phật giáo hồi 1964 – 1966, các hoạt động đối lập, tẩy chay, chống độc tài, kêu gọi chấm dứt chiến tranh, kêu gọi hoà bình, hô hào hoà giải hoà hợp dân tộc của các nhóm thứ ba đang dựa trên một điểm tựa chông chênh, mong manh và sách lược nhất thời.

— “ Điểm tựa thứ nhất là những kẻ hở pháp lí tiền đồn kiểu Mỹ mà bọn lính đánh thuê bị trói buộc vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Tại Sàigòn nơi có nhiều tai mắt của các cơ quan truyền thông quốc tế thì sự điên cuồng của con thú cùng đường sẽ bị kiềm chế, giảm nhẹ một mức độ nào đó, còn các địa phương xa xôi như Huế chẳng hạn thì sẽ có luật rừng.

— “Điểm tựa thứ hai là pháp lý hiệp định, pháp lý ngoại giao từ hiệp định Paris sắp được công bố trên bình diện quốc tế. Ở miền Nam thì chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ém nhẹm, và mặc dù các toi hả hê phổ biến, nhưng khó mà phổ cập đến đông đảo quần chúng nhân dân. Cũng như hiệp định Genève 1954, vấn đề thực hiện hay không nằm trong tay người Mỹ và Ngô Đình Diệm. Hiệp định Paris ngày nay trên đại thể quyền chủ động lại nằm trong tay Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng.

— “Điều thứ ba là sức mạnh quân sự, là bạo lực cách mạng của kháng chiến đang lớn lên từng ngày, đang tiến gần, tiến sát và âm thầm xâm nhập vào các cứ điểm cuối cùng của tiền đồn chống Cọng ở các đô thị miền Nam, đặc biệt Sàigòn.

“Quân Mỹ rút, quân Việt Nam Cọng hoà thì hụt hẫng, hết tinh thần, bấn loạn. Còn quân miền Bắc thì ở lại, đường chiến lược Hồ Chí Minh thì thênh thang ngang dọc, binh lính súng đạn, khí tài, cơm gạo tràn vào miền Nam như nước vỡ bờ. Trước hiệp định Paris người Cọng sản bị đặt ngoài vòng pháp luật. Sau hiệp định Paris con trai Hà Nội sẽ đi mua sắm và ngắm nhìn con gái Huế ở đường Trần Hưng Đạo, ở chợ Đông Ba, và những đứa cháu nội, cháu ngoại có thể tìm thăm ông bà tổ tiên ở Vỹ Dạ, ở Kim Long và cả trong Đại Nội.

“ Người Cọng sản các toi và cả nhân dân hai miền Nam Bắc còn mong chờ gì hơn khi mà lực lượng kháng chiến, lực lượng cách mạng ở trên hai thế chiến lược trong đánh ra và ngoài ào ào đánh vô? Mỹ và chính quyền Việt Nam Cọng hoà chỉ còn có một con đường duy nhất là bay lên trời.

“ Cũng may mà chỉ có một lực lượng thứ ba trong kịch bản, một lực lượng thứ ba ảo, một lực lượng thứ ba do cài đặt bơm thổi, giả danh, mạo nhận. Nếu không thì:

“ Giả dụ có một lực lượng thứ ba thật, một thứ Tây Thục của thời Tam quốc bên Tàu, một chân ở giữa hai chân Ngô — Nguỵ, thì tình hình đất nước, tình hình miền Nam sẽ giằng co năm mười năm nữa hoặc lâu hơn, và lấy gì mà bảo đảm mọi chuyện sẽ được dàn xếp tương nhượng trong hoà bình? Hay là xương máu còn đổ nữa cho đến trận cuối cùng! Và khi đó chỉ giữa những người Việt Nam với nhau.

“Moi nói thêm một lần cuối, không có một lực lượng thứ ba nào trong các cuộc chiến tranh chống đuổi xâm lược . Mà chỉ có thành phần chính trị thứ ba, trong đó có moi. Và rồi cái thành phần chính trị thứ ba ấy cũng sẽ tiêu vong luôn một khi cuộc chiến tranh kết thúc. Khi ấy chỉ còn một nước Việt Nam, một dân tộc Việt Nam dưới dưới sự cai trị của đảng Cọng Sản. Không còn một, hai, ba gì hết. Đất nước sẽ Độc lập, Thống nhất và Hoà bình. Đất nước là một, Dân tộc là một như lời cụ Hồ đã nói.

Chu Sơn




* VT: Trịnh Vĩnh Thụy, vợ Ngô Kha

[xem tiếp Phần II]

Phần II

“ Tuy nhiên Chủ Nghĩa Xã Hội và đảng Cọng Sản có phải là một với nhân dân không? Đó là vấn đề, một vấn đề rất mới và không kém phần khắc nghiệt.

“ Bà dì toi, mạ moi và hết thảy mọi người trong đa số nhân dân thầm lặng đang nói: Hoà bình cái đã, mọi chuyện sẽ tính sau. Chữ “sau” trong câu nói cửa miệng ấy chỉ là một khoảnh khắc. Liền sau cái khoảnh khắc ấy, nhân dân Việt Nam, từ người lãnh đạo cao nhất đến người dân vô danh tiểu tốt, đều sẽ là người Tự Do. Mọi người có trách nhiệm và có quyền tham dự vào việc định hướng cho đất nước mình.

“Moi không có ý định làm rối trí toi khi nêu ra một vấn đề có tính lí thuyết vào cái thời điểm mà những con người hành động như toi cần phải tập trung mọi sức lực để đánh trận cuối cùng. Một vận động viên đang chạy nước rút sắp tới đích, bất cứ sự vướng bận nào cũng là sai lầm không thể tha thứ. Moi biết như thế

“ Tuy nhiên câu hỏi toi đặt ra cho moi, đối với moi, lại là một vấn đề không chỉ là sự lựa chọn có ý nghĩa hành động mà còn là vấn đề thuộc lãnh vực lí thuyết.

“Lên núi hay không lên núi đối với một người đã khẳng định từ đầu là chỉ đi với người Cọng sản các toi đến hết cuộc hành trình Độc lập, Thống nhất và Hoà bình như moi, không chỉ đơn giản như một tiều phu hay một du kích, một cán bộ lên xuống núi vì nhu cầu kinh tế hay vì nhiệm vụ cần phải thi hành.

“Từ lâu vị trí chiến đấu của moi là trường học là đô thị, và mãi cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh, thì vị trí đó cũng không thay đổi. Rất nhiều lúc moi hoang mang, lo sợ trước những đe doạ chết người từ chính quyền Việt Nam Cọng hoà. Và đã có lúc moi đã nghĩ đến việc tạm lánh một nơi nào đó như vào Sàigòn chẳng hạn hay lên chiến khu như đề nghị của các toi. Nhưng vào Sàigòn hay lên chiến khu thì xem như rời bỏ vị trí của mình. Vị trí của moi như thế nào, các toi và chính quyền này hiểu rõ hơn cả moi. Vì hiểu rõ như thế nên cả hai phía đều có hai biện pháp ứng xử khác nhau. “ Phía các toi thì chỉ phối hợp, gợi ý từ xa, các mối ràng buộc không vượt quá quan hệ tình cảm, bạn bè. Và như thế xét trên nhiều mặt có lợi cho phong trào và thoải mái hơn cho cá nhân moi. Về phía chính quyền Việt Nam Cọng hoà, họ thà đối diện với một Việt Cọng, dễ ứng xử và ít nguy hiểm hơn với một kẻ nội thù như moi.

“Một cán bộ Việt Cọng không thể đứng lớp từ trường này qua trường nọ, tháng nọ qua năm kia, trước hàng ngàn học sinh con em của hàng ngàn gia đình đủ mọi thành phần trong thành phố, kêu gọi Mỹ rút quân, phê phán tố cáo chế độ Việt Nam Cọng hoà hiếu chiến lệ thuộc, tay sai, tham nhũng, vi phạm các quyền dân chủ dân sinh. Và trong những trường hợp cần thiết, do yêu cầu của kháng chiến, thì phát động bãi khoá, xuống đường, mitting, biểu tình…, nhân danh là thành viên, là bộ phận của nền dân chủ tư sản và trên lý thuyết được hiến pháp, luật pháp của chế độ Việt Nam Cọng hoà bảo hộ, được dư luận “tiến bộ” trong hệ thống thế giới tự do đồng tình, can thiệp. Và đặc biệt, tạo tác nên một tình trạng rối loạn giữa lòng đối phương, gây chia rẽ hoang mang dao động trong hàng ngũ đối phương, tạo cơ hội cho “phe ta” tấn công đối phương trên cả hai mặt trận quân sự lẫn chính trị.

“ Ở lại vị trí của mình là lí do thứ nhất moi không lên núi.

“ Lí do thứ hai là moi không muốn lún sâu vào guồng máy, mà chắc chắn như đinh đóng cột là đảng Cọng sản sẽ lái đất nước tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa sau khi đã tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng. Để chúng ta không nợ nần gì với nhau, và cũng để chúng ta – các toi và moi – tránh được một tình trạng khó xử khi mỗi người là một công dân tự do đứng trên cái nền tảng chung là Dân tộc, Đất nước mà thể hiện trách nhiệm và quyền hạn của mình.

“ Chúng ta cùng nhìn về tương lai chứ không phải moi nhìn về tương lai theo ngón tay chỉ đường của đảng Cọng sản.

“ Toi yên chí là moi không làm rối trí các toi bằng lí thuyết trừu tượng. Có lẽ moi đã lạm ngôn khi dùng các từ: làm rối trí các toi. Moi xin rút lui câu vừa nói. Không ai có thể làm rối trí các toi bằng bất cứ một lí thuyết trừu tượng nào trong cảnh huống đảng Cọng sản là chủ nhân ông của tất cả mọi thắng lợi. Tâm trí các toi đã tràn đầy, viên mãn, không thể nhận thêm bất cứ thứ gì. Và cũng trong cảnh huống ấy, bất cứ thứ gì không phải từ miệng các toi nói, từ tay các toi chỉ cũng đều là tàn dư của đế quốc, thực dân, phong kiến, là CIA mai phục, là phản ứng giai cấp.

“Hay là các toi nói sá gì một cá nhân là moi, một cá nhân còn bảo thủ quá nhiều tàn tích của phong kiến, một cá nhân được đào tạo hít thở trong nền giáo dục văn hoá thuộc địa, một đệ tử của chủ nghĩa tư sản phản động, một trí thức thủ lĩnh của các phần tử tiểu tư sản quá quen với những cuộc xuống đường đấu tranh vì các mục tiêu chiến thuật: dân chủ, dân quyền trong chế độ “Mỹ Nguỵ”. Moi là một tên phản động mới trong cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa.

“Moi chấp nhận hết tất cả mọi thuộc từ tệ hại mà các toi dành cho moi, bới các toi đã sáng chế những ngôn từ ấy chẳng phải để mà chơi. Người Cọng sản rất nghiêm túc trong tất cả các cuộc đấu tranh của mình. Ngôn từ cũng là súng đạn, gươm giáo trong các cuộc đấu tranh ấy. Moi chấp nhận hết, bởi moi biết các toi không thể nhìn trí thức, nhìn quần chúng, nhìn đất nước, nhìn thế giới theo một nhãn quan nào khác sau một cuộc trường chinh nhọc nhằn khổ nạn đến như vậy. Moi chấp nhận hết, vì moi biết sẽ không có bất cứ sức mạnh nào có thể làm các toi thay đổi mục tiêu của mình. Trừ thực tế.

“ Các toi đã có những kinh nghiệm từ vụ Nhân Văn giai phẩm, do vậy mà các toi sẽ không để cho một tình trạng tương tự xảy ra ở miền Nam sau chiến tranh. Moi cũng có những hiểu biết về vụ Nhân Văn giai phẩm, từ các cuộc nổi dậy ở Budapest hồi 1956, ỏ Nga hồi Stalin, ở Trung quốc thời cách mạng Văn hoá, ở Tiệp khắc hồi 1968 … Do vậy mà moi cũng sẽ không làm bất cứ việc gì để cho tình thế thêm rối ren đổ vỡ không cần thiết. Đất nước, Dân tộc cần hàn gắn, nghỉ ngơi, hoà hợp sau chiến tranh.

“Một triều đại bắt đầu cũng như một mũi tên được bắn đi từ cây cung. Mũi tên bay xa hay gần tuỳ theo sức bật của cung thủ, tuỳ theo lực hút của đia cầu và cũng tuỳ theo tác động của thời khí. Đời sau muốn học lịch sử, có thể tránh được những kinh nghiệm xương máu.

“ Cung thủ trong trường hợp này là đảng Cọng sản, một đảng đã hình thành, tôi luyện, lớn lên cùng Dân tộc, với Đất nước suốt bốn mươi năm chống ngoại xâm và thắng lợi vang dội trước những kẻ thù xâm lược giàu mạnh, hung hãn nhất của thời đại. Một đảng như thế, một cung thủ như thế khi đã quyết thì tất nhiên Chủ Nghĩa xã Hội nhất định phải bắt đầu song hành với cuộc chiến tranh giải phóng và sẽ thừa thắng xông lên liền sau khi nền độc lập được vãn hồi, thống nhất được thực hiện. Cũng như mũi tên nhất định sẽ bay đi từ đôi tay của người cung thủ.

“ Không gì, không ai có thể cản trở, làm thay đổi quyết tâm của đảng Cọng sản trước tình và thế này.

“Moi sẽ làm gì, sẽ sống ra sao trong cái đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa của người Cọng Sản các toi?

“ Và không chỉ có moi, mà hàng mấy chục triệu người Việt Nam, kể cả những người đã góp từng giọt máu, từng hạt lúa, từng đứng chung với các toi trong một chiến hào sẽ đặt câu hỏi này.

“ Toi thử hình dung một đa số tuyệt đối chỉ được quyền nhìn theo hướng ngón tay chỉ của một thiểu số, đi đứng nằm ngồi, cử động chân tay, làm việc, suy nghĩ, nói năng, cảm xúc, vui buồn theo mệnh lệnh và sự ban phát của một thiểu số, thì đó là cái gì vậy?

“Mỗi lần nghĩ về một ngày nào đó không xa, là một cán bộ giáo dục đến trường đến lớp với những giáo trình đã được soạn sẵn, moi chỉ có việc đọc nguyên xi từ đầu đến cuối không sót một câu, không sai một chữ, không thiếu một dấu phết (dấu phẩy) và moi sẽ cho điểm tốt, điểm xấu các học trò mình theo tiêu chí đó, moi ớn lạnh cả người.

“Không, nhất định moi không thể là một cán bộ giáo dục và học trò moi không thể là những cái băng cassette chỉ biết thu phát những gì moi đọc, moi kiểm tra.

“ Không, nhất thiết moi không là cán bộ gì cả, moi là một thầy giáo, một trí thức như ông nội moi muốn, như đám học trò moi đã tin yêu, như mạ moi đã từng chăm sóc, che chở và hy vọng.

‘Trong chiến tranh moi là một thầy giáo kháng chiến ở cương vị của mình. Và trong hoà bình moi sẽ là một thầy giáo, một trí thức tham dự với ý thức tự do và niềm tự hào vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Học trò moi, bạn bè cùng thế hệ của chúng và những thế hệ tiếp theo sẽ là những con người tự do. Chúng sẽ hạnh phúc nhiều hơn moi, bởi điều kiện và bối cảnh chúng sống sẽ tốt hơn những gì moi đã trải nghiệm. Đáng buồn, đây chỉ là cuộc viễn mơ.

“Thực tế là, trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa nhất định sẽ tới theo như ý chí của đảng Cọng sản, nếu không là thầy giáo, là trí thức, moi có thể làm được gì?

“Làm tổ trưởng tổ hợp tác thợ hớt tóc ư?

“Làm quản lý hợp tác xã mua bán ư?

“Bửa củi, xách nước, lau sàn trong nhà của các cán bộ lãnh đạo để đổi lấy miếng bánh từng ngày như bác sĩ Zivago của Boris Pasternak ư?

“Hay gánh phân, bắt ốc, chăn trâu như Quang Dũng, Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Đang ư …?

“ Cả những việc ấy cũng chẳng để dành cho moi nữa, bởi thù ngoài đã quét. Đặng cá, thì bẻ câu thôi.

“Đất của nhà Chu. Trời của nhà Chu. Trăm họ của nhà Chu. Thóc của nhà Chu. Rau trên núi Thú Dương cũng là của nhà Chu …

“ Vậy thì còn gì cho kẻ sĩ như Bá Di, Thúc Tề sống nữa?

“ Không chỉ có Bá Di, Thúc Tề, không chỉ có những người như moi mà tất cả hàng chục triệu người thuộc thành phần chính trị thứ ba hôm nay, và là mấy chục triệu người Việt Nam ngày mai trên mọi miền đất nước sẽ không có một cuộc sống bình thường, bình dị như họ đã hằng ao ước trong suốt hàng trăm năm nô lệ, nếu đảng Cọng sản, bằng ý chí của mình, quyết gắn kết Dân tộc với Chủ Nghĩa Xã Hội.

“ Giành lại đất nước, dành lại trăm họ trên đầu ngọn súng. các toi thuờng nói một câu đại loại như thế. Câu nói này chỉ đúng một nửa. Cuộc chiến tranh nhân dân mà đảng Cọng sản phát động và lãnh đạo đến thắng lợi cuối cùng không chỉ nhờ có súng đạn. Nhưng khi tàn cuộc chiến tranh nhân dân các toi sẽ biến câu nói chỉ đúng một nửa ấy thành chân lí, thành kim chỉ nam: Cai trị đất nước, ổn định trăm họ cũng trên đầu ngọn súng thôi. Nếu không dùng súng đạn thì lấy gì sai bảo trăm họ như một bầy nô lệ?. Lời nói thật thà và thẳng thắn này sẽ khiến toi phẫn nộ, căm giận, mà chưa làm toi hết lí lẽ:

— “ Bọn chủ nô sử dụng nô lệ để thoả mãn lòng tham và những lợi ích riêng tư của chúng. Đảng Cọng sản quản lí con người, sử dụng sức lao động và tất cả mọi tài sản khác vì mục đích chung. Mục đích sẽ biện minh cho phương tiện. Không thể đánh đồng bọn chủ nô với đảng Cọng sản được. Chỉ có bọn phản động mới cá mè một lứa như thế”.

“ Tạm thời moi tin lời toi. Vì bây giờ là chiến tranh. Tất cả sức người, sức của đều dồn cho kháng chiến. Đến khi hết chiến tranh, đất nước đi vào làm ăn xây dựng, lấy gì để bảo đảm cái chí công vô tư trong lòng người Cọng sản? Lấy gì để hạn chế lòng tham và sự lạm quyền nơi người Cọng sản khi chính người Cọng sản áp đặt lên nhân dân cái quyền toàn diện và tuyệt đối của mình? Học thuyết đức trị cực đoan đã phá sản ngay từ khi thầy Khổng còn tại thế. Và cái học thuyết pháp trị nửa vời của nhà Tần đã đào mồ chôn cả lí thuyết gia và con cháu của bạo chúa. Thương Ưởng, Hàn Phi Tử và cả Tần Nhị Thế đều cùng chung số phận. Sau Khổng Tử hơn 2500 năm, sau Tần Thuỷ Hoàng gần 2300 năm mà người Cọng sản các toi chỉ biết thi hành một thứ chính trị vá víu giữa đức trị cơ hội (khi nào cần thì nói chuyện đạo đức) và bê nguyên xi cái pháp trị nửa vời (mọi người bình đẳng trước pháp luật trừ Tần Thuỷ Hoàng — trừ đảng Cọng sản).

“ Vì khẳng định quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của mình mà trong chiến tranh chống ngoại xâm, đảng Cọng sản đã đẩy một bộ phận quần chúng rời khỏi hàng ngũ kháng chiến, thậm chí còn có một bộ phận khác chạy hẳn về phía xâm lược.

“ Một mai khi đất nước Độc lập, Thống nhất, trước sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng Cọng sản, nhân dân không biết chạy đi đâu nữa cả — vì nhiều lí do, trong đó có lí do run sợ trước bạo lực cách mạng — họ trở thành thầm lặng một thời gian, cho đến khi không còn chịu được nữa thì chuyện gì sẽ xẩy ra, chắc toi biết được rồi: Đất nước suy sụp và e rằng không tránh được nội chiến.

“ Nghĩ đến nội chiến mà moi run bắn cả người, cũng như khi moi nghĩ về Chủ Nghĩa Xã Hội vậy.

“ Cái vòng luẩn quẩn — nội chiến — ngoại xâm — độc lập — nội chiến … luôn là một định mệnh khắc nghiệt ám ảnh đất nước dân tộc mãi vậy sao?

“ Chắc là toi sẽ phùng mang trợn mắt phun vào mặt moi nhiều thứ cho hả giận. Trong rất nhiều trường hợp ngôn ngữ chưa đủ để bày tỏ nỗi sân si của con người. Toi nghĩ: làm gì mà một đảng đã trải qua nhiều chặng đường oanh liệt như đảng Cọng sản, một đảng đã đưa đường chỉ lối cho nhân dân đánh thắng liên tiếp hai tên thực dân đế quốc giàu mạnh hung tợn nhất thời đại mà để cho đất nước rơi vào tình trạng suy sụp và nội chiến? Lòng tốt của đảng đâu? Trí thông minh và tài thao lược của đảng đâu? Niềm tin, dũng khí và nghị lực của đảng đâu? Súng đạn, phương tiện quân sự nhiều vô số kể của hai thế giới, của hai phe gom lại sau chiến tranh để đâu?

“ Những câu hỏi toi đặt ra không khó trả lời cho toi và cho cả moi.

“ Đối với toi, câu trả lời đã có trước khi câu hỏi được đặt ra: Câu trả lời đã có từ khi đảng Cọng sản được thành lập và được củng cố vững chắc qua từng giai đoạn của cuộc kháng chiến trưòng kỳ và những thắng lợi vinh quang. Bây giờ thì toi khẳng định thêm một lần nữa:

“ Khó như đánh Tây, đuổi Mỹ mà đảng còn làm được. Còn việc gì khó hơn mà đảng không làm được?

“Câu nghi vấn khẳng định của toi không thuyết phục được moi. Moi đồng ý đánh Tây đuổi Mỹ rất khó. Bản thân moi vô cùng cảm phục và biết ơn những người Cọng sản đã chỉ đường dẫn lối cho cả dân tộc trong hai cuộc kháng chiến. Nhưng ở đời còn những việc khó chứ không chỉ có hai việc như toi thường kể lể. Giành thiên hạ khó đã đành. Nhưng trị thiên hạ đâu phải là việc dễ? Ai bảo là đánh được Tây, đuổi được Mỹ thì có thể làm bất cứ công việc gì là nói càn. Toi nhìn lại lich sử đời Tây Sơn mà coi. Ai chống ngoại xâm giỏi bằng Quang Trung Nguyễn Huệ? Nhưng ổn định việc nhà thì ông bó tay.

“ Vả lại, việc khó là việc có thể làm được. Người này không làm được, lúc này không làm được thì người kia, lúc khác làm được. Lấy ví dụ việc đánh Tây, suốt gần 80 năm kể từ khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, rất nhiều phong trào yêu nước, nhiều cuộc nổi dậy mưu cầu độc lập nhưng đều thất bại. Đến khi ông Hồ Chí Minh, đảng Cọng Sản xướng xuất và lãnh đạo thì thành công. Đảng Cọng sản và dân tộc đã làm một việc khó. Cực kỳ khó. Đuổi Mỹ là một việc cực kỳ khó thứ hai.

“ Tuy nhiên có những việc ở ngoài khả năng khó dễ. Có những việc không thể làm được. Bất cứ ai cũng làm không được, kể cả đảng Cọng sản.

“ Việc không làm được moi muốn nói ở đây là việc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa.

“ Căn cớ duy nhất là: Dù đảng Cọng sản có quyết tâm đến thế nào đi nữa mà nhân dân không đồng tình cũng đành chịu.

“ Tại sao nhân dân không đồng tình?

“ Lý do đơn giản và dễ hiểu là khi đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối thì không ai còn một chút quyền tự do nào nữa cả.. Tự do kinh tế: không, mà tự do tinh thần cũng không nốt. Các toi bao giờ cũng nhắc lại câu nói của cụ Hồ là “ không có gì quí hơn độc lập — tự do ”. Cái khái niệm Độc Lập, Tự Do mà ông Hồ nêu lên không chỉ là tương quan giữa các quốc gia dân tộc, mà còn hàm chứa trong các mối quan hệ giữa người và người trong cùng một nước.

“ Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo. Trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa ở Nga, ở Tàu và ở miền Bắc, việc “thực” nằm trong tay đảng, việc “đạo” nằm trong đầu của đảng, thì nhân dân chỉ còn là một bầy đàn được nuôi sống chứ không phải là những người có quyền được sống. Các nhóm từ được nuôi sống và quyền được sống có nội dung khác nhau một trời một vực. Đó là sự dị biệt giữa bọn tay sai và người kháng chiến. Bọn tay sai được nuôi sống bởi bọn cướp nước, bọn xâm lược. Còn người kháng chiến thì chiến đấu để giành quyền được sống cho dân tộc trong đó có mình.

“Và chăng, không những chỉ có nhân dân mới không đồng tình, mà rồi trong đảng Cọng sản lần hồi cũng sẽ có những người không đồng tình với Chủ Nghĩa Xã Hội. Bởi mục đích, động cơ đầu tiên của người Cọng sản là giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Không có lí do gì một khi dân tộc được giải phóng mà nhân dân lại bị nhốt cả. Khi đảng Cọng sản giành lấy quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối trong xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa là đã nhốt nhân dân rồi. Điều bi đát là người nhốt, và người bị nhốt, mới hôm qua thôi, đã cùng ở chung một chiến hào chống xâm lược.

“ Dường như Marx đã nói đâu đó rằng trong các chế độ, các xã hội người nhốt người, người áp bức bóc lột người – không ai thành người cả. Nô lệ không đã đành. Ông chủ cũng không.

“ Thế đó, bởi tuyệt đại đa số nhân dân muốn làm người tự do cho nên nhất định đảng Cọng sản không làm được Xã Hội Chủ Nghĩa.

“Tuy nhiên có một việc rất khó, khó không thua chống Tây, đuổi Mỹ mà đảng Cọng sản có thể làm được, và chỉ có đảng Cọng sản mà thôi, là giải phóng mình, giải phóng nhân dân ra khỏi cơn mộng du tập thể, trả lại độc lập tự do cho nhân dân, để Chủ Nghĩa Xã Hội, lí tưởng Cọng sản và đảng Cọng sản Việt Nam tồn tại trong ký ức Dân Tộc và Nhân Loại những dấu ấn tráng lệ một thời. Thời cơ là một yếu tố quan trọng trong việc tranh thiên hạ và cả trong việc cai trị thiên hạ.

“ Lần bị bắt gần đây nhất, trước khi được trả tự do, moi có gặp Liên Thành tại văn phòng của nó. Nó mời moi hút thuốc, uống nước và nói chuyện. Câu chuyện đại ý như thế này:

“ Tôi đã từng là học trò của thầy không phải nửa chữ, một chữ mà những hai niên khoá. Thầy dạy tôi môn Quốc văn lớp đệ ngũ mỗi tuần sáu giờ và môn công dân mỗi tuần một giờ ở lớp đệ tứ.

“ Vì nghĩa thầy trò nên tôi tha cho thầy về lần này, và chỉ lần này thôi. Tôi là trưởng ty cảnh sát, trách nhiệm của tôi là bảo vệ an ninh trật tự, bảo vệ sự tồn tại của chế độ trong cương vị của mình. Những năm còn trên ghế nhà trường, tôi đã không nghe lời thầy như các học trò khác để chống phá chế độ. Tôi có những lí lẽ của tôi. Mấy năm trở lại đây chúng ta lại gặp nhau trong một cảnh ngộ tại ty cảnh sát này. Tôi ra lệnh bắt thầy, và thầy là tù nhân của tôi. Tôi đã làm hết sức mà không lay chuyển được quyết tâm của thầy. Thôi thì việc ai nấy làm, đường ai nấy đi. Tôi nói lại: Lần này trả tự do cho thầy vì nghĩa cũ. Thầy nhớ cho, chỉ lần này thôi. Từ đây về sau nếu thầy cứ tiếp tục cùng với đám học trò của thầy tiếp tay cho Cọng sản chống phá chế dộ, tôi sẽ không nương tay. Tôi cũng muốn nói với thầy điều này trước khi thầy ra về: Có bao giờ thầy tự hỏi trong chế độ Cọng sản mà thầy đang góp hết sức để cho mau tới đó, họ sẽ đối xử ra sao với những người tự tung tự tác như thầy đã hành xử trong chế độ này?…”

“ Những gì Liên Thành mô tả về chế độ Cọng sản không mới mẻ gì đối với moi. Ở một khía cạnh nào đó – khía cạnh tiêu cực – trong chế độ Cọng sản – moi còn biết nhiều hơn nó, một kẻ chống Cọng điên cuồng — tất nhiên nhiều hơn toi, một kẻ đến với chủ nghĩa Cọng sản như một tin đồ tôn giáo.

“ Trước đây đã có lúc moi xếp toi bên cạnh Liên Thành để xem giữa hai người có cái gì giống nhau, có cái gì khác nhau? Moi nhìn qua nhìn lại thấy không có gì giống nhau cả. Gia cảnh, tính tình, xu hướng sống, thái độ sống, khác nhau nhiều quá.

“ Nhưng rồi sau cái ngày rời ty cảnh sát với những lời tuyệt tình của Liên Thành, moi mang máng thấy có cái gì giống nhau giũa hai người. Lúc đầu mang máng thôi. Càng về sau càng sáng tỏ. Cái giống nhau giữa hai người khác biệt như nước với lửa các toi, là moi không thể sống với ai được cả.

“ Với Liên Thành là lúc này, lúc nó níu kéo một cách tuyệt vọng một thế lực phi lí và bạo tàn: bọn xâm lược Mỹ.

“ Với các toi chưa phải là lúc này, mà đợi đến khi Mỹ cút — Nguỵ nhào, và đảng Cọng sản đưa cả nước tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa.

“ Một người khi đã biết trước cái chết không thể tránh khỏi như moi, lâm thế toi, toi sẽ sử dụng cái tự do cuối cùng của mình như thế nào?

“— Để cho Liên Thành nó giết vì mục tiêu cá nhân, hèn nhát của một tên tay sai cùng đường?

“— Hay để cho các toi giết nhân danh cái thiện, cái tiến bộ, cái lí tưởng, cái tất yếu Xã Hội Chủ Nghĩa ? Người Cọng sản khi bất đắc dĩ phải giết ai đó thì đương nhiên y là một tên tồi tệ, một tên không đáng sống, một tên làng bỏ họ từ.

“ Thiếu gì những chi tiết trong đời moi để các toi sử dụng các cơ quan truyền thông mà các toi độc chiếm để rao truyền trong khắp thiên hạ ở cái thành phố nhỏ bé này, ở cái miền Nam tội nghiệp này rằng cái tên Ngô Kha có bao nhiêu vấn đề nghiêm trọng. Các toi chỉ cần thêm, bớt, sửa đổi một vài chi tiết là moi sẽ có một lí lịch xứng đáng với bất cứ mức độ trừng phạt nào.

“ Chẳng hạn gia đình nội ngoại mấy đời phong kiến quan lại

“ Chẳng hạn anh em họ hàng làm tướng Nguỵ ác ôn.

“ Chẳng hạn chửi Mỹ Nguỵ thẳng thừng, xúi giục học trò bãi khoá xuống đường mà chỉ bị bắt qua quít rồi vẫn tiếp tục đi dạy lãnh lương.

“ Chẳng hạn chỉ cần lật ngược cái biện chứng: Yêu nước tất yêu Chủ Nghĩa Xã Hội, không yêu Chủ Nghĩa xã Hội là không yêu nước. Mà từ không yêu nước đến Việt gian, đến CIA mai phục mấy hồi?

“ Toi biết không, vào những thời điểm phong trào lên cao, moi ít khi về nhà vào buổi tối vì sợ bọn cớm phục ở những góc đường vắng . Moi ở lại đâu đó. Ở trụ sở Tổng hội, ở thư viện Đại học, ở nhà một vài người bạn hay nhà một đứa học trò mà bọn cớm ít nghi ngờ nhất. Nhà Vĩnh Phối chẳng hạn. Nhà Đức Di Lặc ở tiệm buôn Nam Hải chẳng hạn. Nhà bà dì toi ở An Cựu chẳng hạn. Sáng hôm sau moi về nhà rất sớm lúc trời còn mờ tối. Bà chị moi mở cửa. Mạ moi chờ sẵn phía sau. Chị moi nói suốt đêm bà không ngủ, cứ đi tới đi lui, thắp hương van vái trước bàn thờ. Đợi moi dựng xe xong, mạ moi ôm chầm lấy moi, đưa tay sờ đầu sờ mặt, nắn nót tay chân xem có sức mẻ u bướu gì không? Mấy năm nay bà vẫn như thế, Tuổi già sức yếu, mắt kém, lòng thương và nỗi lo cho sự an nguy của moi càng tăng vì tình thế, vì sự đe doạ của nhà cầm quyền càng khắc nghiệt. Nhưng thương và lo cho moi là một khía cạnh, mà không can ngăn và chừng mực nào đó khuyến khích moi dấn thân vào cuộc tranh đấu là khía cạnh khác của tâm can bà. Không riêng gì những bà mẹ Huế như mạ moi, mà hầu hết rất nhiều bà mẹ Việt Nam mà lịch sử đã tôi luyện qua hàng ngàn năm khổ nạn đã không xem đứa con là của riêng một mình mình, một gia đình mình. Và đặc biệt đã không giản lược nó thành một của báu mãi mãi cần được nuôi sống cần được bảo vệ trong vòng tay của mình. Năm trước một người bà con trong họ, tướng Ngô Du, đến thăm và gợi ý với mạ moi là bằng cách nào đó khuyên can để moi trở lại làm một giáo sư bình thường, một kẻ ăn cây nào rào cây đó, và nếu muốn đi con đường chính trị thì anh em có thể giúp nhau …

“Trước đó đã nhiều lần qua những người thân trong họ, Ngô Du cũng gởi lời đại loại như vậy. Lần này mạ moi nói thẳng với Ngô Du: “Cám ơn ông tướng đã quan tâm đến tình thâm máu thịt. Nhưng câu tục ngữ ông tướng vừa nhắc hoàn toàn không đúng cho anh Ngô Kha nhà ni, và xin lỗi ông tướng tui có nói khó nghe thì ông cũng không nên chấp người già. Cả ông tướng và cả Kha nhà ni chỉ có một cây cần phải rào, cần phải giữ, cần phải chăm bón là cây Việt Nam. Ông tướng tuổi với anh Tú nhà ni. Hồi nhỏ các anh chơi với nhau rất thân. Lớn lên mỗi người mỗi ngã. Ông tướng đi lính cho Tây. Anh Tú nhà ni đi theo Việt Minh đánh Tây. Bây giờ ông làm tướng ăn lương Mỹ. Anh Tú không biết sống chết nơi nào, đang ở miền Bắc hay vào Nam đánh nhau với Mỹ, với ông tướng. Tui là mẹ, gần hai mươi năm nay tui chỉ mong nước nhà thống nhất, anh Tú nhà ni trở về, anh em thôi đánh nhau.Từ mấy năm nay anh Kha nhà ni có làm việc gì đó gây hại cho ông tướng, làm ông tướng không bằng lòng, làm cho tui ngày đêm lo lắng mất ăn mất ngủ, nhưng xét cho thấu tình đạt lí thì cả anh Tú, anh Kha nhà ni đều cùng làm một việc như ông tướng đã nhắc nhở: “ ăn cây nào, rào cây đó”.

“ Có điều cái cây theo ý ông tướng khác với cái cây của ông cha và anh em nhà ni. Tui già quá rồi, ông tướng thì trăm công nghìn việc, chắc là họ hàng chẳng có dịp gặp nhau lần nữa. Tôi nói lần cuối cùng để cám ơn ông tướng và cũng để ông tướng thôi vướng bận với những tính toán tình cảm chẳng đến đâu….”.

“ Cuối cùng Ngô Du không thuyết phục nửa, mà doạ dẫm:

“ Rứa bác không sợ tai hoạ xảy ra cho anh Ngô Kha bất cứ lúc nào ạ?

“ Tui sợ, sợ lắm. Sợ đêm sợ ngày, sợ tháng sợ năm. Thương con đứt ruột, nhớ con khô gan, nhưng làm sao bây chừ. Tui đẻ chúng ra, tui nuôi chúng lớn để chúng làm người. Mỗi người sống và chết theo cái mệnh của mình. Ông tướng có cái mệnh của ông tướng. Anh Tú, anh Kha nhà ni có cái mệnh của anh Tú, anh Kha nhà ni. Tui chưa hề nghĩ đến việc khuyên anh Kha nhà ni bắt chước ông tuớng mà “ăn”, mà “rào” cái cây khủng khiếp lủng lẳng bom đạn Mỹ ấy. Con Hùm chết để da, con Người ta chết để tiếng. Có bà mẹ nào không muốn con mình được sống yên lành. Nhưng không phải vì sự yên lành ấy mà bà mẹ lại đi xúi con mình ham sống, sợ chết, bất chấp để tiếng xấu muôn đời sau …”

“ Moi sinh năm1935, năm ni xấp xỉ cái tuổi mà Khổng Tử bảo là không hoài nghi về mình nữa. Moi chưa biết hết các khái niệm của từ bất hoặc của ông thầy vĩ đại này. Nhưng sau gần mười lăm năm bước vào cuộc hành trình nhiều lận đận lắm chông gai, khổ nạn để đi tìm và khẳng định thân phận kẻ sĩ, và đặt kẻ sĩ là mình ấy ở giữa đất nước vào cái thời điểm rất khó có một hình dung từ ngắn gọn để mô tả cho chân xác. Moi không hề bắt chước bà Huyện Thanh Quan và đám hủ nho Bắc Hà vào đầu thế kỷ 19 để chỉ thấy đất nước như là Một vũng Tang thương nước lộn trời, cũng không nhớ tiếc cái quá khứ huy hoàng một đi không trở lại của giai đoạn thịnh thời nhà Hậu Lê. Moi cũng không còn muốn bắt chước Cao Bá Quát mà mộng mị Quyết xoay bạch ốc lại lâu đài. Moi ý thức rất rõ cái hạn chế lich sử, cái hạn chế địa chính trị, cái hạn chế trình độ văn minh, nhất là sức sống của tuyệt đại đa số nhân dân trong một đất nước vừa mới vượt thoát nô lệ, chiến tranh trong lạc hậu và đói nghèo.

“Moi nghĩ, sau chiến tranh, vấn đề lớn nhất và huyết mạch không phải là học thuyết này, ý thức nọ, mà là tiếp tục củng cố nền độc lập quốc gia, bước đầu đặt nền móng cho các quyền công dân cơ bản làm cốt lõi để phát triển đầy đủ các quyền con người. Không phải ngày một ngày hai mà làm được cái công việc thiên nan vạn nan này. Cái công việc mà ở nước Pháp, ở châu Âu, ở cái nôi của chế độ Cọng hoà và nền sản xuất đại công nghiệp phải mất hàng hai trăm năm kể từ 1789,và phải kinh qua không biết bao nhiêu sai lầm, tội ác (bóc lột, đàn áp lao động, tiến hành chiến tranh thực dân, xâm lược, và gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới).

“Cũng như thế, thống nhất đất nước, lập lại hoà bình không chỉ là vấn đề lãnh thổ, vấn đề chấm dứt chiến tranh với các thế lực thù địch, thiết lập quan hệ hữu hảo với bên ngoài, mà cốt lõi phục hồi sức dân, hoà hợp với các thành phần quần chúng trong tình thương yêu, trong ý thức công bằng, tôn trọng lẫn nhau, xoá bỏ tận gốc rễ sự phân biệt các thành phần quần chúng (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) là tàn dư của những thực tế các sách lược và biện pháp chiến tranh của cả hai bên. Và đặc biệt là từng bước giải thể các khái niệm tuyệt đối và toàn diện của đảng cầm quyền. Có làm như vậy mới đáp ứng các nguyện vọng sâu xa nhất của nhân dân và thực hiện lí tưởng, hoài bão của người Cọng sản như lời tuyên bố của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong bản tuyên ngôn Độc lập và như ba mục tiêu của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cọng Hoà: Độc lập — Tự do — Hạnh phúc.

“ Toi thấy đó, khi đảng Cọng sản thực hiện chuyên chính vô sản, khẳng định vai trò vị trí thống soái của mình trong việc lãnh đạo quốc gia, quản lí và điều hành đất nước theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa một cách toàn diện và tuyệt đối thì có thể đạt được các mục tiêu mà moi vừa nêu ra không?

“ Dĩ nhiên là không rồi.

“ Chắc chắn là toi sẽ chẳng thấy ở nơi lập luận của moi một chút sự thật và thiện chí nào, bởi vì vào lúc ấy, lúc các toi say sưa với chiến thắng, các toi không muốn nghe bất cứ một tiếng nói nào, không muốn thấy bất cứ một thứ ánh sáng nào ngoài tiếng nói và ánh sáng của chủ nghĩa Marx – Lenin, của đảng Cọng Sản vô địch. Và tất nhiên các toi gạt phắt qua một bên, hoặc nếu cần thì tiêu diệt moi với những tội lỗi như moi đã cảm nhận và đã nói ở trên. Trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa của các toi, hoặc moi sẽ sống như một tên nô lệ, hoặc sẽ bị giết chết như một tội đồ.

“Moi nhắc lại, cái giống nhau giữa Liên Thành và toi là moi không sống được với ai cả.

“ Tuy nhiên có một cái khác biệt rất sâu sắc về cái chết của một con người là moi, một trí thức, khi bị bọn Liên Thành giết vì quyền lợi cá nhân của nó và quyền lợi của bọn tay sai, quyền lợi của cái cây mà mạ moi mô tả là lủng lẳng bom đạn Mỹ, sẽ có lợi cho phong trào. Các toi sẽ có thêm cái cớ để làm rối loạn sào huyệt đối phương, phát động đấu tranh, tố cáo đối phương phá bỏ hiệp định Paris, giết hại người thuộc lực lượng thứ ba, vi phạm dân chủ, dân quyền.

“ Toi thấy đấy, cái sống, và cả cái chết nữa, của mỗi người trong cuộc chiến tranh này đều có giá của nó và đều có những tác động khác nhau. Bất cứ một cuộc dấn thân nào cũng đòi hỏi trước hết một chọn lựa trí tuệ, một dũng khí để thực hiện, và một tình yêu vượt qua cái riêng tư, hội nhập vào trong cái chung. Và không chỉ là sự sống, mà là cái chết của một số trường hợp lại đóng góp nhiều hơn cho cuộc kháng chiến. Mạ moi, gia đình moi, bạn bè moi, hàng chục ngàn học trò của moi qua nhiều năm gắn bó, và cũng có thể cả anh Tú moi nữa đang ở đâu đó trên đất nước này, sẽ thương khóc nhớ tiếc moi. Tất cả mọi người trong sâu thẳm tâm can họ, họ đau đớn mất đi một người ruột thịt, một bằng hữu, một ông thầy đã sống mà không để lại điều gì khiến họ phải hổ thẹn.

“ Còn trường hợp thứ hai, nhân danh cái tốt lành, cái tiến bộ, cái vĩ đại của cuộc cách mạng xã Hội Chủ Nghĩa mà các toi sẽ giết moi, lâm thời thì các toi có cái cớ để biện chính cho hành động của mình, để các toi yên tâm trong chốc lát. Ngoài ra không lợi lộc, tốt đẹp gì cho ai cả. không cho các toi, không cho mạ moi và gia đình moi, bạn bè, học trò moi, lại càng không cho cái chung to lớn mà các toi nhân danh.

“ Moi nhắc lại lần thứ một ngàn, lần thứ một triệu và có thể thì nhiều hơn thế nữa: Marx và chủ nghĩa Cọng sản, đã đóng góp vô cùng to lớn cho sự phát triển trí tuệ nhân loại với phương pháp luận biện chứng và với chất men tôn giáo lí tưởng về một thế giới đại đồng đã thu hút, đã tạo niềm tin, đã tập hợp nhiều phần tử ưu tú của đất nước và nhân loại hình thành nên một đảng, một phe trong điều kiện, thời điểm lịch sử đen tối nhất của dân tộc, đã cùng với dân tộc hoàn thành mục tiêu, khát vọng lớn nhất, cao quí nhất là đánh đuổi ngoại xâm, dành lại Độc lập, thực hiện Thống nhất đất nước. Nhân dân Việt Nam và cả thế giới nữa đã và sẽ ghi nhận chân lí này. Nhưng mục tiêu thứ hai là giải quyết nghèo đói, thiết lập công bằng, tiến bộ xã hội, tạo dựng hạnh phúc cho trăm họ thì cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa sẽ không giải đáp được gì. Những giải pháp của Thương Ưởng, Hàn Phi Tử đời Tần, Vương An Thạch đời Tống bên Trung Hoa và Hồ Quí Li trong lịch sử Việt Nam đều thất bại trong đau thương và dẫn đến mất nước (trường hợp Hồ Quí Li). Không phải các ngài ấy thiếu thện tâm, thiếu ý chí, thiếu hoài bão khát vọng to lớn, mà các ngài ấy chỉ thiếu một điều là bất chấp trăm họ, lơ mơ về nhân tình thế thái.

“ Thế đó, cái chết của moi và cũng có thể của nhiều người khác nữa sẽ vô ích đối với sự nghiệp cứu nhân dân, cứu nhân loại của các toi. Chỉ một thời gian ngắn sau cái chết của moi thôi, các toi sẽ thấy tài thao lược, ý chí sắt đá, niềm tin vững chắc và cả công nghiệp to lớn của đảng Cọng sản trong chiến tranh không bảo đảm cho sự thành công của cuộc cách mạng long trời lở đất mà các toi đã xốc nổi lùa đẩy nhân dân tiến lên. Và khi ấy, không ai trên đất nước này đau khổ bằng các toi. Và chính các toi đã làm cái việc mà kết quả đi ngược lại những ước mơ, những khát vọng ban đầu của mình: cứu nhân độ thế.

“ Cái chết của moi, đối với mạ moi và đối với đám học trò, bạn bè của moi cũng là một kết cục chẳng hay ho gì, thậm chí còn là một điều sỉ nhục to lớn đối với họ. Mạ moi đã nói với tướng Ngô Du câu tục ngữ: “Con Hùm chết để da, con Người ta chết để tiếng”. Mạ moi dư biết khi moi hay bất cứ ai tham dự vào cuộc đấu tranh là lành ít dữ nhiều. Bà thường đọc nho nhỏ câu thơ của Tố Hữu: Khi dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề cổ súng kề vai. Bà nói với Ngô Du cái mệnh của mỗi người là thế. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng mấy đời, viết và đọc được chữ Hán, thuộc truyện Kiều không sót một câu, đương nhiên bà hiểu thế nào là mệnh trời theo quan điểm Nho giáo. Tuy nhiên chữ mệnh mà mạ moi dùng khi nói chuyện với Ngô Du không hàm triết lí đạo Nho mà chỉ diễn đạt một khái niệm về sinh mệnh tất yếu của mỗi người Việt Nam trước cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Một mặt bà muốn nói với Ngô Du là cái sống cái chết của một tên lính khố xanh, một viên tướng (như Ngô Du) ăn lương Mỹ giết hại đồng bào, chống lại đất nước dân tộc, hoàn toàn trái ngược với cái sống cái chết của những người kháng chiến. Mặt khác bà chấp nhận cái chết của những đứa con, những giọt máu của bà với điều kiện cái chết ấy không để lại tiếng xấu cho muôn đời sau.

“ Thế đó, khi bà mẹ đồng tình và chia sẻ sự chọn lựa, sự gắn bó sinh mệnh của cá nhân với sinh mệnh của tổ quốc, bà không muốn con bà phản bội lại sự chọn lựa gắn bó thiêng liêng cho dù phải hy sinh. Đạo lí, tâm tình của những phụ nữ như mạ moi là như thế. Tổ quốc là con, là chồng, là anh em, là những con người thuộc về kháng chiến. Và ngược lại những người rụôt thịt và tất cả những gì liên quan đến kháng chiến đều là một phần của Tổ quốc.

“ Mạ moi, những phụ nữ cùng cảnh ngộ, những học trò đã theo moi dấn thân vào những cuộc đấu tranh, sẽ không đủ sức chịu đựng tình trạng chia lìa đổ vỡ giữa con người mà họ hằng thương mến, tin yêu với cách mạng, với kháng chiến mà họ tôn sùng ngưỡng mộ.

Bởi cách mạng, kháng chiến là một thực thể thiêng liêng cao đẹp vượt lên trên hết mọi thứ thiêng liêng cao đẹp mà họ nâng niu, vun xới, bảo vệ và tham dự.

“ Nếu mạ moi, đám học trò moi tin vào các cáo buộc của các toi để cho cái chết của moi danh chính ngôn thuận theo những kịch bản của các toi thì sự mất mát, đau đớn của họ to lớn và sâu nặng biết dường nào. Đó là một khả năng. Khả năng thứ hai là mạ moi, đám học trò của moi không tin vào những lời bịa tạc, vu khống, mạ lị quanh cái chết của moi, thì chính các toi đã vô hình chung nhú mớm cho họ niềm tuyệt vọng và sự sụp đổ tâm hồn.

“Không, nhất định moi không để cho bản thân mình rơi vào cái tình thế bi kịch ấy. Moi phải thoát ra thôi, mặc dầu mỗi lần nghĩ đến sự tàn ác, cái dã man của đám Liên Thành, moi đã vô cùng khiếp sợ.

“ Moi không có tự do đầu tiên sự ra đời – làm người. Tuy nhiên moi có tự do cuối cùng. Tự do cuối cùng của moi là sự lựa chọn giữa hai cái chết. Khi một con người còn có được sự lựa chọn, cho dù là sự lựa chọn giữa hai cái chết, thì con người ấy chưa phải là kẻ tuyệt vọng.

“ Lời trăn trối cuối cùng của ông nội moi về việc chọn nghề, chọn nghiệp cho anh em moi trước khi nhắm mắt, gợi ý của cha moi về vị trí, chức năng của kẻ sĩ, lương thức của mạ moi về lẽ sống của con người ở đời, sự trong sáng hồn nhiên và khát vọng giá trị của các thế hệ học trò moi và rất nhiều những nguồn mạch sâu kín của mỗi người trong chúng ta ở hai bờ biên giới, ở phía trước phía sau thực tại lịch sử đã chia sẻ cùng moi sự yếu đuối, nỗi khiếp sợ, thôi thúc và thêm sức cho moi dứt khoát chọn lựa cuối cùng này. Moi sẽ chết trên đường của thành phố thân yêu chỉ vì các mục tiêu và khát vọng của dân tộc.

“Mong ước cuối cùng của moi là một lúc nào đó mỏi mệt, rã rời trước cái mù mịt của cơn mộng du sát cạnh mép bờ của vực thẳm, toi sẽ nhớ lại, tìm lại những tờ giấy gói trà Tam hỷ và những bao hương này, đọc lại một lần nữa mấy lời tâm tình của một người bạn sắp chết. Con chim sắp chết cất tiếng hót bi ai. Con người sắp chết nói lời phải chăng. Lời nói phải chăng của moi là trong hoà bình xây dựng, không có quyền lực nào đối với nhân dân là toàn diện và tuyệt đối cả.

“ Nhân dân Việt Nam đã trao cái toàn diện và tuyệt đối cho đảng Cọng sản trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ và quá ư gian khổ rồi. Nhân dân đã cống hiến từng hạt gạo, từng giọt máu và cả tự do của họ cho nền Độc Lập, cho Thống Nhất, cho Hoà Bình. Sức mạnh, sự chịu đựng, hy sinh của mỗi con người, mỗi thành phần, và cả cộng đồng chẳng phải bao giờ cũng vô hạn. Đảng Cọng sản vào một thời điểm nhất định đã tập hợp, rèn đúc nên một sức mạnh to lớn từ những người con ưu tú của dân tộc và đã làm hết sức mình cho những mục tiêu cao cả cấp bách của đất nước. Những người con ưu tú của dân tộc không phải là những ông Thánh và sức mạnh của đảng Cọng sản không hề là của kho vô tận, mà đã có lúc đầy, ắt sẽ có lúc vơi.

“Có hạt gạo nào, giọt máu nào trong nhân dân là để tái tạo lại sức mạnh dân tộc, phục hồi lại vóc dáng đất nước, để Dân tộc, Đất nước hội nhập và sống phải chăng với thiên hạ chứ không phải vét hết để xây dựng thiên đường hoang tưởng.

Nụ cười là của nỗi đau
Nước mắt là của mai sau Thiên đường

“ Đã có lúc moi thưởng thức và đồng cảm với toa hai câu thơ này. Cho đến khi Võ Đông kể là toi đã sáng tác nó trong hoàn cảnh nào thì những cảm nhận thẩm mỹ bị tiêu tan hoàn toàn, thay vào đó là những ray rức, đau đớn, thống hối và ở mức độ nào đó, moi đã khinh bỉ, ghê tởm chính mình và cả toi nữa.

“Võ Đông kể vòng vo, chủ ý nêu một ví dụ và không hề nhắm vào ai qua câu chuyện cả. Nhưng sau mấy ngày kiểm nghiệm, moi thấy mình có tham dự vào cái chết của một con người, một thanh niên háo hức sống, một chiến sĩ đã lao vào cuộc chiến tranh với tất cả sự trong sáng và nhiệt tình của tuổi trẻ. Câu chuyện xảy ra vào cuối tháng trước: Một tối không trăng, đội công tác được lệnh từ trên núi về đón một người khách đã hẹn từ thành phố. Đội công tác nằm chờ tại một nơi nào đó ở một xã cận sơn. Một đêm. Hai đêm. Ba đêm. Người khách từ thành phố sai hẹn. Đội công tác lên núi và bị phục kích giữa đường. Người chiến sĩ trẻ tuổi nhất bị thương nặng, đồng đội đưa lên núi và chết sau đó. Lúc bây giờ toi ở trên núi, chứng kiến những tình tiết, những trối trăn và cả những thương tiếc mất mát của anh em đồng đội. Và toi đã làm thơ để bày tỏ khát vọng của mình. Võ Đông thì kể chuyện qua quít cốt để nói vòng vo về những hiểm nguy, khổ nhọc của đội công tác đường dây. Các toi đã không nói thẳng trách nhiệm của moi đối với cái chết của người trẻ tuổi, con trai của một bà mẹ nào đó, là người yêu của một cô gái nào đó, là thành viên của một đơn vị chiến đấu và biết đâu anh ta không phải không là học trò của moi. Moi không trách Võ Đông và cả toi nữa, bởi các toi đang thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Nhưng moi khinh bỉ toi bởi toi đã nhân cái chết của một con người – cũng có thể là ngàn triệu con người — chỉ để bày tỏ một khát vọng hảo huyền. Không, moi không bao giờ chia sẻ với toi và bất cứ ai về một thiên đường được xây bằng bạo lực, bằng máu và nước mắt. Máu, nước mắt và sự đỗ vỡ đã quá đủ để dành lại nước, dành lại người, dành lại nhà, dành lại cuộc sống phải chăng cho Dân tộc trong cộng đồng nhân loại. Do vậy mà trước đó moi đã đồng tình, chia xẻ với toi về một thái độ lạc quan kiêu hãnh của cả dân tộc chiến đấu để vượt qua đêm dài nô lệ.

“Về phần moi chưa bao giờ như lúc này, moi tự vấn, tự chê trách, tự khinh bỉ mình về sự liên đới của bản thân dẫn đến cái chết của người thanh niên kia. Điều tệ hại trong cung cách hành xử của moi là sự dùng dằng nửa ở nửa đi. Đúng ra moi phải dứt điểm ngay từ đầu, là không đi, là ở lại vị trí chiến đấu của mình…”

[“Bức thư” của Ngô Kha gởi Chu Sơn chấm dứt ở đây – ghi chú của BBT Da Màu]


*

Ở lại vị trí chiến đấu. Trong chiến tranh, ở lại vị trí chiến đấu cho dù bối cảnh và điều kiện có khắc nghiệt như thế nào thì hầu hết người kháng chiến cũng quyết một bước không đi, một li không rời, ngoại trừ trường hợp có lệnh trên hoặc trường hợp chẳng đặng đừng. Trường hợp anh Kha là một ngoại lệ. Mệnh lệnh của anh là chính bản thân anh, là lương thức của anh, là cá tính của anh, là tâm thể anh.

Anh Kha không phải là người của tổ chức, anh không muốn ở trong guồng máy. Lãnh đạo của Thành uỷ cũng không muốn thế. Một thực tế mới nghe qua có vẻ nghịch lí là một người ở ngoài tổ chức của kháng chiến, không nhận bất cứ một mệnh lệnh, một sự chỉ đạo trực tiếp nào của Thành uỷ hay của một cán bộ chuyên trách lại có nhiều hiệu quả hơn bất cứ một cán bộ tuyên truyền nào trong mặt trận đấu tranh chính trị tại các đô thị.

Cả anh Ngô Kha, cả lãnh đạo Thành uỷ đều tận dụng cái tư thế hợp pháp của một công dân dưới chế độ Việt Nam Cọng hoà theo một thế cách, một nghệ thuật, một thủ pháp riêng mà cùng nhằm đến mục đích chung. Đặc biệt người công dân ấy là một trí thức, một nghệ sĩ, một thầy giáo uy tín, thần tượng của hàng năm bảy trăm học trò trực tiếp và hàng ngàn bạn học của họ ở các trường trung, đại học trong thành phố trọng văn chuộng sĩ như thành phố Huế, là một của quí theo sự đánh giá của Thành uỷ, và là con ngựa thành Troie theo sự ví von của chúng tôi. Thành uỷ đã gìn giữ, vun xới, bảo vệ cái của quí ấy theo cách riêng. Cái cách riêng ấy chỉ là một trong ngàn triệu cách riêng mà đảng Cọng sản Việt Nam đã vận dụng theo từng thời đoạn, từng tình huống, từng con người trong suốt quá trình lãnh đạo chiến tranh. Và theo tôi. nếu nhìn xuyên suốt và toàn cảnh thì từng cách riêng hay cả ngàn triệu cách riêng to nhỏ lớn bé khác nhau gộp chung lại, kết hợp lại thành một chỉnh thể vừa khoa học vừa nghệ thuật, vừa ma thuật … Đó là tư tưởng, đường lối, sách lược, là chiến lược, chiến thuật và thủ đoạn chiến tranh của người lãnh đạo kháng chiến: Đảng Cọng sản.

Tôi xin phép mở một ngoặc đơn để làm rõ thêm tại sao trong chiến tranh chống xâm lược, những người như anh Kha vào một thời điểm nào đó được đánh giá như là một của quí của phong trào đô thị? Và những của quí ấy của phong trào lại nằm ngoài tổ chức? Trong khi đó, bao giờ đảng Cọng sản cũng coi cơ cấu tổ chức như là xương sống, là linh hồn của lực lượng cách mạng? Và nhân trường hợp anh Ngô Kha tôi xin nói rõ hơn cái thế hợp pháp lợi hại như thế nào trong thế chiến quốc — thế xuân thu?

Tôi không trả lời riềng rẽ, mà tôi gộp chung các câu trả lời thành một nhận định vừa khái quát vừa cụ thể:

Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta. Đến bây giờ hai mươi năm sau ngày đất nước độc lập, cũng còn nhiều người không đồng tình với nhận định của tôi. Họ nói: làm gì có ngoại xâm. Do vậy mà cũng chẳng có chuyện đất nước độc lập hay không độc lập. Chỉ có người Thiên Chúa giáo đến đây rao giảng tin mừng, người Pháp đến đây để truyền bá nền văn minh của nước mẹ đại Pháp cho dân Anamit ngu dốt, người Mỹ đến đây để giúp đồng bào miền Nam học tập văn minh Hoa Kỳ, truyền bá tư tưởng tự do dân chủ, giúp nước miền Nam chống lại nước Cọng sản miền Bắc xâm lược, vô thần và độc tài. Tôi nhắc lại nhận định này không phải để tranh luận cãi vã với bất cứ ai vào một thời điểm không cần thiết nữa. Tôi chỉ nhắc lại với mục đích là cho dù các sách lược khai hoá, đề huề, tự do dân chủ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ có là chiêu bài là huyền thoại như một học giả gốc gác Thiên Chúa giáo- giáo sư Nguyễn Văn Trung- đã vạch mặt và tố cáo thì nó vẫn có một phần thực chất của nó. Chẳng hạn thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân nhưng cũng mở trường học, cho phép mở nhà xuất bản, phát hành sách vở báo chí. Theo như lập luận của ông Trung thì việc mở trường học, cho phép nhà xuất bản, phát hành báo chí là huyền thoại, còn chính sách ngu dân là thực chất. Chính nghĩa Quốc gia của Bảo Đại là huyền thoại, sách lược khai thác thuộc địa của thực dân Pháp là thực chất. Trong thời thuộc Mỹ các chính quyền từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu đều có một Hiến pháp Cọng hoà và Dân chủ, nhưng từ đường lối đến biện pháp chủ yếu là phát xít và độc tài. Cũng theo lập luận của ông Trung thì Hiến pháp Cọng hoà Dân chủ là huyền thoại, và độc tài phát xít là thực chất. (thành thật mà nói cuốn sách Chủ Nghĩa Thực Dân — Thực Chất và Huyền Thoại của giáo sư Nguyễn Văn Trung và những sách báo có nội dung tương tự của các trí thức, các linh mục tiến bộ trong đạo Công giáo đã giúp chúng tôi rất nhiều trong công tác phong trào đô thị). Điều tôi muốn nhấn mạnh tiếp theo : sách lược, phương pháp cách mạng của đảng Cọng sản là, một mặt tiến công trực tiếp vào thực chất của Chủ nghĩa Thực dân Đế quốc, đồng thời tương kế tựu kế lấy gậy ông đập lưng ông, sử dụng các chiêu bài, các huyền thoại của đối phương làm vũ khí chống lại chúng. Các cuộc vận động đấu tranh dân chủ dân sinh hồi năm1936, phong trào Hoà Bình hổi 1954, 1955, 1956… phong trào Thanh niên, học sinh, sinh viên Sàigòn góp sức cùng phong trào Phật giáo từ 1963 – 1966, Phong trào phụ nữ đòi quyền sống, phong trào Dân tộc Tự Quyết, phong trào chống độc tài quân phiệt, phong trào Tự do báo chí và các cuộc xuống đường ăn xin của ký giả Sàigòn, phong trào đòi thi hành hiệp định Paris, phong trào Nông dân trên khắp miền Nam đấu tranh trong suốt hàng chục năm với nhiều mục tiêu, hình thức khác nhau… là những ví dụ điển hình cho chiến lược gậy ông đập lưng ông. Nhận định của đảng Cọng Sản và sách lược tiến công địch bằng vũ khí địch chứng tỏ rằng trong các chiêu bài, các huyền thoại mà đối phương sử dụng vì mục tiêu cướp nước và nô lệ dân tộc ta, có một mức nào đó yếu tố tích cực của nó.

Như thế bản thân chế độ chính trị Việt Nam Cọng hoà qua các thời kỳ từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu hàm chứa hai yếu tố mâu thuẫn đối nghịch, mà xoắn xít, gắn bó với nhau như hai nguyên lí âm dương: yếu tố huyền thoại và yếu tố thực chất. Yếu tố thực chất là độc tài phát xít, lệ thuộc, bè phái, cá nhân. Yếu tố huyền thoại là thể chế Cọng hoà Dân chủ lý tưởng.

Chế độ Cọng hoà là chế độ không có vua, là chế độ của dân, do dân và vì dân. Không có một quyền lực nào áp đặt trên đầu trên cổ nhân dân cả. Thay vì Vua làm chủ tuyệt đối và vĩnh viễn trong chế độ quân chủ phong kiến, thì chế độ Cọng hoà do dân làm chủ thông qua hiến pháp, luật pháp do những cơ quan dân cử làm ra. Hiến pháp do Quốc hội Lập hiến và luật pháp do quốc hội Lập pháp. Hiến pháp là giềng mối, là các nguyên lí hình thành nên cốt lõi, huyết mạch và diện mạo quôc gia. Luật pháp là cụ thể hoá giềng mối và các nguyên lí dó bằng những văn bản luật pháp qui dịnh các quyền hạn nghĩa vụ công dân, chức năng nhiệm vụ các cơ quan công quyền… Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, mọi công dân đều có quyền tự do bất khả nhượng như tư hữu, ngôn luận, tín ngưỡng, cư trú, làm ăn, đi lại, phát biểu, truyền bá tư tưởng bằng các phương tiện truyền thông… Và các nghĩa vụ… Theo đó các cơ quan công quyền như Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp được phân lập, quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan cũng được qui định rạch ròi, minh bạch để tránh lạm quyền và dẫm đạp lên nhau. Có thể nói trong chế độ Dân chủ Cọng hoà quyền lực tối cao là luật pháp. Các cơ quan công quyền và người đứng đầu của nó chỉ là kẻ được uỷ nhiệm, thừa hành và chịu sự ràng buộc chế tài bởi Hiến pháp, luật pháp và kể cả tai mắt của nhân dân thông qua quyền lực thứ tư: Báo chí. Chế độ Dân chủ Cọng hoà là sản phẩm của xã hội công nghiệp, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật phát triển, là nhu cầu tất yếu vừa là động lực thúc đẩy sự tiến bộ, giàu mạnh của châu Âu, Bắc Mỹ (Hoa Kỳ) và nhiều nước khác. Các nước phương Tây (cụ thể liên đới với Đông Dương, Việt Nam là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) sử dụng nó (chế độ Dân chủ Cọng hoà) làm chiêu bài (huyền thoại), mồi nhử, và một bộ phận người Việt Nam làm công cụ tiến hành xâm lược, khai thác, can thiệp vào nội tình Việt Nam, đàn áp nhân dân Việt Nam.

Bản thân thể chế Dân chủ Cọng hoà xét theo các nguyên lí hàm chứa trong đó không có điều gì là xấu nếu không nói là một thể chế mang nhiều yếu tố tích cực, tiến bộ, nhân bản, phản ảnh những ước mơ, nguyện vọng sâu xa nhất của đại đa số nhân loại bị bóc lột, áp chế. Tuy nhiên nó là sản phẩm của một trình độ văn minh, là nhu cầu của đại đa số quần chúng đã đạt được các nhận thức và khả năng của trình độ văn minh ấy.

Nó không phải là món hàng xuất nhập cảng. Và một khi là mồi nhử, là chiêu bài, là huyền thoại của bọn cướp nước và tay sai thì nó trở nên nguy hiểm. Nó là con dao trong tay của lũ sát nhân. Luật số 10/59 đặt Cọng sản ra ngoài vòng pháp luật của tập đoàn Ngô Đình Diệm, luật bầu cử, ứng cử, luật báo chí thời Nguyễn Văn Thiệu là những ví dụ điển hình cho sự lương lẹo, vận dụng tuỳ tiện thể chế Dân chủ Cọng hoà vào các mục tiêu bất chính của bọn cầm quyền Việt Nam Cọng hoà.

Những người có gốc rễ sâu xa với phong kiến và não trạng tôn giáo Trung cổ như Ngô Đình Diệm và anh em nhà ông có thể là hoàng đế, là lãnh chúa, nhất thiết khó có thể là công dân bình thường của một nước Cọng hoà.

Những con người xuất thân từ lính khố xanh khố đỏ như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm khi được người Mỹ trao cho quyền lực thì thể chế Dân chủ Cọng hoà trở thành những cản trở, những trói buộc trước những tham vọng, những thèm khát vô độ của một bọn quân phiệt.

Một nghịch lí trong bối cảnh chính trị miền Nam từ 1954 – 1975 là có một thể chế Dân chủ Cọng hoà và một chế độ Việt Nam Cọng hoà cùng tồn tại như hai nguyên lí âm dương cực kì bất quân bình do người Mỹ áp đặt, chài mồi, nhào nặng và vận hành.

Sự có mặt của quan thầy, đồng dôla, binh lính bom đạn Mỹ và các tập đoàn độc tài phong kiến, quân phiệt phát xít từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu, tự bản chất không những chống lại đất nước, nhân dân Việt Nam mà còn chống lại các nguyên lí cơ bản của thể chế Dân chủ Cọng hoà.

Suốt quá trình vận động và lãnh đạo kháng chiến, đảng Cọng sản Việt Nam đã phân biệt được, và trong chừng mực nào đó, đã tách rời một bộ phận quần chúng ( thường gọi là nhân dân) ra khỏi quĩ đạo phi nghĩa của các chế độ, chính quyền, các tập đoàn tư bản bóc lột, xâm lươc và tay sai. Sự phân biệt và các sách lược thích ứng đã thuyết phục, thu hút sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo nhân dân miền Nam, những thành phần tiến bộ trong nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới cho chính nghĩa và sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam.

Tuy nhiên người Cọng sản nói chung, đảng Cọng sản Việt Nam nói riêng đứng trên quan điểm Marxisme và những hạn chế do những vận động khách quan của tình hình chính trị thế giới trong suốt năm mươi năm giữa của thế kỷ 20 đã không phân biệt hai thực thể khác nhau là thể chế Dân chủ Cọng hoà với các chế độ, các nhà nước, các tập đoàn kinh tế chính trị nhân danh thể chế đó. Có thể ví : thể chế Dân chủ Cọng hoà là nguyên lí cơ học,. còn việc chế tạo máy hơi nước, đóng tàu thuỷ, vận hành, lèo lái và sử dụng với những mục đích khác nhau là cả một lịch sử của rất nhiều người từ kỹ sư, thuyền trưởng, chủ tàu và lái tàu. Chẳng phải vì máy móc trục trặc, tàu gặp nạn hay tàu lọt vào tay bọn cướp biển mà huỷ bỏ luôn phát minh lí thuyết của ngành cơ học?

Không thể phủ nhận một thực tế là thể chế Dân chủ Cọng hoà sản sinh ra chủ nghĩa Tư bản, chủ nghĩa Tư bản sản sinh ra chủ nghĩa Phát Xít, chủ nghĩa Thực dân Đế quốc, chủ nghĩa Thực dân Đế quốc sản sinh ra các chính quyền phụ thuộc độc tài. Tuy nhiên không nên vì cái biện chứng đơn giản ấy mà gộp chung các thứ trên làm một thực thể duy nhất để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc và xây dựng đất nước bằng cuộc tổng tiến công tiêu diệt luôn thể chế Dân chủ Cọng hoà. Cũng có thể có thêm một liên tưởng nữa: thể chế Dân chủ Cọng hoà là rừng, chủ nghĩa Tư bản và các thứ tệ hại từ đó phát sinh như hùm beo, lang sói, rắn rít. Và như thế không nên vì hùm beo, lang sói, rắn rít xâm hại, đe doạ mà đốt luôn cả rừng. Bởi rừng không chỉ sinh sản ra hùm beo, lang sói, rắn rít. Vả lại các ác thú và sinh vật độc hại không mãi mãi đe doạ và là hiểm hoạ của con người. Mà rồi con người có thể khống chế, ngăn chận, chuyển hoá và sử dụng nó. Bằng chứng là nhờ có chủ nghĩa Marx – Lénin, cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa phong trào lao động trên bình diện toàn cầu, phong trào chống phân biệt chủng tộc mà thế giới Tự Do Dân Chủ đã chuyển hóa để ngày có một bộ mặt nhân bản hơn.

Ở miền Nam trước năm 1975, học sinh trung học, sinh viên các trường đại học Văn khoa, Luật khoa, trường Khoa học chính trị kinh tế (ở Đà Lạt), trường Quốc gia hành chánh đều được truyền đạt và nghiên cứu với những trình độ khác nhau các kiến thức cơ bản của học thuyết Tư sản Dân quyền, thể chế Dân chủ Cọng hoà. Đương nhiên việc truyền bá các kiến thức học thuật này không ngoài các mục đích chính trị phản động của giới cầm quyền. Nhưng không phải vì vậy mà những nguyên lí nền tảng của thể chế Dân chủ Cọng hoà bị xuyên tạc, vo tròn bóp méo hay tô hồng chuốc lục. Vả lại chính quyền phản động và lạc hậu không dại gì tuyên truyền rộng rãi thể chế này, bởi vì thực chất họ là những người chỉ lợi dụng nó làm chiêu bài và huyền thoại. Họ rất sợ một sự so sánh giữa huyền thoại và thực chất.

Họ sợ Cọng sản đã đành, đồng thời họ cũng sợ nhân dân nhân danh các nguyên lí của thể chế Dân chủ Cọng hoà đấu tranh chống lại họ.

Phải chăng nội dung và phương pháp của mặt trận chính trị trong suốt cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ tại các đô thị miền Nam không ngoài các ngưyên lí của thể chế đó: Độc lập Dân tộc, Dân quyền Tự do, Dân sinh Hạnh phúc.

Thể chế Dân chủ Cọng hoà trong điều kiện tình hình đặc biệt ở miền Nam Việt Nam và quần chúng của nó trở thành nạn nhân của hai ý đồ, hai chủ lực tương tranh:

—- Một bên là đế quốc Mỹ và các tập đoàn phụ thuộc biến nó thành mồi nhử, thành chiêu bài, thành huyền thoại để thực hiện các mục tiêu phi nghĩa, đen tối và tàn ác.

—- Một bên là đảng Cọng sản xem nó là mục tiêu chiến thuật, là đồng minh giai đoạn để tiến hành chiến tranh giải phóng. Sau chiến tranh gíải phóng, thể chế Dân chủ Cọng hoà trở thành đối tượng nguy hiểm nhất của cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa.

Nắm vững ngọn cờ Độc lập Dân tộc, sáng tạo vận dụng đúng đắn, thực hiện hữu hiệu tư tưởng chiến lược chiến thuật và ma thuật của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng, đảng Cọng sản Việt Nam đã từng bước thay đổi tương quan lực lượng địch – ta trên khắp các mặt trận. Ở đây tôi chỉ chú ý một chuyển hoá rất quan trọng của những con người thuộc chế độ Việt Nam Cọng hoà, thuộc ý thức hệ Dân Chủ Cọng hoà và đông đảo quần chúng của họ. Họ nhích lần từng bước về phía trung lập, tả khuynh hay ngã hẳn về phía kháng chiến. Họ là kháng chiến xanh và cũng có thể là kháng chiến đỏ.

Kháng chiến xanh là kháng chiến không Cọng sản. Người kháng chiến xanh chấp nhận sự lãnh dạo của đảng Cọng sản, đứng chung chiến hào vớí người Cọng sản hoặc là kẻ đồng hành trên mặt trận chống Mỹ và các tập đoàn phụ thuộc Việt Nam Cọng hoà. Họ, có người công khai, có người im lặng không đồng tình với người Cọng sản về cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa sắp tới. Ở trong tổ chức hay ngoài tổ chức, họ chỉ đi với người Cọng sản đến hết đoạn đường giải phóng dân tộc.

Anh Ngô Kha là người kháng chiến Xanh ở ngoài tổ chức. Ở miền Nam Việt Nam vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Mỹ xuất hiện khá nhiều người thuộc loại Ngô Kha. Họ là những nhân sĩ trí thức, những nhà hoạt động xã hội, tôn giáo, hoạt động chính trị trong và ngoài nghị trường ( nhóm dân biểu Đối lập ở hạ nghị viện), họ lợi dụng thế hợp pháp, và các quyền công dân có hạn chế nào đó, tham gia tích cực và vô cùng linh hoạt, phong phú các phong trào chống Mỹ và chế độ Sài Gòn nhằm góp phần chấm dứt chiến tranh đem lại Độc lập, Thống nhất, và Hoà bình cho đất nước. Họ làm báo hợp pháp, báo lậu, hội họp đình công, họ hình thành hoặc tham dự các tổ chức công khai, biến tướng, họ cùng với học sinh, sinh viên và các thành phần quần chúng tiến bộ xuống đường, biểu tình, bãi khoá, tổ chức các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ lành mạnh và cách mạng. Ở Huế các báo Tự Quyết, Mặt trận Văn Hoá Dân Tộc Miền Trung, các tổ chức Cứu Đói, phong trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống, phong trào Học sinh, Sinh viên, phong trào Tự Quyết của những năm từ 1969 – 1972 đều có sự đóng góp của Ngô Kha trong các vai trò chủ chốt hay thành viên tích cực. Xin đóng ngoặc đơn

Điều cần lưu ý đặc biệt là về phía các vị lãnh đạo phong trào, các cấp uỷ (ví như Thành uỷ Huế…) và các nhân vật tham gia đấu tranh trong các phong trào đô thị mà ở ngoài tổ chức đều âm thầm thoả thuận một nguyên tắc giao tiếp, hợp tác, cộng tác mà mỗi bên có những lí do riêng. Đó là làm hết sức bám giữ thế hợp pháp và vị trí chiến đấu của các nhân vật này, tôn trọng tính chất độc lập và tự do của họ để phát huy hiệu quả, tác dụng, đồng thời tránh cho họ các cảm nhận bị lãnh đạo chỉ đạo. Anh Ngô Kha thường khẳng định vị trí chính trị của mình: Moi neutre, (moi không màu sắc, không nhãn hiệu . Moi trung lập)

Để thấy được lợi hại của một nhân vật kháng chiến xanh ở ngoài tổ chức, ta thử làm một so sánh giữa ông ta với một cán bộ đảng viên hoạt động phong trào đô thị cùng tầm cở (khả năng, vị trí xã hội, nhiệm vụ công tác):

—- Người cán bộ đảng viên có tầm hoạt động nhỏ hẹp hơn (bởi đã bị đặt ngoài vòng pháp luật), Người kháng chiến ở ngoài tổ chức đi lại tư do hơn, tiếp xúc rộng rãi, nói năng thoải mái hơn. Trường hợp anh Ngô Kha chẳng hạn. Anh có hàng năm bảy trăm học trò và những quần chúng bạn bè đông đảo trong thành phố. Anh hô hào chống đuổi Mỹ và tập đoàn lệ thuộc công khai. Anh phê phán thẳng thừng sự lập lờ, nước đôi của những nhóm chính trị tham vọng và cơ hội …

—- Người cán bộ đảng viên khi bị địch bắt thường âm thầm chịu đựng, không ai can thiệp. Người kháng chiến xanh ở ngoài tổ chức khi bị địch bắt chừng nào đó được pháp luật bảo vệ, được các tổ chức xã hội, nhân đạo can thiệp và sẽ là cái cớ để phát động đấu tranh, gây rối loạn trong lòng địch.

—- Người cán bộ đảng viên khi bị địch bắt có thể làm vỡ lỡ kế hoạch công tác, đổ bể tổ chức, gây tổn thất cho phong trào cho đồng chí đồng đội. Trong khi đó người kháng chiến xanh ở ngoài tổ chức khi bị địch bắt sẽ không dẫn đến những tổn thất trên.

Xét trên khía cạnh công tác kháng chiến là thế. Còn xét trên sự tính toán riêng của mỗi bên (lãnh đạo kháng chiến và ngưòi kháng chiến xanh ngoài tổ chức) thì cả hai tuy không nói với nhau rạch ròi và chính thức nhưng đều hiểu ngầm là sự liên hệ, gắn bó, phối hợp với nhau không vượt quá giới hạn là kẻ đồng hành, sau chiến tranh không còn duyên nghiệp nợ nần gì với nhau nữa. Một bên không muốn là chi tiết của guồng máy. Còn bên kia cũng không muốn trong guồng máy do mình vận hành có kẻ xa lạ về ý thức hệ (vô sản và tư sản). Đó là chuyện về sau. Và chuyện về sau cũng chẳng phải đơn giản như vậy. Bởi hiện thực cuộc sống là một cuộc vận động thường trực và biến hoá không lường.

Trước mắt, họ liên hệ, gắn bó, phối hợp với nhau như thế nào để cùng đạt được hiệu quả công tác tốt nhất?

Trước hết, cấp uỷ hay một cán bộ lãnh đạo chuyên trách chọn trong số cán bộ của mình một vài người có điều kiện thuận lợi (uy tín, đức tính, khả năng…) tiếp cận và thiết lập các mối quan hệ bạn bè với đối tượng ( chính khách, nhân sĩ, trí thức, sĩ quan, công chức cao cấp, chức sắc tôn giáo, nhà doanh nghiệp…). Khi độ tin cậy đã chín mùi, người cán bộ được giao nhiệm vụ “thổ lộ trong chừng mực nào đó gốc gác của mình (người của kháng chiến), cũng chừng mực nào đó gởi gắm đường lối chính sách và trao đổi một số công việc. Tất cả không vượt quá ranh giới bạn bè tâm giao, tôn trọng tự do độc lập và sự lựa chọn khuynh hướng tư tưởng, chính trị của nhau”. Tuy vậy chẳng phải bao giờ cũng có sự đồng thuận và hợp tác suông sẽ giữa hai bên.

Trong hồi ký của một người gốc gác của thể chế Dân chủ Cọng hoà và đồng thời là một người thuộc chế độ Việt Nam Cọng hoà (làm báo, làm dân biểu quốc hội từ 1962 – 1975) – ông Lý Quí Chung – có một chương khá thú vị: Người của Mặt Trận. Tôi xin lược trích môt vài đoạn:

—- “ Trong suốt thời kỳ hoạt động của tôi trước năm 1975, tôi không có môt cuộc tiếp xúc chính thức nào với người MTDTGPMN. Tôi chỉ biết được ai trong số những người có quan hệ với mình là cán bộ Cọng sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Còn trước đó tôi chỉ đoán mò như trường hợp Nguyễn Vạn Hồng ( tức nhà thơ Cung Văn) vì anh đọc cho tôi nghe tác phẩm “ Thăm lúa” của nhà thơ Trần Hữu Thung và nói bài thơ này đoạt giải thưởng ở Vacxava (Ba Lan). Anh Hồng vô tình để lộ tông tích của mình hay là sự cố tình vì đã đánh giá được thái độ chính trị của tôi? ”

—- “ Nhưng có một người từ đầu năm 1975 đã để lộ tông tích của mình là người của Mặt Trận. Tuy không nói thẳng ra “tôi là người Mặt Trận”, nhưng cái cách anh Huỳnh Bá Thành trình bày quan điểm chính trị của mình, đặc biệt với hiệp định Paris,cùng những gọi ý về phương pháp đấu tranh chống Thiệu, rồi sau cùng là những tuyên truyền trực tiếp về các chính sách của MTGPMN đối với trí thức … khiến cho tôi không thể kết luận khác hơn: anh là người của Mặt Trận… Thực tâm mà nói tôi không tìm kiếm ở những chuyện kể của anh Thành một bảo đảm chính trị hay an toàn cá nhân cho mình sau này.Vả lại tôi không nghĩ mối quan hệ giữa tôi và anh Thành là sự móc nối chính thức. Chưa bao giờ Huỳnh bá Thành đặt thẳng vấn đề làm việc cho Mặt trận với tôi. Có anh Thành hay không có anh Thành tôi vẫn chọn lập trường chính trị mà tôi đã chọn. Trước khi hoạ sĩ Ớt để lộ anh là người của Mặt trận, tôi đã dấn thân vào con đường chính trị của mình”.

—- “ Nhưng điều không thể chối cãi là từ khi có những cuộc trao đổi với anh Thành, tôi cảm thấy mình bớt cô đơn”… (Lý Quí Chung — Hồi ký Không Tên, trang 315- 316)”.

Ngô Kha và Trịnh Công Sơn ở Huế hay Lý Quí Chung ở Sàigòn và nhiều người khác nữa ở miền Nam vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh là những người kháng chiến xanh ở ngoài tổ chức theo nhận định của tôi (Có nhiều người không đồng tình với nhận định này). Cái giống nhau giữa họ là thế. Tuy nhiên họ có những khác biệt rất cơ bản.

—- Người này là một chính khách (Lý Quí Chung), người kia là một trí thức, một kẻ sĩ (anh Ngô Kha).

Một chính khách (người làm chính trị) có thể là một trí thức,và cũng có thể không. Thông thường là không. Bởi quan tâm của người làm chính trị là quyền lực. Những điều anh ta nghĩ, những việc anh ta làm là tranh chấp quyền lực, là mưu lược, là thủ đoạn giành nắm thiên hạ. Có người làm chính trị vì lí tưởng (trong trường hợp này chính khách và trí thức là một). Có người làm chính trị vì quyền lợi. Có người vì cả hai cùng một lúc. Hoặc có người lúc trai trẻ thì vì lí tưởng, khi về chiều thì lợi quyền. Thậm chí có người khi ra đi thì yêu nước, khi về lẽo đẽo theo sau chân giặc. Có người đi kháng chiến vì Độc lập Tự do và Hạnh phúc của trăm họ, khi hoà bình lập lại thì mọi thứ là của riêng mình mình, đảng mình, trăm họ chỉ còn có việc tuỵêt đối tin tưởng, trung thành và vâng lời. Trong lịch sử Việt Nam cận hiện đại hầu như tuyệt đa số người làm chính trị đều như thế cả.

Người trí thức thì trái lại. Ở đâu bao giờ anh ta vẫn là anh ta, không là ai khác: không chính khách, không quí tộc, không tư sản, không công nhân… Người trí thức sống trong, sống giữa cộng đồng với tất cả hiện thực của nó. Anh ta nhìn ngắm, quan sát, suy nghĩ, nhận định, phê phán xã hội, và khi cần thì xuống đường, lên chiến hào, vào tù hay ra pháp trường.

Dưới con mắt các nhà nước đương quyền — người trí thức là kẻ nhiễu sự, tọc mạch, xoi bói, nói nhiều và như thế là đáng ghét, là nguy hiểm và cần phải loại trừ.

Người làm chính trị có thể thay trắng đổi đen, trước sau bất nhất nhưng vẫn là nhà chính trị.

Người trí thức khi đã thay đổi hay bị tình thế vượt qua, nghĩa là từ bỏ hoặc không thể thực hiện các sứ mệnh, các phẩm hạnh của mình, anh ta không còn là trí thức nữa.

Tôi không mô tả Ngô Kha như một người không hề có tham vọng, tính toán riêng tư cho cá nhân mình, đặc biệt vào thời kỳ anh tham gia phong trào Phật giáo. Tuy nhiên sau khi đọc thư của anh, và nhất là khi biết anh không còn nữa, mỗi lần nhớ nghĩ về anh, tôi củ soát lại những ký ức liên quan đến anh và hỏi han những người cụ thể đã từng tiếp giao với anh như Lê phước Á (Tâm) Nguyễn hữu Châu Phan, Bửu Chỉ, Thái Ngọc San, Nguyễn duy Hiền và rất nhiều bạn bè, học trò anh còn ở lại, tôi có đầy đủ những thông tin làm chất liệu để vẽ nên chân dung môt Ngô Kha với cuộc hành trình lận đận bi tráng và vô vọng của một con người có học từng bước tự rèn luyện, đấu tranh với chính mình, với lịch sử, để sống và chết như một kẻ sĩ, một trí thức giữa cái thời buổi mà các huyền thoại, các chiêu bài qua đấu tranh, hoặc qua thử thách bởi những tiến bộ của nền văn minh nhân loại đã bị, hoặc tự phô bày bộ mặt thật hoặc gần thật của nó: lạc hậu, lỗi thời, thẩm chí phản động, biến chất, thoái hóa.

Trở lại vấn đề quan điểm và thái độ của Thành uỷ. Dù anh Ngô Kha không là người của tổ chức, nhưng vì lí do là “của quí”, và những tính toán khác, nên Thành uỷ có sự quan tâm đặc biệt. Thành uỷ chỉ đạo cho các đường dây mật báo theo dõi sát sao thái độ của địch đối với anh và chỉ thị cho các đầu mối trách nhiệm bảo vệ anh tích cực. Thông thường là gợi ý để anh giảm nhẹ cường độ tấn công đối phương, tránh các khiêu khích không cần thiết, hoặc nằm yên môt thời gian làm như bỏ cuộc. Mấy tháng trước khi hiệp định Paris ký kết, Thành uỷ nhận được những tin tức vào loại nguy hiểm đối với anh Kha và những anh em khác như Bửu Chỉ, Nguyễn Duy Hiền…, nên khẩn trương mời các anh lên chiến khu. Nhưng anh Kha đã không đi. Phần cuối bức thư anh Kha viết cho tôi để nhắc lại sự kiện ấy. Sự kiện xảy ra vào đầu tháng 11 năm 1972. Lúc bấy giờ tôi không có mặt trên núi Truồi như anh Kha đã viết. Tôi chỉ biết sự việc qua lời kể của chị Hoà, người chủ căn lều bên bờ sông Truồi. Chị Hoà là cơ sở thuộc địa bàn lõm ở Nam Phổ Cần của Thành uỷ. Tôi nghe chuyện kể của chị khi tôi ghé chờ đội công tác để lên núi Truồi. Sau đó còn nghe anh Lê Công Cơ, anh Võ Đông kể lại sự kiện ấy. Anh Lê Công Cơ được lệnh của Thành uỷ từ căn cứ cùng đội công tác về đón anh Ngô Kha ở trạm Truồi. Chi Phạm Thị Xuân Quế có nhiệm vụ trao lời mời của Thành uỷ đến anh Kha. Anh Võ Đông có nhiệm vụ chở anh Kha về địa bàn lõm theo kế hoạch. Từ địa bàn lõm anh Kha sẽ được đội công tác hộ tống lên núi Truồi, nơi anh Lê Công Cơ đang chờ. Cả ba người: chị Hoà – anh Cơ – anh Đông — mỗi người kể lại câu chuyện theo thực tế tiếp cận, cách nhìn và cảm nhận riêng. Cái chết của người thanh niên, đội viên của đội công tác chỉ là một phần của câu chuyện dài mà chị Hoà nói với tôi suốt cả buổi tối. Câu chuyện dài về nhiều thế hệ trong một gia đình nội ngoại, đặc biệt là quãng đời xanh trẻ của một thiếu nữ nông thôn đã trải nghiệm qua hai cuộc kháng chiến. Hai câu thơ lục bát mà anh Kha đã dẫn trích để đay nghiến, xỉ vả tôi chỉ là sự chín rụng tự nhiên sau buổi tối ngồi nghe chuyện và nhìn ngắm sắc diện đổi thay theo từng đoạn kể trên khuôn mặt người phụ nữ đã tham dự, đã gắn bó, đã cống hiến tất cả tuổi thanh xuân của mình cho khát vọng Độc lập — Thống nhất của đất nước và cho một thế giới ngày mai mộng mị.

Nụ cười là của nỗi đau
Nước mắt là của mai sau thiên đường

Hai câu lục bát là một ký hoạ chân dung của chị Hoà qua mắt nhìn của tôi vào buổi chiều tối bên cạnh con sông Truồi. Con sông đã tiếp nhận đã hoà tan quá nhiều máu và nước mắt của không biết bao nhiêu con người ở hai bên bờ sông Truồi và của không ít những đứa con của nhiều miền đất nước trong suốt chiều dàì lịch sử mở mang, xây dựng và giữ gìn bảo vệ đất nước. Người chiến sĩ thuộc đội công tác đã bị thương rồi chết trong chuyến đón hụt anh Ngô Kha là một thanh niên sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, là đứa cháu ngoại của Huế chứ không phải là học trò của anh Kha như anh đã nghĩ tưởng. Một trong những điều trăn trối của người chiến sĩ trong vòng tay đồng đội trước khi nhắm mắt là anh ân hận không còn dịp vào Huế để tìm về, để thăm ngắm ngôi nhà rường với bàn thờ tổ tiên ông bà, với vườn tược cây cối, với những con đường, những ngôi trường, những chiếc cầu, những chùa miếu lăng tẩm hai bên bờ con sông mà mặc dù xa cách mấy chục năm vẫn còn thơm ngát trong ký ức của người phụ nữ đã sinh ra anh.

Tôi biết khi nhìn ngắm bức chân dung này, anh Ngô Kha chẳng có cảm nhận nào trái ngược với những rung động của tôi. Việc xỉ vả đay nghiến tôi khi nhắc lại hai câu thơ lục bát chỉ là một cái cớ. Tuy nhiên nó là một cái cớ ít gần với “hiện tượng” nhất trong số rất nhiều những cái cớ đầy rẫy trong bức thư anh viết cho tôi. Tôi đọc thuộc lòng cái thư của anh mỗi khi có dịp trong những ngày đi làm lực lượng thứ ba ở Sàigòn. Tôi đã gặm nhấm những đay nghiến và xỉ vả ấy. Cho rằng những đay nghiến xỉ vả ấy là những cái cớ là chưa thành thật thẳng thắn nếu nhìn vấn đề theo một cách khác. Trong chừng mực nào đó tôi rất xứng đáng nhận nhiều hơn nữa những đay nghiến xỉ vả không chỉ của một anh Ngô Kha. Những ngày lặn lội đi làm lực lượng thứ ba ở Saigòn tôi học được một triết lí, một biện chứng thâm trầm từ một thành ngữ dân gian thịnh hành ở Nam bộ: —- Zậy mà không phải Zậy.

—- Anh Kha ơi! không phải vậy – mà vậy, phải không anh?

Thế đó, anh Ngô Kha đã không lên núi theo lời mời của Thành uỷ. Anh ở lại, bị bắt và bị giết mấy ngày sau khi hiệp định Paris được công bố. Cấi chết đối với anh hình như là một tất yếu. Anh biết thế nào rồi cũng xảy ra. Anh đã khiếp sợ, nhưng đồng thời anh không né tránh, trốn chạy. Có thể nói anh đã tiếp cận với nó từng giây từng phút, và anh đã tiếp nhận nó như một định mệnh. Thậm chí như trong thư anh đã viết cho tôi rằng anh có cả “một tự do để chọn lựa”. Và “Liên Thành nó giết anh lúc bây giờ là hợp lí và dễ coi hơn”.

Phần tôi, tôi đã hình dung được chiều hướng phát triển phần đời còn lại của anh sau cái đêm chúng tôi trò chuyện ở An Cựu. Do vậy mà tôi đã không ngỡ ngàng khi được tin chúng trút lên đời anh nỗi căm thù điên dại. Tôi đã không ngỡ ngàng, nhưng tôi đã choáng váng và nỗi đau thương mất mát thì mỗi lúc mỗi sâu nặng và gia tăng sau khi biết đích xác là anh không còn nữa.

Tôi trở lại Huế một tháng hơn sau khi thành phố thay ngôi đổi chủ. Anh em bạn bè, bà con thân thuộc của tôi một số thì hăm hở bước nhanh chân, góp vội tay vào con đường và vận hội mới. Một số khác thì tả tơi tan tác như những con chim nhỏ trước cơn bảo dữ. Nhiều lúc tôi một mình ngó tới ngó lui, ngó qua ngó lại, quanh quẩn ra vào như một kẻ lạc loài, một kẻ bị lưu đày trên cái mảnh đất mà mình đã góp phần dành lại được, giữa một bối cảnh ngột ngạt rã rời tăm tối khổ đau và vô vọng mà chính mình đã tiếp tay. Ở đâu tôi cũng bắt gặp anh Kha cả. Những gì anh nói với tôi trong đêm cuối cùng của chúng tôi ở An Cựu, những gì anh viết thêm trên những tờ giấy gói trà Tam Hỷ và bao hương tôi nhận được từ Sàigòn mấy ngày sau khi anh bị bắt cứ trở đi trở lại trong tâm thức tôi như một cuộn băng quay vòng, quay vòng, không có khởi đầu và cũng không có kết thúc suốt hơn hai chục năm trời. Trong hơn hai chục năm ấy nhiều lúc tôi đã nghĩ là sự lựa chọn đầy tính cách bi kịch của anh xem ra lại là một hành động chẳng đặng đừng. Như thế mà lại là hay. Như thế mà lại là yên.

Cái chết của Ngô Kha mãi cho đến thời điểm này, chưa có một thông tin nào bảo đảm sự chính xác mười phần.

Có người bảo là anh bị dánh vào đầu bởi một cái búa. Tên đặc vụ tay chân của Liên Thành nói là “bửa cái đầu của thằng trí thức xem thử nó có gì khác với những cái đầu mà y đã từng bửa trong những cơn nóng giận suốt cả cuộc đời làm nghề chống Cọng”*.

Thông tin thứ hai mô tả khúc cuối của vở kịch đẫm máu mà tụi Liên Thành đã dàn dựng: “ Ngô Kha bị đánh nhừ tử từ nhiều phía bởi bốn năm tên đặc vụ. Tóc tai, mặt mũi, tay chân, áo quần tả tơi bê bết máu. Anh nửa tỉnh nửa mê, chúng đem dặt anh nằm ngữa nửa trong nửa ngoài trên sàn một chiếc xe jeep lùn của quân đội Mỹ, hai chân dang ra và bị cột chặt vào chân ghế, đầu rơi thòng gần mặt đất, hai tay thì buông thỏng, thỉnh thoảng chới với như cố nắm víu một cái gì. Tài xế được lệnh lái xe theo một kỹ năng đặc biệt do những tâm trí đặc biệt sáng chế ra. Đoạn đường từ một ngôi nhà giành riêng (của ty cảnh sát) tại khu An Lăng đến cánh đồng An Cựu lồi lõm mấp mô. Xe chạy lúc nhanh lúc chậm, lúc đột ngột dừng lại, lúc chồm tới, giật lui bất thình lình. Cái đầu của nạn nhân thỉnh thoàng va đập bì bộp vào mặt đường. Cái chết không thể đến nhanh. Cái chết đến từ từ để cho sự đau đớn đạt đến đỉnh điểm và kéo dài bất tận…”. Tên Liên Thành nói với đám tay chân của nó: “Để cho cái ông thầy ăn cơm Quốc gia thờ ma Cọng sản này nếm trọn, nếm đủ thế nào là kẻ sĩ, là trí thức mà ông đã rao giảng không biết mệt mỏi cho đám học trò hết năm này đến năm khác. Với bọn Cọng sản thì không có chuyện hoà bình, hoà giải hoà hợp gì hết. Chỉ có cái chết mà thôi; bọn chúng chết hay chúng ta chết. Có lẽ bài học từ cụ Diệm sau hiệp định Genève, tau phải giỏi hơn các đồng nghiệp lúc bây giờ…”

Thế đó, đối với Liên Thành – một người Quốc gia – thì anh Ngô Kha là kẻ tiếp tay cho Cọng sản, mà đã tiếp tay hay Cọng sẩn thì chỉ có giết mà thôi. Và giết thế nào cho xứng đáng với những tội lỗi, những rắc rối mà anh đã gây ra cho chúng.

Còn đối với Ngô Kha thì anh đã có một tự do để chọn lựa: Chết dưới tay người Quốc gia để khỏi bị giết bởi những người Cọng sản mà có lúc anh đã đi cùng trong cuộc hành trình giành lại Đất nước.

Chu Sơn





Ngô Kha và Cuộc chuyện trò cuối năm – Phần 1 - 13.07.2009



Ngô Kha và Cuộc chuyện trò cuối năm – Phần 2 - 13.07.2009





---------

Chu Sơn Trả Lời Thắc Mắc của Độc Giả về Bài Viết “Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm”






Kính gởi Ban Biên Tập Da Màu;

Để rộng đường dư luận tôi xin trả lời một số câu hỏi mà BBT Da Màu đã tóm lược từ những khúc mắc của một bộ phận độc giả đối với bài viết gần đây của tôi – Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm:

Câu hỏi #1: Xin anh xác quyết là bức thư này đã được ghi lại theo trí nhớ của anh mà trong đó những lời của anh Ngô Kha đã được cố gắng hết sức ghi lại theo nguyên bản.

Trả lời #1: Trong bài Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm, tôi đã viết: "… nay tôi chép lại theo ký ức nội dung bức thư đặc biệt mà ngay lần đọc đầu tiên (…) tôi đã mường tượng như một lời trăn trối.”

Qua các bài phản hồi của bạn đọc, tôi nghĩ mình viết như vậy là quá ngắn gọn, quá giản đơn khiến có thể dẫn đến hiểu lầm, ngờ vực thế này thế nọ tùy theo tâm cảm khác nhau của từng bộ phận độc giả. Tôi xin viết tiếp vào câu trên như thế này:"… Sau từng ấy thời gian (trên dưới ba mươi năm) với ký ức một kẻ trầm luân đã đến tuổi xấp xỉ cổ lai hi mà khẳng quyết bức thư (của anh Kha gởi cho tôi) được phục hồi y nguyên bản là một khoa trương không cần thiết, dễ gây ngộ nhận, và rất đáng chê trách.

Tập thư viết trên giấy trà Tam Hỷ và bao hương anh Kha gởi cho tôi, cộng với trên mười năm (1962 -1973), thời gian mà chúng tôi (anh Kha, nhiều anh em khác và tôi) cùng nhau nghiền ngẫm, tra vấn, luận bàn, tranh cãi, tâm sự, ray rứt, khắc khoải, giằng xé… cuối cùng là dấn thân vào cuộc chiến mỗi người mỗi cách thế và mức độ khác nhau… đã được đúc kết lại như là xương cốt não tủy cho bài viết của tôi. Phần còn lại: câu cú, chữ nghĩa, chấm phết của tôi chỉ là da thịt, khí sắc, vóc dáng bên ngoài mà thôi.

Câu hỏi #2: Ngô Du, Ngô Tú, và Ngô Thị Trang đều là anh em ruột thịt của anh Ngô Kha phải không? Anh có tin tức nào khác về ông Ngô Du, anh ruột của anh Ngô Kha, đã ra người thiên cổ nhưng nay vợ con hình như vẫn còn ở Sài gòn?

2/ Có hai Ngô Du. Một Ngô Du là anh ruột Ngô Kha, một Ngô Du nữa là tướng trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, anh em chú bác họ của Ngô Kha. Về Ngô Du anh ruột Ngô Kha tôi chỉ nghe loáng thoáng qua một người nào đó chứ chưa bao giờ Ngô Kha nhắc đến trực tiếp với tôi. Cũng nghe loáng thoáng là anh Du này bị chết trong biến cố tết Mậu Thân. Thỉnh thoảng Ngô Kha có đưa tôi tới số 42 Bạch Đằng (Huế). Chúng tôi cùng làm việc ở trên gác (báo Tự Quyết). Ở đây tôi gặp qua một người phụ nữ cao ráo trang nhã và mấy cháu nhỏ. Phải chăng người phụ nữ này là chị dâu của anh Ngô Kha (vợ anh Ngô Du) và mấy cháu nhỏ là cháu gọi anh Ngô Kha bằng chú ruột (con anh Ngô Du)?

Ở nhà anh Kha dưới Thế Lại, ngoài bà cụ, tôi còn hay gặp một người phụ nữ lớn tuổi da ngăm ngăm và thấp. Người này tôi biết chắc là chị ruột của anh Kha. Có phải bà này tên là Ngô Thị Trang? Hay anh Kha còn có một chị gái khác tên là Ngô Thị Trang ở Sài Gòn nay là Tp Hồ Chí Minh?

Câu hỏi #3: Thế còn tướng Ngô Dzu người mà anh nhắc đến nhiều lần trong bức thư có quan hệ bà con với anh Ngô Kha như thế nào? Hoàng Phủ Ngọc Phan, một người bạn thân của anh Ngô Kha, đã một lần mắc sai lầm khi cho rằng tướng Ngô Dzu là anh ruột của Ngô Kha; anh nghĩ thế nào về chuyện tại sao lại có thể có một sai sót như thế ?

Trả lời #3: Ngô Du, người tôi nhắc nhiều lần trong bài viết, là tướng Ngô Du, bà con họ với Ngô Kha. Tôi chưa gặp tướng Ngô Du lần nào nhưng em ruột ông ta là đại úy Ngô Liễn tôi có gặp vài lần qua giới thiệu của anh Kha. Ngô Liễn là người thật thà tử tế theo cảm nhận của tôi. Hoàng Phủ Ngọc Tường mới là bạn thân của Ngô Kha còn Hoàng phủ Ngọc Phan thì không. Đối với Ngô Kha, Phan bao giờ cũng giữ vị thế là em. Vừa kính Kha như anh, vừa mức độ nào đó kính nhi viễn chi. Do vậy các quan hệ của gia đình anh Kha Phan chỉ nghe loáng thoáng.

Câu hỏi #4: Lý do gì khiến anh không gửi đăng bức thư này nhân dịp ra mắt tuyển tập Ngô Kha: Ngụ Ngôn của Một Thế Hệ (Nxb Thuận Hoá, 2005). Trong tuyển tập này có đăng một số thư từ của anh Ngô Kha nhưng bị cắt bỏ ba chỗ. Anh có biết ba chỗ đó nói về chuyện gì không? Những phần cắt bỏ đó có liên quan đến bức thư anh Ngô Kha gửi cho anh không?

Trả lời #4: Năm 1977 tôi đã rời Huế, thỉnh thoảng mới về thành phố này đôi ba ngày. Chừng mực nào đó anh em phong trào Huế (những người còn ở lại trở thành viên chức nhà nước) ngày một cách xa. Ví dụ việc đấu tranh cho anh Kha được công nhận là liệt sĩ tôi không đồng tình. Tôi nghĩ anh Kha không muốn, không cần như thế. Về bài viết của tôi về anh Kha, độc giả có nghĩ rằng bài viết này có thể được in chung với các bài khác trong tuyển tập đó chăng? Cũng cần nhắc thêm, việc phong liệt sĩ cho anh Kha là một nhượng bộ của Thành Ủy Huế, vì anh Kha là người ngoài, không phải là cơ sở cách mạng được Thành Ủy lãnh đạo.

Rất tiếc tôi không có tuyển tập Ngô Kha: Ngụ Ngôn của Một Thế Hệ nên không thể trả lời đầy đủ câu hỏi số 4 này được.

Câu hỏi #5: Anh nghĩ gì về độ khả tín của bức thư mà người ta cho là Trịnh Công Sơn gửi cho anh Ngô Kha? Vợ anh Ngô Kha, đồng thời là em ruột của Trịnh Công Sơn, bà Trịnh Vĩnh Thúy hiện nay đang ở đâu, anh có liên lạc với bà ấy không?

Trả lời #5a: Từ sau 27- 1- 1973 tôi ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới về Huế. Việc đấu tranh bằng báo chí (báo Đối Diện) cho anh Kha tôi không tham dự. Tôi có đọc các bài trên Đối Diện trong đó có thư của Trịnh Công Sơn viết cho Ngô Kha. Tôi nghĩ thư này do Trịnh Công Sơn viết. Anh em phong trào Huế không thô thiển và hồ đồ đến độ viết và ký tên Trịnh Công Sơn bởi lẽ:

— Trịnh Công Sơn không phải là người trong tổ chức của Thành ủy Huế. Anh chỉ là một nghệ sĩ có danh tiếng cần tranh thủ, không thể áp đặt Trịnh Công Sơn bất cứ điều gì. Vả lại người như Trịnh Công Sơn, dù yếu đuối về thể xác, không bao giờ chấp nhận một áp đặt nào. Những lần làm báo Mặt Trận Văn Hóa Dân Tộc Miền Trung và Tự Quyết tôi có kinh nghiệm: một khi đã nhận viết bài nào đó, anh Sơn viết rất nhanh, thông thường anh nộp bài trước những người khác. Vả lại Ngô Kha vừa đối với anh như bạn, vừa nguyên là em rể, do đó Trịnh Công Sơn không từ chối một việc làm nhiều chính nghĩa như thế. Có điều cũng nên biết là cùng một thời điểm Trịnh Công Sơn vừa viết thư cho Ngô Kha (để tranh đấu) vừa viết một bài dài (dài hơn bức thư viết riêng cho Ngô Kha trước đó) về vấn đề thuộc lãnh vực văn hóa văn nghệ mà lập trường xa lạ với "đấu tranh chính trị" nếu không nói là trái lại. Bài này đăng trên tạp chí Ý Thức. Từ lâu tôi có ý định đối chiếu lại hai văn bản này nhưng chưa làm được.

Trả lời #5.b: Chị Trịnh Vĩnh Thúy, em gái Trịnh Công Sơn, và Ngô Kha lấy nhau được vài ba bốn năm. Từ 1963(?) –1966 (?) Sau đó họ xa nhau chẳng biết lí do gì. Mặc dầu đã li dị, nhưng Ngô Kha thì nhớ thương Vĩnh Thúy không nguôi. Anh đã kẻ cho tôi nghe nhiều lần về nỗi nhớ thương này. Có lần chở tôi đi rong trong thành phố Huế anh quay lại nói với tôi: Con đường này mình đã chở Thúy đi, Thúy thế này, Thúy thế khác. Nói chung là những tình cảm sâu nặng. Tôi không hề có liên hệ hoặc liên lạc gì với Trịnh Vĩnh Thúy, với những người em khác của Trịnh Công Sơn cũng vậy. Nghe nói Trịnh Vĩnh Thúy đã ra nước ngoài và cư trú tại Canada?

Câu hỏi #6: Anh nghĩ rằng đó là sự thật hay chỉ là Trịnh Cung suy đoán về việc “năm Mậu Thân 1968 Trịnh Công Sơn bị cộng sản giết hụt” – và nếu thế ai chủ trương việc đó?

Trả lời #6: Tôi không thể trả lời câu hỏi này bởi tôi không muốn tham dự vào những cuộc cãi vã có tính cách bản năng, vô bổ. Tôi chỉ tiếc cho họ, Trịnh Công Sơn và Trịnh Cung là bạn thân của nhau một thời mà lại xảy ra như thế. Riêng phần mình, tôi chưa từng nghe Trịnh Công Sơn chê trách nhiếc mắng xoi mói ai bao giờ.

Việc cộng sản Huế có tìm cách giết hụt Trịnh Công Sơn vào năm 1968 hay không tôi chỉ trình bày một nhận định như sau:

Theo tôi, người Huế bị giết chết trong biến cố Mậu Thân là nạn nhân chiến tranh của cả đôi bên. Bên nào giết nhiều bên nào giết ít khó mà xác quyết được. Riêng những người cho là bị giết bởi Cộng Sản có hai lí do:

1/Do căm giận mười mấy năm Tố Cộng Diệt Cộng tàn ác và đẫm máu. Từ 1954 - 1960 chính quyền Ngô Đình Diệm trên toàn miền Nam đã bắn giết tù đày khoảng 80.000 cán bộ Việt Cộng và gia đình họ. Riêng Thừa Thiên Huế và Quảng Trị non 10.000 (xem Lê Xuân Khoa Chiến Tranh Việt Nam 1945 - 1995)

2/ Lệnh từ Trung Ương là triệt hạ chính quyền tay sai. Mà triệt hạ chính quyền tay sai có nghĩa là không thể tránh khỏi việc bắt bớ và giết chóc đối tượng này.

Trịnh Công Sơn có thuộc một trong hai thành phần trên không? Theo tôi là không. Đây là lần đầu tiên tôi nghe câu chuyện này.

Nhân câu chuyện Ngô Du (anh ruột Ngô Kha) tử nạn, và chuyện Trịnh Công Sơn bị Cộng sản giết hụt năm Mậu Thân 1968 (theo suy đoán của Trịnh Cung) tôi mạn phép có mấy ý ngoài đề xin được nêu ra sau đây:

1/ Tổng Tấn Công và Nổi Dậy Tết Mậu Thân diễn ra tại nhiều tỉnh, nhiều thành phố trên toàn miền Nam, cớ sao chỉ có Huế mới xảy ra sự cố nghiêm trọng ấy? Ai chịu trách nhiệm về sự sai lầm đẫm máu ấy? Địa phương hay Trung Ương?

2/ Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc sao không công khai xin lỗi đồng bào Huế một lần và dứt điểm? Trong cuốn hồi ký Huế Xuân 68, ông Lê Minh, nguyên Phó Bí Thư Khu Ủy Trị Thiên, Tư Lệnh mặt trận Thừa Thiên Huế đã bày tỏ một cách chân thành suy nghĩ và trách nhiệm của mình đại thể như sau:

“Rốt cuộc là đã có những người bị xử lí oan trong chiến tranh. Dù lí do cụ thể thế nào thì trách nhiệm vẫn là thuộc về lãnh đạo, trong đó có trách nhiệm của tôi. Nhiệm vụ bây giờ là cách mạng phải minh oan cho gia đình con cái của những người đã chết. Trong hoàn cảnh như vậy, trong khi pháp luật cách mạng chưa hề có ý định xử lí họ vào tội chết, có một người phải minh oan cho một người, có một trăm người phải minh oan cho một trăm người. Đó chính là lẽ phải và tình thương, quần chúng sẽ thông cảm và không bao giờ lẫn lộn trắng đen.” (Huế Xuân 68 – Thành Ủy Huế 1988)

Ở phần mở đầu của hồi ức, ông Lê Minh cũng đã viết: Phần riêng, tôi cũng muốn được gởi theo đây một vòng hoa khiêm tốn thành kính tưởng niệm những người đã nằm xuống, kể cả những người bị tên bay đạn lạc trên mảnh đất của thành phố Huế bất khuất cách đây hai mươi năm.

Lời của ông Lê Minh, tuy đã được in trong tập sách do Thành Ủy Huế xuất bản từ năm 1988, nhưng đến nay ý tưởng chân thành và dũng cảm ấy vẫn chỉ là của cá nhân ông. Đảng bộ Cộng Sản Thừa Thiên Huế vẫn chưa thấy động tĩnh gì, mặc dầu các hội nghị và kỷ niệm chiến thắng Mậu Thân đã được tổ chức nhiều lần tại Huế từ bấy đến nay.

Chu Sơn

-------


Ngô Kha: nhà thơ chống Cộng số một? Trần Hoài Thư


Hành trình thi ca của Ngô Kha thay đổi rõ rệt theo từng giai đoạn.

Giai đoạn 1 (Thời quân Mỹ chưa có mặt tại miền Nam):

Ngô Kha bị động viên khóa 16 Trừ bị Thủ Đức. Khóa nhập học tháng 6 năm 1963 và ra trường vào năm 1964 lúc chiến tranh bắt đầu sôi động. Và Ngô Kha đã làm bài thơ Mặt Trời Mọc để tặng các bạn sinh viên đồng khóa. Bài thơ này được đăng trên tạp chí Mai, số 40 xuất bản vào năm 1964.

Đây là một một bản tuyên ngôn, nói rõ lập trường chống Cộng của ông:

hỡi những người lính Tàu, linh Nhật, lính Mỹ, lính Pháp
những người Cộng Sản
cát bụi công bình mà thương cho số phận tất cả
bởi ai đã chối bỏ chìa khóa mở cửa chốn địa đàng này
nên bây giờ có những lũ người đi vào bằng bạo lực
Ta phải chiến đấu…

MẶT TRỜI MỌC

Tặng các bạn tôi – Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Khóa 16

1.

Cửa mắt này rộng mở cho thời gian đi qua

người con gái ngày xưa

người con gái hôm nay

tôi không còn nhớ

hay chỉ là mơ hồ

nước mắt nào làm thành chuổi ngọc xanh

thế kỷ này nằm bệnh và tôi chờ em đem tiếng hát

lời vu vơ

vẫn là lời vu vơ ấy

cho tôi biết ngày mai mặt trời làm gì

tình yêu em mang làm tôi phiêu du đến chân trời nào đó

tôi không nói gì

dù vẫn còn trên trái đất

và như loài thảo mộc

thèm ăn hương đồng với sương mai

nghĩ đến ngày xưa em làm người yêu lấy hoa dệt áo

nghĩ đến bây giờ người con gái đan áo cho tình nhân bằng nước mắt

thời chinh chiến này

nói chuyện về cái chết của đứa con trai

thản nhiên

lịch sử cũng biết khiêu vũ

mọi người cùng đi điệu valse

mọi người cùng theo điệu twist

chiến tranh nhảy rock

2.

Cho tôi ở lại bộ binh để làm nữ hoàng của chiến trận

buổi mai thức dậy thấy ánh nắng vô tư diễn hành trên các đọt cây

doanh trại đẹp như những vần thơ

Tôi nhớ đến rượu hoàng hoa

mà tủi thương người lính thú

cho tôi làm người lính gác giặc

những chiều đóng quân nghe âm thanh cao vút của rừng thông

lặng chờ tiếng gọi âm thầm tự trong lòng đất huyền bí

hỡi những người lính Tàu, lính Nhật, lính Mỹ, lính Pháp

những người Cộng Sản

cát bụi công bình mà thương cho số phận tất cả

bởi ai đã chối bỏ chìa khóa mở cửa chốn địa đàng này

nên bây giờ có những lũ người đi vào bằng bạo lực

Ta phải chiến đấu

nên ta phải sống bằng sự thức tỉnh và báo động thường trực

chúng ở đây

chúng ở đó

người lính gác giặc phải thức suốt đêm canh

rồi ngày cũng sẽ tàn

đêm không còn nữa

anh lính gác giặc

chúng ta giã từ vị trí bố phòng trở về mái nhà nằm ngủ với chim bồ câu

rồi bình minh đi xem những cây lúa trổ bông – nhắn nhủ cho tất cả mọi người – sự phá sản này làm cho tôi nhiều đêm thức ngủ

3.

Người con gái không hiểu nỗi buồn của người lính chiến

tôi vẫn thèm nói đến câu "hữu thân hữu khổ "

như lời nguyền rủa chân thành loài người của tôi

như mỗi lần tôi hằng nói

chọn cuộc đời làm ngôi mộ

Hãy vẽ thật huy hoàng trên cái chết

người Ai Cập có Tự tháp

người Hy Lạp có Nhã điển

người Da Đen có thánh ca

Việt Nam có tuẩn tiết

chúng ta hẹn hò bất diệt

như dân tộc Việt Nam bao lần đứng lên

ca dao làm mạch sống

Cách mạng để thành công

đất mẹ xưa vốn gầy

người yêu ta từng khóc

bóng tối dẹp tan

ta ngồi trông mặt trời mọc

ngày mai ngoài đồng cỏ ca hát

mọi người đi hái hoa

chúng mình gọi tên nhau ngày hồi sinh

em mặt trời mọc

và anh Tự-Do.

(Mai, số 40 năm 1964. Trích lại từ Thơ Miền Nam Thời Chiến tập II, Thư Ấn Quán xb, năm 2008)

Giai đoạn hai: Thời kỳ quân đội Mỹ có mặt.

Giai đoạn này, thơ ông hầu hết xuất hiện rất nhiều trên Trình Bày, Đất Nước. Nội dung viết về một xã hội tan rã về mọi mặt, bởi sự có mặt của quân đội đồng minh.

Những bài thơ thuộc loại này được tìm thấy trong Ngụ Ngôn Của Người Đãng Trí v.v…

(quí vị có thể tìm rất nhiều thơ loại này trên Internet)

Xin được chia sẻ cùng bạn đọc Da Màu để có cái nhìn rõ hơn về con người Ngô Kha.

Tổng số lượt xem trang