Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Từ Vịnh Bắc Bộ tới Hoàng Sa

-50 năm sự kiện Vịnh Bắc bộ: Nghị Quyết Vịnh Bắc bộ – 1964Diễn tiến
Trước hết tôi xin nói về diễn tiến của sự kiện lịch sử này theo lời cựu Bộ trưởng quốc phòng McNamara và nhận định của ông (1). Nước Mỹ tiến gần tới tuyên chiến tại Việt Nam đó là vụ Nghị quyết vịnh Bắc Việt tháng 8-1964. Những biến chuyển quanh Nghị quyết này cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi mâu thuẫn.

Trước tháng 8-1964 chỉ có một số ít người Mỹ không quan tâm đến diễn tiến ở VN, chiến tranh có vẻ còn xa nhưng biến cố Vịnh Bắc Việt đã thay đổi cái nhìn đó. Về đoản kỳ khi tầu chiến Mỹ bị tấn công trong vịnh và nghị quyết của Quốc hội sau đó đã đưa tới khả năng Mỹ can thiệp vào cuộc chiến chưa từng có trước đây. Theo McNamara điều quan trọng hơn là chính phủ Johnson đã xin Quốc hội ra Nghị quyết này để hợp thức hóa về mặt hiến pháp mọi hoạt động quân sự của Hành pháp Mỹ tại VN từ 1965.
Quốc hội nhìn nhận quyền hạn lớn của Nghị quyết dành cho TT nhưng nó không có nghĩa như một tuyên chiến và cũng không có nghĩa đó là sự cho phép mở rộng lực lực lượng Mỹ tại VN từ 16,000 cố vấn lên 550,000 quân tác chiến. Bảo đảm sự tuyên chiến và cho phép quân tác chiến những năm sau đó chắc là không được.
Nhiều người coi chín ngày từ 30-7 tới 7-8-1964 như một giai đoạn nhiều tranh cãi nhất của cuộc chiến 25 năm. Qua nhiều thập niên, đã có nhiều tranh luận về những sự kiện tại vịnh, Hành pháp tường trình cho Quốc hội và người dân thế nào, xin Quốc hội quyền hành động và hai ông Tổng thống đã xử dụng quyền này qua các năm ra sao
McNamara nêu nên một số câu hỏi và tự ông trả lời như sau.
Tầu tuần duyên của Bác Việt tấn công khu trục hạm Mỹ ngày 2-8 và 4-8-1964, có thật không?
Trả lời: ngày 2-4 thì chắc chắn không chối cãi được. Ngày 9-11-1995 tại Hà Nội, McNamara có gặp gỡ và nói chuyện với Võ nguyên Giáp, ông ta nói ngày 4-8 không có cuộc tấn công của tầu BV như người Mỹ tưởng.
Hồi đó và sau này một số vị dân cử Quốc hội và người dân Mỹ cho rằng chính phủ Johnson khiêu khích địch để có cớ leo thang chiến tranh và dùng mưu mẹo để được Quốc hội chấp thuận cho leo thang.
Trả lời: hoàn toàn không có chuyện này.
Tổng thống trả đũa, cho máy bay ném bom bốn căn cứ tầu tuần duyên và một kho nhiên liệu, như thế có đúng không?
Trả lời: có thể.
Những biến cố tại vịnh BV có liên hệ tới hai chiến dịch riêng rẽ của Mỹ trước đây: Kế hoạch 34A và DESOTO.
Từ tháng 1-1964 Hội đồng an ninh quốc gia đã chấp nhận cho CIA yểm trợ miền nam VN những hoạt động bí mật chống phá BV, mật danh 34A gồm hai hoạt động trước hết thả biệt kích ra Bắc, thứ hai dùng tầu tuần duyên nhỏ, tốc độ cao do người Việt hoặc Mỹ lái đánh phá bờ biển hoặc hải đảo BV những nơi được coi là xuất phát xâm nhập, yểm trợ VC tại miền nam, đánh rồi chạy (hit and run).
DESOTO là một phần của hệ thống thám thính toàn cầu bằng điện tử do những tầu hải quân Mỹ chạy ngoài hải phận quốc tế. Những tầu này thu lượm những tín hiệu của radar, những truyền tin từ các trạm trên bờ các  nước CS như Nga, Trung cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt cũng giống như Nga dùng tầu lưới cá tại bờ biển Mỹ.
Tối 30-7 -1964, tầu tuần duyên của VNCH tấn công hai hải đảo thuộc vịnh BV được cho là dùng để yểm trợ xâm nhập miền nam VN. Sáng hôm sau khu trục hạm Mỹ Maddox đi vào vịnh (chiến dịch DESOTO ) rất xa các đảo. Hai ngày rưỡi sau tức 2-8 lúc 3 giờ 40 (giờ VN, tức 3 giờ 40 sáng Mỹ) tầu Maddox báo cáo bị những tầu tuần duyên cao tốc đuổi theo, một lúc sau bị tấn công bằng ngư lôi và súng tự động nhưng Maddox không bị trúng đạn hoặc hư hại. Thủy thủ lấy được những mảnh đạn trên boong tầu mà McNamara yêu cầu gửi cho ông làm bằng chứng. Trong quân sử của BV, họ xác nhận đã đưa ra lệnh tấn công Maddox, khi biến cố sẩy ta khu trục hạm này nằm ở hải phận quốc tế, cách bờ biển BV hơn 25 dặm.
Lúc 11:30 sáng (2-8) Tổng thống Johnson họp các cố vấn để nghiên cứu tình hình. Mọi người tin là do cấp chỉ huy địa phương BV hơn là do cấp lớn đã khởi động. Tổng thống vì thế không trả đũa mà chỉ gửi kháng thư cho Hà Nội, ông vẫn cho tiếp tục tuần tiễu, cho thêm khu trục hạm C.Turner Joy đi kèm. Maxwell Taylor, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn phản đối tại sao không giáng trả BV, có thể coi như Mỹ lùi bước không dám đối đầu với CS.
Vào lúc 3 giờ chiều hôm sau Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) và McNamara thuyết trình cho các Thượng nghị sĩ thuộc Ủy ban ngoại vụ và Ủy ban quân sự để diễn tả chiến dịch 34A, DESOTO và tại sao Tổng thống đã không giáng trả địch. Hai ông cũng giải thích cho biết DESOTO không có ý khiêu khích BV để tầu Maddox bị tấn công, vẫn tiếp tục chiến dịch DESOTO.
Vào lúc 7 giờ sáng (7 giờ chiều VN) ngày 4-8 tầu Maddox cho biết bị tầu lạ tấn công. Một giờ sau tầu Maddox nói radar cho thấy ba tầu lạ. Hàng không mẫu hạm Ticonderoga ở gần đó đã cho máy bay tới yểm trợ hai tầu Mỹ Maddox và Turner Joy. Trời nhiều mây, có mưa bão lớn rất khó quan sát. Mấy tiếng sau hai tầu này báo cáo bị hơn hai mươi ngư lôi tấn công, thấy vệt sóng của ngư lôi, ánh đèn chiếu sáng trên boong tầu địch, súng tự động nhả đạn, radar của tầu Mỹ có báo hiệu.
McNamara cùng ông phụ tá họp với bộ tham mưu để đối phó. Mọi người đồng ý nếu báo cáo này đúng, cần trừng trị thích đáng kẻ tấn công tầu Mỹ  ngoài hải phận quốc tế , vì thế họ vội triển khai ngay kế hoạch cho máy bay từ hàng không mẫu hạm đánh phá bốn căn cứ tầu tuần duyên và và hai kho nhiên liệu. Lúc 11 giờ 40 sáng, McNamara họp với Dean, Mac (Bundy) và các Tướng khác để duyệt lại quyết định, họ tiếp tục bàn tại phiên họp tại  Hội đồng an ninh QG và họp với Tổng thống. Johnson đồng ý lần này nếu được xác nhận đúng cần phải trừng trị nhanh và mạnh.
Vấn đề còn lại là cuộc tấn công lần thứ hai có thật không?
Như đã nói tầm nhìn khi bị tấn công đợt hai rất hạn chế, vì thế và vì tiếng động máy dò tầu ngầm thường không đáng tin lắm cho thấy báo cáo về cuộc tấn công đợt hai (4-8) không chắc chắn lắm. Vì thế McNamara cố điều tra để tìm sự thật, ông yêu cầu Trung tướng David A Burchinal liên lạc hỏi Đô đốc Sharp ở Honolulu để biết hư thực.
Lúc 1 giờ 27 chiều đại úy Herrick, người điều hành DESOTO trên tầu Maddox cho biết tin tức về việc bị tấn công bằng ngư lôi có vẻ nghi ngờ. Thời tiêt xấu ảnh hưởng radar có thể gây lên báo cáo đó, đề nghị lượng giá lại trước khi hành động. Bốn mươi phút sau Đô đốc Sharp gọi cho tướng Burchinal nói mặc dù đại úy Herrick nói thế nhưng ông vẫn tin là cuộc tấn công lần thứ hai (4-8) là có thật. McNamara gọi hỏi thẳng Sharp, ông này cho biết có vài nghi ngờ xong cũng tin có bị tấn công bằng một số ngư lôi, tầu Turner Joy báo cáo đánh chìm ba tầu tuần duyên, Maddox báo cáo đánh chìm một hoặc hai cái. McNamara nói khi nào biết chắc là có thật thì sẽ trả đũa. Sharp nói có thể có và sẽ điều tra thêm.
Lúc 4 giờ 47 McNamara họp với các tham mưu trưởng duyệt các chứng cớ liên quan cuộc tấn công, có năm yếu tố cho thấy cuộc tấn công có thật. Tầu Turner Joy bị chiếu sáng khi bị bắn bằng súng tự động, một trong hai khu trục hạm thấy đèn pha trên boong tầu tuần duyên, súng phòng không của họ đã bắn hai phi cơ Mỹ bay ở trên, đã bắt được và giải mã một bản tin của BV được biết họ có hai chiếc tầu bị bắn chìm. Đô đốc Sharp nói có thể có tấn công ngày 4-8. Đến 5 giờ 23 Đô đốc gọi Tướng Burchinal và nói chắc chắn có tấn công các khu trục hạm Mỹ.
Lúc 6 giờ 15 chiều, Hội đồng an ninh QG họp, McNamara kể sơ chứng cớ và đề nghị trả đũa. Mọi người nhất trí hành động, Tổng thống cho lệnh máy bay thuộc Hải quân trừng phạt. Lúc 6 giờ 45 TT Johnson, Dean Rusk, Bus Wheeler (Tham mưu trưởng mới), McNamara họp với các vị Chủ tịch ủy ban Quốc hội để thuyết trình sự việc, giải thích sự trừng phạt. Dean nói BV đã cố ý tấn công, ta cần trừng trị giới hạn. Tổng thống nói ông muốn đưa ra Quốc hội để xin yểm trợ cuộc chiến nếu cần, một số vị dân cử nói họ sẽ ủng hộ.
Lúc 7 giờ 22 hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constelletion được lệnh tấn công trả đũa. Tổng cộng có 64 phi vụ tấn công các căn cứ tuần duyên và kho dầu để trả đũa, chỉ là tấn công giới hạn.
Mấy năm sau, tháng 2-1968 Thượng viện họp xét lại chứng cớ và chỉ trích tường trình của chính phủ. Năm 1972, Tordella, phụ tá giám đốc cơ quan an ninh QG kết luận bản tin nghe được của BV cho là lệnh tấn công ngày 4-8 thực ra là lệnh tấn công ngày 2-8. Cline, phụ tá giám đốc CIA 1964 trả lời một cuộc phỏng vấn năm 1984 nói thế. Phi công Stockdale, năm 1964 đã bay yểm trợ cho hai khu trục hạm Mỹ tối 4-8, sau này viết hồi ký nói tối hôm đó khi bay ngang hai khu trục hạm ông ta chẳng thấy cái tầu BV nào cả và nói chắc không hề có cuộc tấn công này.
Ngày 6-8-1964, lúc 9 giờ sáng các ông Dean, Bus, McNamara vào phòng họp với Ủy ban Ngoại vụ và Quân sự Thượng viện để xác nhận vụ tấn công 2-8 và 4-8 và xin Thượng viện ủng hộ. Dean nhấn mạnh cuộc tấn công này không phải là biến cố riêng mà nó nằm chung trong kế hoạch xâm chiếm miền Nam và các nước Đông nam Á. Sau đó nói chi tiết hai vụ tấn công, Tướng Bus cho biết các TMT nhất trí trả đũa, đó là thích đáng.
McNamara cho rằng Quốc hội hiểu quyền hạn rộng lớn mà Nghị quyết dành cho Tổng thống, nhưng chắc Quốc hội hiểu rằng Tổng thống sẽ không dùng nó mà không tham khảo cẩn thận tường tận với Quốc hội. Hôm sau, lưỡng viện bỏ phiếu bầu ngày 7-8. Thượng Viện thông qua Nghị quyết Tonkin Gulf Resolution với tỷ lệ 88-2, Hạ viện bỏ phiếu thuận hoàn toàn 416-0, tỷ lệ chung là 99.60%.
Nhiều người chỉ trích (sau này) cho rằng chuyện Vịnh có nhiểu âm mưu giả dối, họ lên án chính phủ mong được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến tại Đông Dương, soạn thảo một nghị quyết, khiêu khích địch gây ra biến cố để được ủng hộ, McNamara nói những chỉ trích này vô căn cứ.
Tổng thống không hề nghĩ Nghị quyết cần để đưa quân vào VN mà vài vị Tham mưu trưởng đã đề nghị từ tháng 1-1964, việc đưa quân vào   cần có Quốc hội chấp thuận. Bộ Ngoại giao đã soạn một Nghị quyết từ cuối tháng năm nhưng vì Max Taylor khuyên nên hoãn chiến dịch quân sự tới tới mùa thu. Johnson, Dean, Mac, McNamara  đồng ý và đã quyết định hoãn đưa dự thảo Nghị quyết ra Quốc hội chờ khi Đạo luật Nhân quyền đã được Thượng viện chấp thuận tháng Chín.
Nhưng khi BV tấn công, Johnson thấy đó là cơ hội để được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến chống lại âm mưu xâm lược của Hà Nội, hành động của ông cứng rắn nhưng vẫn ôn hòa so với ứng cử viên diều hâu Goldwater của đảng đối lập.
Năm 1977, George Ball (cựu thứ trưởng ngoại giao 1964) trả lời phỏng vấn đài BBC chỉ trích chính phủ đã mở chiến dịch DESOTO khiêu khích BV để có cớ trả đũa. Ngược lại Bill Bundy (CIA, cố vấn ngoại vụ TT 1964) cũng đã nói chuyện trên BBC, ông ta phủ nhận những lời cáo buộc như trên, theo Bill tình hình lúc đó (tại VNCH) chưa tồi tệ đến nỗi phải có biện pháp mạnh. Bill  nói  “Không có chuyện Chính phủ cố tình khiêu khích để tạo ra biến cố ấy” (2)
McNamara cho rằng nếu Nghị quyết vịnh Bắc Việt đã không đưa tới sự can thiệp quân sự lớn lao tại VN thì nó đã không gây nhiều tranh cãi như vậy. Nhưng nó dùng để mở cửa cho dòng thác lũ (đưa quân vào), McNamara nói tuy nhiên cho rằng chính phủ Johnson lừa gạt Quốc hội là sai. Vấn đề không phải là Quốc hội không nắm được khả năng của Nghị quyết mà là nhưng là không nắm được tiềm lực của cuộc chiến và chính phủ có thể đối phó với nó như thế nào. Trong phiên họp ngày 20-2-1968 để duyệt lại vấn đề này, Thượng nghị sĩ Fulbright vui vẻ từ bỏ lời đã kết án McNamara cố ý khiến cho Quốc hội sai lầm, ông nói “Tôi không bao giờ có cảm tưởng rằng tôi đã nghĩ ông cố tình gạt chúng tôi”, các Thượng nghị sĩ Mansfield , Claiborne Pell và Symington cũng xác nhận thế (3)
McNamara kết luận cơ bản của vấn đề Vịnh Bắc Việt không phải là sự lừa gạt nhưng nói đúng hơn là sự lạm dụng quyền hạn từ Nghị quyết. Ngôn ngữ của Nghị quyết cho Tổng thống quyền hành xử, và Quốc hội hiểu tầm vóc của quyền hạn khi họ ủng hộ tối đa Nghị quyết ngày 7-8-1964. Nhưng chắc chắn là Quốc hội không có ý định cho phép xa hơn trong việc tăng vọt từ 16,000 lính  Mỹ lên 550,000 tại VN mà không tham khảo đầy đủ với Quốc hội. Nó khiến chiến tranh mở rộng lớn có nguy cơ kéo Nga, Trung Cộng vào cuộc và đã mở rộng sự can thiệp của Mỹ tại VN trong nhiều năm.
Vấn đề Quyền hạn của Quốc hội đối nghịch với quyền Tổng thống về điều động quân đội vẫn còn tranh cãi cho tới nay. Căn nguyên của sự tranh chấp này nằm ở chỗ văn tự Hiến Pháp mơ hồ, nó trao Tổng thống quyền Tổng tư lệnh nhưng lại cho Quốc hội quyền tuyên chiến.
Những nhận định khác
Trên đây là nội dung vấn đề theo diễn tả và ý kiến của McNamara, nhân vật đóng vai trò then chốt trong chiến tranh VN giai đoạn 1963-1968. Tôi xin ghi thêm nhận xét và ý kiến của các chính khách và nhà nghiên cứu khác để vấn đề được nhìn thêm dưới nhiều khía cạnh. Về cuộc tấn công hai ngày 2-8 và 4-8 qua sự tường thuật của các tác giả có khác nhau về chi tiết, có thể vì do tam sao thất bản, tôi chú trọng về ý kiến riêng của họ nhiều hơn.
Về biến cố này cựu Tổng thống Nixon nói (4) ngày 2-8 tầu tuấn duyên BV tấn công khu trục hạm Maddox tại vịnh trên bằng ngư lôi nhưng không gây thiệt hại, và sau đó ngày 4-8 họ lại tấn công hai tầu Maddox và C Turner Joy. Nhiều năm sau, các ký giả phản chiến xác định rằng cuộc tấn công 4-8 của BV không hề có, họ kết án Johnson và quân đội ngụy tạo ra để lấy cớ can thiệp vào cuộc chiến. Nixon kết luận là không có chứng cớ nào cho thấy Mỹ khiêu khích, ngay quân sử của BV cũng kể lại chuyện này.
Ông cũng nói Nghị quyết vịnh BV không phải là mưu mẹo để được rộng quyền tham chiến như một số người kết án nhưng nó là một cố gắng lương thiện để được Quốc hội yểm trợ cho việc can thiệp sâu rộng hơn mà nó buộc ta phải gánh vác. Nghị quyết của Johnson không phải là lý do người Mỹ vào VN, nó xác nhận rằng các cuộc tấn công này chỉ là một phần của chiến dịch xâm lược có hệ thống của CSBV đối với các nước láng giềng, các nước liên kết chiến đấu cho tự do. Quốc hội chấp thuận và ủng hộ quyết định của Tổng thống, với cương vị Tổng tư lệnh, bằng mọi cách đẩy lui những lực lượng gây hấn với Hoa Kỳ và phòng ngừa những gây hấn trong tương lai.
Nixon nói “Chúng ta không lâm chiến vì hai cuộc tấn công nhỏ ngoài khơi nhưng vì Bắc Việt đang ra sức chiếm trọn Đông dương” (5). Nhiều người trách Johnson không xin Quốc hội tuyên chiến. Quốc hội và Ngũ giác đài không tuyên chiến vì họ không ngờ cuộc chiến lại kéo dài như thế, Johnson tưởng là oanh tạc chiến thuật tại miền nam VN và oanh tạc giới hạn tại BV sẽ khiến Hà nội từ bỏ xâm lược, tuyên chiến có thể lôi kéo Nga Trung Cộng nhập cuộc. Johnson không muốn chiến tranh khi ông chuẩn bị ứng cử Tổng thống năm 1964. Hạ viện chỉ họp trong bốn mươi phút và đồng thuận 100% (480-0), Thượng viện bàn thảo 8 tiếng cuối cùng bầu với 88 thuận, 2 chống. Nixon nói sự kiện chứng tỏ Quốc hội đã ủng hộ vô cùng vững chắc.
Những người ủng hộ Nghị quyết về sau họ chống chiến tranh kết án Johnson lừa gạt Quốc hội để vượt quá quyền hạn của mình. Nixon cho là không phải như thế, bản ghi âm cuộc thảo luận tại Thượng viện cho thấy Quốc hội tham chiến với con mắt mở to, hoàn toàn tự nguyện. Nghị quyết này không phải chỉ là căn bản hợp pháp để lâm chiến, Johnson cũng hành động phù hợp với những điều khoản an ninh của Tổ chức Liên phòng Đông nam Á (SEATO). Vả lại Quốc hội cũng hành xử quyền hạn chiến tranh của mình hàng năm khi họ chi tiền cho quân đội Mỹ tại VN.
Tác giả Bernard C. Nalty (6) nói ngày 2-8 ba tầu tuần duyên BV đuổi theo tầu Maddox đang ở ngoài hải phận quốc tế, tầu BV đã phóng ba ngư lôi nhưng không trúng mục tiêu. Tầu Maddox bắn trả bằng đại bác 127 ly gây thiệt hại nặng cho hai tầu BV, phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga tới yểm trợ.
Về cuộc tấn công ngày 4-8, Nalty nói BV gây hấn hay người Mỹ tưởng tượng? ông tỏ vẻ nghi ngờ biến cố này. Hôm sau Tổng thống Johnson cho tăng cường thêm khu trục hạm C Turner Joy, ngày 4-8 người chuyên viên radar trên tầu Maddox báo cáo có năm tầu phóng ngư lôi đang đuổi theo, sau đó cả hai thuyền trưởng của Maddox và C. Turner Joy quả quyết là họ bị tấn công và gọi máy bay yểm trợ đồng thời cho khai hỏa, họ báo cáo là bắn chìm hai tầu BV và làm hư hại hai cái khác.
Theo tác giả có nhiều chỉ trích gồm cả các viên chức tình báo, lời của họ đã được viết vào Văn kiện Ngũ giác đài, sau này nó xác nhận “tầu địch” chẳng qua chỉ là những tiếng “blip”của radar do những đợt sóng phía sau tầu C Turner Joy gây ra mà những chuyên viên radar chưa có kinh nghiệm của tầu Maddox đã tưởng lầm. Tuy nhiên các vị chỉ huy tại chiến trường xác nhận là có tấn công và tin rằng BV đáng bị trừng phạt giới hạn, Tổng thống Johnson quyết định trả đũa, cho không kích các căn cứ xuất phát tấn công nhưng không có mục đích mở rộng chiến tranh. Các phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation tấn công bốn căn cứ hải quân và một kho dầu của BV. Khoảng 25 tầu tuần duyên bị phá hủy, 90% các kho dầu tại Vinh bị bốc cháy. Hai máy bay Mỹ bị phòng không bắn rơi, hai chiêc khác bị hư hại.
Thăm dò cho thấy sau cuộc tấn công trả đũa, người dân Mỹ ủng hộ hành động của Johnson rất cao.
Tác giả Marilyn B. Young (7) nhận xét: nhiều năm sau Nghị quyết khi sự  lừa dối được phát hiện và Quốc hội muốn tự tách ra khỏi cuộc chiến mà chính họ đã phê chuẩn năm 1964, nhiều Thượng nghị sĩ than phiền rằng nếu họ biết sự thật thì họ đã chống lại Nghị quyết. Dân biểu Dante, Florida nói ông Tổng thống có nhu cầu quyền hạn, một biến cố tình cờ có thể đem lại quyền lực cho ông. Quốc hội nghĩ oanh tạc BV sẽ khiến họ chấm dứt chiến tranh. Họ cũng nghĩ như Hành pháp, nếu Mỹ khiến CS trả giá cao thì sẽ ngưng xâm lược miền nam. James Thomson (1964 trong Hội đồng an ninh GQ) trong một phiên họp của Thượng viện năm 1968 nói biến cố Vịnh lần sau (4-8) là cách thuận lợi chứng tỏ ý chí của chung mà chẳng cần có chứng cớ rõ ràng để tham dự cuộc chiến. Thượng viện sau này đánh giá Hành pháp Johnson sai lầm khi nghĩ rằng dùng oanh tạc hay sức mạnh quân sự có thể khiến Hà nội bị khuất phục.
Không cần biết chuyện gì sẩy ra ở Vịnh BV, việc đưa ra Quốc hội thành công mà các cố vấn của Tổng thống đã khuyên ông làm để đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Theo Marilyn B. Young Hà nội quyết tâm đi vào cuộc chiến, tháng 10-1964 họ đã đưa ba trung đoàn chính qui khoảng 4,500 người vào Nam, chiến dịch oanh tạc của Johnson không khiến Hà nội phải đầu hàng mà còn mở rộng cuộc chiến hơn nữa, cuối cùng Johnson không tìm được hòa bình như ông đã hứa với người dân.
Tác giả Stanley Karnow (8) nói tổng cộng cuộc oanh kích trả đũa BV của Johnson gồm 64 phi vụ, có khoảng 25 tầu bị phá hủy hoặc hư hại, Mỹ bị mất hai máy bay.  McNamara hồi đó cho biết ông đã có bốn công điện của BV cho thấy họ cho lệnh tấn công tối 4-8, những công điện này được giữ bí mật từ đó. Nhưng hoặc ông hiểu sai công điện hay cố tình dấu diếm nó, theo một cựu viên chức Mỹ rành về những bản truyền tin của địch thì đó không phải là lệnh tấn công (attack orders) mà McNamara hiểu nhưng là lệnh của bộ chỉ huy cho các tầu tuần duyên chuẩn bị tác chiến (military operations) mà có thể là tự vệ. Ray Cline phụ tá giàm đốc CIA hồi đó, đã phân tách sự khác biệt chính giữa hai cuộc tấn công là: sau khi duyệt xét những hồ sơ thì chỉ thấy nó liến quan đến cuộc tấn công trước (2-8)
Kết Luận
Những năm đầu thập niên 60, người dân Mỹ và Quốc hội ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến tranh VN vì quá sợ CS, họ tin rằng nếu mất miền nam VN hay Đông dương sẽ mất Đông nam Á. Tất cả sách báo, thống kê về giai đoạn này, nhất là 1964 đều nói đa số, đại đa số người dân, thậm chí có tài liệu nói 78% hoặc 85% (9) ủng hộ cuộc chiến, đại đa số Quốc hội ủng hộ cuộc chiến. Tháng 8-1964 Johnson đưa ra Quốc hội xin Nghị quyết Đông nam Á và đã được chấp thuận với tên Nghị quyết Vịnh Bắc Việt ngày 7-8-1964 với tỷ lệ tối đa 99.60% số phiếu thuận choTổng thống can thiệp vào cuộc chiến ngăn chận CS tại VN.
Trường hợp nếu Johnson -McNamara dùng oanh tạc khuất phục được BV, mang lại hòa bình thì sẽ không có ai đề cập tới Nghị quyết này. Nhưng sau khi được Quốc hội cho phép hành động, Johnson McNamara đã đem hơn nửa triệu quân vào miền nam VN trong mấy năm chiến tranh nhưng không thắng được CS, cuộc chiến ngày càng mở rộng. Sau trận Tết Mậu Thân tháng 2-1968 số người ủng hộ chiến tranh tụt thang nhanh chóng, tỷ lệ chống chiến tranh tăng nhanh. Khi ấy người ta kết tội Johnson đã gây lên cuộc chiến sa lầy, họ bèn xét lại Nghị quyết và lên án ông đã lừa gạt Quốc hội để đưa nước Mỹ can thiệp vào VN. Sau đó tới màn bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu và duyệt xét lại Nghị quyết để kết luận không có cuộc tấn công lần thứ hai ngày 4-8 của tầu tuần duyên BV mà do McNamara và ban tham mưu bịa ra trình Tổng thống lường gạt Quốc hội, nghĩa là chỉ Johnson McNamara là chịu trách nhiệm, người dân và Quốc hội không có gì đáng chê trách!
Như đã nói trên buổi chiều tối 4-8 chuyên viên radar trên tầu Maddox cho biết nhận được tín hiệu bị tấn công bằng ngư lôi, các thủy thủ trên tầu Turner Joy xác nhận đã nhìn thấy đèn pha chiếu sáng từ tầu địch và thấy súng tự động bắn, súng phòng không bắn hai máy bay Mỹ bay trên cao (10). Hai thuyền trưởng trên hai khu trục hạm Maddox và C Turner Joy báo động và ra lệnh bắn trả tối đa về hướng nghi ngờ, không có lửa tại sao lại có khói?
Thuyền trưởng kêu gọi không quân yểm trợ, Stockdale một trong các phi công từ hàng không mẫu hạm bay tới, ông đảo trên trời một tiếng rưỡi và không thấy chiếc tầu nào của BV mà chỉ thấy tầu Mỹ bắn loạn xạ trên mặt biển, sau này viết hồi ký kể lại như vậy.
Đô đốc Sharp, Tư lệnh Thái bình dương dựa theo báo cáo của hai thuyền trưởng để tường trình với McNamara và ông này trình lên Tổng thống như đã nói trên. Mặc dù chứng cớ về cuộc tấn công này có vẻ mơ hồ nhưng phản bác của những người chống đối cũng không có gì là cụ thể, chỉ là “lý sự”, thí dụ họ nói các chuyên viên radar thiếu kinh nghiệm, tưởng lấm, những năm sau giải mật các bản công điện của BV thì thấy chắc là lệnh tự vệ chứ không phải lệnh tấn công. Đó cũng chỉ là một cách hiểu khác, giải thích khác cũng như người ta giải nghĩa những câu văn trong Kinh Dịch, mỗi người hiểu một cách. Ngoài ra những bản công điện, vô tuyến điện thoại của BV chưa chắc đáng tin cậy, họ thường đưa tin giả để nghi binh, Đại tá Nguyễn trọng Luật, cựu tỉnh trưởng Ban mê Thuột cho biết CSBV thừa biết đối phương hay nghe lén điện thoại, công diện nên họ đã đưa nhiều tin giả để lừa địch.
Nhưng vấn đề là Johnson McNamara có cần phải khiếu khích BV và tạo biến cố giả tại Vịnh Bắc việt để đánh lừa Quốc hội hay không trong khi cuộc chiến giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã thực sự diễn ra từ 1959.
Ngày 13-5-1959 tại Hà Nội, CSBV đã mở Hội nghị thứ 15, ra Nghị quyết phát động chiến tranh chiếm miền nam bằng vũ lực (11). Họ thành lập đoàn 559 đưa người vũ khí xâm nhập miền nam qua Lào và hai tháng sau đoàn 779 xâm nhập đường biển. Năm 1959 có hơn 2,500 vụ ám sát các viên chức chính phủ, gấp hai lần năm 1958 (12). Ngày 12-12-1960, CSBV thành lập Mặt trận giải phóng miền nam tại Hà nội, chính thức ra mắt ngày 20-12-1960 (13). Ngày 18-9-1961 hai tiểu đoàn VC chiếm tỉnh lỵ Phước Thành trọn một ngày, giết tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và 10 công chức, tổng cộng có 17,000 cán binh xâm nhập miền nam. Ngày 18-10-1961 Tổng thống VNCH  ban hành tình trạng khẩn cấp toàn quốc (14). Năm 1962 cố vấn Mỹ gia tăng 11,300 người, quân đội VNCH tăng lên 220,000 người (15).
Đầu tháng 1-1963 trận Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho, VC bắn rơi 4 trực thăng Mỹ và bắn cháy ba M113, VNCH thiệt hại 63 người, Mỹ có 3 người chết, VC chết 41 nguời (16). Ngày 23-11-1963 tại trận Hiệp Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa có 41 Dân sự chiến đấu miền nam bị giết, 120 bị thương , 32 mất tích, VC bỏ lại 7 xác, 4 lực lượng đặc biệt Mỹ mất tích (17). Ngày 1-1-1964 VC pháo kích phi trường Biên hòa, phá hủy 6 máy bay B-57, làm hư hại 20 cái khác , giết  5 người Mỹ, 2 VN, 76 bị thương (18). Từ 1959 cho tới 1962 có 100 cố vấn Mỹ bị giết, tới cuối 1964, tổng cộng có 416 người Mỹ bị giết chưa kể số người bị thương và bị bắt làm tù binh (19). Từ cuối 1964, đầu 1965 Hà nội công khai đưa quân chính qui vào nam. Như thế chiến tranh đã diễn ra rất sôi động rồi, cần gì phải tìm lý do?
Johnson chẳng thiếu gì chứng cớ để xin Quốc hội ủng hộ, đâu cần phải ngụy tạo biến cố Vịnh Bắc Việt ? dù có hay không Nghị quyết thì cuộc chiến tranh giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã diễn ra từ lâu rồi.
Ngoài ra Johnson không phải diều hâu, ông chủ trương hòa bình, dùng oanh tạc đe dọa để Hà nội thấy cái giá phải trả mà từ bỏ cuộc chiến xâm lược, khác với ứng cử viên đối lập Goldwater chủ trương đánh mạnh hơn nữa. Năm 1965 khi tình hình quân sự tại miền nam rất xấu, Cộng quân gia tăng xâm nhập tấn công liên tục, Quân đội miền nam bị thiệt hại nhiều, Tướng Westmoreland khẩn khoản xin McNamara và Johnson gửi thêm quân tác chiến để cứu nguy miền nam. Mặc dù vậy, Johnson vẫn chần chừ, ông thăm dò các cố vấn, hỏi ý kiến cựu Tổng thống Eisenhower đến khi mọi người khuyên ông phải tăng quân theo yêu cầu của Tư lệnh, Johnson mới chịu dấn thân. Ông leo thang khi Hà Nội đã gia tăng xâm nhập, tấn công mạnh để làm sụp đổ VNCH. Trong khi đại đa số người dân, Quốc hội ủng hộ cổ võ cuộc chiến, nó đã gián tiếp lôi cuốn Johnson can thiệp, ông tham gia cuộc chiến để khỏi mất phiếu vì bị cho là nhu nhược.
Nguyên do TT Johnson không muốn tham gia cuộc chiến VN vì sợ nó sẽ làm hỏng  chương trình chương trình phúc lợi xã hội Great Society của ông gồm medicaire, cải tổ di dân, chống nghèo, làm dịu kỳ thị chủng tộc, nâng đỡ nhân quyền…. Johnson nghĩ ngân sách quốc phòng sẽ làm hỏng chương trình xã hội của ông.
Nếu nói là Johnson lừa gạt Quốc hội để được chấp thuận Nghị quyết Vịnh BV 1964 rồi đem quân vào VN là không đúng tí nào vì dù không có Nghị quyết này ông vẫn có thể đem quân vào VN mà không cần đưa ra Quốc hội vì hồi đó chưa có Nghị quyết War Powers Resolution, giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh mà mãi tới năm 1973 mới có.
(Tháng 8- 1973 War Powers Resolution được ban hành, nó qui định TT phải tham khảo Quốc Hội trước khi tham chiến. Sau khi tham khảo, TT có quyền tham chiến trong 60 ngày không cần sự chấp thuận của Quốc Hội và thêm 30 ngày nữa….)
Trường hợp TT Johnson gần giống TT Bush năm 2003 khi ông đã được Quốc hội và người dân ủng hộ cuộc chiến Iraq, nhưng mấy năm sau khi bị sa lầy người ta chỉ trích ông lừa gạt người dân vì không tìm thấy vũ khí giết người hàng loạt. Tuy nhiên trường hợp Johnson có hơi khác là ông không muốn tham chiến vì chuẩn bị ứng cử, vì chương trình phúc lợi xã hội.. còn Bush muốn chiến tranh, nhiều người nói cuộc chiến Iraq là do ý muốn của chính ông.
Người ta chỉ trích chiến dịch oanh tạc BV thất bại, Johnson không làm cho BV chịu thua cuộc nhưng cả Quốc hội, người dân cũng tin vào kế hoạch này. Không riêng gì Johnson mà cả nước Mỹ sai lầm vì chủ quan, khinh địch, đánh giá quá thấp đối phương cũng như CS quốc tế, quá tin tưởng vào sức mạnh của mình. Chiến dịch thất bại một phần vì hỏa lực phòng không địch rất mạnh, người Mỹ không nghĩ CS quốc tế viện trợ cho Hà Nội dồi dào như thế, từ đầu chí cuối họ đã cung cấp cho BV 3,229 khẩu cao xạ; 20,000 hỏa tiễn địa-không (SAM) (20)
Phản chiến nói TT Johnson lừa Quốc hội để có Nghị quyết vịnh BV, từ Nghị quyết này đi tới cuộc chiến lớn và sa lầy tại VN, có nghĩa vì sự lừa gạt mà đưa tới cuộc chiến VN. Nhận định này không có căn cứ tí nào vì như đã nói dù không có biến cố vịnh BV Johnson cũng có những lý do khác để đưa ra Quốc hội, và thậm chí dù không có Nghị quyết Vịnh BV 1964, ông vẫn có thể đưa quân vào VN được vì ông là Tổng tư lệnh quân đội, vì tình hình đòi hỏi và vì hồi đó chưa có Nghị quyết hạn chế quyền Tổng thống (1973).
Những người chống chiến tranh và cả McNamara sau này cho là cuộc chiến VN sai lầm, nhưng nếu sai lầm tại sao không rút bỏ VN từ giữa thập niên 60? Tháng 12-1964, Hội đồng quân lực VNCH đã yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và Thủ tướng Trần văn Hương trục xuất Đại sứ Mỹ Taylor mà họ cho là có thái độ hách dịch (21). Trong tường trình cuối năm về Tòa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút bỏ miền nam VN (22) nhưng không được ai chú ý. McNamara (hồi ký trang 320) cho là đáng lý Mỹ phải rút bỏ miền nam từ cuối 1963 hay cuối 1964 hoặc đầu 1965.
Nói cho oai thôi chứ trên thực tế Hoa kỳ vẫn bám vào miền nam VN kỹ lắm, mặc dù 1965, 1966 phản chiến tại Mỹ lên cao, ngay tại miền nam cũng có nhóm quá khích chống chiến tranh1966 nhưng họ cũng không dám rút bỏ. Người Mỹ chỉ rút bỏ VN năm 1975 sau khi đã hòa được với CS quốc tế.
Những năm 1964, 1965 Hoa Kỳ có thể lựa chọn hoặc tham chiến hoặc rút bỏ miền nam VN hay không? Thực ra họ không có con đường nào khác hơn là can thiệp vào cuộc chiến VN để giữ Đông nam Á, để bảo vệ an ninh cho chính họ, bảo vệ cho chính quyền lợi của nước Mỹ.
Như thế không thể kết luận chỉ có Johnson là người đã đưa nước Mỹ vào cuộc chiến sa lầ.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
Chú thích
(1) McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, trang 127-143
(2) In Retrospect trang 140
(3) In Retrospect trang 141
(4) No More Vietnams trang 73-76
(5) No More Vietnams trang 74
(6) The Vietnam war, trang 81, 82
(7) The Vietnam war 1945-1990, trang 120-123
(8) Vietnam a History trang 388,389
(9) Vietnam a History trang 390; answer.com,  domino theory
(10) In Retrospect trang 134
(11) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1955-1963, trang 152
(12) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập trang 61
(13) VN Niên Biểu trang 206
(14) VN Niên Biểu trang 228,229
(15) Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 61
(16) Sách kể trên trang 63.
(17) Sách kể trên trang 94,95
(18) The World Almanac of The Vietnam War trang 95
(19)  National Archives, Statistical Information about Fatal Casualties of the Vietnam War
(20)  Đăng Phong, Năm Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(21) Lâm vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn trang 98
(22) In Retrospect, trang 164


-Năm mươi năm sự kiên Vịnh Bắc bộ
Đàn Chim Việt
McNamara đang họp báo về sự kiện Vịnh Bắc bộ McNamara đang họp báo về sự kiện Vịnh Bắc bộ
Giành khoan HD – 981 đã rút, nhưng cội nguồn của những tranh chấp vẫn còn nguyên vẹn. Những giải pháp cho biển Đông vẫn rất đen tối. Cũng ở vùng biển này, vào những ngày này, cách đây 50 năm đã xẩy ra một biến cố: “Sự kiện Vịnh Bắc bộ”.

Ngày 2-8-1964, Mỹ nói rằng tàu khu trục hạm USS Maddox đang đồn trú trên vùng biển quốc tế, cách lãnh hải Bắc Việt Nam 28 hải lý. Hà Nội thì cho rằng USS Maddox đã vào sâu lãnh hải của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 6 hải lý. Cuộc trạm trán đã diễn ra. Cả hai cùng tố cáo lẫn nhau.
Mỹ nói: Tàu USS Maddox bị trúng thủy lôi, nhưng không có binh sĩ nào thương vong.
Báo QĐND gần đây viết: “Mỹ đã chuốc lấy thất bại nặng nề: 8 máy bay bị bắn rơi tại chỗ, nhiều chiếc khác bị thương, tên phi công Mỹ Anvarét bị bắt sống ngay trên vịnh Hạ Long. .. Mọi bịp bợm và dối trá không thể che đậy được .. Trận đánh ngày 2-8-1964 và 5-8-1964 đã diễn ra như vậy. Phần thắng đã thuộc về quân và dân miền Bắc.”
Sự kiện Vịnh Bắc bộ là khởi điểm cho một cuộc ném bom ồ ạt, kéo dài gần thập kỷ trên toàn miền Bắc, để lại nhiều hệ lụy thương đau cho nhiều thế hệ.
Hôm nay, Mỹ – Việt đang tiệm cận đến mối quan hệ đồng minh. Sự thực về sự kiện này vẫn chưa được bạch hóa. VN vẫn đổ mọi tội lỗi cho phía Mỹ. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, McNamara trong dịp thăm Hà Nội đã hỏi trực tiếp tướng Giáp về sự kiện này. Ai ra lệnh phóng ngư lôi vào tàu USS Maddox? Tướng Giáp lờ đi, không trả lời cụ thể vào câu hỏi.
Vào thời điểm này Hồ Chí Minh còn sống. Ông vẫn nắm trọn quyền lực, mọi quyết định liên quan đến an ninh của quốc gia nằm trong tay ông. Vậy vai trò của ông về sự kiện này như thế nào?
Lúc đó, quan hệ Việt – Trung đang ở thời kỳ nồng ấm nhất. TQ đóng vai trò gì trong sự kiện này?
TQ khẳng định 80% diện tích biển Đông là “lãnh hải truyền thống không thể chối cãi” của họ, vậy tại sao họ không có một phản ứng gì khi mà USS Maddox đang trên “lãnh hải truyền thống” của họ.
Tại sao hải quân của QĐND dám đương đầu với khu trục hạm Mỹ vào năm 1964, mà bây giờ lại tỏ ra rất yếu ớt, nếu không nói là bạc nhược trước hành vi của TQ ở những năm sau đó.
Chúng ta đang phải lần mò trong bóng đêm lịch sử. Lịch sử bị ngụy tạo. Lịch sử bị nhào nặn. Lịch sử bị lợi dụng. Lịch sử bị xuyên tạc. Lịch sự bị thêu dệt. Lịch sử bị tiêu diệt.
Hệ quả, có những người cầm bút đã viết trên QĐNN rằng: “Nghe ông kể, chúng tôi khâm phục về những lý giải có đủ luận cứ, luận chứng về cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc bộ” mà Mỹ đã cố tình tạo ra, nhằm che đậy bản chất xấu xa, cũng như tội ác của chúng. Quân dân miền Bắc và Hải quân nhân dân Việt Nam đã dám đánh, biết đánh, và quyết đánh kẻ thù xâm lược, bảo vệ bằng được vùng trời vùng biển thân yêu của Tổ quốc.”
Bảo vệ vùng trời vùng biển thân yêu, nhưng tại sao lại không bảo vệ những người ngư phủ cũng rất thân yêu?
Chúng ra muốn biết sự thực, dù sự thực có đau lòng. Bởi vì chỉ có sự thực mới thực sự giải phóng chúng ta ra khỏi màn đêm nô lệ của ý thức hệ.
Biên tập viên ĐCV
© Đàn Chim Việt


Từ Vịnh Bắc Bộ tới Hoàng Sa
15/09/2009 09:30 (GMT + 7)
(TuanVietNam) - Chúng ta cần quan tâm về cuộc đàm phán phân định và trao đổi hợp tác ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, cần tìm hiểu thêm về sự công bằng cho đất nước và để biết rõ về những lựa chọn khó khăn và thử thách đất nước đang đối diện để đạt được sự công bằng ấy.


Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết của nhóm tác giả Dương Danh Huy - Lê Minh Phiếu như một góc nhìn riêng để tham khảo. Bài viết này cũng đã được đọc tại Hội thảo hè tháng 8/2009.


Trong năm 2009, cuộc đàm phán phân định chủ quyền và khảo sát chung trong vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ bước sang vòng thứ 6. Cuộc đàm phán này được tiến hành lần đầu tiên vào hai ngày 18-19/1/2006
1, và cho tới ngày 6/1/2009 hai bên đã trải qua 5 vòng đàm phán2. Nếu vòng đàm phán thứ 6 là một bước lớn đi đến kết quả thì nó sẽ là một trong những diễn biến quan trọng nhất liên quan đến tranh chấp biển Đông.

Vùng biển được đàm phán, theo Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng, là “đoạn từ Quảng Bình, Quảng Trị đến Huế, Đà Nẵng3. Trong khu vực này, bờ biển Việt Nam và Trung Quốc cách nhau dưới 400 hải lý. Vì vậy, chiếu theo UNCLOS, ranh giới được đàm phán là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế.
Trong quá trình đàm phán, Việt Nam và Trung Quốc đang “từng bước thu hẹp khác biệt4, lãnh đạo hai bên “nhất trí đẩy nhanh tiến trình đàm phán”5 và đẩy nhanh việc khởi động khảo sát chung. Tuyên bố chung của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Ôn Gia Bảo ngày 25/10/2008 nói: “Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực này6.
Chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông nói chung là gác vấn đề tranh chấp chủ quyền, phân định chủ quyền sang một bên và cùng các nuớc trong tranh chấp khai thác kinh tế. Ngược lại, là nước nhỏ, nhu cầu của Việt Nam là “rào dậu tốt tạo láng giềng tốt”. Vì vậy, Việt Nam đang ở trong thế muốn phân định chủ quyền một cách công bằng trong khi Trung Quốc không thật sự muốn.
Nhưng theo chúng tôi:
  • Thứ nhất, chỉ có việc phân định chủ quyền một cách công bằng, chứ không phải là khai thác chung, mới có thể là giải pháp cơ bản, lâu dài. Khai thác chung trong khi chưa phân định chủ quyền chỉ có thể là giải pháp tạm thời.
  • Thứ nhì, để khai thác chung, những vấn đề cơ bản sau cần được xác định:
    • Hợp tác khảo sát và khai thác trong vùng nào?
    • Mỗi bên gánh chịu bao nhiêu nghĩa vụ và được hưởng bao nhiêu quyền lợi trong việc khảo sát và khai thác?
Cụ thể, nếu vùng khai thác chung là vùng thuộc Việt Nam theo luật quốc tế thì việc khai thác chung không thể nào được xem là công bằng.
Nếu lý lẽ chủ quyền của hai bên có cơ sở pháp lý tương đương và vùng tranh chấp có diện tích nhỏ thì hai bên có thể chấp nhận khai thác chung, vì bất công cho một trong hai nước sẽ tương đối nhỏ7.
Nhưng nếu vùng tranh chấp có diện tích lớn và lý lẽ của một bên quá vô lý thì việc khai thác chung là một điều hoàn toàn bất công cho bên kia.
Trong khu vực từ Vịnh Bắc Bộ đến Hoàng Sa, yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa là vô lý, yêu sách về các vùng biển được cho là thuộc Hoàng Sa cũng vô lý, yêu sách về vùng biển nằm trong đường lưỡi bò càng vô lý. Bằng các yêu sách vô lý đó, Trung Quốc tranh chấp một vùng biển rất rộng lớn của Việt Nam. Việc khai thác chung trong vùng tranh chấp, nếu có, là hoàn toàn bất công cho Việt Nam.
Vì vậy, những nguyên tắc công bằng cho việc phân định vùng biển giữa hai bên vừa có ý nghĩa quan trọng cho việc xác định chủ quyền, vừa là tiền đề của việc khảo sát, khai thác chung nếu hai bên cùng mong muốn. Vì vậy, bài viết này tập trung vào các nguyên tắc để phân định chủ quyền một cách công bằng.
Bản đồ 1: Khu vực ngoài của Vịnh Bắc Bộ - một số thử thách mà Việt Nam đang đối diện trong đàm phán.

Việc phân định chủ quyền trong vùng biển từ Vịnh Bắc Bộ tớI Hoàng Sa có một ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông vì 3 lý do cơ bản sau:
  • Nó sẽ định đoạt ranh giới vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.
  • Phương pháp phân định ranh giới này và vị trí của ranh giới từ phương pháp này có thể định hướng cho việc phân định ranh giới tiếp nối cho vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Cụ thể, nếu Việt Nam không đạt được sự công bằng trong cuộc đàm phán này thì sự không công bằng đó có thể sẽ là tiền lệ cho nguyên tắc phân định các vùng biển khác; và có thể dẫn tới một địa điểm khởi đầu bất lợi cho ranh giới trong các vùng biển khác đó.
  • Cuộc đàm phán để phân định chủ quyền có khía cạnh liên quan tới chủ quyền đối với Hoàng Sa vốn đã bị Trung Quốc chiếm đóng và đang trong tình trạng tranh chấp.
Tuy nhiên, cuộc đàm phán này lại phức tạp hơn những cuộc đàm phán trước đây để phân định ranh giới với với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ, ranh giới với Thái Lan và với Indonesia.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam đàm phán trong một khu vực có quần đảo trong tình trạng tranh chấp chủ quyền. Không những thế, những đảo này đang bị Trung Quốc chiếm đóng.
Đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam đàm phán với Trung Quốc để phân định một khu vực trong biển Đông, nơi Trung Quốc đòi hỏi 75% diện tích bằng “đường lưỡi bò”. Trong quá trình đàm phán, có nhiều khả năng là Trung Quốc sẽ đòi hỏi ranh giới dựa trên đường lưỡi bò. Đòi hỏi đó, vốn trái với UNCLOS, là vô lý, và cuộc đàm phán sẽ không thể nào có kết quả công bằng nếu dựa trên nó. Để có thể có một cuộc đàm phán dựa trên sự công bằng, dựa trên luật pháp quốc tế liên quan, Trung Quốc phải từ bỏ việc yêu sách đường lưỡi bò.
Điều đáng lo ngại cho cuộc đàm phán này nói riêng và cho tình hình Biển Đông nói chung là các diễn biến gần đây, ví dụ như liên quan đến việc đăng ký thềm lục địa với Liên Hiệp Quốc và việc Trung Quốc cấm đánh cá hàng năm trên nửa diện tích Biển Đông, cho thấy Trung Quốc đang leo thang trong việc thực hiện yêu sách đường lưỡi bò.
Trong trường hợp Trung Quốc không dùng đường lưỡi bò trong đàm phán nhưng đòi hỏi hiệp định ghi nhận rằng Trung Quốc bảo lưu cái gọi là “quyền lịch sử” của nước này, Việt Nam cũng cần phải thận trọng về sự “bảo lưu” này vì “quyền lịch sử” có thể được Trung Quốc dùng để ám chỉ đường lưỡi bò.
Ngoài những khía cạnh trên, vì đường lưỡi bò hoàn toàn không có cơ sở pháp lý hay công lý, bài viết này sẽ không dùng nó trong các phân tích mà chỉ tập trung vào những nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Vùng biển được đàm phán có hai phần có tính chất khác nhau: khu vực biển không thuộc Hoàng Sa, nằm phía cửa Vịnh Bắc Bộ, và khu vực biển thuộc Hoàng Sa, bao quanh quần đảo Hoàng Sa.
Cuộc đàm phán để phân định biển chỉ có thể phân định khu vực biển không thuộc Hoàng Sa. Khu vực biển thuộc Hoàng Sa phải thuộc về nước có chủ quyền đối với Hoàng Sa. Vì vấn đề chủ quyền đốI vớI Hoàng Sa chưa được giải quyết, một trong những khía cạnh quan trọng của cuộc đàm phán là xác định khu vực biển nào không thuộc Hoàng Sa, khu vực nào thuộc Hoàng Sa.

Khu vực biển không thuộc Hoàng Sa

Trong khu vực biển không thuộc Hoàng Sa, bờ biển Việt Nam và bờ biển Trung Quốc đối diện nhau và có chiều dài tương đương. Vì vậy, chiếu theo các án lệ của Toà án Công lý Quốc tế và tập quán quốc tế, đường trung tuyến giữa bờ biển của hai nước sẽ là ranh giới công bằng, như phần Tây Bắc của đường đỏ trong Bản đồ 1.
Trên thực tế, trong quá khứ Trung Quốc đã từng đòi hỏi những vùng biển vượt qua đường trung tuyến, lấn về phía Việt Nam.
Năm 2004 Trung Quốc kéo giàn khoan dầu Kantan 3 tới hoạt động tại khu vực có toạ độ 17°26′42″ Bắc, 108°19′05″ Đông, cách Việt Nam 63 hải lý và cách Trung Quốc 67 hải lý8. Vì khu vực này cách các đảo gần nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa 205 hải lý (xem bản đồ 1), khu vực này không thể thuộc Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối với lý do “Căn cứ vào luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, khu vực này hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”9. Đáp lại, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng khu vực này nằm bên Trung Quốc của vùng biển ngoài của Vịnh Bắc Bô, do đó Trung Quốc cho rằng sự phản đối của Việt Nam “không có cơ sở và không thể chấp nhận được”10.
Cho tới nay Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc đã công bố một số lô dầu khí vượt qua đường trung tuyến, lấn về phía Việt Nam (xem Bản đồ 1). Trong những lô dầu khí này, vùng LD29-1 nằm hoàn toàn bên Việt Nam và phân nửa vùng LD20-1 nằm bên Việt Nam của đường trung tuyến.

Theo bản đồ năm 2002 của Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc thì hai vùng dầu khí này đang bị Trung Quốc khai thác. Vùng lấn sang bên Việt Nam này nằm ngoài tầm ảnh hưởng của Hoàng Sa, cách bờ biển đất liền của Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc dưới 75 hải lý, cách các đảo gần nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa từ 160 hải lý tới 215 hải lý.

Bản đồ 2: Bản đồ của Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc. Vào năm 2002, hai vùng dầu khí LD29-1 (nằm phía Việt Nam của đường trung tuyến) và LD20-1 (nằm vắt ngang đường trung tuyến) bắt đầu bị Trung Quốc khai thác.
Việc Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền đối với một khu vực dù cách Việt Nam 63 hải lý, cách Trung Quốc 67 hải lý, bên ngoài tầm ảnh hưởng của Hoàng Sa, và đối với những khu vực tương tự, nói lên phần nào thử thách mà Việt Nam phải đối diện trong đàm phán.
Trong khu vực biển không thuộc Hoàng Sa, Việt Nam phải vượt qua những thử thách này để đạt được một hiệp định ranh giới biển công bằng.

Khu vực biển thuộc Hoàng Sa

Trong khu vực biển thuộc Hoàng Sa, Việt Nam và Trung Quốc có thể dựa vào tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa để đòi hỏi những vùng nội thuỷ, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế lấn sâu vào bên kia đường trung tuyến.
Trên thực tế, ngày 15/5/1996 Trung Quốc công bố một đạo luật xác định đường cơ sở thẳng xung quanh Hoàng Sa, đòi hỏi rằng khu vực bên trong đường cơ sở, có diện tích 17.400 km², là nội thuỷ và khu vực 12 hải lý bên ngoài đường cơ sở đó là lãnh hải của họ11, mặc dù đường cơ sở đó vi phạm UNCLOS12. Những vùng nội thuỷ và lãnh hải này lấn sâu vào bên Việt Nam của đường trung tuyến, như trong Bản đồ 3.
Trung Quốc cũng có thể sẽ đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn nữa và lấn sâu vào phía Việt Nam hơn nữa. Thí dụ, ngay cả trong trường hợp Trung Quốc không dùng đường lưỡi bò, họ có thể đòi hỏi tối đa rằng ranh giới vùng đặc quyền kinh tế là đường trung tuyến giữa đường cơ sở thẳng họ tuyên bố chung quanh Hoàng Sa và những vùng lãnh thổ khác của Việt Nam, như đường xanh lá cây trong Bản đồ 3. Đòi hỏi đó sẽ phi pháp và bất công vì 3 lý do:
  • Quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa là bất hợp pháp.
  • Đương cơ sở thẳng Trung Quốc tuyên bố xung quanh Hoàng Sa vi phạm UNCLOS.
  • Theo tập quán quốc tế và các phán quyết của Toà án Công lý Quốc tế, các đảo nhỏ như các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa thường không được hay chỉ được ít hiệu lực trong việc phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.

Bản đồ 3: Trung Quốc có thể đòi hỏi một cách tối đa rằng đường xanh lá cây là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế. Trung Quốc đã đòi hỏi rằng hình đa giác là nội thuỷ và vùng biển rộng 12 hải lý bên ngoài hinh đa giác là lãnh hải của nước này.

Nếu Việt Nam chấp nhận đòi hỏi này hay bất cứ đòi hỏi nào của Trung Quốc để lấn sang đường trung tuyến, vùng đặc quyền kinh tế mà Việt Nam được hưởng sẽ bị thu hẹp. Thêm nữa có thể thấy từ Bản đồ 3 rằng sự thu hẹp đó sẽ dẫn tới thiệt thòi cho Việt Nam nếu trong tương lai có đàm phán phân định các vùng biển nối tiếp về phía Nam. Ngoài ra, nếu chấp nhận như thế thì có nghĩa là Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.
Trong khả năng ngược lại, Việt Nam cũng có thể dựa vào chủ quyền đối với Hoàng Sa để đòi hỏi những vùng biển bên Trung Quốc của đường trung tuyến.
Bản đồ 4: Lãnh hải 12 hải lý thuộc Hoàng Sa có thể là các hình tròn nhỏ. Đường tím là đường trung tuyến giữa các đảo Hoàng Sa và Trung Quốc.

Trước tiên, Việt Nam có thể đòi hỏi lãnh hải 12 hải lý thuộc các đảo Hoàng Sa, thí dụ như trong Bản đồ 4.
Kế tiếp, Việt Nam có thể đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế cho các đảo Hoàng Sa. Trên lý thuyết, Việt Nam có thể đòi hỏi một cách tối đa rằng ranh giới vùng đặc quyền kinh tế là đường trung tuyến giữa các đảo Hoàng Sa tên mức thuỷ triều cao và đảo Hải Nam. Đòi hỏi tối đa đó sẽ không công bằng vì theo tập quán quốc tế và các phán quyết của Toà án Công lý Quốc tế, các đảo nhỏ như các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa thường không được hay chỉ được ít hiệu lực trong việc phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Trung Quốc là nước có nhiều sức mạnh và là nước đang chiếm đóng Hoàng Sa, mặc dù việc chiếm đóng đó là bất hợp pháp chiếu theo luật quốc tế, sẽ khó xảy ra khả năng Trung Quốc chấp nhận những yêu sách của Việt Nam để lấn sang đường trung tuyến, nhất là những yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế.
Trước thử thách này, trước khi vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa được giải quyết một cách công bằng và hợp pháp, ví dụ như bởi Toà án Công lý Quốc tế, Việt Nam khó có thể đạt được sự công bằng về vùng biển thuộc Hoàng Sa.
Sự lựa chọn chính và khó khăn nhất cho Việt Nam là giữa 2 giải pháp sau:
  1. Rút lui ra khỏi đàm phán; hay:
  2. Chỉ đàm phán phân định khu vực không thuộc Hoàng Sa. Hoàng Sa và vùng biển bao quanh Hoàng Sa tiếp tục nằm trong tình trạng tranh chấp.
Nhược điểm của giải pháp (1) nêu trên là sẽ không có ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc trong khu vực từ cửa Vịnh Bắc Bộ đến Hoàng Sa.
Nhược điểm của giải pháp (2) nêu trên là, trên thực tế, Hoàng Sa và khu vực thuộc Hoàng Sa sẽ tiếp tục nằm dưới sự kiểm soát bất hợp pháp của Trung Quốc cho đến khi nào vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa được giải quyết một cách công bằng và hợp pháp. Và trong tương lai, chúng ta không biết được Trung Quốc có sẵn sàng chấp nhận đàm phán chủ quyền đối với Hoàng Sa và khu vực biển bao quanh Hoàng Sa hay không.
Trong trường hợp phải chọn giải pháp (2) nêu trên, Việt Nam cần phải đòi hỏi một phạm vi cho khu vực thuộc Hoàng Sa sao cho giảm tối thiểu thiệt hại.
Ngoài ra, có thể chọn một giải pháp dung hoà giữa 2 giải pháp trên:
  • Đàm phán phân định vùng biển nằm gần cửa Vịnh Bắc Bộ, cách xa Hoàng Sa và chắc chắn không thuộc Hoàng Sa.
  • Không đàm phán phân định vùng biển nằm gần Hoàng Sa.
  • Không công nhận rằng vùng biển thứ nhì có thuộc Hoàng Sa hay không. Vùng biển thứ nhì sẽ tiếp tục nằm trong tình trạng tranh chấp.
Trong bất kỳ trường hợp nào, Việt Nam không thể chấp nhận bất cứ điều nào trong hiệp định có thể bị cho là chấp nhận yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa.

Xác định khu vực biển thuộc Hoàng Sa

Vì Trung Quốc là nước có nhiều sức mạnh và là nước đang chiếm đóng Hoàng Sa, trong khi vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa chưa được giải quyết, việc đòi hỏi rằng khu vực biển thuộc Hoàng Sa có phạm vi tối đa, thí dụ như với đường cơ sở thẳng và với vùng đặc quyền kinh tế từ đường cơ sở đó ra tới trung tuyến giữa Hoàng Sa và các vùng lãnh thổ khác, đương nhiên sẽ có lợi tối đa cho Trung Quốc. Đòi hỏi đó sẽ là cớ để Trung Quốc khống chế một vùng biển có diện tích tối đa. Như vậy sẽ thiệt hại tối đa cho Việt Nam. Tuy nhiên, như đã lập luận, việc vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh Hoàng Sa và đòi vùng đặc quyền kinh tế như trên là trái với UNCLOS và tập quán quốc tế.
Nếu Việt Nam cũng có quan điểm như Trung Quốc, tức là đòi hỏi rằng khu vực biển thuộc Hoàng Sa có phạm vi tối đa, Việt Nam sẽ bị thiệt hại trong hiện tại, và nếu trong tương lai Việt Nam giành lại được Hoàng Sa thì sẽ có nhiều lợi ích trong tương lai. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, việc đỏi hỏi như thế sẽ không phù hợp với tập quán quốc tế và các án lệ của Toà án Công lý Quốc tế.
Nếu Việt Nam đòi hỏi rằng vùng biển thuộc Hoàng Sa có phạm vi tối thiểu, Việt Nam sẽ giảm thiệt hại trong hiện tại và chấp nhận rằng nếu trong tương lai Việt Nam giành lại được Hoàng Sa thì lợi ích cũng sẽ giảm.
Tồn tại hai yếu tố trong việc lựa chọn phạm vi tối thiểu hay phạm vi tối đa cho khu vực biển thuộc Hoàng Sa:
  1. Sự công bằng: Theo ý kiến của các tác giả, phạm vi tối thiểu sẽ phù hợp với tập quán quốc tế hơn, phù hợp với các phán quyết của Toà án Công lý Quốc tế hơn13, và sẽ công bằng hơn, thí dụ như:
    • Không vẽ đường cơ sở thằng xung quanh quần đảo Hoàng Sa;
    • Các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa là những đảo nhỏ, xa bờ và, thêm nữa, trong tình trạng tranh chấp chủ quyền. Để tuân thủ sự công bằng mà UNCLOS quy định, các bên sẽ không trao quy chế vùng đặc quyền kinh tế cho các đảo thuộc Hoàng Sa.
    • Như vậy, khu vực biển thuộc Hoàng Sa sẽ bao gồm lãnh hải 12 hải lý, thí dụ như các vòng tròn nhỏ trong Bản đồ 4.
  2. Lợi ích quốc gia: Việc lựa chọn giữa hai phạm vi trên cũng là sự cân nhắc giữa hai khía cạnh: một mặt là Trung Quốc đang chiếm đóng Hoàng Sa và khống chế vùng biển thuộc Hoàng Sa, một mặt là khả năng Việt Nam giành lại được Hoàng Sa trong tương lai.
Giữa phạm vi tối thiểu và phạm vi tối đa, tồn tại nhiều cách khác để xác định khu vực biển thuộc Hoàng Sa. Bên cạnh tôn trọng sự công bằng, Việt Nam phải cân nhắc phạm vi nào cho khu vực biển thuộc Hoàng Sa sẽ có lợi nhất cho Việt Nam.
Theo những nguyên tắc được Toà án Công lý Quốc tế xác định14, cách tốt nhất để đi tới giải pháp công bằng là vẽ đường trung tuyến giữa các vùng lãnh thổ khác của Việt Nam và các vùng lãnh thổ khác của Trung Quốc, không tính quần đảo Hoàng Sa, để đi tới một ranh giới thử nghiệm cho vùng đặc quyền kinh tế. Sau đó, nếu cần thiết cho sự công bằng, ranh giới thử nghiệm này có thể được điều chỉnh như một cách để cho quần đảo Hoàng Sa một hiệu lực nào đó trong việc tính vùng đặc quyền kinh tế.
Trên thực tế, Việt Nam không thể chấp nhận việc xê dịch ranh giới thử nghiệm về phía mình, mà Trung Quốc cũng sẽ không chấp nhận việc xê dịch đó về phía họ. Vì vậy, đường trung tuyến không tính quần đảo Hoàng Sa vừa là phạm vi tối thiểu mà Việt Nam có thể chấp nhận cho vùng đặc quyền kinh tế, vừa là phạm vi tối đa mà Việt Nam có thể thực hiện được. Theo ý kiến của các tác giả, giải pháp công bằng tối đa mà Việt Nam có thể thực hiện được là:
  • Ranh giới vùng đặc quyền kinh tế là đường trung tuyến không tính quần đảo Hoàng Sa ;
  • Các đảo Hoàng Sa phía bên kia đường trung tuyến và lãnh hải 12 hải lý của chúng thuộc về Việt Nam.
Tất nhiên Trung Quốc sẽ không chấp nhận rằng Hoàng Sa và lãnh hải 12 hải lý thuộc Hoàng Sa là của Việt Nam. Nếu Trung Quốc là nước tôn trọng sự công bằng, họ có thể chấp nhận giải pháp trung gian sau:
  • Ranh giới vùng đặc quyền kinh tế là đường trung tuyến không tính quần đảo Hoàng Sa.
  • Các đảo Hoàng Sa và lãnh hải 12 hải lý của chúng tiếp tục nằm trong tình trạng tranh chấp.
Vì Trung Quốc đã tuyên bố đường cơ sở thẳng và lãnh hải xung quanh Hoàng Sa lấn sang đường trung tuyến, khả năng là Trung Quốc cũng sẽ không chấp nhận rằng ranh giới vùng đặc quyền kinh tế là đường trung tuyến. Trong trường hợp này, theo ý kiến của các tác giả, giải pháp tạm thời công bằng là:
  • Hai nước dùng đường trung tuyến không tính quần đảo Hoàng Sa như ranh giới tạm thời cho vùng đặc quyền kinh tế.
  • Các đảo Hoàng Sa và lãnh hải 12 hải lý của chúng tiếp tục nằm trong tình trạng tranh chấp.
Trong trường hợp Việt Nam và Trung Quốc không giải quyết được sự bất đồng ý kiến, theo ý kiến của các tác giả, giải pháp tạm thời công bằng là:
  • Hai nước dùng đường trung tuyến không tính quần đảo Hoàng Sa như ranh giới tạm thời cho vùng đặc quyền kinh tế. Ranh giới này sẽ được điều chỉnh lại sau khi vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và phạm vi khu vực biển thuộc Hoàng Sa được giải quyết.
  • Các đảo Hoàng Sa và lãnh hải 12 hải lý của chúng tiếp tục nằm trong tình trạng tranh chấp.
Nếu Việt Nam và Trung Quốc có khảo sát hay khai thác chung trước khi chủ quyền được phân định, vùng hợp tác phải nằm vắt ngang đường trung tuyến này một cách đồng đều thì mới công bằng.
Trong bất kỳ trường hợp nào, Việt Nam không thể chấp nhận bất cứ điều nào trong hiệp định có thể bị cho là chấp nhận yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa.

Cách vẽ đường trung tuyến

Ngay cả trong việc vẽ đường trung tuyến không tính quần đảo Hoàng Sa, có thể tồn tại sự khác biệt ý kiến giữa Việt Nam và Trung Quốc. Mỗi bên sẽ đòi hỏi cách vẽ đường trung tuyến có lợi nhất cho mình.
Một trong những cách để vẽ đường trung tuyến là vẽ đường trung tuyến giữa đường cơ sở của hai nước. Vì đường cơ sở của Việt Nam vừa nằm xa bờ hơn đường cơ sở của Trung Quốc vừa có thể không phù hợp với UNCLOS, khả năng là Trung Quốc sẽ không chấp nhận cách này.
Trung Quốc có thể đòi hỏi vẽ đường trung tuyến giữa đường cơ sở của nước này và bờ biển Việt Nam. Vì đường cơ sở của Trung Quốc xung quanh đảo Hải Nam có lấn ra biển ít nhiều, Việt Nam không thể chấp nhận cách này.
Cách vẽ đường trung tuyến công bằng nhất là vẽ đường trung tuyến giữa bờ biển hai nước, không tính Hoàng Sa nhưng tính các đảo gần bờ của mỗi nước. Tuy nhiên, có thể tồn tại sự khác biệt ý kiến ngay cả trong cách thứ ba này.
Nếu mũi Đà Nẵng, mũi Hải Vân, đảo Lý Sơn (diện tích 11 km², dân số 20.000)15, và cù lao Chàm (diện tích 15 km², dân số 3,000)16 của Việt Nam được dùng trong việc vẽ đường trung tuyến thì đường trung tuyến sẽ như trong Bản đồ 5.

Bản đồ 5: Đường trung tuyến không tính Hoàng Sa, cù lao Chàm và đảo Lý Sơn được 100% hiệu lực.
Nếu đảo Lý Sơn và cù lao Chàm chỉ được 50% hiệu lực trong việc vẽ trung tuyến, điều này tương đương với việc “dời” hai đảo này vào bờ 50% khoảng cách trên thực tế, thì đường trung tuyến sẽ như trong Bản đồ 6.
Bản đồ 6: Đường trung tuyến không tính Hoàng Sa, cù lao Chàm và đảo Lý Sơn được 50% hiệu lực.
Theo ý kiến của các tác giả,
  • Mũi Đà Nẵng và mũi Hải Vân hoàn toàn đáp ứng những điều kiện để được dùng trong việc vẽ đường trung tuyến.
  • Đảo Lý Sơn và cù lao Chàm hoàn toàn đáp ứng quy chế đảo theo Điều 121 của UNCLOS và nằm gần bờ Việt Nam. Hai đảo này nên được dùng để vẽ đường trung tuyến, hay phải được ít nhất là 50% hiệu lực. Lưu ý là trong hiệp định Vịnh Bắc Bộ đảo Cồn Cỏ (diện tích 2.5 km², dự kiến là tới năm 2010 sẽ đạt dân số 600)17 được hưởng 50% hiệu lực dù đảo này nhỏ hơn và có dân số thấp hơn đảo Lý Sơn và cù lao Chàm.
Vì vậy, theo ý kiến của các tác giả, trong trường hợp không tính Hoàng Sa, một ranh giới công bằng phải nằm giữa đường màu xanh và đường màu đỏ trong Bản đồ 7.

Bản đồ 7: Nếu vùng biển thuộc Hoàng Sa có phạm vi tối thiểu, ranh giới công bằng phải nằm giữa đường đỏ (cù lao Chàm và đảo Lý Sơn được 100% hiệu lực) và đường xanh (cù lao Chàm và đảo Lý Sơn được 50% hiệu lực).
Trong việc vẽ đường trung tuyến, Trung Quốc có thể đòi hỏi không dùng mũi Đà Nẵng, mũi Hải Vân, đảo Lý Sơn, và cù lao Chàm của Việt Nam, hoặc chỉ cho những vùng lãnh thổ này ít hiệu lực. Thêm vào đó, Trung Quốc có thể đòi hỏi dùng các mũi và đảo nhỏ dọc bờ biển đảo Hải Nam, thí dụ như các mũi trong khu vực Tam Á. Những đòi hỏi như vậy nhằm đẩy ranh giới về phía Việt Nam và sẽ bất công cho Việt Nam.
Trong mọi trường hợp, Việt Nam phải đứng vững trước mọi sức ép để có thể đạt được một ranh giới công bằng.

Kết luận

Phân tích này cho thấy, đằng sau các tuyên bố chung của Việt Nam và Trung Quốc, vẫn tồn tại nhiều lựa chọn khó khăn và nhiều thử thách để Việt Nam đạt được sự công bằng trong việc phân định chủ quyền và hợp tác với Trung Quốc trong vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.
Theo ý kiến của các tác giả, sự lựa chọn khó khăn nhất cho Việt Nam là rút lui ra khỏi đàm phán hay chỉ đàm phán phân định vùng biển không thuộc Hoàng Sa hay chọn một giải pháp dung hoà. Dân tộc Việt Nam phải lựa chọn giữa các giải pháp này.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần quan tâm về cuộc đàm phán phân định và trao đổi hợp tác ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, cần tìm hiểu thêm về sự công bằng cho đất nước và để biết rõ về những lựa chọn khó khăn và thử thách đất nước đang đối diện để đạt được sự công bằng ấy. Ý chí và kiến thức của mỗi người sẽ làm nên sức mạnh từ toàn dân và điều này sẽ giúp Việt Nam lựa chọn và đối phó với những thử thách nhằm bảo toàn chủ quyền của đất nước mà tiền nhân đã để lại.
  • Dương Danh Huy - Lê Minh Phiếu (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông)


Trước khi hiệp định biên giới được ký kết

Cho tới nay Việt Nam đã có nhiều hiệp định biên giới với các nước láng giềng:
  • Hiệp định biên giới với Lào (1977)
  • Hiệp định biên giới trên bộ với Campuchia (1985)
  • Hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Thái Lan (1997)
  • Hiệp định biên giới trên bộ với trung Quốc (1999)
  • Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc (2000)
  • Hiệp định phân định thềm lục địa với Indonesia (2003)
Đặc biệt, từ khi các hiệp định biên với Trung Quốc được ký kết cho tới nay, có những ý kiến khác nhau một cách sâu đậm về tính công bằng của chúng. Cho tới năm 2009, Đại sứ Việt Nam ở Mỹ, ông Lê Công Phụng, còn phải trả lời Radio Free Asia về Việt Nam có bị thiệt hại hay không. Cho tới cuối năm 2009 hay đầu năm 2010, Bộ Ngoại giao Việt Nam còn phải trả lời báo chí Việt Nam về những lời cáo buộc như “mất đất”.
Rõ ràng, các yếu tố cho sự công bằng trong hiệp định biên giới là điều rất quan trọng cho dân tộc Việt Nam.
Thế nhưng, đối với tất cả các hiệp định trên, dân tộc Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng, trong nước và ở nước ngoài, đã không có phân tích, bàn luận về các yếu tố cho sự công bằng trước khi hiệp định được ký kết. Tôi cũng không biết Quốc hội Việt Nam đã có những phân tích, bàn luận độc lập nào trước khi những hiệp định đó được ký kết.
Ở đây tôi không nói về những hiệp định trên có công bằng hay không, nhưng rõ ràng là nếu những yếu tố cho sự công bằng là đáng quan tâm thì điều quan trọng là dân tộc, trí thức và Quốc hội phải phân tích và bàn luận về chúng trước khi hiệp định được ký kết.
Hiện nay Việt Nam và Trung Quốc đang trong quá trình đàm phán về phân định và hợp tác trong khu vực ngoài của Vịnh Bắc Bộ. Cuộc đàm phán này vừa rất quan trọng cho Việt Nam, vừa có rất nhiều thử thách cho Việt Nam.
Anh Lê Minh Phiếu và tôi viết một bài để đặt vấn đề về các yếu tố cho sự công bằng trước dân tộc và trí thức Việt Nam trước khi hiệp định hay các thoả thuận được ký kết.
Tuy chúng tôi cũng đã đưa ra ý kiến của chúng tôi, nhưng mục đích chính của chúng tôi là cung cấp thông tin để góp phần cho việc dân tộc và trí thức Việt Nam tự suy nghĩ và tự đi đến ý kiến của mình.
Bài này đã được VNN đăng.
Viết bài thì bất cứ ai muốn cũng có thể viết được, nhưng điều đặc biệt là VNN đăng bài này. Có lẽ là VNN là “tờ” báo đầu tiên ở Việt Nam đăng bài phân tích các yếu tố cho sự công bằng cho một hiệp định biên giới trước khi hiệp định được ký kết.

    Tổng số lượt xem trang