17.11.2009
Ông Ngô Đình Diệm đã phạm rất nhiều sai lầm, nhưng có một điều ông đã nói đúng. Đó là, nếu người Mỹ đưa quân đội vào miền Nam Việt Nam, thì tức là người Mỹ đã trao cho quân đội cộng sản miền Bắc tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược, còn chính phủ miền Nam sẽ mất đi tính chính nghĩa, vì là chính phủ bù nhìn của quân xâm lược.
Chính vì hiểu được tính chính nghĩa đó, nên anh em ông Diệm, Nhu phản đối kịch liệt việc người Mỹ đưa quân vào miền Nam. Thế nhưng chính vì sự phản đối này, mà anh em ông Diệm phải đánh đổi bằng sinh mạng của mình. Người Mỹ đã giật dây cho cuộc đảo chính ngày mồng 1 tháng 11 năm 1963, và làm ngơ khi biết anh em ông Diệm có thể bị giết. Tất nhiên một loạt các sai lầm khác của anh em ông Diệm, Nhu cũng góp phần không nhỏ vào kết cục bi thảm này của chính phủ miền Nam.
Người Mỹ chưa bao giờ hiểu được thực sự chính nghĩa đã đem lại sức mạnh cho một dân tộc như thế nào. Bởi vì người Mỹ quá giàu, quá mạnh, nên họ cho rằng sức mạnh là tiền bạc, là hỏa lực, là vũ khí, là công nghệ hiện đại, là đội quân chính quy được huấn luyện kỹ càng, được trang bị tối tân. Bởi vậy trong trân Ấp Bắc tháng 2 năm 1963, người Mỹ rất ngạc nhiên vì chỉ một nhúm du kích cộng sản đã chống lại được cả một đội quân hùng hậu của quân đội Sài Gòn, với sự hỗ trợ của trực thăng và cố vấn Mỹ. Ông Ngô Đình Diệm khi đó chưa bị đảo chính, đã thực sự nhìn thấy được sức mạnh chính nghĩa của phe cộng sản trong trận Ấp Bắc đó. Nhưng người Mỹ vẫn không nhìn thấy sức mạnh đó. Cho nên vào ngày mồng 8 tháng 3 năm 1965, người Mỹ bắt đầu cho đổ quân vào Đà Nẵng, đánh dấu sự can thiệp ra nước ngoài về quân sự lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Và sau đó vào tháng 7 năm 1965, Tổng thống Mỹ Jonhson đã thông qua chiến lược “tìm và diệt” - “Search- and-Destroy”. Với hỏa lực mạnh khủng khiếp, với hàng nghìn máy bay trực thăng, xe lội nước M113... người Mỹ cho rằng chỉ 6 tháng là giải quyết xong mấy thằng du kích với súng ngựa trời. Sự đánh giá chủ quan đó cũng giống người Pháp vào năm 1946, khi người Pháp không chấp nhận cho Việt Nam độc lập, và dẫn đến ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm1946. Khi đó người Pháp cũng cho rằng chỉ cần 2 tháng là dẹp xong đội quân Việt Minh với súng hỏa mai, giáo mác, gậy gộc, mìn tự tạo...
Không. Tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược đã tạo nên sức mạnh thần kỳ cho đội quân cộng sản và nhân dân Việt Nam, và đã làm nên 2 cuộc chiến thắng lừng lẫy năm1954 và 1975. Chính nhờ chính nghĩa đó, mà nhân dân miền Bắc, và một bộ phận đồng bào miền Nam đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Chính nhờ chính nghĩa đó, mà trong quân đội Giải phóng, hình phạt nặng nhất cho những người mắc khuyết điểm là không cho ra trận, phải ở lại hậu phương làm các công việc hậu cần. Tất nhiên cũng có những kẻ đào ngũ, bỏ trốn, nhưng nói chung, tinh thần của đội quân Giải phóng là rất cao, dũng cảm. Cũng nhờ chính nghĩa đó, mà vào năm 1975, khi có đợt tuyển quân cuối cùng cho chiến trường miền Nam, mấy đứa trẻ chúng tôi chưa đủ tuổi, nhưng đã rủ nhau khai tăng thêm vài tuổi, để đi khám tuyển vào quân đội, để được vào Nam chiến đấu. Thế nhưng vì năm 1975 đó, chiến thắng đến nhanh quá, nên đợt tuyển quân cuối cùng sau đó đã bị hủy bỏ, không cần nữa.
Năm 1979, Trung Quốc xâm lược 6 tỉnh phía Bắc nước ta. Khi đó hầu hết quân đội chính quy của ta đang ở Campuchia để tiêu diệt quân đội Polpot. Nên hầu hết các sinh viên đại học, và các thanh niên còn lại trong các gia đình được huy động lên phía Bắc đào phòng tuyến sông Cầu, và sẵn sàng chiến đấu, phòng khi quân Trung Quốc tràn về Hà Nội. Cách đây gần 1000 năm, ông Lý Thường Kiệt cũng đã làm phòng tuyến sông Cầu để chống quân Tống. Tôi cũng nằm trong đội quân sinh viên, thanh niên này hào hứng đi đào phòng tuyến sông Cầu của năm 1979 đó. Chúng tôi đã vừa đào phòng tuyến, vừa tập quân sự, tập lăn, lê, bò, toài, tập bắn súng, tập đánh giáp lá cà, tập hành quân ban đêm... vui vẻ, phấn khởi như đi tham gia ngày lễ hội. Không một ai nghĩ đến sự hi sinh, sự nguy hiểm sắp tới có thể đến.
Tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược đã tạo nên sự hào hùng đó. Nhưng rồi quân Trung Quốc thua nhanh quá, nên không cần phòng tuyến sông Cầu đó nữa. Các công sự, giao thông hào mà chúng tôi đã đào ngày nào, nay nắng mưa có lẽ đã lấp đi hết cả, chỉ còn lại các kỷ niệm của một giai đoạn hào hùng.
Thế nhưng có một điều mà các vị lãnh đạo Đảng ta không lường hết được. Đó là, nếu như cả dân tộc Việt Nam ta đã vui vẻ ra trận vì chính nghĩa chống quân xâm lược, thì dân tộc đó cũng rất khao khát sự công bằng, khát khao quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được tôn trọng nhân phẩm. Bởi vậy khi người Việt Nam ta nhận ra rằng các quyền tự do, dân chủ của mình đang bị Đảng lợi dụng lòng tin của nhân dân để bó hẹp lại, thì sự phẫn nộ trong nhân dân ngày càng tăng lên, nhất là sự phẫn nộ trong giới trẻ. Bởi vì tuổi trẻ là sự hăng hái, sự sung sức, sự tiếp thu cái mới từ thế giới bên ngoài, là sự ganh đua không muốn bị hèn kém, bị lạc hậu, bị bè bạn năm Châu bỏ lại phía sau. Năm 2007, khi phong trào chống Trung Quốc trong thanh niên ta lên cao, thì đó đâu phải chỉ vì Trung Quốc sáp nhập về hành chính quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của ta vào Trung Quốc. Đó còn là sự bày tỏ sự phẫn nộ, sự phản kháng của thanh niên trước một Nhà nước mất dân chủ, kìm hãm, trì trệ, bảo thủ ở nước ta.
Thế nhưng trở lại vấn đề chính nghĩa. Cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ ở nước ta hiện nay cũng phải bảo đảm được tính chính nghĩa của nó, thì mới có được sức mạnh, mới đoàn kết được đông đảo quần chúng nhân dân. Chính nghĩa đó là gì? Trước hết, đó là không thể đặt ra vấn đề xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, quy định về quyền lãnh đạo của Đảng đối với đất nước. Yêu cầu đó chỉ là không tưởng. Nếu như trước đây người Mỹ đã đưa hơn nửa triệu quân đội vào Việt Nam để mong làm được yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp này, mà không thể làm nổi, thì ai có thể làm nổi? Hơn nữa, phần đông nhân dân Việt Nam đều có sự gắn bó mật thiết với Đảng. Ngay trong gia đình tôi, cũng quá nửa là đảng viên, mặc dù chúng tôi đều mong có tự do, dân chủ hơn nữa. Điều này hoàn toàn khác với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ.
Thứ hai, là sự hợp pháp. Mọi sự manh động, đấu tranh bất hợp pháp, đều làm mất đi tính chính nghĩa của phong trào dân chủ.
Thứ ba, đó là những đòi hỏi phải phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Không thể áp dụng các giá trị dân chủ, tự do của Mỹ, của phương Tây vào nước ta. Nếu bảo đảm được ba điều trên, thì mới đoàn kết được đông đảo quần chúng nhân dân, và đoàn kết được ngay các đảng viên tốt vào phong trào dân chủ, từ đó mới tạo nên được sức mạnh của phong trào dân chủ. Phong trào dân chủ ở Việt Nam hiện nay còn èo uột, manh mún, chỉ lèo tèo có ít người tham gia, và một số người tham gia cũng chưa đủ dũng khí để bảo vệ lý tưởng của mình, chỉ vì chưa tạo được tính chính nghĩa của phong trào.
Ông Ngô Đình Diệm đã phạm rất nhiều sai lầm, nhưng có một điều ông đã nói đúng. Đó là, nếu người Mỹ đưa quân đội vào miền Nam Việt Nam, thì tức là người Mỹ đã trao cho quân đội cộng sản miền Bắc tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược, còn chính phủ miền Nam sẽ mất đi tính chính nghĩa, vì là chính phủ bù nhìn của quân xâm lược.
Chính vì hiểu được tính chính nghĩa đó, nên anh em ông Diệm, Nhu phản đối kịch liệt việc người Mỹ đưa quân vào miền Nam. Thế nhưng chính vì sự phản đối này, mà anh em ông Diệm phải đánh đổi bằng sinh mạng của mình. Người Mỹ đã giật dây cho cuộc đảo chính ngày mồng 1 tháng 11 năm 1963, và làm ngơ khi biết anh em ông Diệm có thể bị giết. Tất nhiên một loạt các sai lầm khác của anh em ông Diệm, Nhu cũng góp phần không nhỏ vào kết cục bi thảm này của chính phủ miền Nam.
Người Mỹ chưa bao giờ hiểu được thực sự chính nghĩa đã đem lại sức mạnh cho một dân tộc như thế nào. Bởi vì người Mỹ quá giàu, quá mạnh, nên họ cho rằng sức mạnh là tiền bạc, là hỏa lực, là vũ khí, là công nghệ hiện đại, là đội quân chính quy được huấn luyện kỹ càng, được trang bị tối tân. Bởi vậy trong trân Ấp Bắc tháng 2 năm 1963, người Mỹ rất ngạc nhiên vì chỉ một nhúm du kích cộng sản đã chống lại được cả một đội quân hùng hậu của quân đội Sài Gòn, với sự hỗ trợ của trực thăng và cố vấn Mỹ. Ông Ngô Đình Diệm khi đó chưa bị đảo chính, đã thực sự nhìn thấy được sức mạnh chính nghĩa của phe cộng sản trong trận Ấp Bắc đó. Nhưng người Mỹ vẫn không nhìn thấy sức mạnh đó. Cho nên vào ngày mồng 8 tháng 3 năm 1965, người Mỹ bắt đầu cho đổ quân vào Đà Nẵng, đánh dấu sự can thiệp ra nước ngoài về quân sự lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Và sau đó vào tháng 7 năm 1965, Tổng thống Mỹ Jonhson đã thông qua chiến lược “tìm và diệt” - “Search- and-Destroy”. Với hỏa lực mạnh khủng khiếp, với hàng nghìn máy bay trực thăng, xe lội nước M113... người Mỹ cho rằng chỉ 6 tháng là giải quyết xong mấy thằng du kích với súng ngựa trời. Sự đánh giá chủ quan đó cũng giống người Pháp vào năm 1946, khi người Pháp không chấp nhận cho Việt Nam độc lập, và dẫn đến ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm1946. Khi đó người Pháp cũng cho rằng chỉ cần 2 tháng là dẹp xong đội quân Việt Minh với súng hỏa mai, giáo mác, gậy gộc, mìn tự tạo...
Không. Tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược đã tạo nên sức mạnh thần kỳ cho đội quân cộng sản và nhân dân Việt Nam, và đã làm nên 2 cuộc chiến thắng lừng lẫy năm1954 và 1975. Chính nhờ chính nghĩa đó, mà nhân dân miền Bắc, và một bộ phận đồng bào miền Nam đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Chính nhờ chính nghĩa đó, mà trong quân đội Giải phóng, hình phạt nặng nhất cho những người mắc khuyết điểm là không cho ra trận, phải ở lại hậu phương làm các công việc hậu cần. Tất nhiên cũng có những kẻ đào ngũ, bỏ trốn, nhưng nói chung, tinh thần của đội quân Giải phóng là rất cao, dũng cảm. Cũng nhờ chính nghĩa đó, mà vào năm 1975, khi có đợt tuyển quân cuối cùng cho chiến trường miền Nam, mấy đứa trẻ chúng tôi chưa đủ tuổi, nhưng đã rủ nhau khai tăng thêm vài tuổi, để đi khám tuyển vào quân đội, để được vào Nam chiến đấu. Thế nhưng vì năm 1975 đó, chiến thắng đến nhanh quá, nên đợt tuyển quân cuối cùng sau đó đã bị hủy bỏ, không cần nữa.
Năm 1979, Trung Quốc xâm lược 6 tỉnh phía Bắc nước ta. Khi đó hầu hết quân đội chính quy của ta đang ở Campuchia để tiêu diệt quân đội Polpot. Nên hầu hết các sinh viên đại học, và các thanh niên còn lại trong các gia đình được huy động lên phía Bắc đào phòng tuyến sông Cầu, và sẵn sàng chiến đấu, phòng khi quân Trung Quốc tràn về Hà Nội. Cách đây gần 1000 năm, ông Lý Thường Kiệt cũng đã làm phòng tuyến sông Cầu để chống quân Tống. Tôi cũng nằm trong đội quân sinh viên, thanh niên này hào hứng đi đào phòng tuyến sông Cầu của năm 1979 đó. Chúng tôi đã vừa đào phòng tuyến, vừa tập quân sự, tập lăn, lê, bò, toài, tập bắn súng, tập đánh giáp lá cà, tập hành quân ban đêm... vui vẻ, phấn khởi như đi tham gia ngày lễ hội. Không một ai nghĩ đến sự hi sinh, sự nguy hiểm sắp tới có thể đến.
Tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược đã tạo nên sự hào hùng đó. Nhưng rồi quân Trung Quốc thua nhanh quá, nên không cần phòng tuyến sông Cầu đó nữa. Các công sự, giao thông hào mà chúng tôi đã đào ngày nào, nay nắng mưa có lẽ đã lấp đi hết cả, chỉ còn lại các kỷ niệm của một giai đoạn hào hùng.
Thế nhưng có một điều mà các vị lãnh đạo Đảng ta không lường hết được. Đó là, nếu như cả dân tộc Việt Nam ta đã vui vẻ ra trận vì chính nghĩa chống quân xâm lược, thì dân tộc đó cũng rất khao khát sự công bằng, khát khao quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được tôn trọng nhân phẩm. Bởi vậy khi người Việt Nam ta nhận ra rằng các quyền tự do, dân chủ của mình đang bị Đảng lợi dụng lòng tin của nhân dân để bó hẹp lại, thì sự phẫn nộ trong nhân dân ngày càng tăng lên, nhất là sự phẫn nộ trong giới trẻ. Bởi vì tuổi trẻ là sự hăng hái, sự sung sức, sự tiếp thu cái mới từ thế giới bên ngoài, là sự ganh đua không muốn bị hèn kém, bị lạc hậu, bị bè bạn năm Châu bỏ lại phía sau. Năm 2007, khi phong trào chống Trung Quốc trong thanh niên ta lên cao, thì đó đâu phải chỉ vì Trung Quốc sáp nhập về hành chính quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của ta vào Trung Quốc. Đó còn là sự bày tỏ sự phẫn nộ, sự phản kháng của thanh niên trước một Nhà nước mất dân chủ, kìm hãm, trì trệ, bảo thủ ở nước ta.
Thế nhưng trở lại vấn đề chính nghĩa. Cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ ở nước ta hiện nay cũng phải bảo đảm được tính chính nghĩa của nó, thì mới có được sức mạnh, mới đoàn kết được đông đảo quần chúng nhân dân. Chính nghĩa đó là gì? Trước hết, đó là không thể đặt ra vấn đề xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, quy định về quyền lãnh đạo của Đảng đối với đất nước. Yêu cầu đó chỉ là không tưởng. Nếu như trước đây người Mỹ đã đưa hơn nửa triệu quân đội vào Việt Nam để mong làm được yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp này, mà không thể làm nổi, thì ai có thể làm nổi? Hơn nữa, phần đông nhân dân Việt Nam đều có sự gắn bó mật thiết với Đảng. Ngay trong gia đình tôi, cũng quá nửa là đảng viên, mặc dù chúng tôi đều mong có tự do, dân chủ hơn nữa. Điều này hoàn toàn khác với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ.
Thứ hai, là sự hợp pháp. Mọi sự manh động, đấu tranh bất hợp pháp, đều làm mất đi tính chính nghĩa của phong trào dân chủ.
Thứ ba, đó là những đòi hỏi phải phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Không thể áp dụng các giá trị dân chủ, tự do của Mỹ, của phương Tây vào nước ta. Nếu bảo đảm được ba điều trên, thì mới đoàn kết được đông đảo quần chúng nhân dân, và đoàn kết được ngay các đảng viên tốt vào phong trào dân chủ, từ đó mới tạo nên được sức mạnh của phong trào dân chủ. Phong trào dân chủ ở Việt Nam hiện nay còn èo uột, manh mún, chỉ lèo tèo có ít người tham gia, và một số người tham gia cũng chưa đủ dũng khí để bảo vệ lý tưởng của mình, chỉ vì chưa tạo được tính chính nghĩa của phong trào.