Trung Quốc hoàn thiện Chủ nghĩa Tư bản dã man Thế kỷ thứ XIX (Phong Uyên)
Cái mà các vị tiến sĩ trong Ban Tuyên Giáo ĐCSVN không biết hay "biết một đường nói một nẻo", là: Chủ nghĩa Xã hội kiểu Tàu (le Socialisme à la chinoise) chỉ là phiên bản của Chủ nghĩa Tư bản dã man (Le Capitalisme sauvage) hồi hậu bán thế kỷ thứ XIX:
Cần nhắc qua những giai đoạn phát triển của Tư bản Âu Tây:
Thế kỷ thứ XVII-XVIII: Tư bản thương mại (capitalisme marchand):
Các vua chúa thời này nắm toàn quyền phân phát cho những cá nhân hay những hội đoàn đặc quyền khai thác hầm mỏ, mở lò luyện sắt trong nước và thông thương với các nước ngoài để kiếm thị trường trao đổi sản phẩm, vật dụng (Thời kỳ các lò luyện sắt và công ty Đông Ấn). Tư bản thời này có tính cách cạnh tranh thương mại nhiều hơn là bóc lột.
Nửa cuối thế kỷ thứ XIX: Tư bản công nghiệp (capitalisme industriel):
Sản xuất công nghiệp không ngừng tăng trưởng đòi hỏi số vốn mỗi ngày một lớn. Giới tư bản tài phiệt chủ nhân các phương tiện sản xuất phải làm sao đạt được tối đa lợi nhuận để chuyển lại thành vốn. Cách độc nhất để có được tối đa lợi nhuận là:
- Giảm giá nhân công: Bắt buộc người làm công bán sức lao động của mình với cái giá rẻ nhất. Đồng thời tùy theo nhu cầu sản xuất, chủ nhân có toàn quyền mượn hay đuổi người để giảm giá thành sản xuất hơn nữa.
- Thâu mua nguyên liệu với giá rẻ: Để tiếp tế nguyên liệu, nhân công và tạo thị trường cho tư bản nước mình, các nước Tây phương đặc biệt là Anh, Pháp, đem quân xâm chiếm nhiều vùng có tài nguyên trên thế giới.
Tư bản công nghiệp ở thời kỳ này, dựa vào những quyền lực chính trị để đàn áp những đòi hòi của người công nhân trong nước và dựa vào chủ nghĩa đế quốc để chiếm hữu và khai thác tài nguyên những nước bị trị, đưa ra những chính sách bóc lột, không tuân theo một luật lệ nào cả, nên có tính cách dã man.
Điển hình của Tư bản dã man phương Tây là chính sách của Đế quốc Pháp cuối thế kỷ thứ XIX. Thử so sánh với XHCN Trung Quốc ngày nay:
Đế Quốc Pháp: 10 triệu Km2 gồm chính quốc (550 000Km2.) và các đất đai hải ngoại.
Trung Quốc: 9 736 000Km2. Phát khởi từ lưu vực sông Hoàng Hà cách đây 2200 năm, tộc Hán chiếm lần lần những phần đất phía Nam sông Dương Tử và Hán hoá hết cả vùng này trong vòng 1000 năm. Những vùng phía Bắc như Mãn Châu, Mông cổ, Tân Cương bị nhập vào Trung Quốc từ đời Nguyên, đời Thanh. Tây Tạng bị chiếm đóng hoàn toàn từ 1959.
Pháp là nước đông dân nhất Âu Châu (trừ Nga), hơn cả Mỹ: 40 triệu dân. 49% dân Pháp làm những nghề thuộc về nông, ngư, lâm. 29% là thợ thuyền. 40% dân Pháp được coi là thuộc thành phần chủ nhân hay sở hữu chủ (tiểu tư sản theo nghĩa Mácxít), 48% là thợ thuyền. Thợ thuyền và nông dân làm việc 11-12 giờ/ngày. Luật cấm trẻ em dưới 13 tuổi làm việc. Từ 13 đến 16 tuổi, không được làm việc quá 10 giờ /ngày. Dân thuộc địa Pháp khoảng 40 triệu người. Trong số đó Việt Nam chiếm non nửa (chừng 18 triệu).
Chế độ Cộng hoà Pháp hồi ấy có tự do báo chí, có 3 quyền phân lập rõ ràng. Luật pháp dân sự và xã hội được áp dụng ở mọi nơi, chính quốc cũng như thuộc địa. Không phân biệt người thuộc địa với người chính quốc nếu có khả năng và bằng cấp ngang nhau. Những viên chức trong bộ máy hành chánh của Pháp ở Mên, Lào hay ngay cả ở Tân Đảo (Nouvelle Calédonie), phần đông là người Việt. Cái trớ trêu là dưới thời Pháp thuộc, người Việt có khả năng, lại tháo vát hơn người Mên Lào, nên nhiều người di cư qua làm ăn. Nếu không có chiến tranh Việt Pháp thì 2 xứ này có thể đã bị Việt hoá rồi. Hiện giờ thì ngược lại, đang bị "Tàu hoá", và Việt Nam bị mất sân sau.
Trung Quốc: 1300 triệu dân. Chính sách Hộ khẩu phân biệt các thành phần xã hội, thành thị với thôn quê, người Hán với người dân tộc, tạo ra nhiều giai tầng trong xã hội:
.Giai cấp thượng đẳng là ĐCSTQ với 70 triệu đảng viên.
.Đồng minh của giai cấp này là tầng lớp trung lưu chừng 100 triệu người, sinh hoạt ở những thành phố lớn đa số thuộc các tỉnh miền Đông. Tầng lớp trung lưu này có liên hệ kinh tế và chính trị mật thiết với giai cấp đảng viên.
. Tầng lớp tiểu thương, tiểu công nghệ, làm nghiệp vụ ở các thị thành, chừng 200 triệu người.
.Tầng lớp dưới cùng (bách tính) gồm 900 triệu dân quê. Trong số này có chừng 650 triệu sống bằng hoa lợi của những mảnh đất nhỏ tí. 250 triệu người không đất sống, chỉ còn cách di cư, chiếm đất của các dân tộc Hồi, Tạng, Mông hay bỏ làng bỏ xóm lên tỉnh làm min gong (dân công). Số dân nửa quê nửa thợ này khoảng chừng 200 triệu người.
.Nhưng còn hạng chót nữa là người dân tộc đang bị tuyệt chủng.
Theo Hiến Pháp 1982 do Đặng Tiểu Bình đề xướng: Nước Cộng Hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa là nước Xã Hội Chủ Nghĩa được đặt trên nền tảng độc tài dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của liên minh giữa thợ thuyền và nông dân. Hiến Pháp Trung Quốc tuyệt nhiên không có những điều khoản như điều 4 Hiến Pháp Việt Nam "khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lãnh đạo của đảng Cộng sản". Ngay danh từ "cộng sản" cũng không một lần được nhắc tới trong Hiến Pháp. Người đảng viên ĐCSTQ cũng chỉ nhắc đến nó một lần khi tuyên thệ vào Đảng.
Xã hội Chủ nghĩa " mèo trắng mèo đen " của họ Đặng và những người kế nghiệp, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào là:
1° Mở rộng biên cương:
Năm 1959 " giải phóng " phần đất cuối cùng của Tây Tạng": 1.221.000 Km2. (Đất Tây Tạng nguyên thủy là 2.500.000 Km2, bằng 1/4 Trung Quốc).
Những năm 70-80: rời cột mốc lấn đất phía Bắc Việt Nam.
Những năm 2000: sáp nhập Trường Sa Hoàng Sa. Chiếm 2/3 Vịnh Bắc Việt, chiếm toàn thể biển Đông, mở rộng biển Trung Hoa đến Ấn Độ Dương.
2° Thi hành chính sách diệt chủng:
.Từ 1949 đến 1979 giết 1triệu 200 ngàn dân Tây Tạng. Từ 1960 đến 1980 cầm tù 1 triệu người. Nhập cư 7 triệu 500 ngàn người Hán khiến số người Hán đông hơn người Tây Tạng (6 triệu người hiện giờ). Với đường xe lửa Bắc Kinh-Lhassa được thiết lập năm 2006, chỉ chừng vài năm nữa cả Tây Tạng chỉ còn người Hán và người Tây Tạng sẽ bị tuyệt chủng.
.Số người Hán ở Tân Cương và Nội Mông hiện nay đã đông hơn người bản xứ. Số phận bị diệt chủng như dân Tây Tạng khó mà tránh được.
3° Chủ nghĩa thực dân đế quốc:
Mới chừng 10 năm số người Hán di cư qua Phi Châu đã lên đến 1 triệu người. Phố Tàu mọc như nấm ở những xứ Phi Châu thuộc Pháp, thuộc Anh khi trước. Khai thác dầu hoả, quặng mỏ, làm đường xá cầu cống, phá rừng lấy gỗ, đốt đất làm ruộng, đều là độc quyền của phu Tàu. Dân bản xứ chỉ đứng nhìn xin chút việc con con như quét dọn, rửa chén... không được làm bồi làm bếp như với thực dân Anh, thực dân Pháp ngày xưa vì bồi bếp cũng là người Tàu, y hệt như trong các cơ sở khai thác kinh doanh của Trung Quốc ở Việt Nam hiện giờ.
Nội năm 2008 mậu dịch với các nước Phi Châu đã tăng lên 107 tỉ đô la. Tất nhiên là cũng như ở Việt Nam, thặng dư mậu dịch nghiêng về phía Trung Quốc: 8 tỉ đô la đổ vào Phi châu năm 2008 để kinh doanh là tiền bán đồ rẻ tiền của Tàu. Cũng tiền đó Tàu dùng để đấm mõm những lãnh đạo độc tài tham nhũng Phi châu, mua rẻ tài nguyên khoáng sản cần cho công nghệ. Một viên đại uý quèn vừa đảo chính cướp chính quyền ở Guinée, giết 150 người dân dám đi biểu tình, đã được Bắc Kinh hứa bỏ 7 tỉ Đô la để kinh doanh dầu hỏa. Nói tóm lại những xứ Phi châu độc tài tham nhũng diệt chủng nhưng có nhiều tài nguyên như Soudan, Zimbabwe, Gabon, Congo, Lybye... bị cả thế giới tẩy chay thì Bắc Kinh nhảy vào.
Để chứng minh là người Tàu đến Phi Châu trước cả thực dân Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, ban Tuyên truyền Trung ương ĐCSTQ còn bịa ra một chuyện tiếu lâm là một tàu của đô đốc Trịnh Hoà dưới triều đại nhà Minh trên đường đi chinh phục năm châu bốn bể bị đắm: 20 thủy thủ trôi dạt vào bờ biển xứ Kenya (quê cha của Obama), được dân sở tại cho phép định cư nếu giết được con trăn khổng lồ ăn thịt nhiều người. Con trăn bị giết, 20 người này được ở lại lập gia đình sinh con đẻ cái nên hiện nay có nhiều người Kenya còn mang máu Tàu (không biết trong số đó có Obama không !). Có một cô 23 tuổi tên là Sharifu làm test thấy phát hiện ADN Tàu nên được cấp học bổng theo học y khoa Đại học Nam Kinh (sic).
4° Nếu XHCN kiểu Tàu chỉ sản sinh ra những chuyện tiếu lâm như vậy thì đỡ cho dân Tàu biết mấy. Nhưng ngoại trừ 200 triệu người thuộc giới trung lưu, đại gia và đảng viên ĐCSTQ, cuộc đời của hơn 1 tỉ bách tính Tàu chỉ là một chuỗi dài thảm kịch:
Lương của một kỹ thuật gia, chuyên viên văn phòng có bằng cấp đại học là 2-3 euros/ngày.
Những xí nghiệp nhà nước không sinh lợi bị đóng cửa dành chỗ cho những xí nghiệp tư nhân, xa thải (xia gang) cả mấy chục triệu công nhân (Từ 1998 đến 2003 đã 60 triệu người bị đuổi). Những người này sống vất vơ vất vương khi xài hết tiền bồi thường vài ngàn yuan (11 yuan=1 euro). Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân đã phát minh ra "người - Kleenex", dùng xong rồi vứt đi.
Số phận của những thợ mỏ than còn thảm thương hơn nhiều: 80% điện lực đến từ than đốt. Mỗi năm 20 ngàn thợ mỏ bị chết (bằng 80% của cả thế giới). Lương cao nhất là 80 euros/tháng) trong những mỏ nhà nước. Lương thợ các mỏ tư chỉ bằng một nửa và số tử vong cũng gấp đôi.
Trung Quốc rêu rao cùng thế giới là sắp vượt Nhật để trở thành cường quốc kinh tế mạnh nhất thế giới chỉ sau Mỹ. Các nhà kinh tế gia trên thế giới đều cúi đầu bái phục sức tăng trưởng kỳ diệu của nền kinh tế Trung Quốc mà không biết là sở dĩ Trung Quốc trở thành công xưởng của cả thế giới là vì XHCN kiểu TQ đã bóc lột đến xương tủy sức lao động của 200 triệu min gong:
Ở mỗi góc đường phố các thành thị lớn đều có "Chợ Lao động". Những người họp chợ dơ cao tấm bảng đề nghề nghiệp của mình: thợ điện, thợ nề, thợ máy, thợ may, phu khuân vác v.v... Xưởng máy nào, công trường nào muốn mướn cứ việc ra "chợ người" này, tha hồ mặc cả lựa chọn, giống hệt như chợ nô lệ ngày xưa. Ngày làm việc bắt đầu từ 7 giờ rưỡi sáng cho tới 12 giờ đêm. Ở chui rúc 4, 5 người trong một xó gần nơi làm việc. Lương trả từng ngày không có giao kèo. Ốm đau hay bị tai nạn lao động ráng mà chịu. Chủ muốn đuổi lúc nào cũng được. Với số lương trung bình 70 euros/tháng, phải trả mỗi tháng 10 euros tiền thuê nhà, 5 euros thuế thổ trạch, thuế hốt rác, thuế chở rác. Nhưng trước khi được lên tỉnh bán sức lao động còn phải nộp cho cường hào làng mình tiền phí tổn giấy chứng nhận được ra khỏi làng, giấy chứng minh thư, giấy chứng nhận độc thân, giấy chứng nhận sinh đúng tiêu chuẩn (con một). Ngoài ra còn phải đặt tiền thế chân cho chủ, tiền giấy cư trú tạm thời và thẻ làm việc. Cả thảy là mất toi 2 tháng lương trước khi có viêc.
Suy thoái kinh tế toàn cầu không làm giảm lợi nhuận tư bản ĐCS Tàu mà ngược lại: mỗi năm thêm 14 triệu "min gong" cộng thêm 24 triệu người thất nghiệp, làm giá nhân công rẻ như bèo. Ngoài ra còn thêm một số con nít thôn quê phần nhiều là con gái, bị cha mẹ gửi lên tỉnh làm "min gông" lậu. Số phận con gái sinh ra thật là thê thảm: Ở nhà quê nếu sinh con đầu là gái được sinh lần thứ hai. Nhưng nếu chẳng may lại sinh con gái thì chỉ có nước phá thai hay bóp cổ chết để hi vọng còn sinh được con trai lần nữa. Nếu may mà đứa con gái thứ hai còn sống sót được thì cũng như là không có ở trên đời vì không có giấy khai sinh. Lớn lên một chút 13-14 tuổi là bị gửi lên tỉnh làm khoán bất cứ công việc gì ở những xưởng lậu đầy ô nhiễm, kiếm 1-2 euros/ngày 15 giờ.
Thành quả của CNXH kiểu Trung Quốc là: 10% người giầu nhất ở thành thị chiếm hữu 45% của cải của cả nước. 10% người nghèo nhất chia nhau 1,4%. Số người nghèo (lợi tức dưới 75 đô la/năm) đã lên đến hơn 100 triệu người. Nhưng số tỉ phú đô la cũng tăng lên và hiện nay đã vượt Pháp. Còn triệu phú đô la thì chỉ thua Mỹ.
Chủ nghĩa Xã Hội Tư bản man rợ này có triển vọng bền vững vì những lí do sau đây:
1° Tư bản Âu châu Thế kỷ XIX không thể tiếp tục tăng lợi nhuận bằng cách bóc lột nhân công được, vì sự cạnh tranh giữa các nước tư bản với nhau, vì công nghiệp tiến triển đòi hỏi nhiều nhân công có trình độ. Những người này biết đoàn kết lập những công đoàn có tính cách siêu quốc gia khiến tương quan lực lượng người sản xuất và người nắm phương tiện sản xuất lần lần cân bằng nhau. Đồng thời ý tưởng công bằng của Cách mạng Pháp và lý tưởng tương thân tương ái của đạo Phản thệ vẫn thấm nhuần trong tâm thức nhiều người: Người Pháp đòi hỏi sự công bằng xã hội. Người Anh Mỹ coi làm giầu là để có phương tiện giúp đỡ người nghèo. Những ý tưởng này không bao giờ có trong tư tưởng Khổng Mạnh của Tàu cả. Người Tàu coi "Lộc" là trên hết.
2° So với thời Mao, dầu sao đời sống của 900 triệu dân quê cũng khá hơn: Trước hết là được tự do khai khẩn mẩu đất của mình nên không bị chết đói. Hai trăm triệu "dân công" lên tỉnh kiếm việc làm cũng có thể gửi chút tiền về nuôi cha mẹ vợ con. Chính sách thực dân chiếm đất người dân tộc cũng tạo đất sống cho người Hán và thổi phình óc Đại Hán tự tôn tự đại. Vì vậy không có lí do gì mà dân quê nổi loạn chống chế độ cả. Và chống cũng không được vì chế độ "Tư bản Cộng sản" có hậu thuẫn vô cùng mạnh mẽ là 70 triệu đảng viên và hơn 1 trăm triệu người thuộc giới trung lưu thành thị. Cộng cả lại bằng 2 lần dân số Đức, 3 lần Pháp. Với sức tăng trưởng 9-10% một năm, PIB/đầu người của tầng lớp này sẽ tiếp tục tăng và có khả năng vài năm nữa bằng một nửa PIB/đầu người của Tây Âu: Trung quốc lúc đó sẽ trở thành cường quốc kinh tế nhất nhì trên thế giới.
3° Chủ nghĩa "Tư bản Cộng sản" này cũng không bao giờ chuyển hoá về hướng "dân chủ xã hội" hay "dân chủ khai phóng" như ở Tây phương vì một lí do giản dị là như vậy không thể tiếp tục bóc lột được nguồn nhân lực vô tận hơn 1 tỉ người để hạ giá thành sản xuất và tràn ngập thị trường thế giới đồ rẻ tiền của mình. Không có thặng dư xuất nhập, tăng trưởng của Trung Quốc sẽ giảm ít nhất là 40% và chế độ có nguy cơ bị mất ổn định vì sẽ mất hậu thuẫn của tầng lớp trung lưu thành thị.
4° Tư bản cộng sản còn được sự đồng loã của 1 số tư bản phương Tây: Di chuyển sản xuất qua Tàu, đóng cửa cơ sở sản xuất những đồ thực dụng trong nước, là phương cách hay nhất tránh được đòi hỏi tăng lương của công nhân. Chỉ sản xuất đồ xa xỉ phẩm để phục vụ thị trường mỗi ngày một lớn của 200 triệu trung lưu thành thị và đảng viên ĐCSTQ là thu được nhiều lợi tức mà không phải mướn nhiều nhân công. Hậu quả là tỉ số thất nghiệp ở những nước Tư bản dân chủ xã hội sẽ mỗi ngày một cao.
5° Tiêu thụ đồ Tàu nhiều nhất là Mỹ. Chế độ XHCNTQ cho phép các tay tài phiệt trong Đảng, đáng lẽ dùng số tiền thặng dư mậu dịch đó để nâng cao đời sống 900 triệu dân quê thì lại lấy 850 tỉ Đô la thặng dư đó mua trái phiếu kho bạc của Mỹ, cho Mỹ vay để Mỹ dùng tiền đó mua đồ của mình. Rút cục tiền dân Tàu lại dành cho Mỹ tiêu. Tư bản Mỹ, Tàu đề huề với nhau, chế độ "Xã hội Tư bản Cộng sản Tàu" sẽ bền vững đời đời.
Nói tóm lại XHCN của ĐCSVN bây giờ cũng chỉ là bản sao lại "Xã hội Tư bản Cộng sản chủ nghĩa" của Đặng Tiểu Bình. Cộng với chủ nghĩa "Chia nhau Tham nhũng" XHCN Việt Nam có phần khốc liệt hơn. Chỉ có những nhà trí thức chống cộng hải ngoại là tiếp tục mắc lỡm ban Tuyên truyền Trung Ương ĐCSTQ và đàn em là ban Tuyên giáo TW ĐCSVN, cứ khan cổ đả kích Marx, cho là bật rễ Macxít thì chế độ cộng sản sẽ sụp đổ. Đến khi nào các nhà trí thức này mới hiểu được là những khẩu hiệu "Triết học Mác-Lênin", "Kiên định CN Mác-Lê", chỉ là tấm vải đỏ dứ trước mắt để các vị chống cộng kiểu con bò tót này cứ tiếp tục húc đầu vào.
“…Đến khi nào các nhà trí thức này mới hiểu được là những khẩu hiệu "Triết học Mác-Lênin", "Kiên định CN Mác-Lê", chỉ là tấm vải đỏ dứ trước mắt để các vị chống cộng kiểu con bò tót này cứ tiếp tục húc đầu vào…”
Từ 5-10-09 đến 12-10-09, báo Sài Gòn Giải Phóng, cơ quan của Đảng bộ ĐCSVN TP Hồ Chí Minh cho đăng một loạt bài đề cao tính tất yếu và tương lai xán lạn của Xã hội Chủ nghĩa. Tuy không nói rõ XHCN nào, nhưng qua lí luận của các vị tiến sĩ viết loạt bài này mọi người đều hiểu đây là XHCN theo mô hình Trung Quốc mà Việt Nam bắt chước cho tới ngày nay.Cái mà các vị tiến sĩ trong Ban Tuyên Giáo ĐCSVN không biết hay "biết một đường nói một nẻo", là: Chủ nghĩa Xã hội kiểu Tàu (le Socialisme à la chinoise) chỉ là phiên bản của Chủ nghĩa Tư bản dã man (Le Capitalisme sauvage) hồi hậu bán thế kỷ thứ XIX:
Cần nhắc qua những giai đoạn phát triển của Tư bản Âu Tây:
Thế kỷ thứ XVII-XVIII: Tư bản thương mại (capitalisme marchand):
Các vua chúa thời này nắm toàn quyền phân phát cho những cá nhân hay những hội đoàn đặc quyền khai thác hầm mỏ, mở lò luyện sắt trong nước và thông thương với các nước ngoài để kiếm thị trường trao đổi sản phẩm, vật dụng (Thời kỳ các lò luyện sắt và công ty Đông Ấn). Tư bản thời này có tính cách cạnh tranh thương mại nhiều hơn là bóc lột.
Nửa cuối thế kỷ thứ XIX: Tư bản công nghiệp (capitalisme industriel):
Sản xuất công nghiệp không ngừng tăng trưởng đòi hỏi số vốn mỗi ngày một lớn. Giới tư bản tài phiệt chủ nhân các phương tiện sản xuất phải làm sao đạt được tối đa lợi nhuận để chuyển lại thành vốn. Cách độc nhất để có được tối đa lợi nhuận là:
- Giảm giá nhân công: Bắt buộc người làm công bán sức lao động của mình với cái giá rẻ nhất. Đồng thời tùy theo nhu cầu sản xuất, chủ nhân có toàn quyền mượn hay đuổi người để giảm giá thành sản xuất hơn nữa.
- Thâu mua nguyên liệu với giá rẻ: Để tiếp tế nguyên liệu, nhân công và tạo thị trường cho tư bản nước mình, các nước Tây phương đặc biệt là Anh, Pháp, đem quân xâm chiếm nhiều vùng có tài nguyên trên thế giới.
Tư bản công nghiệp ở thời kỳ này, dựa vào những quyền lực chính trị để đàn áp những đòi hòi của người công nhân trong nước và dựa vào chủ nghĩa đế quốc để chiếm hữu và khai thác tài nguyên những nước bị trị, đưa ra những chính sách bóc lột, không tuân theo một luật lệ nào cả, nên có tính cách dã man.
Điển hình của Tư bản dã man phương Tây là chính sách của Đế quốc Pháp cuối thế kỷ thứ XIX. Thử so sánh với XHCN Trung Quốc ngày nay:
Đế Quốc Pháp: 10 triệu Km2 gồm chính quốc (550 000Km2.) và các đất đai hải ngoại.
Trung Quốc: 9 736 000Km2. Phát khởi từ lưu vực sông Hoàng Hà cách đây 2200 năm, tộc Hán chiếm lần lần những phần đất phía Nam sông Dương Tử và Hán hoá hết cả vùng này trong vòng 1000 năm. Những vùng phía Bắc như Mãn Châu, Mông cổ, Tân Cương bị nhập vào Trung Quốc từ đời Nguyên, đời Thanh. Tây Tạng bị chiếm đóng hoàn toàn từ 1959.
Pháp là nước đông dân nhất Âu Châu (trừ Nga), hơn cả Mỹ: 40 triệu dân. 49% dân Pháp làm những nghề thuộc về nông, ngư, lâm. 29% là thợ thuyền. 40% dân Pháp được coi là thuộc thành phần chủ nhân hay sở hữu chủ (tiểu tư sản theo nghĩa Mácxít), 48% là thợ thuyền. Thợ thuyền và nông dân làm việc 11-12 giờ/ngày. Luật cấm trẻ em dưới 13 tuổi làm việc. Từ 13 đến 16 tuổi, không được làm việc quá 10 giờ /ngày. Dân thuộc địa Pháp khoảng 40 triệu người. Trong số đó Việt Nam chiếm non nửa (chừng 18 triệu).
Chế độ Cộng hoà Pháp hồi ấy có tự do báo chí, có 3 quyền phân lập rõ ràng. Luật pháp dân sự và xã hội được áp dụng ở mọi nơi, chính quốc cũng như thuộc địa. Không phân biệt người thuộc địa với người chính quốc nếu có khả năng và bằng cấp ngang nhau. Những viên chức trong bộ máy hành chánh của Pháp ở Mên, Lào hay ngay cả ở Tân Đảo (Nouvelle Calédonie), phần đông là người Việt. Cái trớ trêu là dưới thời Pháp thuộc, người Việt có khả năng, lại tháo vát hơn người Mên Lào, nên nhiều người di cư qua làm ăn. Nếu không có chiến tranh Việt Pháp thì 2 xứ này có thể đã bị Việt hoá rồi. Hiện giờ thì ngược lại, đang bị "Tàu hoá", và Việt Nam bị mất sân sau.
Trung Quốc: 1300 triệu dân. Chính sách Hộ khẩu phân biệt các thành phần xã hội, thành thị với thôn quê, người Hán với người dân tộc, tạo ra nhiều giai tầng trong xã hội:
.Giai cấp thượng đẳng là ĐCSTQ với 70 triệu đảng viên.
.Đồng minh của giai cấp này là tầng lớp trung lưu chừng 100 triệu người, sinh hoạt ở những thành phố lớn đa số thuộc các tỉnh miền Đông. Tầng lớp trung lưu này có liên hệ kinh tế và chính trị mật thiết với giai cấp đảng viên.
. Tầng lớp tiểu thương, tiểu công nghệ, làm nghiệp vụ ở các thị thành, chừng 200 triệu người.
.Tầng lớp dưới cùng (bách tính) gồm 900 triệu dân quê. Trong số này có chừng 650 triệu sống bằng hoa lợi của những mảnh đất nhỏ tí. 250 triệu người không đất sống, chỉ còn cách di cư, chiếm đất của các dân tộc Hồi, Tạng, Mông hay bỏ làng bỏ xóm lên tỉnh làm min gong (dân công). Số dân nửa quê nửa thợ này khoảng chừng 200 triệu người.
.Nhưng còn hạng chót nữa là người dân tộc đang bị tuyệt chủng.
Theo Hiến Pháp 1982 do Đặng Tiểu Bình đề xướng: Nước Cộng Hoà Dân chủ Nhân dân Trung Hoa là nước Xã Hội Chủ Nghĩa được đặt trên nền tảng độc tài dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của liên minh giữa thợ thuyền và nông dân. Hiến Pháp Trung Quốc tuyệt nhiên không có những điều khoản như điều 4 Hiến Pháp Việt Nam "khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lãnh đạo của đảng Cộng sản". Ngay danh từ "cộng sản" cũng không một lần được nhắc tới trong Hiến Pháp. Người đảng viên ĐCSTQ cũng chỉ nhắc đến nó một lần khi tuyên thệ vào Đảng.
Xã hội Chủ nghĩa " mèo trắng mèo đen " của họ Đặng và những người kế nghiệp, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào là:
1° Mở rộng biên cương:
Năm 1959 " giải phóng " phần đất cuối cùng của Tây Tạng": 1.221.000 Km2. (Đất Tây Tạng nguyên thủy là 2.500.000 Km2, bằng 1/4 Trung Quốc).
Những năm 70-80: rời cột mốc lấn đất phía Bắc Việt Nam.
Những năm 2000: sáp nhập Trường Sa Hoàng Sa. Chiếm 2/3 Vịnh Bắc Việt, chiếm toàn thể biển Đông, mở rộng biển Trung Hoa đến Ấn Độ Dương.
2° Thi hành chính sách diệt chủng:
.Từ 1949 đến 1979 giết 1triệu 200 ngàn dân Tây Tạng. Từ 1960 đến 1980 cầm tù 1 triệu người. Nhập cư 7 triệu 500 ngàn người Hán khiến số người Hán đông hơn người Tây Tạng (6 triệu người hiện giờ). Với đường xe lửa Bắc Kinh-Lhassa được thiết lập năm 2006, chỉ chừng vài năm nữa cả Tây Tạng chỉ còn người Hán và người Tây Tạng sẽ bị tuyệt chủng.
.Số người Hán ở Tân Cương và Nội Mông hiện nay đã đông hơn người bản xứ. Số phận bị diệt chủng như dân Tây Tạng khó mà tránh được.
3° Chủ nghĩa thực dân đế quốc:
Mới chừng 10 năm số người Hán di cư qua Phi Châu đã lên đến 1 triệu người. Phố Tàu mọc như nấm ở những xứ Phi Châu thuộc Pháp, thuộc Anh khi trước. Khai thác dầu hoả, quặng mỏ, làm đường xá cầu cống, phá rừng lấy gỗ, đốt đất làm ruộng, đều là độc quyền của phu Tàu. Dân bản xứ chỉ đứng nhìn xin chút việc con con như quét dọn, rửa chén... không được làm bồi làm bếp như với thực dân Anh, thực dân Pháp ngày xưa vì bồi bếp cũng là người Tàu, y hệt như trong các cơ sở khai thác kinh doanh của Trung Quốc ở Việt Nam hiện giờ.
Nội năm 2008 mậu dịch với các nước Phi Châu đã tăng lên 107 tỉ đô la. Tất nhiên là cũng như ở Việt Nam, thặng dư mậu dịch nghiêng về phía Trung Quốc: 8 tỉ đô la đổ vào Phi châu năm 2008 để kinh doanh là tiền bán đồ rẻ tiền của Tàu. Cũng tiền đó Tàu dùng để đấm mõm những lãnh đạo độc tài tham nhũng Phi châu, mua rẻ tài nguyên khoáng sản cần cho công nghệ. Một viên đại uý quèn vừa đảo chính cướp chính quyền ở Guinée, giết 150 người dân dám đi biểu tình, đã được Bắc Kinh hứa bỏ 7 tỉ Đô la để kinh doanh dầu hỏa. Nói tóm lại những xứ Phi châu độc tài tham nhũng diệt chủng nhưng có nhiều tài nguyên như Soudan, Zimbabwe, Gabon, Congo, Lybye... bị cả thế giới tẩy chay thì Bắc Kinh nhảy vào.
Để chứng minh là người Tàu đến Phi Châu trước cả thực dân Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, ban Tuyên truyền Trung ương ĐCSTQ còn bịa ra một chuyện tiếu lâm là một tàu của đô đốc Trịnh Hoà dưới triều đại nhà Minh trên đường đi chinh phục năm châu bốn bể bị đắm: 20 thủy thủ trôi dạt vào bờ biển xứ Kenya (quê cha của Obama), được dân sở tại cho phép định cư nếu giết được con trăn khổng lồ ăn thịt nhiều người. Con trăn bị giết, 20 người này được ở lại lập gia đình sinh con đẻ cái nên hiện nay có nhiều người Kenya còn mang máu Tàu (không biết trong số đó có Obama không !). Có một cô 23 tuổi tên là Sharifu làm test thấy phát hiện ADN Tàu nên được cấp học bổng theo học y khoa Đại học Nam Kinh (sic).
4° Nếu XHCN kiểu Tàu chỉ sản sinh ra những chuyện tiếu lâm như vậy thì đỡ cho dân Tàu biết mấy. Nhưng ngoại trừ 200 triệu người thuộc giới trung lưu, đại gia và đảng viên ĐCSTQ, cuộc đời của hơn 1 tỉ bách tính Tàu chỉ là một chuỗi dài thảm kịch:
Lương của một kỹ thuật gia, chuyên viên văn phòng có bằng cấp đại học là 2-3 euros/ngày.
Những xí nghiệp nhà nước không sinh lợi bị đóng cửa dành chỗ cho những xí nghiệp tư nhân, xa thải (xia gang) cả mấy chục triệu công nhân (Từ 1998 đến 2003 đã 60 triệu người bị đuổi). Những người này sống vất vơ vất vương khi xài hết tiền bồi thường vài ngàn yuan (11 yuan=1 euro). Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân đã phát minh ra "người - Kleenex", dùng xong rồi vứt đi.
Số phận của những thợ mỏ than còn thảm thương hơn nhiều: 80% điện lực đến từ than đốt. Mỗi năm 20 ngàn thợ mỏ bị chết (bằng 80% của cả thế giới). Lương cao nhất là 80 euros/tháng) trong những mỏ nhà nước. Lương thợ các mỏ tư chỉ bằng một nửa và số tử vong cũng gấp đôi.
Trung Quốc rêu rao cùng thế giới là sắp vượt Nhật để trở thành cường quốc kinh tế mạnh nhất thế giới chỉ sau Mỹ. Các nhà kinh tế gia trên thế giới đều cúi đầu bái phục sức tăng trưởng kỳ diệu của nền kinh tế Trung Quốc mà không biết là sở dĩ Trung Quốc trở thành công xưởng của cả thế giới là vì XHCN kiểu TQ đã bóc lột đến xương tủy sức lao động của 200 triệu min gong:
Ở mỗi góc đường phố các thành thị lớn đều có "Chợ Lao động". Những người họp chợ dơ cao tấm bảng đề nghề nghiệp của mình: thợ điện, thợ nề, thợ máy, thợ may, phu khuân vác v.v... Xưởng máy nào, công trường nào muốn mướn cứ việc ra "chợ người" này, tha hồ mặc cả lựa chọn, giống hệt như chợ nô lệ ngày xưa. Ngày làm việc bắt đầu từ 7 giờ rưỡi sáng cho tới 12 giờ đêm. Ở chui rúc 4, 5 người trong một xó gần nơi làm việc. Lương trả từng ngày không có giao kèo. Ốm đau hay bị tai nạn lao động ráng mà chịu. Chủ muốn đuổi lúc nào cũng được. Với số lương trung bình 70 euros/tháng, phải trả mỗi tháng 10 euros tiền thuê nhà, 5 euros thuế thổ trạch, thuế hốt rác, thuế chở rác. Nhưng trước khi được lên tỉnh bán sức lao động còn phải nộp cho cường hào làng mình tiền phí tổn giấy chứng nhận được ra khỏi làng, giấy chứng minh thư, giấy chứng nhận độc thân, giấy chứng nhận sinh đúng tiêu chuẩn (con một). Ngoài ra còn phải đặt tiền thế chân cho chủ, tiền giấy cư trú tạm thời và thẻ làm việc. Cả thảy là mất toi 2 tháng lương trước khi có viêc.
Suy thoái kinh tế toàn cầu không làm giảm lợi nhuận tư bản ĐCS Tàu mà ngược lại: mỗi năm thêm 14 triệu "min gong" cộng thêm 24 triệu người thất nghiệp, làm giá nhân công rẻ như bèo. Ngoài ra còn thêm một số con nít thôn quê phần nhiều là con gái, bị cha mẹ gửi lên tỉnh làm "min gông" lậu. Số phận con gái sinh ra thật là thê thảm: Ở nhà quê nếu sinh con đầu là gái được sinh lần thứ hai. Nhưng nếu chẳng may lại sinh con gái thì chỉ có nước phá thai hay bóp cổ chết để hi vọng còn sinh được con trai lần nữa. Nếu may mà đứa con gái thứ hai còn sống sót được thì cũng như là không có ở trên đời vì không có giấy khai sinh. Lớn lên một chút 13-14 tuổi là bị gửi lên tỉnh làm khoán bất cứ công việc gì ở những xưởng lậu đầy ô nhiễm, kiếm 1-2 euros/ngày 15 giờ.
Thành quả của CNXH kiểu Trung Quốc là: 10% người giầu nhất ở thành thị chiếm hữu 45% của cải của cả nước. 10% người nghèo nhất chia nhau 1,4%. Số người nghèo (lợi tức dưới 75 đô la/năm) đã lên đến hơn 100 triệu người. Nhưng số tỉ phú đô la cũng tăng lên và hiện nay đã vượt Pháp. Còn triệu phú đô la thì chỉ thua Mỹ.
Chủ nghĩa Xã Hội Tư bản man rợ này có triển vọng bền vững vì những lí do sau đây:
1° Tư bản Âu châu Thế kỷ XIX không thể tiếp tục tăng lợi nhuận bằng cách bóc lột nhân công được, vì sự cạnh tranh giữa các nước tư bản với nhau, vì công nghiệp tiến triển đòi hỏi nhiều nhân công có trình độ. Những người này biết đoàn kết lập những công đoàn có tính cách siêu quốc gia khiến tương quan lực lượng người sản xuất và người nắm phương tiện sản xuất lần lần cân bằng nhau. Đồng thời ý tưởng công bằng của Cách mạng Pháp và lý tưởng tương thân tương ái của đạo Phản thệ vẫn thấm nhuần trong tâm thức nhiều người: Người Pháp đòi hỏi sự công bằng xã hội. Người Anh Mỹ coi làm giầu là để có phương tiện giúp đỡ người nghèo. Những ý tưởng này không bao giờ có trong tư tưởng Khổng Mạnh của Tàu cả. Người Tàu coi "Lộc" là trên hết.
2° So với thời Mao, dầu sao đời sống của 900 triệu dân quê cũng khá hơn: Trước hết là được tự do khai khẩn mẩu đất của mình nên không bị chết đói. Hai trăm triệu "dân công" lên tỉnh kiếm việc làm cũng có thể gửi chút tiền về nuôi cha mẹ vợ con. Chính sách thực dân chiếm đất người dân tộc cũng tạo đất sống cho người Hán và thổi phình óc Đại Hán tự tôn tự đại. Vì vậy không có lí do gì mà dân quê nổi loạn chống chế độ cả. Và chống cũng không được vì chế độ "Tư bản Cộng sản" có hậu thuẫn vô cùng mạnh mẽ là 70 triệu đảng viên và hơn 1 trăm triệu người thuộc giới trung lưu thành thị. Cộng cả lại bằng 2 lần dân số Đức, 3 lần Pháp. Với sức tăng trưởng 9-10% một năm, PIB/đầu người của tầng lớp này sẽ tiếp tục tăng và có khả năng vài năm nữa bằng một nửa PIB/đầu người của Tây Âu: Trung quốc lúc đó sẽ trở thành cường quốc kinh tế nhất nhì trên thế giới.
3° Chủ nghĩa "Tư bản Cộng sản" này cũng không bao giờ chuyển hoá về hướng "dân chủ xã hội" hay "dân chủ khai phóng" như ở Tây phương vì một lí do giản dị là như vậy không thể tiếp tục bóc lột được nguồn nhân lực vô tận hơn 1 tỉ người để hạ giá thành sản xuất và tràn ngập thị trường thế giới đồ rẻ tiền của mình. Không có thặng dư xuất nhập, tăng trưởng của Trung Quốc sẽ giảm ít nhất là 40% và chế độ có nguy cơ bị mất ổn định vì sẽ mất hậu thuẫn của tầng lớp trung lưu thành thị.
4° Tư bản cộng sản còn được sự đồng loã của 1 số tư bản phương Tây: Di chuyển sản xuất qua Tàu, đóng cửa cơ sở sản xuất những đồ thực dụng trong nước, là phương cách hay nhất tránh được đòi hỏi tăng lương của công nhân. Chỉ sản xuất đồ xa xỉ phẩm để phục vụ thị trường mỗi ngày một lớn của 200 triệu trung lưu thành thị và đảng viên ĐCSTQ là thu được nhiều lợi tức mà không phải mướn nhiều nhân công. Hậu quả là tỉ số thất nghiệp ở những nước Tư bản dân chủ xã hội sẽ mỗi ngày một cao.
5° Tiêu thụ đồ Tàu nhiều nhất là Mỹ. Chế độ XHCNTQ cho phép các tay tài phiệt trong Đảng, đáng lẽ dùng số tiền thặng dư mậu dịch đó để nâng cao đời sống 900 triệu dân quê thì lại lấy 850 tỉ Đô la thặng dư đó mua trái phiếu kho bạc của Mỹ, cho Mỹ vay để Mỹ dùng tiền đó mua đồ của mình. Rút cục tiền dân Tàu lại dành cho Mỹ tiêu. Tư bản Mỹ, Tàu đề huề với nhau, chế độ "Xã hội Tư bản Cộng sản Tàu" sẽ bền vững đời đời.
Nói tóm lại XHCN của ĐCSVN bây giờ cũng chỉ là bản sao lại "Xã hội Tư bản Cộng sản chủ nghĩa" của Đặng Tiểu Bình. Cộng với chủ nghĩa "Chia nhau Tham nhũng" XHCN Việt Nam có phần khốc liệt hơn. Chỉ có những nhà trí thức chống cộng hải ngoại là tiếp tục mắc lỡm ban Tuyên truyền Trung Ương ĐCSTQ và đàn em là ban Tuyên giáo TW ĐCSVN, cứ khan cổ đả kích Marx, cho là bật rễ Macxít thì chế độ cộng sản sẽ sụp đổ. Đến khi nào các nhà trí thức này mới hiểu được là những khẩu hiệu "Triết học Mác-Lênin", "Kiên định CN Mác-Lê", chỉ là tấm vải đỏ dứ trước mắt để các vị chống cộng kiểu con bò tót này cứ tiếp tục húc đầu vào.
Phong Uyên
© Thông Luận 2009