Thứ Năm, 19 tháng 11, 2009

TỪ BÃI CÁT VÀNG CHO ĐẾN HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM

TỪ BÃI CÁT VÀNG CHO ĐẾN HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM

TỪ BÃI CÁT VÀNG (BÃI CÁT CỦA CHAMPA)
CHO ĐẾN HOÀNG SA-TRƯỜNG SA
LÀ CỦA VIỆT NAM
Đinh Kim Phúc *
Lời nói đầu: Việc Quốc vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý ba quần đảo trên biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào đầu tháng 12 năm 2007 và mới đây, ngày 8/11/2009, chính quyền tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) đã quyết định thành lập Ủy ban thôn đảo Vĩnh Hưng và Triệu Thuật, tức đảo Phú Lâm và Đảo Cây thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là một bước tiến mới trong tham vọng mở rộng “miền Đông Hải” của Trung Quốc. Điều này cũng chứng tỏ Trung Quốc xem Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982” và tinh thần “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002” chỉ là tờ giấy lộn.

Bài viết này riêng tặng “đồng chí” Ba Náo và để góp phần nhiệt liệt chào mừng Hội nghị quốc tế “Biển Nam Trung Hoa: Hợp tác vì sự ổn định và phát triển khu vực” ngày 26-27/11/2009 tại Hà Nội.
——

Ngày 7/5/2009, Chính phủ Việt Nam đã trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (Commission on the Limits of the Continental Shelf – CLCS) của Liên Hợp Quốc báo cáo quốc gia xác định ranh giới thềm lục địa nằm ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam.

Trước đó, ngày 6/5/2009, Việt Nam và Malaysia cũng đã phối hợp trình CLCS báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước. Việc trình các báo cáo này là để thực hiện các quy định liên quan của Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc (United Nations Convention on the Law of the Sea -UNCLOS).
Ngày 9/5/2009, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Chiêu Húc ngày 8 trả lời câu hỏi của nhà báo về việc Việt Nam lại đơn phương trình “Phương án hoạch định vùng thềm lục địa ngoài khơi” lên Ủy ban phân giới vùng thềm lục địa cho biết, phương án của Việt Nam đã xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền, quyền lợi chủ quyền và quyền quản lý của Trung Quốc, là phi pháp và vô hiệu.
Được biết, Malaysia và Việt Nam ngày 6 đã phối hợp trình “Phương án hoạch định vùng thềm lục địa ngoài khơi” 200 hải lý lên Ủy ban phân giới vùng thềm lục địa, Việt Nam ngày 7-5 lại đơn phương trình “Phương án hoạch định vùng thềm lục địa ngoài khơi” trên Biển Nam Trung Hoa.
Ông Mã Chiêu Húc cho biết, Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo và vùng biển xung quanh trên Biển Nam bao gồm cả Quần đảo Tây Sa và Nam Sa, có quyền lợi chủ quyền và quyền quản lý đối với vùng biển và đáy biển của vùng biển liên quan. Phái đoàn Trung Quốc thường trực tại Liên Hợp Quốc đã gửi công hàm cho Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về “phương án hoạch định” nói trên căn cứ theo các quy định liên quan của “Công ước quốc tế về Luật biển của Liên Hợp Quốc” và “Nguyên tắc làm việc của Ủy ban phân giới vùng thềm lục địa”, trình bày rõ lập trường nghiêm khắc của Chính phủ Trung Quốc, trịnh trọng yêu cầu Ủy ban này không xem xét “phương án hoạch định”nói trên.
Đúng là miệng lưỡi Thiên triều!
Để phụ hoạ thêm cho những quan điểm sai trái của nhà nước Trung Quốc, các học giả Trung Quốc trong thời gian gần đây đã đưa ra các “bằng chứng” về chủ quyền của họ trên biển Đông như: Thời Tần (từ năm 221 trước công nguyên đến năm 207 trước công nguyên), đã thành lập Quận Nam Hải quản lý nhiều đảo tại biển Hoa Nam trong đó bao gồm cả quần đảo Tây Sa; thời Hán (từ năm 206 trước công nguyên đến năm 220 sau công nguyên), từng cử các chuyên gia biển tới tuần tra khu vực Tây Sa; Thời Lưu Tống (từ năm 420 – 479 sau công nguyên) đã đưa quần đảo Tây Sa vào phạm vi tuần biển của Thủy quân Quảng Nam; Thời Nguyên (1271 – 1368), Quách Thủ Kính từng tiến ra biển Hoa Nam đo đạc và trong bản đồ “Quảng Hưng” vẽ ra sau đó đã đánh dấu quần đảo Tây Sa và gọi là khu vực “Thiên Lý Trường Sa”; Thời Minh (1368 – 1644), khi Trịnh Hoà đến Đại Tây Dương đều nghỉ ngơi tại Tây Sa…
Như chúng ta đã biết, nhiều lần các tác giả Trung Hoa đã khẳng định rằng mình đã khám phá ra hai quần đảo tranh chấp từ đời nhà Hán. Tuy nhiên, có tác giả Trung Hoa lại xác định là những tài liệu sớm nhất ghi chép sinh hoạt của người Trung Hoa trên những đảo này, thuộc đời nhà Tống (thế kỷ XIII).

Thuật nguỵ biện của giới học giả Trung Hoa quả là đạt đến cấp độ thượng thừa.
1. Giới hạn cương vực vùng Hoa Nam của Trung Quốc
Bộ Hải ngoại Ký sự của nhà sư Thích Đại Sán đã được nhiều người biết đến khi nghiên cứu quan hệ quốc tế của Đại Việt vào thế kỷ XV-XVII. Tác giả là một nhà sư đời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa dưới triều Nguyễn Phúc Chu ngày 13/3/1695 và rời chùa Thiền Lâm vào Hội An để về Quảng Đông ngày 7/8/1695.
Đọc các đoạn văn tại quyển III của Hải Ngoại Kỷ Sự, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong khoảng từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, chủ quyền VN trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau:
“Khách có người bảo mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước và sau ngày lập thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng 4,5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn.
Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bấc dần dần thổi lên, nước chảy về hướng Đông, sức gió Nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về phía Đông, lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn.
Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; Động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cắt khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “Vạn lý Trường Sa”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; Nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào dầu không tan nát cũng không gạo, không nước, trở thành ma đói mà thôi.
Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Các quốc vương thời trước, hàng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các tàu thuyền hư hỏng dạt vào.
Mùa thu nước dòng cạn rút về hướng Đông bị một ngọn sóng đưa đi, thuyền có thể trôi xa hàng trăm dặm, gặp khi gió mạnh, càng sợ gặp hiểm hoạ Trường Sa”.(1)
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía Nam của Trung Quốc.
Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã chỉ ra: “Theo Trần Luân Quýnh trong Hải quốc văn kiến lục (1730) thì địa danh này không thuộc nội hải Trung Quốc. Vạn Lý Trường Sa được ghi nhận trong phần “Nam Dương ký” (ghi chép về biển Nam Dương). Trích đoạn liên quan như sau: “Ngoài Đại Châu Đầu thuộc biển lớn Thất Châu thì mênh mông mờ mịt, không có núi non gì để căn cứ mà làm chuẩn. Gặp gió to thuận hướng la bàn thì đi 6, 7 ngày có thể đến Ngoại La Sơn thuộc vùng biển Chiêm Bất Lao xứ Quảng Nam, [đến đây thì] phương hướng định được. Lệch qua phía đông ắt vướng phải Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường; lệch qua phía tây sợ gặp dòng nước chảy xiết đẩy vào vịnh Quảng Nam, không có gió Tây thì khó mà ra được” (tr. 16, sách tham khảo)…
Vạn Lý Trường Sa trong Thanh địa lý đồ và cách ghi nhận của Trần Luân Quýnh ứng vào vị trí quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam)
Theo Trương Nhiếp trong sách Đông Tây Dương khảo, thì địa danh này không thuộc nội hải Trung Quốc, mà thuộc về biển Tây Dương. Sách đã nêu, quyển 9, Chu sư khảo, Tây Dương châm lộ có đoạn: “Vạn Lý Thạch Đường tức là nơi mà sách Quỳnh chí gọi là Thạch Đường Hải, ở về phía đông Thất Châu Dương”.
Như ghi chép của Trương Nhiếp thì hồi thời Minh, Thạch Đường Hải là một vùng biển Tây Dương, giáp biển Thất Châu Dương của Trung Quốc.
Vạn Lý Thạch Đường có thể là một cách gọi khác đối với Thiên Lý Thạch Đường trên Thanh địa lý đồ và cách gọi của Trần Luân Quýnh ở điểm 85 [Vạn Lý Trường Sa]; cũng có thể là cách ám chỉ quần đảo Trường Sa (Việt Nam)
Cuối cùng, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân kết luận : Đại Thanh vạn niên nhất thống địa lý toàn đồ là bức địa đồ cổ của Trung Quốc, hiện lưu trữ tại Thư viện Trường Đại học Waseda, Nhật Bản. Theo phỏng định của một số học giả Trung Quốc và tác giả bài viết, bức địa đồ này được thực hiện vào năm 1810. Về nội dung, bức địa đồ thể hiện cương vực của Trung Quốc và một số vùng đất thuộc các quốc gia lân cận và cũng ghi nhận nhiều quốc gia khác có quan hệ ngoại giao, thương mại với Trung Quốc, đặc biệt là các hải đảo, đảo quốc được ghi nhận khá nhiều.
Một điểm khác cần lưu ý là khi phối hợp với các nguồn sử liệu Trung Quốc sẽ thấy rằng các quần đảo Vạn Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường không nằm trong nội hải Trung Quốc”(2) .
Loạt bản đồ Đại Thanh đế quốc vị trí khu hoạch Quảng Đông tỉnh và Quỳnh Châu phủ Nhai Châu hội đồ (tập Trung Quốc Cận thế địa dư đồ) được vẽ rõ ràng là biên giới Trung Quốc cũng tới đảo Hải Nam (tức Quỳnh Châu) mà thôi!

Như thế, Trung Quốc đã viện dẫn nhiều đoạn trích từ sách sử địa của mình. Nhưng thực tế cho thấy các đoạn do Trung Quốc đưa ra, chỉ tả hai quần đảo như những gì nằm trong lộ trình đi ngang biển Đông mà thôi. Ngoài ra, các đoạn được viện dẫn trước thế kỷ XIII cũng không nói đến đảo nào, mà chỉ nói đến biển Nam Hải. Những đoạn sách viết từ thế kỷ XIII mới bắt đầu nêu tên đảo, nhưng không có đoạn nào nói tới Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa), và không có một quyển sách nào nói đến chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo này.

Phía Trung Quốc cũng đã đưa ra những tài liệu để chứng minh rằng mình đã khám phá và hành xử chủ quyền trước tiên. Tuy nhiên, những tài liệu này chỉ cho thấy những thuyền bè của Trung Quốc thời đó đã lui tới biển Đông, và trong lộ trình, họ tình cờ thấy những đảo mang nhiều tên khác nhau, nhưng không có đảo nào tên là Xisha hay Nansha. Nếu đặt giả thuyết là Trung Quốc đã khám phá ra những đảo này, thì Trung Quốc đã không hành xử chủ quyền trên đó. Sự hiện diện của những người đánh cá không đủ để gọi rằng đó là hành xử chủ quyền của nhà nước. Do đó, những luận cứ và luận chứng chủ quyền lịch sử mà Trung Quốc khẳng định mình có là rất yếu. Phần lớn các tác giả luật gia chuyên về luật quốc tế, trừ những tác giả Trung Hoa, đều công nhận điều này.
Có thể nói rằng địa danh Tây Sa chỉ là một địa danh nguỵ biện xuất hiện khi Đề đốc Lý Chuẩn đưa tàu thám sát Hoàng Sa vào năm 1909.
Hạm trưởng Chauvaire thuộc Hải quân Pháp đã kể lại trong một bài viết được đăng trong báo La Nature: “Nhắc lại chuyện hai chiếc pháo đĩnh nhỏ bé của tỉnh Quảng Đông mang hiệu kỳ Đề đốc Lý Chuẩn đến Hoàng Sa trong năm 1909, ghé lại quần đảo một khoảng thời gian không quá 24 giờ. Vậy mà đến ngày 20/6/1909, đại nhật báo Quảng Đông, tờ Kouo Che Pao cho đăng tin lớn…”(3).
Những dữ liệu kể trên chúng tôi thấy phù hợp với tất cả các bản đồ mà các nhà hàng hải phương Tây đã miêu tả cương vực vùng Hoa Nam của Trung Quốc từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX.
Bản đồ1:

Janssonius, J. / Schenk, P. & Valk, G. QIUNNAN, QUEICHEU, QUANGSI, ET QUANTUNG …. Map of the southeast provinces of China, incl. the island of Hainan and the region of Hong Kong and Macau, with two cartouches, table of explanations and sailing ships. Published by Pieter Schenk and Gerard Valk from the plate by Joannes Janssonius ca. 1700 [22059]




Bản đồ 2:


Homann Heirs. REGNI SINAE VEL SINAE PROPRIAE… Detailed map of China with decorative title cartouche showing Chinese dragons and smaller cartouche for scale of miles. Homann Heirs ca. 1750 [24944]


Bản đồ 3:


Geographical and Historical Map of China, Lavoisne/Gros, Genealogical, Historical, Chronological & Geographical Atlas published by M. Carey & Son., Philadelphia, 1820.





Bản đồ 4:



The Chinese Empire 1910
(Cambridge University Press)

Để kết luận phần này, chúng tôi xin mượn lời của Giám Mục Taberd đã được ghi rõ như sau: Nous n’entrerons pas dans l’enumérations des principales iles dépendantes de la Cochinchine. Nous ferons seulement observer que depuis de 34 ans l’archipel des Paracels nommé par les Annamites Cát Vàng ou Hoàng Sa (Sable jaune) véritable labyrinthe de petits ilots de rocs et de bancs de sable justement redoutés des navigateurs a été occupé par les Cochinchinois.

Nghĩa là:

Chúng tôi không đi vào việc liệt kê những hòn đảo chính yếu của xứ Cochinchine. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm rất nhiều hòn đảo nhỏ chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát đã được người Việt xứ Đàng Trong chiếm cứ, đã khiến những kẻ đi biển phải kinh sợ.(4)
2. Từ Cauchinchina cho đến IndoChina :
2.1 Cauchinchina – Cochinchine
Năm 1494, Giáo Hoàng Alexandre VI đã dùng quyền lực tinh thần để phân các vùng ảnh hưởng trên thế giới cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Sự phân chia này được chính thức hoá trong hiệp ước Tordesillas 1494. Do đấy, các đội thương thuyền của Bồ Đào Nha đã đi về phương Đông tức Ấn Độ và Trung Quốc. Bồ Đào Nha đã thiết lập một thương điếm ở Ma Cao (Trung Quốc) từ năm 1511 và biến Ma Cao thành thuộc địa từ 1557. Từ đó các thương thuyền qua lại biển Đông và có những nhà hàng hải Bồ Đào Nha thám hiểm vùng biển Đông trong đó có quần đảo Hoàng Sa.
Theo Aurousseau, nguyên Giám đốc Trường Viễn Đông Bác cổ (École Francaise d’Extrême Orient), thì Việt Nam từ xa xưa không được người Bồ Đào Nha hoặc người châu Âu biết đến một cách trực tiếp (trước năm 1515), do đó sự hiểu biết tên nước lại phải được người Arab giới thiệu với phương Tây. Ông chứng minh rằng chữ Cochinchina là do từ chữ Bồ Đào Nha Quachymchyna, mà chữ này lại bắt nguồn từ chữ Arab “Kawci-min-cin”. Theo đó thì “Kawci” là chữ Arab tương đương với chữ “Kiao-tche” là tiếng Hán chỉ nước Việt Nam thời đó [交趾支那-Giao Chỉ China ]. Còn từ ngữ “min-cin” có nghĩa là thuộc Trung Hoa. Nhưng Aurousseau đã không đưa ra được một bằng chứng cụ thể nào về tên Cochinchina bắt nguồn từ chữ Giao Chỉ. Hơn nữa, ông đã không có một bản đồ chính xác nào để hỗ trợ cho giả thuyết của ông.
Nhìn vào địa danh, Cochinchina có hai phần là Cochin và China.
Chữ China thì không trở thành vấn đề, vì nó được dùng để chỉ định một địa phương đã được biết rõ (Trung Hoa). Còn chữ Cochin thì đã đưa đến nhiều giải thích khác nhau.
Vì có điểm giống nhau giữa cách đánh vần chữ Chanocochin là danh từ chỉ một tên trên bờ biển Malabar Coast của Ấn Độ, nơi mà mgười Bồ Đào Nha đã biết đến từ thế kỷ thứ XV như Colchi, Cocym, hay Cochin, ta có thể đoán là các nhà vẽ bản đồ phương Tây đã mượn những từ ngữ trên. Và sự tiếp xúc trực tiếp giữa phương Tây và Việt Nam sau này đã dẫn đến sự thay đổi từ ngữ đó.
Trên bản đồ của Ribeiro năm 1529, người ta đã cố gắng chuyển tên Cửu Chân trong tiếng Việt sang ngôn ngữ phương Tây, Ribeiro gọi vịnh Bắc kỳ (Golfe du Tonkin) là Cauchechina. Cửu Chân là một trong chín quận được thiết lập bởi vua Hiếu Vũ năm 111 trước công nguyên. Danh từ này được đọc là Cẩu Chân theo tiếng Quảng Đông. Biên giới của Cửu Chân được thay đổi theo thời gian, nhưng tên gọi đó không thay đổi cho tới năm 1407 . Đó là tên độc nhất của một khu vực hành chánh lớn ở Việt Nam đã được biết đến suốt 15 thế kỷ.
Kể từ năm 1529 từ ngữ Cauchechina bắt đầu xuất hiện thường xuyên. Nó được thấy trên bản đồ của Gastaldi, Ortolio, Homen và Luis dưới dạng Gauchi, Cauchy, hay Cauchin. Cho tới năm 1565 ta thấy có dấu hiệu trở lại cách viết ban đầu khi Berteli dùng chữ Cochinchina cho bản đồ của ông. Trong nhiều thập niên hai tên kể trên xuất hiện thường xuyên, có khi đứng cạnh nhau cùng trên một bản đồ. Mãi tới thế kỷ XVII thì từ ngữ Cochinchina mới vĩnh viễn thay thế địa danh Cauchinchina.(5)
Bản đồ 5:

Bản đồ do người Hà Lan vẽ năm 1594 (hiện được lưu giữ tại Amsterdam , Hà Lan)
Bản đồ 6:

Gerard Mercator (1512 – 1594), India Orientalis, Amsterdam , H. Hondius, circa 1606, Koeman, Atlantes Neerlandici, Vol I, 8400:1A
Cũng có một giả thiết khác về nguồn gốc từ Cochinchine, theo đó, Cochin là một cảng thương mại lớn ở Ấn Độ, quốc gia có vùng đất Pondichéry lọt vào tay người Pháp từ thế kỷ XVII. Vào thời kỳ này, các thương nhân phương Tây có dịp đi qua Đàng Trong, thấy vùng này có nhiều nét giống với thương cảng Cochin của Ấn Độ nên đặt tên là Cochinchina (vùng đất Cochin nằm cạnh Trung Hoa – China ).
Hoặc, từ thế kỷ XIII, các nước đã theo Marco Polo gọi tên nước Đại Việt là Caugigu (phiên âm từ Giao Chỉ quốc), sau đọc trại thành Kiaoche rồi Coci (cách gọi của Bồ Đào Nha). Sau đó để khỏi lầm với Cochin của Ấn Độ, người ta thêm chữ China hay Cina, nên Cauchinchina trở thành tên của nước Đại Việt. Đến thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, người ta mới gọi Đàng Ngoài là Tunking hay Tonkin (từ chữ Đông Kinh-Hà Nội ngày nay) và Đàng Trong vẫn giữ tên Cauchinchina hay Cochinchine như người Pháp đã gọi.
Chúng ta biết rằng, Giao Chỉ không còn được xử dụng như một địa danh quan trọng ngay trong giai đọan đầu của lịch sử Việt Nam; Cửu Chân (Chiu Chen) trái lại được dùng cho tới khi người phương Tây đến. Hơn nữa cách đánh vần tên cho thấy có sự liên hệ giữa Cửu ChânCochin (Cochin/china).
Nhận định trên phù hợp với tài liệu sau đây: “Tùy theo từng thời kỳ lịch sử của nước Việt, lãnh thổ của quận (hay bộ) Cửu Chân ngày xưa có những biên giới khác nhau. Riêng tỉnh Thanh Hóa ngày nay thì luôn được xem là phần lãnh thổ chính của vùng Cửu Chân. Người Malaysia phiên âm tên Cửu Chân thành Kuchi. Sau đó, để phân biệt với vùng Kuchi của Ấn Độ ( India ), các nhà hàng hải và thương nhân Bồ Đào Nha đã thêm vào chữ China , vì vương quốc này nằm cạnh China . Đồng thời họ phiên âm Kuchi China thành Cauchi China .
Sau người Bồ Đào Nha, các nhà hàng hải và thương nhân từ Hà Lan và một số nước khác bắt đầu lui tới, giao thương với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á.Theo thời gian, Cauchi China lại được phiên âm thành Cochin China. Tên vương quốc Cochin China bắt đầu xuất hiện trên các tài liệu tây phương trong những thập niên đầu của thế kỷ 16”.(6)

2.2 IndoChina
Vào thế kỷ XVII-XVIII, khi nói đến vùng Đông Nam Á, người Pháp thường dùng tên gọi Ngoại Ấn (Inde extérieure) hay Ấn Độ bên kia sông Hằng (Inde au-delà du Gange), còn người Anh thì gọi là Ultra-Ganges India.
Tên gọi Đông Dương (IndoChine) xuất hiện lần đầu tiên dưới ngòi bút của Conrad Malte Bruun (1775-1826) trong bộ sách Địa lý toán học, hình thể và chính trị của các nơi trên thế giới, xuất bản năm 1804. Trong tập 12 của bộ sách này có nói đến các nước IndoChine hay vương quốc Tonquin, Cochinchine, Lào…
Bốn năm sau, tên gọi IndoChine lại xuất hiện trong một bài báo của John Leyden (1775-1811) trên tạp chí Nghiên cứu châu Á của Hội châu Á vùng Bengal, xuất bản tại Calcutta năm 1808.
Về phương diện địa lý và văn hóa, Đông Nam Á lục địa nằm giữa hai nước lớn, và giữa hai nền văn hóa xuất phát từ hai nước đó là Trung Hoa và Ấn Độ. Đây là hai cái nôi văn hóa lớn của Châu Á và khu vực Đông Nam Á lục địa nằm giữa hai cái nôi văn hóa lớn đó. Địa danh đúng của khu vực này là IndoChina (Ấn-Trung) hay Indochinese Peninsula (Bán đảo Ấn Trung), nghĩa là vùng bán đảo nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Nhưng vì người Pháp đã dùng chữ Indochina (mà người Việt thường dịch là Đông Dương) thu hẹp để chỉ ba nước Việt Nam, Cambodia, Lào, dưới sự đô hộ của họ thành ra các nhà văn hóa học đã không dùng lại địa danh này cho cả vùng mà phải dùng chữ Đông Nam Á để tránh lầm lẫn. Thời xưa người ta còn gọi vùng này là “Golden Peninsula” (Bán Đảo Hoàng Kim) và bao gồm các nước Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia, và Việt Nam, không có Malaysia trong đó, vì Malaysia được xem là thuộc về khu vực hải đảo. Các nước nằm trong khu vực Bán đảo Hoàng Kim hay Bán đảo Ấn Trung này đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của một trong hai nền văn hóa lớn ở đây là Ấn Độ và Trung Hoa. Theo nhiều nhà văn hóa học phương Tây thì các nước Myanmar,Thái Lan, Lào và Cambodia nhận ảnh hưởng Ấn Độ trong khi Việt Nam nhận ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn. Các nước chịu ảnh hưởng Ấn Độ thường được gọi là “Indianized States”(các nước Ấn hóa).
Bản đồ 7:

Bản đồ Indochina 1913
Trong bán đảo Đông Dương đã từng tồn tại Đông Dương thuộc Pháp, là các nước thuộc địa của Pháp, gồm Annam (Trung kỳ), Cochinchine (Nam kỳ), Tonkin (Bắc kỳ) (cả ba thuộc Việt Nam), Lào và Cambodia. Đôi khi người ta cũng dùng Đông Dương thuộc Anh để chỉ thuộc địa cũ của Anh tại Đông Dương, tức Myanmar vào thời kỳ đó.
Như vậy, từ Cauchinchina, Cochinchina cho đến Indochina xuất phát từ đâu cho đến nay vẫn còn tranh cãi về mặt học thuật. Đó là nhiệm vụ của các nhà Địa danh học. Nhưng có một điều cần khẳng định rằng, những địa danh đó trong lịch sử trung, cận đại Việt Nam không phải thuộc lãnh thổ Trung Quốc lúc bấy giờ.

3. Baixos de Chapar-Pracel IslandsSpratly Islands
3.1 Trong số những bản đồ hải hành thực hiện bởi các nhà hàng hải phương Tây có những bản đồ đáng chú như sau:
Ngay từ thế kỷ XVI, các bản đồ hàng hải Biển Đông do các nhà hàng hải và truyền đạo phương Tây vẽ đã thể hiện hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay giống như các bản đồ cổ của An Nam dưới dạng một dãy đảo chạy dài hình lá cờ đuôi nheo ngoài khơi miền Trung Việt Nam, bên ngoài các đảo ven bờ, với chú thích “Isle Pracel” và “Costa de Pracel” cho bờ biển đối diện.
Chúng ta có thể so sánh bản đồ dạng đơn giản của Đỗ Bá (Toàn tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư” – 1686), và của Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục, 1776, Đại Nam Nhất thống toàn đồ 1838 của triều Nguyễn với Bản đồ biển Đông do nhà hàng hải danh tiếng người Hà Lan Henricus Van Langren vẽ năm 1595; Và bản đồ của Công ty Đông ấn (Indiae Orientalis Nova Descriptio) vẽ 1633 hay Bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ của giáo sỹ Jean Louis Tabert ghi tên Paracel Seul Katvang 1838 để thấy được điều đó.
- Năm 1606, Jodocus Hondius vẽ hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa như một cái cờ đuôi nheo uốn quanh Đại Việt và Champa, cái đuôi dính liền với các đảo vùng Phan Thiết.
- Năm 1630, Cloppenburg vẽ hai nhóm Hoàng Sa và Trường Sa chạy dài từ khoảng ngoài khơi cửa sông Gianh kéo phần đuôi quần đảo vào sát vào khu bờ biển ngoài khơi Phan Rang.
- Năm 1650, Merian vẽ hai nhóm quần đảo riêng rẽ có tính cách tượng trưng: Hoàng Sa ngang vùng biển Đà Nẵng, Trường Sa ngang vùng biển Cam Ranh.
- Năm 1664, Thevenot vẽ hai nhóm Hoàng Sa và Trường Sa với cái đuôi chỉ tới vùng ngoài khơi Nha Trang.
- Năm 1719, Chatelin vẽ hai nhóm Hoàng Sa và Trường Sa dính liền nhau, rất lớn và rất sát với bờ biển miền Trung, có chỗ chỉ cách đất liền khoảng 10-15 hải lý.
Vào thế kỷ XV-XVI, trong số các nước phương Tây, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước phát triển sớm nhất. Và Bồ Đào Nha là nước phương Tây đầu tiên bành trướng thế lực sang phương Đông. Nhưng vào cuối thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha phải nhường bước cho Hà Lan ở phương Đông.
Hà Lan là một nước có nền công thương nghiệp phát triển sớm và sau cuộc cách mạng vào cuối thế kỷ XVI, Hà Lan đã trở thành nước tư bản chủ nghĩa đầu tiên, vượt qua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, chiếm địa vị thứ nhất trong nền thương mại thế giới vào thế kỷ XVII. Công Ty Đông Ấn Hà (Companie Hollandaise des Indes Orientales) thành lập vào năm 1602 là công cụ để Hà Lan phát triển sang châu Á. Trong hồ sơ lưu trữ về bản đồ về Đông Duơng đầu tiên (Carte de la peninsula Indochinoise) được ấn hành vào năm 1595 do nhà địa lý gốc Hà Lan Frère Van Langren thực hiện, và cũng lần đầu tiên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã xuất hiện trên bản đồ này với cái tên Hà Lan là Paracels (có nghĩa là đá ngầm) (7).
Bản đồ Đông Dương của Frère Van Langren đã mở đường cho thương nhân Hà Lan vào Đông Dương, mà trước hết là vào Việt Nam . Ở thế kỷ XVII, Hà Lan đã đến buôn bán và lập một số thương điếm ở Việt Nam , trong đó có Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng Nam . Quần đảo Hoàng Sa đã gắn liền với câu chuyện đắm tàu của Hà Lan trong lịch sử vào năm 1634. Nguyên là vào ngày 20/1/1634, có 3 chiếc tàu buôn của Công ty Đông Ấn Hà có tên là Veenhuisen, Schagen và Grootebroek, đồng khởi hành từ Batavia để đến Formose. Sáng ngày 21/7/1634, ba chiếc tàu nói trên đã đến khu vực biển của Việt Nam , tại khu vực quần đảo Hoàng Sa, thì gặp phải một trận bão lớn. Chiếc Veenhuisen đã vượt qua được và đến Formose vào ngày 2/8/1634, và chiếc Schagen cũng thoát hiểm để đến Formose vào ngày 10/8/1634.
Chỉ riêng có chiếc Grootebroek là không vượt qua được trận bão biển, nên đã bị chìm gần khu vực quần đảo Hoàng Sa, ngang với bắc vĩ tuyến 17. Theo tập Ký sự Batavia (Journal de Batavia) của Công ty Đông Ấn Hà năm 1635, đã cho biết chiếc Grootebroek đã bị chìm hẳn và 9 thủy thủ đã biệt tích. Thuyền trưởng Huijch và 62 thủy thủ khác thoát được, và họ đã cứu hơn phân nửa số hàng trị giá 82.995 Florins (tiền Hà Lan) trong tổng số hàng trị giá 153.600 Florins. Sau cơn bão, Thuyền trưởng Huijch và 12 thủy thủ đi thuyền nhỏ vào đất liền để nhờ chính quyền địa phương của xứ Đàng Trong cho thuyền lớn ra cứu 50 thủy thủ còn lại đang ẩn núp tại quần đảo Hoàng Sa để tránh bão.
Sang thế kỷ XVIII, những cuộc khảo sát biển Đông của các công ty Đông Ấn rất kỹ càng. Từ cuộc thám hiểm đo đạc của phái bộ Kergariou – Locmacria vào những năm 1778 – 1787 ở biển Đông đã giúp cho người phương Tây hiểu biết rõ hơn, trung thực hơn, không còn lờ mờ và sợ hãi như những huyền thoại trước đây về biển Đông. Các hải trình tương đối an toàn hơn, tuy họ không hề phủ nhận sự nguy hiểm và hoạ đắm tàu ở khu vực quần đảo Paracels.

Người Pháp qua các hoạt động của các giáo sĩ, thương gia nhất là từ khi giám mục Pigneau de Béhaine giúp Nguyễn Ánh về quân sự, đã bắt đầu quan tâm đến Việt Nam và kế thừa những hiểu biết của người Bồ Đào Nha, Hà Lan, đã biết rất rõ về nội tình chính trị Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài thời phân tranh cũng như khi thống nhất. Từ đó, người phương Tây mới biết rõ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.


Như thế, chính người Pháp mới bắt đầu cung cấp những tài liệu xác thực về sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.(8)


Trong tài liệu này, có nhật ký của chiếc tàu Amphitrite chở các giáo sĩ Pháp qua quần đảo Paracels vào năm 1701 ghi như sau:


“Người ta cho tàu nhổ neo, gió rất tốt. Và sau đó một thời gian đi đến mỏm đá Paracels. Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam. Đó là một bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó”.


“ Le Mémoire sur la Cochinchine” của Jean Baptiste Chaigneau (1769 – 1825), viết vào những năm cuối đời Gia Long (1816 – 1819) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.(9) Ông viết hồi ký nhan đề “Le mémoire sur la Cochinchine” được A. Salles, một viên chức thanh tra thuộc địa công bố trên Bulletin des Amis du Vieux Huế, n02, Avril – Juin 1923, trong đó có đoạn viết:


“Nước Cochinchine mà vua bây giờ xưng đế hiệu (Hoàng đế) gồm xứ Đàng Trong (Cochinchine proprement dite), xứ Đông Kinh (Tonquin), một phần xứ Cao Miên, một vài đảo có dân cư không xa bờ bể và quần đảo Paracels hợp thành bởi những đảo nhỏ, đá ngầm và mỏm đá không dân cư. Chỉ đến năm 1816 đương kim hoàng đế mới lấy chủ quyền trên quần đảo ấy”.


Giám mục Jean Louis Taberd trong cuốn “Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes”, xuất bản năm 1833 viết về Paracels như sau:


“Chúng tôi không đi vào việc kê khai những hòn đảo chính yếu của xứ Cochinchine. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels, mà người Việt gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa (có nghĩa là Cát Vàng) gồm rất nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát, làm cho những kẻ đi biển rất e ngại, đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ Đàng Trong”… “Chúng tôi không rõ họ có thiết lập một cơ sở nào tại đó không; nhưng có điều chúng tôi biết chắc là hoàng đế Gia Long đã chủ tâm thêm cái đoá hoa kỳ lạ đó vào vương miện của ông, vì vậy mà ông xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816 mà Ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”.


An Nam Đại quốc họa đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong lãnh hải Việt Nam.


Bản đồ này được đính sau cuốn Tự Điển Việt – La Tinh nhan đề “Latino – Anamiticum” của giám mục Taberd (từng làm thông dịch cho vua Minh Mạng từ tháng 11 năm 1826), xuất bản năm 1838. Bản đồ có chiều dài 80cm, ngang 44cm in trên loại giấy thường để in hoạ đồ. Nhan đề bản đồ được in bằng ba thứ tiếng: chữ Hán, chữ Quốc Ngữ và chữ La Tinh.
An Nam Đại quốc họa đồ là một tài liệu phản ảnh sự tổng kết những hiểu biết sâu sắc và chính xác của người phương Tây từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX về mối quan hệ giữa quần đảo Hoàng Sa và nước Đại Việt mà tác giả gọi là An Nam Đại quốc. An Nam Đại quốc họa đồ là một minh chứng rất hùng hồn khẳng định một cách rõ ràng:


1. Paracels là địa danh mà người phương Tây chỉ quần đảo ở biển Đông suốt thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX chính là Cát Vàng hay Hoàng Sa của Việt Nam. Trong bản đồ này có ghi chú “Paracels Seu Cát Vàng”. Tại biển Đông không có đảo Hải Nam của Trung Quốc mà chỉ có đảo của Việt Nam. Đảo ở khoảng vĩ độ 17o Bắc và kinh độ hơn 111o Đông, có vẽ một số đảo (bằng một số dấu chấm) và ghi hàng chữ “Paracel Seu Cát Vàng”. Từ Seu (tiếng La Tinh) là “có nghĩa là”, Cát Vàng (tiếng Nôm) tức là “Hoàng Sa” (tiếng Hán Việt). Paracel – Cát Vàng – Hoàng Sa, là một khẳng định rõ ràng nhất quán chứ không phải suy diễn như Tây Sa của Trung Quốc.


2. Trong bản đồ An Nam Đại quốc hoạ đồ không ghi đảo Hải Nam hay bất cứ đảo nào của các nước láng giềng và chỉ ghi “Paracel Seu Cát Vàng” mà thôi, chứng tỏ Paracel Seu Cát Vàng nằm trong lãnh thổ của An Nam Đại quốc hay Đại Việt.


3. Địa danh Paracel ghi bên cạnh những chấm đánh dấu các đảo ở khoảng vĩ độ 16o Bắc (ngang vĩ độ cửa Tư Dung, Thừa Thiên ) lên đến vĩ độ 17o Bắc khoảng Cửa Tùng (Quảng Trị) và kinh độ 111,18o Đông. Điều này đã phản ảnh sự hiểu biết về Hoàng Sa của người phương Tây đã rất chính xác và Hoàng Sa không còn chung với quần đảo Trường Sa nữa.


Bản đồ 8:


An Nam Đại quốc hoạ đồ của Jean Louis Taberd n ăm 1838
3.2 Xem xét một số bản đồ có địa danh Baixos de Chapar-Pracel - Spratly
Bản đồ 9 :
Đây là tấm bản đồ màu, in năm 1613 trong quyển Atlat Mercator Hondius (1563-1612) vẽ trước năm 1606, từ dữ kiện của nhà địa dư học Bồ Đào Nha Bartolomeu Lasso vào đầu thế kỷ XVI.

Bản đồ này được trình bày bằng tiếng La tinh có tên là Insulae Indiae Orientalis, ghi rõ vùng biển Đông Nam Á , từ đảo Sumatra phía Tây tới New Guinea và cả đảo Guam phía cực Đông (trong một chuỗi đảo được mệnh danh là “quần đảo thổ phỉ-Islas de Las Vellas), và đảo Timor gần Australia phía Nam lên tới đảo Hải Nam phía Bắc.

Bản đồ 9.1:


Trên góc cao (giữa) bản đồ (khu vực Việt Nam ngày nay),
có ghi là đất “Cauchin, có tên Cauchinchina”

Trên bản đồ này ghi rất rõ ràng ngoài khơi xứ Cauchichina một vùng quần đảo có nhiều bãi cát nông chạy dài xuống hướng Tây Nam, được ghi là Pracel..

Đối diện với quần đảo, trên lãnh thổ Cauchinchina được viền màu vàng, là tên Costa de Pracel. “Costa de Pracel” không có liên hệ gì với đảo Hải Nam (được tô màu hồng với tên là Ainan).
Xem bản đồ khu vực Đông Nam Á do Jean Baptiste Nolin (1657-1725) hoàn thành năm 1687. Trong bản đồ này, Nolin đã đánh dấu vùng quần đảo giữa biển Đông được ghi rõ là “Baixos de Chapar de Pulls Scir” nằm ở dưới vị trí ghi là “Golfe de la CochinChine”. Điều này có nghĩa là “bãi cát của Champa là bãi đá ngầm” nằm dưới vị trí của “Vịnh Cochinchine”.
Bản đồ 10:


Một phần bản đồ khu vực Đông Nam Á do Jean Baptiste Nolin hoàn thành năm 1687.Khu vực quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa được ghi chú là Baixos de Chapar de Pulls Scir nằm dưới Golfe de la Cochin Chine (Nguồn: Bản đồ ký hiệu C.C. 1144.A lưu trữ tại Thư viện quốc gia Bồ Đào Nha)
Bản đồ 11:
Bản đồ Biển Đông do nhà xuất bản Luân Đôn in năm 1791 – A new chart of the China Sea with its several entrances, printed for Robert Sayer, London năm 1791- thể hiện quần đảo Paracels nằm trong hình cờ đuôi nheo ghi rõ according to the Draft of Cochinchina Pilot 1764 (vẽ theo Dự thảo Hàng hải chỉ nam của xứ An Nam năm 1764).(10)
Tài liệu này chứng tỏ trong khi xây dựng các tài liệu hướng dẫn hàng hải, các nhà hàng hải phương Tây đã tham khảo các hiểu biết của chính quyền An Nam và thừa nhận quần đảo này thuộc An Nam.

Ảnh chụp bản đồ của Nguyễn Hồng Thao (Sđd)
Giá trị của bản đồ còn lưu giữ ở Tây Ban Nha so với các bản đồ đã biết là dòng chữ Cochinchina (Nam Kỳ) được ghi ngay dưới tên Paracels minh chứng rõ ràng mảnh đất này thuộc về An Nam từ rất sớm chứ không phải như các học giả Trung Quốc nói thuộc về họ từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên.
Hơn nữa đây là bản đồ chuyên ngành hàng hải, đính kèm Hàng hải chỉ nam vùng biển An Nam chứ không phải bản đồ địa lý thông thường. Hình vẽ các nhóm đảo paracels cũng chi tiết hơn, thể hiện sự kéo dài của quần đảo quá vị trí Hoàng Sa ngày nay, đối xứng với Cam Ranh, Sài Gòn và khoảng cách xa bờ hàng trăm hải lý nên không thể coi đó là sự thể hiện các đảo ven bờ Việt Nam như một số lập luận nguỵ biện.
Các hiểu biết này giống với các hiểu biết của người Việt xưa, những người đã khám phá và cai quản Paracels, và phù hợp với kỹ thuật hàng hải hải đồ lúc đó.
Tuy các tài liệu và bản đồ nước ngoài thời kỳ này đều quy thuộc Paracels vào Cochinchine nhưng một câu hỏi vẫn được đặt ra: vào thời điểm nào người ta mới phát hiện Paracels và Spratleys là hai quần đảo riêng biệt.
Nhận thức và kỹ thuật bản đồ hạn chế thời đó của người An Nam và nước ngoài chưa cho phép phân biệt rõ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như ngày nay mà đơn giản gọi gộp chung chúng dưới tên gọi Paracels, Hoàng Sa, Đại Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa để chỉ dãy cồn cát, đá ngầm dài hàng trăm dặm là mối đe doạ tiềm tàng cho người đi biển.
Có nhiều nguồn tài liệu đã đề cập vấn đề này.
Thứ nhất, Spratly là họ của một người Anh, thuyền trưởng chiếc tàu săn cá voi Cyrus. Ông tên Richard Spratly, người phương Tây đầu tiên đặt chân lên hòn đảo này vào năm 1843.(11)
Thật ra Richard Spratly không phải là người đầu tiên khám phá ra Spratly Islands . Trước đó khoảng gần 40 năm, vào năm 1807, khi được cử sang vương quốc CochinChina để khảo sát quần đảo Pracel (bao gồm Paracel Islands và Spratly Islands), thuyền trưởng Ross đã đến triều kiến vua Gia Long và trình lên vị hoàng đế này một lá thư giới thiệu của công ty Đông Ấn. Nội dung lá thư có liên quan đến việc xin phép khảo sát quần đảo Pracel và bờ biển của nước này. Daniel Ross hoàn tất cuộc khảo sát và đo đạc vùng biển phía Nam của Trung Hoa năm 1807, quần đảo Pracel năm 1808, một phần bờ biển CochinChina năm 1809, và vùng đảo Palawan của Philippines năm 1810.
Daniel Ross đã đặt tên cho Spratly Islands là Dangerous Ground (Vùng đất nguy hiểm), được xem như phần phía Nam của quần đảo Pracel (hay Paracel) trên bản hải đồ ấn hành năm 1821. Sau đó, trong một phiên bản của tấm hải đồ ấn hành năm 1859, tên Dangerous Ground được đổi lại là Storm Island (Đảo Bảo tố). Ngày nay, cả hai tên thỉnh thoảng vẫn còn được nhắc đến nhưng không phổ biến như tên Spratly Islands . Như vậy, đối với phần lớn giới hàng hải phương Tây, đến năm 1843, quần đảo Pracel được chính thức tách ra thành Paracel Islands và Spratly Islands.
Nhưng ở một tài liệu khác, theo nhiều tác giả chính các thuỷ thủ Anh, thường qua lại trên con đường giữa Malaca và Borneo, đã được coi là những người đầu tiên phân biệt các đảo, đá nhỏ này và đặt tên chúng.
Nước Anh đã từng đưa ra lý do này để yêu sách Spratlys.G.Marston trong bài “Sự từ bỏ các yêu sách lãnh thổ: trường hợp của các đảo Bouvet và Spratleys”(12) đã nhắc lại sự kiện công hàm ngày 21 tháng 5 năm 1930 của Toà Đại sứ Anh tại Paris, thừa lệnh Chính phủ họ truyền đạt lại Chính phủ Pháp rằng ông Graham, người Mỹ và các ông Simpson và James, người Anh đã đăng ký, vào năm 1877, tại thuộc địa Labuan, yêu sách của họ đối với đảo Trường Sa.

Ngày 13 tháng 12 năm 1878, Chính phủ Anh đã thông báo cho Tổng Lãnh sự Anh tại Bornéo rằng họ không có phản đối gì về việc đăng ký tại Tổng Lãnh sự tại Borneo yêu sách của ba công dân trên các đảo này cũng như việc họ kéo cờ Anh lên và do đó các đảo này thuộc lãnh thổ Anh Quốc, trừ phi hoàng gia từ bỏ chúng một cách dứt khoát. Người Anh cũng khẳng định Tàu đánh cá voi của Anh Cyrus đã phát hiện ra Spratleys vào năm 1843.

Tuy nhiên đây đều là các bằng chứng dựa trên sự chiếm hữu cá nhân. Chính vì vậy, vào năm 1939, Chính phủ Anh đã chính thức thông báo không duy trì yêu sách chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
Nhưng, xem cuộc khảo sát của Kergariou-Locmaria cùng bản đồ hành trình của tác giả, căn cứ vào bản đồ và lời văn dưới đây có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử hàng hải, hai quần đảo này đã được phân biệt rõ ràng.
“Tôi rời Macao ngày 29 tháng 4 năm 1788, trời xanh, biển lặng. Tôi nghĩ rằng, khi đi cắt sẽ bị ngược gió và nước; nhưng khi bị dạt không ngờ tới về phía bờ biển Cochinchine ngày 8 tháng 5 ở khoảng cách mà tôi tìm kiếm nhóm đảo có tên Đuôi Rồng Scorpion, sau khi dứt khoát đã đi qua Paracels, do gió lặng, trời xanh, biển nước một màu, trong suốt đến đáy, không thấy các đá ngầm có ghi trên hải đồ…
Được khích lệ bởi thời tiết trời biển thuận hoà, tôi đã phát hiện ra một nhóm nhiều đảo chưa từng thấy trên bất kỳ hải đồ nào cả mới cả cũ, mà tôi đã quan sát các điểm chính trên hải trình của người Anh, tuy không theo kỹ.. Tôi đã hoàn toàn dứt ra khỏi các đảo này khi tôi đi đến gần bờ biển của đảo Borneo …”.(13)
Phát hiện này đã bị lãng quên và trong các sách báo vẫn ghi nhận người Anh là những người đầu tiên phát hiện và ghi tên quần đảo Spratlys lên bản đồ thế giới.
Như vậy, mãi đến khoảng giữa thế kỷ XIX thì quần đảo Pracel nằm trong khoảng từ vĩ độ 12o Bắc đến 16o Bắc, các nhà hàng hải phương Tây mới phân biệt rõ hai quần đảo Paracels và Spratlys. Điều này cho thấy nhiều dân tộc khác đã nhận biết về sự tồn tại của Bãi Cát vàng thuộc Việt Nam .
Bản đồ 12:

Indian Archipelago and Further India including Burmah , Siam , Anam &c
Adam & Charles Black, Edinburgh, 1873

Bản đồ 12.1

Vị trí của HS-TS gần như chính xác so với ngày nay
Bên cạnh đó, dưới triều của vua Minh Mạng, vào năm 1838, Phan Huy Chú, một nhân viên của bộ Công đã khảo sát, vẽ, và xuất bản một bản đồ gọi là Đại Nam nhất thống toàn đồ. Bản đồ này đã phân chia Bãi cát vàng, thành hai quần đảo riêng biệt gọi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa, mà sau này gọi gọn lại là Trường Sa.
Bản đồ 13:

Đại Nam nhất thống toàn đồ 1838
Nhìn qua những những bản đồ khu vực biển Đông của Việt Nam từ thế kỷ XVI – XIX, bất cứ ai cũng rõ ràng nhận ra ngay là hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc về lãnh thổ Việt Nam và không thể thuộc về bất cứ một quốc gia nào khác. Điều này có nghĩa là trước cả khi Lê Quý Đôn soạn sách Phủ biên tạp lục thì Hoàng Sa-Trường Sa đã thuộc về Việt Nam từ lâu.

Chú thích:
(1) Xem Thích Đại Sán, Hải ngoại Ký sự, Sử liệu nước Đại Việt Thế Kỷ XVII, (7 quyển), Viện Đại học Huế. Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam . Huế 1963.
(2) Phạm Hoàng Quân, Khảo sát các địa danh trên Biển trong “Đại Thanh vạn niên nhất thống địa lý toàn đồ”,Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên – Huế, số 4 (75), 2009, 145-159.
Xem thêm:
- Phạm Hoàng Quân, Tây Sa và Nam Sa trong sử liệu Trung Quốc
(Nguồn: http://sachhiem.net/THOISU_CT/PhamHoangQuan.php)
- Phạm Hoàng Quân, Bàn về địa danh Thất Châu Dương trong bài viết “Quan hệ thương mại Trung – Việt những năm đầu nhà Nguyễn” của Lương Chí Minh
(Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14598&rb=0302)
- Phạm Hoàng Quân, Hải quốc văn kiến lục: Khảo sát và trích dịch
(Nguồn: http://www.talawas.org/?p=12598)
(3) Báo La Nature số 2916, xuất bản tại Paris ngày 1/1/1933, trang 385-387.
(4) Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes, 1833
(5) “ Cochinchina : Reassessment of the Origin and Use of a Westernized Place Name “ by Dinh D. Vu, Ph.D. [Vietnamese translation by Dr. Hoang Xuan Chinh] Meadows Place Texas , 2000.
(6) Nguyễn Đại Việt-Trịnh Bảo Ngọc, Hoàng Sa và Trường Sa trên Bản đồ Tây Phương
(7) Xem Les Portugois sur les côtes du Vietnam et du capa của Peirre Y, Manguin, đăng trong BEFEO năm 1972, trang 74. Nhưng theo Dictionnarire de Bibligographie generale ancienne et moderne de l’Indochine Francaise của Giáo sư A Brébion, ấn hành vào năm 1935, thì Paracels là tên một chiếc tàu của Công ty Đông Ấn Hà Lan (theo nguồn tài liệu sưu khảo của học giả Thái Văn Kiễm công bố trên tập san Sử Địa số 29, Sàigòn, 3-1975).

(8) Các thư từ nhật ký của người Tây Phương, trong đó có người Pháp, đã được tập hợp thành bộ “Lettres Edifiantes et Curieuses” của Archives des Missions Étrangères de Paris, Paris , 1838, 4 vols.

(9) Jean Baptiste Chaigneau (1769 – 1825) được vua Gia Long đặt tên là Nguyễn Văn Thắng, phong là Thắng Toàn Hầu, từng theo giúp Nguyễn Anh chống Tây Sơn, đã thay J. M. Dayot vào cuối năm 1796 trông coi tàu Phi Long, có dự trận Thị Nại 1801, hoạt động ở Quảng Nam – Huế. Ông trông coi việc tiếp tế cho quân đội ở Phú Xuân (sắc ngày 16 -3 – 1802)..
(10) Xem Nguyễn Hồng Thao, Sang xứ bò tót tìm dấu tích Hoàng Sa – Trường Sa, VNN ngày 3/4/2009.
(11) Xem Wikipedia, “Richard Spratly”.

(12) “Abandonment of territorial claims: the cases of Bauvet and Spratly islands”, BYIL, 1986, tr. 351

(13) Tài liệu lưu trữ tại Lưu trữ quốc gia Pháp, ký hiệu Mar. B 4/278, tr. 192-193
———
* Ghi chú của Ba Sàm: Cùng một tác giả
+ Những lập luận mâu thuẫn của Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa (Đại đoàn kết).
+ 295. Hai trang web: ĐCSVN và ĐSQ Hàn Quốc
+ 296. Mục Lân, An Lân, Phú Lân? (Vanchuongviet.org)
+ 299. TRUNG QUỐC VI PHẠM CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ!
+ 303. TAM GIÁC TRUNG QUỐC-ĐÀI LOAN-PHILIPPINES TRONG VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
+ 305. QUAN HỆ TRUNG-NHẬT-BÀI HỌC CHO VN.
+ 318. THÀNH NGỮ “CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ”
+ 321. “THẤT TRẢM SỚ”
+ 333. VẤN ĐỀ TÊN GỌI BIỂN ĐÔNG TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
+ 343. ĐỔI TÊN GỌI BIỂN ĐÔNG CẦN THIẾT HAY KHÔNG?

Tổng số lượt xem trang