Thứ Hai, 11 tháng 1, 2010

Điểm tin 11/1

Thiền sư Nhất Hạnh tố cáo chính quyền Việt Nam thuê côn đồ tấn công tăng ni Bát Nhã
Bản tin của hãng AP ngày 11/01 loan báo thiền sư Nhất Hạnh tố giác chính phủ Việt Nam thuê côn đồ tấn công và trục xuất bằng bạo lực các môn sinh từ hai ngôi chùa Bát Nhã và Phước Huệ. Chính quyền Việt nam một lần nữa khẳng định đã không trục xuất tăng ni Bát Nhã.


'Chính quyền không gây sức ép với tu sĩ Làng Mai' VNExpress
Chiều 11/1, trước va chạm tôn giáo xảy ra tại tu viện Bát Nhã, Phó chủ tịch tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Ngọc Đông khẳng định: "Chính quyền không có bất cứ sức ép nào với những người tu theo pháp môn Làng Mai trong việc họ bị buộc phải rời khỏi tu viện". ...

Phản ứng về lá thư của thiền sư Nhất HạnhĐài Á Châu Tự Do
'Vụ việc ở Bát Nhã là mâu thuẫn nội bộ người tu'VietNamNet


Phản ứng về lá thư của thiền sư Nhất Hạnh
Các viên chức Việt Nam họp báo hôm nay, bác bỏ lời lên án của thiền sư Nhất Hạnh rằng Nhà nước đã thuê côn đồ tấn công tu viện Bát Nhã và chùa Phước Huệ hồi tháng 9 và tháng 12 năm ngoái. Hãng thông tấn AP loan tin này, đồng thời đề cập tới lá thư của Thiền sư Nhất hạnh gửi cho các đệ tử của ông, là các tăng sinh Làng Mai, Lâm Đồng, hôm 31 tháng 12.


Cựu giám đốc Vinapco được 'miễn tội' vì bị hoang tưởng VNExpress
Sau hơn 5 năm điều tra, số người bị xử lý trong vụ tham ô đình đám tại Công ty xăng dầu Hàng không (Vinapco) đã giảm từ 18 xuống 11. Trong 7 người được miễn tội có ông Trần Minh (cựu giám đốc). Ngày 10/1, tin từ VKSND Tối cao cho biết, cơ quan này đã ...
Truy tố 8 cựu cán bộ Cty Xăng dầu hàng khôngTiền Phong Online
Truy tố 8 nguyên cán bộ VinapcoTuổi Trẻ
Truy tố 11 bị can trong vụ “ăn” xăng dầu tại Công ty VinapcoDân Trí


Thái độ phục vụ của doanh nghiệp bị chê nhiều nhất
(VietNamNet) – Thay vì chất lượng thực dụng của hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng lại phàn nàn nhiều nhất về thái độ giao tiếp, cách thức phục vụ của doanh nghiệp.


Thoát Á mới có thể 'Thoát thân'
Dưới góc nhìn của lịch sử, đối với trình độ phát triển của chúng ta hiện nay còn cách Nhật Bản hàng trăm năm thì phải "thoát Á" mới có thể "thoát thân" để hóa Rồng - TS Phạm Gia Minh bàn tiếp về "Thoát thân luận" của TS. Giáp Văn Dương.
nếu không vào được tại TuanVN thì vào đây .

Thoát Á mới có thể ‘Thoát thân’

Dưới góc nhìn của lịch sử, đối với trình độ phát triển của chúng ta hiện nay còn cách Nhật Bản hàng trăm năm thì phải “thoát Á” mới có thể “thoát thân” để hoá Rồng – TS Phạm Gia Minh bàn tiếp về “Thoát thân luận” của TS. Giáp Văn Dương.Nếu không tính đến những điều kiện tự nhiên và tâm linh thì thông thường những quyết định do con người đưa ra hoặc ít hoặc nhiều đều chịu ảnh hưởng chi phối của hai yếu tố quan trọng đó là Văn hoá và Lịch sử.
Chính vì lẽ đó trong cuốn ‘Tư bản luận’, mặc dù đã nghiên cứu khá công phu và kỹ lưỡng xã hội Phương Tây (chủ yếu là các nước Tây Âu có nhiều đặc điểm Văn hoá và Lịch sử tương đồng) nhưng do chưa có nhiều dữ kiện về các nước Phương Đông nên K.Mark vẫn còn phải để ngỏ một hướng tìm tòi quan trọng liên quan đến “phương thức sản xuất kiểu châu Á” (một số nhà nghiên cứu còn đặt tên là “phương thức sản xuất nhà nước”) (1)
Phương thức sản xuất này ra đời cùng với sự hình thành của nhà nước tập quyền nắm trong tay đặc quyền chiếm hữu và phân phối của cải xã hội. Đó là một dạng quyền lực tối thượng, rất khác với khái niệm tư hữu tài sản chưa trở thành phổ biến vào cái buổi sơ khai của thể chế nhà nước. Thứ quyền lực đó đã tập trung một sức mạnh to lớn vào tay những cá nhân do các hoàn cảnh lịch sử khác nhau lại may mắn được đặt vào vị trí “ngồi trên” để nắm giữ quyền ban phát.
Trong phương thức sản xuất kiểu châu Á này, quyền lực đã biến những ai gắn liền với nó, từ cấp thấp cho đến cấp cao, thành những chủ nhân ông đích thực đối với toàn bộ khối của cải xã hội (2)
Thoát Á mới có thể 'Thoát thân'
Trung Quốc nỗ lực vượt lên. Ảnh Reuters
Cùng vào giai đoạn lịch sử đó trong lòng xã hội Hy – La cổ đại ở Tây âu dưới tác động hoà quyện (rất hiếm khi xảy ra đồng thời) của những yếu tố văn hoá, kinh tế và xã hội đã giúp hình thành nên mô thức phát triển kinh tế- xã hội và một nền hành chính rất khác với Phương Đông. Trong mô thức này đã xuất hiện quyền tư hữu được luật pháp bảo vệ và thị trường tự do trao đổi hàng hoá không bị nhà nước chi phối. Cùng với đó là chủ sở hữu tài sản – những cá nhân có đủ các quyền công dân mà Phương Đông chưa hề được biết đến, dù chỉ là khái niệm.
Như vậy lần đầu tiên trong lịch sử loài người ở Hy lạp và La mã cổ đại đã hình thành nên nhà nước bảo vệ quyền tư hữu tài sản và các quyền công dân (3).
Tuy có nhiều biến tướng để thích ứng trong quá trình tiến hoá nhưng cho đến nay về nguyên tắc trên thế giới vẫn tồn tại hai mô thức phát triển và đi cùng với nó là hai dạng thể chế nhà nước: Tập trung – quan liêu – bao cấp và thị trường tự do. Dạng nhà nước thứ nhất đã thống trị hàng ngàn năm bên ngoài châu Âu, còn dạng nhà nước thứ hai chỉ tồn tại chủ yếu ở Tây Âu.
Sự khác biệt giữa hai mô thức phát triển nói trên trong lịch sử cùng thể chế quản lý xã hội của chúng thường được mọi người nhắc đến trong khái niệm Phương Đông – Phương Tây, hàm ý một sự khác biệt tương phản.
Nếu so sánh với châu Âu năng động nơi mà thể chế thị trường tự do và quyền tư hữu đã khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, văn minh v.v… giúp hình thành nên khái niệm về bốn hình thái kinh tế- xã hội cơ bản của loài người là nô lệ, phong kiến, tư bản và XHCN thì Phương Đông luôn luôn là biểu tượng của truyền thống ngàn năm, ổn định tới mức trì trệ, bền vững và chậm thay đổi.
“Phương thức sản xuất nhà nước” bắt rễ sâu trong lòng xã hội châu Á từ hàng ngàn năm cho đến ngày nay vẫn mặc nhiên tồn tại vì một lý do đơn giản: tính cố hữu của những kìm hãm trong xã hội vẫn còn sức sống đã làm suy giảm động lực nội tại cho sự “vượt rào” ra khỏi những cấu trúc đã quá quen thuộc.
Những biến động xã hội, tôn giáo, chính trị – quân sự v.v… có thể phút chốc làm thay đổi bộ mặt của một đất nước, một khu vực, có khi xoá sổ cả một quốc gia nhưng kết cục lại là sự tái hình thành những cơ cấu và thể chế quản lý xã hội theo mô thức tập trung – quan liêu – bao cấp.
Trong lịch sử tồn tại của mình, Phương Đông không hề biết đến mô thức phát triển nào khác ngoài mô thức đã nêu trên và cũng không thể dễ dàng chấp nhận con đường của Phương Tây ngoại trừ có sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ bên ngoài ( 2).
Phải đợi cho tới khi CNTB Phương Tây với kinh tế thị trường và xã hội dân sự phát triển đến giai đoạn cần vươn ra chinh phục thị trường thế giới thì sự xâm nhập của nó vào trong lòng xã hội Phương Đông mới thực sự là khởi đầu cho một cuộc chuyển biến lớn lao trong cơ cấu xã hội và nhà nước nơi đây. Quá trình này đối với Phương Đông có ý nghĩa như một cuộc cách mạng xã hội vĩ đại, nó đã diễn ra hàng trăm năm và gần như ngày nay vẫn còn đang tiếp diễn.
Nhật Bản là một minh chứng cho con đường hiện đại hoá đất nước theo mô thức phát triển của Phương Tây. Với chủ trương “Thoát Á” để phục hưng, cải cách toàn diện năm 1868 thời Minh trị Thiên Hoàng đã tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự giải phóng những tiềm năng khổng lồ của đất nước mặt trời mọc.
Quyền tư hữu của người dân lần đầu tiên được luật pháp bảo vệ và năm 1873 ngân hàng quốc gia được thành lập theo mô hình của Mỹ. Cho đến tận sau khi bại trận trong chiến tranh Thế giới lần II năm 1945, để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu do Mỹ chủ xướng các ngành công nghiệp của Nhật vẫn bị Mỹ gây sức ép phải thực thi toàn diện mô hình “quản lý chất lượng tổng thể” do nhà tổ chức sản xuất nổi tiếng người Mỹ Deming phát minh ra. (5) Chính điều này đã tạo tiền đề cho Nhật Bản vươn lên dẫn đầu thế giới về chất lượng sản phẩm và thương hiệu quốc gia.
Thoát Á mới có thể 'Thoát thân'Ấn Độ cũng đang trỗi dậy
Đối với Hàn Quốc, ảnh hưởng mạnh mẽ từ bên ngoài của mô thức phát triển Phương Tây cũng không là ngoại lệ. Từ năm 1876 “phái đoàn hữu hảo Hàn Quốc” đã được gửi sang Nhật để “học hỏi kinh nghiệm Tây Phương”. Sau đó đã hình thành một phong trào xã hội mạnh mẽ và rộng khắp trong giới trí thức và quan lại có mục đích trau dồi kỹ thuật sản xuất, cách tổ chức xã hội của Phương Tây.
Một loạt thoả thuận đã được ký kết với Hoa Kỳ (năm1882) Canada (1884) và nhiều quốc gia Phương Tây khác như Anh, Đức (1893), Pháp (1886), Nga (1864, 1888)…
Chịu tác động của tầng lớp trí thức và quan lại cấp tiến, Hàn Quốc đã giác ngộ sâu sắc việc phải nhanh chóng từ bỏ cấu trúc kinh tế - xã hội truyền thống đã phá sản của phương thức phát triển kiểu châu Á để hội nhập với các nước tư bản Phương Tây, tương tự như Nhật Bản đã thực hiện thành công.(3)
Các nền kinh tế mới nổi ở châu Á khác như Đài Loan, Singapore, Malaysia, Thái Lan đều có những cải cách tương tự trong nửa sau thế kỷ 20.
Đối với Việt Nam, những năm tháng phát triển theo mô thức tập trung – quan liêu – bao cấp , không coi trọng kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân về thực chất là chúng ta đã đi theo quán tính và truyền thống ngàn đời của phương thức sản xuất kiểu châu Á.
Ở đây lý do có nguồn gốc văn hoá đóng vai trò quan trọng vì chúng ta thoát thai từ một xã hội Á Đông phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, dân trí và quan trí đều thấp, nơi mà quyền tư hữu, thể chế thị trường cũng như quyền công dân cơ bản không được dư luận xã hội và pháp luật khuyến khích.
Bên cạnh đó là lý do mang tính lịch sử – những nước đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ quốc tế và trợ giúp cho chúng ta lúc đó cũng chính là những quốc gia phát triển theo mô thức phi thị trường và nặng tính tập trung – quan liêu – bao cấp, chưa có xã hội dân sự phát triển và nhà nước pháp quyền. Chúng ta đã không có những cơ hội lịch sử như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan hay Singapore …
Công cuộc hội nhập và tham gia phân công lao động quốc tế mà Việt Nam đang nỗ lực theo đuổi kể từ khi có chính sách Đổi Mới năm 1986, đặc biệt là sau khi trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới năm 2006 vì thế, xét trong bối cảnh lịch sử hiện nay có ý nghĩa rất lớn lao. Đó chính là tiền đề để Việt Nam có thể hoàn thành quá trình từ bỏ cấu trúc kinh tế – xã hội đã phá sản của phương thức sản xuất kiểu châu Á và giành lấy một vị trí xứng đáng trong hàng ngũ các dân tộc văn minh, hiện đại.
Nhìn nhận một cách khách quan, chúng ta cũng đang phải tự thay đổi một cách triệt để và sâu sắc như một quá trình “thoát thân” để tồn tại và đi lên dưới áp lực của hội nhập và toàn cầu hoá rất mạnh từ bên ngoài, mạnh hơn rất nhiều thời Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore tiến hành cải cách hiện đại hoá vì ngày nay, trong thế kỷ 21, thế giới đã trở nên “phẳng” và cạnh tranh khốc liệt hơn xưa (4)
Nhưng dưới góc nhìn của lịch sử, đối với trình độ phát triển của chúng ta hiện nay còn cách Nhật Bản hàng trăm năm thì phải “thoát Á” mới có thể “thoát thân” để hoá Rồng.
Thăng Long – Hà Nội 8/1/2009
—-
(1). Kovalev.I.N Lịch sử kinh tế và các học thuyết kinh tế. NXB Feniks.Rostov on Don. 2008.( tiếng Nga).
(2). Vasiliev. L.C. Cuộc cách mạng thứ hai . Tạp chí ” Thời mới”. No 45 Moscow.1990.( tiếng Nga).
(3). Phạm Gia Minh, Okrut.Z.M Mô hình phát triển kinh tế Hàn quốc- con đường hướng tới sự phồn vinh.NXB ” Tài chính- Thống kê” Moscow 1993. ( tiếng Nga).
(4). Friedman.Thomas.L. Thế giới phẳng.Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ 21. NXB Trẻ 2005.
(5). Kaoru Ishikawa. What is Total Quality Control?. The Japanese Way.Prentice Hall 1985.



Những gì đáng chú ý nhất năm 2009? (Nguyễn Gia Kiểng)-- e-ThongLuan
“… Phong trào dân chủ đang trải qua mùa đông, nhưng mùa đông cũng chính là mùa mà những cây mạnh tích lũy nhựa sống để chuẩn bị đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái …”
Ký giả Phượng Hoàng của đài SBS hỏi tôi về "ba sự kiện nổi bật và quan trọng nhất trong năm 2009". Câu hỏi hóc búa. Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới, trên trái đất này cứ 1000 người thì có 15 người Việt Nam. Chúng ta lại đang ở giữa một cuộc chuyển hoá lịch sử, trong bối cảnh của một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Dĩ nhiên là phải có rất nhiều biến cố nổi bật và quan trọng trong năm qua. Chọn lựa ba sự kiện "nổi bật và quan trọng" nhất là điều rất khó, càng khó vì có những biến cố nổi bật mà chưa chắc đã thực sự quan trọng, ngược lại cũng có những sự kiện quan trọng nhưng không thu hút được sự chú ý. Tôi chọn ba sự kiện sau đây chỉ vì câu hỏi của bà Phượng Hoàng buộc tôi phải chọn.

*

Sự kiện thứ nhất là trong năm qua chính quyền cộng sản đã gia tăng đàn áp một cách rõ rệt, về cả bề mặt lẫn chiều sâu, về số lượng người bị đàn áp cũng như mức độ thô bạo. Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Mạnh Sơn, Ngô Quỳnh, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Kim Nhàn, Trần Đức Thạch, Vũ Hùng, Phạm Văn Trội bị xử những án tù rất nặng trong hai phiên toà tại Hà Nội và Hải Phòng sau một năm giam giữ chỉ vì đã treo, hoặc tiếp tay treo, một số biểu ngữ chống tham nhũng, kêu gọi dân chủ, kêu gọi giữ vẹn toàn lãnh thổ. Chính quyền cộng sản gán cho họ tội tuyên truyền chống nhà nước. Cô Phạm Thanh Nghiên, đã bị giam từ hơn một năm nay, chờ ra toà lãnh án tù chỉ vì đã ngồi trong nhà để phản đối Trung Quốc lấn chiếm. Cựu trung tá Trần Anh Kim vừa bị xử 5 năm rưỡi tù giam và ba năm quản chế; Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung và Lê Thăng Long, bị bắt giam từ nửa năm nay, sắp ra toà vì bị buộc tội "hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân" để lãnh những án tù có thể trên 15 năm. Chính quyền cộng sản leo thang trong sự buộc tội tuỳ tiện và cũng leo thang trong sự hung bạo, viện vào những việc làm ôn hoà phù hợp với luật pháp và quyền công dân để cáo buộc những tội danh nghiêm trọng như "lật đổ chính quyền". Đó là chưa kể vô số những vụ xét nhà, tịch thu máy vi tính, đấu tố tại phường khóm, triệu tập ra đồn công an thẩm vấn, có khi đánh đập ngay tại đồn công an. Và cũng không nên quên những vụ công an dùng bọn đầu gấu và những phần tử quá khích để hành hung các tín đồ Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài tại Tam Toà, Bảo Lộc, Định Quán.

Phải hiểu tầm quan trọng của đại hội 11 sắp tới của Đảng Cộng sản Việt Nam nếu muốn hiểu đợt đàn áp này. Nó được dự trù vào tháng 1-2011 nhưng, như mọi đại hội đảng, nó phải được chuẩn bị từ hai năm trước đó, nghĩa là từ đầu năm 2009. Hai công tác chuẩn bị chính là quyết định đường lối và nhân sự lãnh đạo cho khoá mới. Cho đến nay, có lẽ chỉ trừ đại hội 3 năm 1960 và đại hội 6 năm 1986, chưa bao giờ đảng cộng sản phải đứng trước những chọn lựa khó khăn về cả đường lối lẫn nhân sự lãnh đạo. Đại hội 3 năm 1960 phải lấy quyết định quan trọng là phát động cuộc chiến tranh với miền Nam, nhưng quyết định này hầu đã có đồng thuận trong đảng vào lúc đó nên đã dễ đạt tới. Quyết định gây chiến sau đó đã có tác dụng tự nhiên là tăng cường liên minh Lê Duẩn - Lê Đức Thọ vì hai ông này vừa chủ chiến vừa hiểu biết tình hình miền Nam, nhưng liên minh Duẩn - Thọ vốn đã có sức mạnh áp đảo từ trước. Cho nên xét cho cùng đại hội 3 tuy khó khăn nhưng không đe dọa sự đoàn kết trong đảng. Một tình trạng tương tự cũng đã xảy ra với đại hội 6 năm 1986 khi đảng cộng sản phải chấp nhận "đổi mới để tồn tại". Đại hội 11 khó khăn hơn nhiều cho đảng cộng sản vì cùng một lúc nó phải lấy những quyết định rất lớn về cả đường lối lẫn lãnh đạo. Nó diễn ra vào chính sách "đổi mới" hoàn toàn không còn gì là mới và hơn thế nữa đã tích lũy những mâu thuẫn nghiêm trọng phải giải quyết ngay; thêm vào đó là thế giới đang khủng hoảng và rõ ràng là mô thức Trung Quốc mà Việt Nam sao chép không thể tiếp tục được nữa. Nó cũng đến vào một lúc mà xã hôi Việt Nam đã chín muồi cho một thay đổi chế độ. Trong hơn ba thập niên qua, nhất là từ sau đại hội 6, đã diễn ra một cuộc giằng co giữa một bên là xã hội dân sự Việt Nam vùng vẫy để tự cởi trói và một bên là đảng cộng sản cố duy trì chế độ kìm kẹp; tương quan lực lượng đã không ngừng biến đổi thuận lợi cho xã hội dân sự và ngày nay điểm đoạn tuyệt đã đến rất gần. Phải lấy quyết định, không lấy quyết định cũng là một quyết định và còn là quyết định phiêu lưu nhất. Đại hội 11 cũng sẽ là đại hội của một sự chuyển giao thế hệ toàn bộ. Tất cả những người có thành tích và vai trò trong cuộc chiến đưa đảng cộng sản đến thắng lợi đều sẽ ra đi hết. Họ sẽ không còn ở đó để cầm quyền hoặc đỡ đầu cho những người cầm quyền. Những người lãnh đạo xuất phát từ đại hội 11 sẽ phải tìm sự chính đáng trong những thành tích của họ từ sau 1975, nhưng sự chính đáng này không ai có. Không một cấp lãnh đạo cộng sản nào có thể tự hào về một thành tích nào, hơn nữa còn đóng góp tạo ra tham nhũng và làm băng hoại đạo đức xã hội. Vấn đề nhân sự lãnh đạo sẽ không có giải đáp. Sẽ không có những khuôn mặt đủ uy tín để áp đặt những thay đổi cần thiết, thậm chí để giữ cho đảng khỏi rạn nứt. Trong tình trạng bế tắc đó, nhất là nội bộ đảng đã rất phân hoá, những tranh cãi và tranh giành có thể làm đảng tan vỡ. Trừ khi có những kẻ thù chung và những mối lo chung. Những vụ đàn áp này không nhắm triệt tiêu những mối nguy có thực, chúng chỉ nhắm tạo ra ấn tượng là có những kẻ thù nguy hiểm và những âm mưu lật đổ chế độ để đoàn kết đảng trong giai đoạn chuẩn bị đại hội.

Đảng cộng sản cần đàn áp và họ cũng nghĩ có thể đàn áp mà không gặp những phản ứng mạnh từ Hoa Kỳ. Họ phần nào có lý bởi vì chính quyền Obama là một chính quyền thực dụng, không coi những giá trị dân chủ và nhân quyền là ưu tư hàng đầu của chính sách đối ngoại. Nhưng có lẽ họ đã hơi bị bất ngờ vì phản ứng của Liên Hiệp Châu Âu.
*

Sự kiện quan trong thứ hai là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc chuyển sang thế đối đầu.

Ngày 31-12-2008 hai bên hoàn tất việc cắm mốc biên giới một cách tưng bừng nhưng sau đó quan hệ ngày càng trở nên phức tạp. Trung Quốc cho đăng một số bài báo đe dọa đánh Việt Nam hoặc cảnh giác về nguy cơ Việt Nam sẽ tấn công họ, Việt Nam làm ngơ để cho một số trí thức lên án Trung Quốc, cụ thể là phản đối dự án cho Trung Quốc khai thác bôxit tại Tây Nguyên. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông và biểu quyết đạo luật bảo vệ vùng biển và các hải đảo, Việt Nam phản đối bởi vì các vùng biển và hải đảo đó bao gồm cả những gì thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc tổ chức du lịch trên Hoàng Sa và Việt Nam phản đối. Trung Quốc và Việt Nam đều đặt chính quyền địa phương tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc gia tăng uy hiếp ngư dân Việt Nam trên Biển Đông và Việt Nam ngày càng phản đối một cách mạnh mẽ hơn. Việt Nam mua máy bay chiến đấu hiện đại và tầu ngầm của Nga và Trung Quốc coi đây như là một sự chuẩn bị để đối đầu với họ. Việt Nam gia tăng quan hệ hợp tác về quân sự với các cường quốc, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam thăm viếng Hoa Kỳ, và Trung Quốc nói bóng gió rằng Việt Nam đang tìm hậu thuẫn để chống lại họ. Điều cần lưu ý là những lời qua tiếng lại ngày càng nhiều và càng ít rào đón và nể nang. Cho tới nay tuy chưa có những lời tuyên bố thực sự thù địch nhưng người ta có thể thấy cả hai bên đều không muốn hoà giải và đang tiến dần đến thế đối đầu.

Người ta sẽ không thể hiểu quan hệ Việt Trung nếu không nắm vững hai sự kiện.

Một là trong Đảng Cộng sản Việt Nam không hề có khuynh hướng thân Trung Quốc, các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam đều không ưa Trung Quốc, họ chỉ khác nhau ở chỗ sợ Trung Quốc nhiều hay ít thôi. Bắc Kinh thừa biết điều đó và cũng không ưa gì ĐCSVN mà họ từng thoá mạ là giả dối, vong ân bội nghĩa. Tâm lý dựa vào Trung Quốc để tồn tại trước đây có thực cũng ngày một yếu đi vì một mặt Trung Quốc không giúp đỡ gì cho Việt Nam mà chỉ chèn ép và, mặt khác, Trung Quốc không có chọn lựa nào khác hơn là mong muốn chế độ cộng sản Việt Nam kéo dài để đừng phải tiếp giáp với một nước dân chủ lớn, nhất là hai tỉnh tiếp giáp với Việt Nam, Vân Nam và Quảng Tây, lại là những tỉnh tự trị trong đó khuynh hướng ly khai rất mạnh. Chưa kể là nước Việt Nam cộng sản hiện nay đang là một khách hàng quan trọng của Trung Quốc, hàng năm đem lại cho Trung Quốc một số thặng dư thương mại rất lớn; năm 2009 con số này là 11,300 tỉ USD trong tổng só thâm thủng ngoại thương 12,246 tỉ USD của Việt Nam, nghĩa là thâm thủng đối Trung Quốc gần bằng tổng số, chính xác là 92%, thâm thủng ngoại thương của Việt Nam. Cũng chưa kể khối hàng lậu khổng lồ từ Trung Quốc đổ vào Việt Nam hàng ngày. Quan hệ với Trung Quốc làm Việt Nam chảy máu nặng. Càng ngày càng có nhiều người, ngay cả trong số cán bộ trung và cao cấp cộng sản Việt Nam, nhận ra rằng quan hệ đối với Trung Quốc hoặc phải được lành mạnh hoá hoặc phải chấm dứt. Chính quyền cộng sản Việt Nam ngày càng nhận ra rằng Trung Quốc cũng cần họ không kém gì họ cần Trung Quốc. Có thể có những cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam bị Trung Quốc mua chuộc nhưng họ chỉ là một thiểu số.

Hai là lý do chính khiến chính quyền cộng sản Việt Nam sợ Trung Quốc là biên giới trên đất liền. Đa số các sắc dân sống trong vùng này, bên này cũng như bên kia biên giới, đều ít gắn bó với cả Trung Quốc lẫn Việt Nam. Họ có thể ngả theo bên nào ve vãn họ nhiều hơn, và Trung Quốc có nhiều phương tiện để mua chuộc hơn. Việt Nam đã mất nhiều phần đất như thế và luôn luôn lo ngại sẽ mất thêm. Nhưng nay mốc biên giới Việt - Trung đã cắm, lo ngại biên giới phía Bắc nếu chưa hẳn là đã tan biến thì cũng giảm đi rất nhiều, Việt Nam không còn lý do để phải sợ và nhẫn nhục nữa. Dĩ nhiên Trung Quốc có thể lộng hành trên Biển Đông, truy bức ngư dân Việt Nam, ngăn cản Việt Nam khai thác dầu khí ngoài khơi, như họ đang làm, nhưng họ không thể chiếm đóng được biển và cũng không thể lộng hành một cách lâu dài mà không bị thế giới và các nước trong vùng lên án. Như vậy sự thay đổi thái độ đối với Trung Quốc của chính quyền cộng sản Việt Nam là có lý do nền tảng, do đó mâu thuẫn giữa hai chính quyền chỉ có thể gia tăng. Thế đối đầu khó tránh khỏi và Việt Nam, yếu hơn Trung Quốc về mọi phương diện, sẽ rất cần hậu thuẫn của thế giới.

*

Sự kiện thứ ba là sự lúng túng rõ rệt của chính quyền cộng sản trong một tình trạng kinh tế nguy ngập.

Trong thông điệp đầu năm của ông, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khoe rằng kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng 5,2% trong năm qua. Không nên tin, bởi vì tỉ lệ tăng trưởng tuỳ thuộc tổng sản lượng nội địa (GDP) và tỉ lệ lạm phát trong khi cả hai con số này đều được chính quyền cộng sản tính một cách rất không chính xác. Thực tế là hoạt động của các công ty đã giảm sút và đời sống của quần chúng đã khó khăn hơn. Chính quyền, và cá nhân ông Dũng nói riêng, đã tỏ rất thiếu bài bản trong việc đương đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế. Gói kích cầu -số tiền bỏ ra để kích thích hoạt động kinh tế- được công bố là 8 tỉ USD. Số tiền này tuy chưa bằng 1% những gói kích cầu của Mỹ và Trung Quốc nhưng rất lớn đối với Việt Nam vì tương đương với gần 10% GDP, nhất là chúng bị thâm thủng cán cân thương mại kinh niên và không có khả năng kích cầu độc lập. Tuy vậy số tiền này được bố trí một cách mâu thuẫn. Thí dụ như bớt thuế gần 2 tỉ USD để gia tăng khối tiền tệ và kích thích tiêu thụ nhưng đồng thời lại bán hơn một tỉ USD công trái, nghĩa là vay của công chúng (vì chắc chắn là sẽ không có người hay công ty nước ngoài mua công trái này), với tác dụng là giảm bớt khối lượng tiền tệ và sức mua. Một thí dụ khác là hơn một tỉ USD được dùng để hỗ trợ lãi xuất tín dụng cho các ngân hàng, nhưng rồi nhà nước lại tăng lãi xuất cơ bản từ 7% lên 8%. Một điểm cũng rất đáng lưu ý trong gói kích cầu này là khoản "chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng 30.200 tỉ đồng". Tại sao những đầu tư này, tổng cộng 2 tỉ USD vào thời điểm chúng được quyết định, lại chưa được tháo khoán? Vì các dự án đầu tư kế hoạch này không khả thi hay vì chúng không có lợi? Điểm này cho chúng ta một ý niệm về mức độ nghiêm túc của các dự án đầu tư kế hoạch. Chính phủ của ông Dũng còn làm những sai lầm lớn khác. Cuối năm 2007 họ tung ra 150 nghìn tỉ đồng để mua 9 tỉ USD làm cả nước điêu đứng vì vật giá tăng vọt, lý do là để "hỗ trợ đồng đô la" vì sợ hối suất đồng đô la Mỹ sẽ giảm sút nghiêm trọng so với đồng tiền Việt Nam; dự đoán này sai một cách lố bịch vì điều ngược lại đã xảy ra. Đồng đô la lúc đó bằng 15.000 đồng Việt Nam, ngày nay nó đổi lấy 18.500 đồng. Cuối năm 2008 chính phủ của ông Dũng trổ tài một lần nữa. Thấy thực phẩm lên giá đột ngột họ ra lệnh cấm xuất cảng gạo, họ nghĩ rằng giá gạo sẽ còn tăng thêm và sợ bán hố. Sau đó thì giá gạo xuống nhanh và nông dân khốn khổ. Thực ra giá thực phẩm chỉ biến động trong một thởi gian ngắn, ngay lúc ông Dũng lấy quyết định cấm xuất khẩu gạo Ngân Hàng Thế Giới (WB) cũng chỉ ước lượng mức thiếu hụt lương thực trên thế giới vào khoảng 500 triệu USD. Trong một nước dân chủ những sai lầm như vậy chắc chắn đã buộc chính phủ phải từ chức.

Nghiêm trọng hơn nữa là dự án khai thác bôxit Tây Nguyên. Rất nhiều tác giả đã nói một cách chính xác về mặt kỹ thuật để chứng minh dự án này là một sai lầm lớn và nếu được thực hiện sẽ là một thảm kịch cho môi trường, họ cũng nói rằng khai thác bôxit chủ yếu là một cách để xuất khẩu điện mà Việt Nam không có. Với kinh nghiệm những năm làm kỹ sư nghiên cứu trong ngành sản xuất nhôm tôi chỉ có thể đồng ý với họ. Nhưng còn một lý do khác, thuần tuý kinh tế, chứng tỏ dự án khai thác bôxit Tây Nguyên là một sai lầm. Giá nguyên liệu thay đổi theo những chu kỳ, với khuynh hướng dài hạn là xuống. Các nhà kinh tế nói tiếng Anh có một câu tục ngữ dí dỏm là "những gì ở đất ra thì chỉ có thể xuống giá" (what comes from the ground can only go down). Nguyên liệu lên giá trong khoảng từ 5 tới 7 năm và sau đó xuống giá trong khoảng 20 năm liền. Thế giới đang bắt đầu giai đoạn xuống giá của nguyên liệu; như vậy ngay cả nếu có tất cả mọi lý do kỹ thuật để khai thác bôxit Tây Nguyên thì cũng không nên khai thác vào lúc này. Chấm. Dù vậy ông Dũng vẫn nói rằng dự án khai thác bôxit Tây Nguyên phải tiếp tục vì "đó là một trong những chủ trương lớn của đảng".

Sự khoe khoang của ông Dũng càng lố lăng vào lúc chính phủ của ông công bố một con số đáng sợ: trong năm 2009 đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã giảm 70% so với năm 2008. Đây là một sự tháo chạy. Càng đáng sợ vì một đặc tính của kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế đặt trọng tâm vào xuất khẩu nhưng lại nhập siêu kinh niên, do đó lệ thuộc rất nặng nề vào đầu tư nước ngoài, và số lượng ngoại tệ do người Việt hải ngoại gửi về.

*

Như đã nói trong phần đầu bài này, còn nhiều sự kiện khác có thể cũng quan trọng không kém trong năm qua. Nhưng hãy thử rút ra một vài kết luận đầu tiên từ ba sự kiện tạm được chọn này.

Kinh tế đang đứng trước nguy cơ lớn, bằng mọi giá phải phục hồi, và nếu có thể gia tăng, nguồn đầu tư nước ngoài, đồng thời chinh phục thêm thị trường tại các nước đã phát triển, trước hết là Mỹ và Châu Âu. Trong bối cảnh kinh tế thế giới mới, mà một trong những nét đậm nhất là khuynh hướng triệt thoái về nội địa - giảm nhập khẩu và đầu tư ra nước ngoài- đây là những mục tiêu rất khó đạt, ngay cả nếu chúng ta là một nước dân chủ được cảm tình của thế giới. Chắc chắn không phải là những vụ án chính trị thô bạo và những lời tuyên bố kiên trì với chủ nghĩa Mác-Lênin có thể tranh thủ được lòng tin của các nhà đầu tư. Liên Hiệp Châu Âu (thị trường xuất khẩu thứ hai của Việt Nam) đã từng lên án chủ nghĩa Mác-Lênin như là một tội ác đối với loài người và vừa ra quyết nghị lên án những vi phạm nhân quyền của chính quyền cộng sản Việt Nam và khuyến cáo các nước thành viên đặt vấn đề nhân quyền như là một điều kiên cho mọi hợp tác. Chính quyền Obama dù "thực tiễn" đến đâu cũng không thể làm khác, vả lại tổng thống Obama đã bắt đầu bị đả kích là bỏ rơi các giá trị dân chủ. Cũng đừng nên quên vai trò áp đảo của xã hội dân sự Hoa Kỳ, trong đó các tộ chức bảo vệ nhân quyền rất mạnh.

Trong thế đối đầu không tránh khỏi với Trung Quốc Việt Nam bắt buộc phải có sự hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp về quân sự của Hoa Kỳ và các nước phương Tây, và điều kiện để các nước này ủng hộ là phải thực hiện các quyền tự do chính trị. Chiến tranh lạnh đã chấm dứt, Hoa Kỳ và phương Tây không còn lý do nào để bảo vệ một chế độ độc tài.

Thêm vào đó là nhận thức ngày càng rõ rệt, trong nhân dân và ngay trong lớp cán bộ, đảng viên cộng sản trẻ, rằng Việt Nam đã quá tụt hậu so với thế giới và cách duy nhất để khắc phục mối nguy thua kém này là hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các nước phương Tây và chấp nhận kiểu mẫu xã hội của họ.

Áp lực dân chủ hoá sẽ rất lớn trong xã hội cũng như trong đảng. Nó có thể biểu lộ đưới nhiều dạng: đòi bó chủ nghĩa Mác-Lenin và đổi tên đảng, đòi dân chủ trong nội bộ đảng, hay đòi chấp nhận đa nguyên đa đảng v.v. nhưng sẽ rất mạnh và đều giống nhau ở một điểm là mở ra một giai đoạn đầy ẩn số. Trong khi đó ban lãnh đạo xuất phát từ đại hội 11 sẽ chỉ có thể là một ban lãnh đạo yếu, gồm những người không có thành tích, không có uy tín và cũng không có chung một tầm nhìn. Duy trì một chế độ toàn trị với những người lãnh đạo mờ nhạt là điều tự nó đã không thể được, càng không được trong hoàn cảnh sắp tới, sự ngoan cố chỉ làm tan vỡ đảng trước khi làm sụp đổ chế độ trong hỗn loạn. Dù đảng cộng sản muốn hay không muốn thì cũng sẽ bắt buộc phải có thay đổi chính trị lớn sau đại hội 11 theo chiều hướng rất thuân lợi cho cuộc vận động dân chủ. Không thể khác.

Tuy nhiên, một trong những sự kiện nổi bật trong năm qua cũng là đối lập dân chủ đã rất lu mờ. Những phiên toà và những bản án thô bạo đã không gặp phản ứng mạnh mẽ đáng lẽ phải có, hình ảnh những người đối lập từng gây tiếng vang lên truyền hình nhận tội và xin khoan hồng tuy tố giác sự thô bỉ của chế độ nhưng cũng gây thất vọng, kể cả cho những tổ chức nhân quyền quốc tế thường yểm trợ phong trào dân chủ Việt Nam. Phần lớn các tổ chức dân chủ yếu đi, nhiều tổ chức hầu như không còn hoạt động. Các kết hợp "á dân chủ" -của những người chủ trương dân chủ hoá bằng con đường hợp tác, điển hình là IDS- có lúc gây ảo tưởng hầu như đã tan biến hết. Giữa những người được coi hoặc tự coi là dân chủ sự đoàn kết và đứng đắn cũng sút giảm một cách đáng buồn. Nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thuỷ và chồng bị công an dẫn bọn côn đồ tới tận nhà hành hung. Thanh Thuỷ, đang mắc bệnh lao và tiểu đường ở mức độ nguy hiểm, bị đánh chảy máu đầu; sau đó không phải bọn côn đồ mà chính Thanh Thuỷ bị bắt về tội đả thương và hiện vẫn còn bị giam. Vậy mà vẫn có những người "dân chủ" gửi thư lên mạng Internet nói rằng Thanh Thuỷ bị bắt là phải! "Lu mờ" có lẽ còn là từ hơi yếu để chỉ tình trạng hiện nay của phong trào dân chủ Việt Nam, một tình trạng đang gây thất vọng và làm nhiều người bỏ cuộc.

*

Vậy thì lời cuối cùng của bài này xin được dành cho cuộc vận động dân chủ. Nếu suy nghĩ một cách bình tĩnh thì tình trạng này thực ra đáng mừng. Nó là tình trạng bắt buộc phải có để cuộc vận động dân chủ có thể thành công. Một lực lượng đấu tranh để thay đổi lịch sử chỉ có thể thành hình và xây dựng trong gian khổ. Nếu cuộc đấu tranh cho dân chủ là một cuộc vui thì sẽ có những người nhập cuộc để mua vui. Thực tế cho thấy là vào những lúc mà cuộc vận động dân chủ có vẻ dễ dàng rất nhiều người không hề có bản lãnh và chuẩn bị nhảy ra lập tổ chức, tung ra tuyên ngôn, cương lĩnh, thi đua gây tiếng vang và đánh lạc sự chú ý khỏi những cố gắng nghiêm chỉnh. Không thể làm được gì trong một tình trạng nhốn nháo như thế. Tình trạng này hiện nay đã chấm dứt và có nhiều hy vọng sẽ không tái diễn. Lịch sử của các quốc gia cũng đã chứng tỏ rằng các cuộc đấu tranh chính trị lớn chỉ thành công sau khi đã tâp trung được lực lượng, nghĩa là sau khi những khó khăn và thử thách đã làm công việc sàng lọc của chúng. Chúng ta đang ở giai đoạn sàng lọc bắt buộc này.

Phong trào dân chủ đang trải qua mùa đông, nhưng mùa đông cũng chính là mùa mà những cây mạnh tích lũy nhựa sống để chuẩn bị đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái.


Khâu then chốt
Hôm 4-1, Ban chỉ đạo Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh quyết định chủ đề năm 2010 là xây dựng Đảng. Theo Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, việc chọn chủ đề tư tưởng của Bác về công tác xây dựng Đảng “là trúng, rất cần thiết, thiết thực chuẩn bị đại hội đảng các cấp”.
Thực tế không phải bây giờ Đảng mới đặt ra vấn đề này. Hơn bốn năm trước tại Hà Nội đã có một cuộc họp quy tụ hơn 20 học giả gồm các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng bàn về xây dựng văn hoá Đảng. Tại đó Trưởng ban Tư tưởng – Văn hoá trung ương Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh “nhiệm vụ cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng là phải xây dựng văn hóa trong Đảng. Hiện nay một bộ phận cán bộ đảng viên sa sút về lý tưởng, suy thoái về đạo đức lối sống. Không ít cán bộ đảng viên có chức quyền ăn chơi sa đọa, đục khoét của công... mà từ khi có Nghị quyết TƯ 5 đến nay hiện tượng này chưa được đẩy lùi”.
Tại hội nghị nói trên, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Nguyễn Đức Bình cho rằng nội dung Nghị quyết TƯ 6 lần 2 (về xây dựng, chỉnh đốn Đảng) đặt ra là “rất đúng, rất trúng. Yêu cầu hoàn thành trong hai năm, bốn năm trôi qua chưa làm được. Nay phải làm kỳ được nếu không dân nghĩ chúng ta đánh trống bỏ dùi, nói mà không làm”. Còn theo nhận xét của Giáo sư Trần Xuân Trường (Học viện Chính trị Hồ Chí Minh) thì thành tựu kinh tế lại không đi cùng sự phát triển của đạo đức. Chủ nghĩa cá nhân được Bác Hồ cảnh báo rất sớm nay mang sắc thái mới: “Tiền bạc gắn liền với quyền lực xuất hiện thị trường mua bán quyền lực, mua quan bán tước. Đã có tình trạng các phe cánh trong Đảng dùng các thủ đoạn phi đạo đức gài bẫy nhau, làm những việc mờ ám để hạ bệ nhau. Đã bắt đầu xuất hiện sự móc ngoặc của những viên chức nhà nước với bọn tội phạm, những dấu hiệu đầu tiên của sự mafia hóa chính quyền” - giáo sư nói.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc để lại Bác viết “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”. Bác dặn trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi; thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình… “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” – Bác viết.
Từ trước đến nay, xây dựng Đảng luôn được xác định là khâu “then chốt”. Nhân dân đã từng mong đợi Đảng sẽ tiếp tục thực hiện cuộc chỉnh đốn như Nghị quyết TƯ 6 (2). Hy vọng qua thực hiện chủ đề 2010, quần chúng tìm ra được nhiều tấm gương tiêu biểu để tham gia các cấp uỷ mới.



Đầy những nỗi lo (Trần Khải)-- e-ThongLuan
“… Niềm vui thì ngắn, nỗi lo thì dài. Đó là tình hình các chuyện xảy ra ở quê nhà …”
Niềm vui thì ngắn, nỗi lo thì dài. Đó là tình hình các chuyện xảy ra ở quê nhà.

Chỉ nhìn trong tuần qua cũng thấy. Ngày nào Thiền Sư Nhất Hạnh đi dọc từ Nam ra Bắc, dẫn theo hàng trăm học trò Tây Mỹ, dự nhiều lễ hội Phật giáo lớn, thuyết pháp, trả lời phỏng vấn, làm lạc quan về viễn ảnh cởi mở tôn giáo của nhà nước. Bây giờ, mấy trăm tu sinh Bát Nhã phải phân tán về nhiều địa phương và tu “chui”. Có phải sản phẩm tôn giáo là hàng lậu thuế, và cần phải bố ráp?

Rồi chuyện giáo xứ Đồng Chiêm ở ngoại thành Hà Nội. Mới hồi cuối năm 2009 là khai mạc Năm Thánh trên toàn quốc của Giáo Hội Công Giáo VN, có cả Đức Hồng Y cấp Bộ Trưởng từ Vatican sang Hà Nội đồng tế chủ lễ. Cũng hồi cuối năm 2009, Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết sang Vatican gặp gỡ Đức Giáo Hoàng, trao tặng quà... Viễn ảnh có vẻ như sắp bang giao. Bây giờ, căng thẳng cũng phát dậy ở Hà Nội. Hàng trăm công an tới gỡ và triệt hạ một cây thánh giá bê-tông ở giáo xứ Đồng Chiêm, đánh gãy xương một số giáo dân, tới nỗi Tòa Tổng Giám Mục Hà Nộị ra văn bản gọi đó là “xúc phạm Chúa Kitô...”. Mới biết, ngày vui qua mau.

Cũng hồi cuối năm 2009, các hội thánh Tin Lành đã làm được kỳ tích. Một Thánh Lễ Giáng Sinh ngoàì trời thực hiện ở một sân vận động tại Quận Gò Vấp, Sài Gòn, thu hút 40,000 tín đồ. Một thánh lễ tương tự thực hiện ở sân Mỹ Đình, Hà Nội, thu hút 12,000 tín hữu. Có vẻ như thời băng tan đã tới đối với Tin Lành? Bề ngoàì là thế. Thực sự có lẽ là thế, đối với các mục sư được tin cậy. Bởi vì trong các bản tin tường thuật về hai thánh lễ trên, lúc đầu cho thấy nhiều do dự, chần chờ từ phía nhà nước, cho tới khi các mục sư quen tên với phía chính quyền tăng áp lực, cắm lều ở ba ngày ba đêm trước tòa thị chính Sài Gòn mới được giấy phép. Chỉ có điều để suy nghĩ: người ta không thấy các bản tin nhắc tới mục sư Nguyễn Hồng Quang, mục sư Nguyễn Công Chính... Có lẽ sẽ để dành cho các bản tin phổ biến trong “những ngày mất vui” sau này?

Những ngày vui tuần qua cũng là khi chúng ta đọc thấy tin Dân Biểu Liên Bang Joseph Cao Quang Ánh trong phái đoàn dân cử Mỹ về thăm Việt Nam. Các ông dân biểu khác trong phái đoàn thì không có gì để bàn, để suy nghĩ. Tuy nhiên, hình ảnh Dân Biểu Joseph Cao được ông Nguyễn Thanh Sơn -chức vụ là Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam, kiêm Chủ tịch Uỷ ban Nhà nước Đặc trách Người Việt sống ở Nước ngoài- choàng vai. Quả nhiên là tình thân bằng hữu tuyệt vời. Cũng có thể nói là thân hơn bằng hữu nữa, mà đúng là tình anh em cốt nhục. Nếu đúng được như thế, thì còn gì hơn, vì sẽ được chung sức mà ngăn các mưu đồ hung hiểm của đàn anh Phương Bắc.

Nhìn cách khác, phải gọi đó là thế võ tuyệt chiêu kiếm học của ông Nguyễn Thanh Sơn. Ít nhất, báo chí nhà nước cũng ghi một số lời tuyên bố của dân biểu họ Cao: lời cảm ơn chính phủ VN đã đón ông tới thăm, lời hy vọng hợp tác song phương Mỹ-Việt nhiều cơ hội hơn trong tương lai, lời chúc VN sẽ phát triển và thịnh vượng... Tất nhiên, đó là lời chúc lành mà vị dân cử nào cũng phảỉ nói. Nhưng có thể, có lời nói về nhân quyền và quan tâm tôn giáo nào mà báo chí quốc nội chưa được nghe, hoặc có nghe mà chưa được đăng? Chúng ta không rõ, đành phải chờ Dân Biểu họ Cao về Mỹ kể lại.

Nhưng, tại sao choàng vai? Nếu để ý, chúng ta thấy rằng ông Nguyễn Thanh Sơn mặc áo sọc, cả áo sơ mi bên trong và áo veston bên ngoài. Không phảỉ vô ý. Tất cả là để chụp hình, nên thấy như thế. Vì ông Sơn biết là hôm đó sẽ đón ông Joseph Cao, và sẽ được chụp hình đăng báo, được ống kính truyền hình chiếu vào... nhưng vẫn chọn áo sọc là cố ý cả. Trong khi đó, không có viên chức nào chung quanh buổi hội kiến đó mặc áo sọc. Có phải thông điệp rằng: chúng tôi áo sọc, là vì chúng tôi dân... làng ngựa? Không phải ngựa vằn, mà chỉ là chữ để nói là... dân chơi làng ngựa thôi. Hình ảnh ông Sơn tay trái quàng vai ông họ Cao, chỉ còn thiếu hình ảnh tay phải cầm một ly rượu đưa cao lên trời.

Hình ảnh hai người đàn ông quàng vai nhau ở Mỹ, sẽ là một thông điệp lớn, gây vang dội ở San Francisco, New York... Tất nhiên, chúng ta biết rằng ông Nguyễn Thanh Sơn và ông Joseph Cao không phảỉ là dân đồng tính luyến ái. Nhưng tấm hình này sẽ gây “phân hóa lớn trong nội bộ” chính phủ liên bang Hoa Kỳ, nơi Tổng Thống Barack Obama trước giờ vẫn xem dân làng đồng tính như đồng minh chính trị lớn và đã bổ nhiệm một số người đồng tính, xuyên tính vào nhiều chức vụ quan trọng. Mà gần nhất, là khi TT Obama tuần qua bổ nhiệm cô Amanda Simpson vào chức vụ Cố Vấn Kỹ Thuật Cao Cấp của Bộ Thương Mại Hoa Kỳ, phụ trách đặc biệt về xuất cảng vũ khí tối tân. Cô Amanda Simpson là người đổi giống từ nam sang nữ.

Chắc chắn, quàng vai không phải là “thiền quàng vai”, mà hẳn là ông Nguyễn Thanh Sơn biết được khuynh hướng cởi mở tính phái trong chính phủ Obama, nên mới quàng vai ông Jospeh Cao trong khi tự mình mặc áo sọc trong sọc ngoài để cho biết rằng mình rất cởi mở với các bạn đứng giữa hai dòng nước tính phái như thế. Nhìn cho kỹ, như thế vẫn là chưa độc chiêu. Hãy hình dung thế này: trong khi ống kính các phóng viên chĩa vào, ông Nguyễn Thanh Sơn quàng vai ông Jospeh Cao, rồi quay sang hôn vào môi ông họ Cao đắm đuối... là tuyệt vời hơn nữa. Cho dù sau đó, ông Sơn có thể bị đảng CSVN kỷ luật, nhưng cô Amanda Simpson sẽ vận động chính phủ Obama ưu tiên bán phi đạn tối tân cho chính phủ Hà Nội. Chỉ tiếc rằng, ông Nguyễn Thanh Sơn chưa dám đánh tới thế võ hôn môi này. Cũng có thể, vì Thành Uỷ Hà Nội đã ra lệnh cấm hôn nhau ở nơi công cộng chăng?

Nhức nhối cũng là chuyện Trung Quốc. Tuần qua, chính phủ CS Việt Nam phản đối tình hình TQ mở tour du lịch Hoàng Sa. Rồi ông đại sứ TQ tại VN là Tôn Quốc Tường họp báo, tuyên bố với báo giới VN rằng hai nước nên “gác lại tranh chấp Biển Đông, chờ điều kiện chín muồi,” rồi sau đó, ông chối phăng chuyện ngư dân Việt bị hải quân TQ bắt, tịch thu ngư cụ, bạo hành...

Tất nhiên, ông đại sứ Tôn Quốc Tường không hề bận tâm chuyện nên chọn áo màu gì, sọc gì... Lời nói của ông Tường có nhiều sức nặng, thấy rõ, vì làm mất vui nhiều người Việt cả trong và ngoàì nước. Thấy rõ là mây mù Biển Đông khó tránh, và có thể sẽ tiên báo một tương lai đáng ngại hơn.

Chi tiết nữa: ông Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn không chịu xuất hiện trong buổi họp báo của ông Đại Sứ Tôn Quốc Tường. Phải chi lúc đó, ông Sơn quàng vai ông Tường cho phóng viên chụp hình thì đúng là trên cả tuyệt vời. Chỉ một cú quàng vai thôi, cũng đủ trừng phạt một ông đại sứ nước lớn ưa “nói điêu” họ Tôn này. Vậy mà ông Sơn không chịu làm.

Có phải vì nỗi lo nhiều hơn niềm vui? Đúng vậy. Niềm vui thì ngắn, nỗi lo thì dài.




Nguyễn Tiến Trung sẽ ra tòa ngày 20/01/2010


Lạm phát và chính sách điều hành
(Toquoc)- Lạm phát cao đến mức nào lại phụ thuộc nhiều vào việc điều hành chính sách của Chính phủ.


Dùng công luận giám sát cải cách hành chính
Phải làm từ dưới lên trên, từ những bức xúc của người dân và doanh nghiệp, bởi không ai dễ từ bỏ thủ tục hành chính mà mình đã cố công cài cắm…
Công khai, minh bạch thủ tục hành chính, tổ chức đối thoại, lấy ý kiến phản biện của các đoàn thể, hiệp hội đại diện cho người dân và doanh nghiệp để cắt bỏ những thủ tục phiền hà… Đó là ý kiến của ông Vũ Quốc Tuấn, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, khi trao đổi với Pháp Luật TP.HCM.
“Không ai tự đập vỡ niêu cơm của mình cả”

Cài cắm thủ tục “hành dân” vào luật?
“Tại sao giấy đỏ, giấy hồng kéo dài 15 năm, Quốc hội 2-3 lần bắt “một giấy” đến bây giờ mới thực hiện, trách nhiệm người đứng đầu ở đâu? Không ai thống kê 15 năm, doanh nghiệp, người dân khổ thế nào. Tôi nhớ một lần ra Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An chất vấn, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân mới nói giấy hồng do Luật Nhà ở quy định. Chủ tịch Nguyễn Văn An mới phê bình lại rằng “Luật nhà ở là do anh đề xuất để trình Quốc hội, tại sao anh thấy bất hợp lý mà vẫn trình?”. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân không trả lời được.”
Ông Vũ Quốc Tuấn,
nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng


Vụ phó chủ tịch UBND huyện Mộc Hóa đánh dân: Nạn nhân ký đơn bãi nại... viết sẵn


Hiểm nguy nghề báo
ICTnews - Nghề làm báo là nghề nguy hiểm, điều đã được khẳng định từ lâu trên toàn thế giới và ngay ở Việt Nam, một lần nữa lại được chứng minh với 2 vụ hành hung nghiêm trọng vừa mới xảy ra trong cùng một ngày với phóng viên của các báo Tiền phong và ...
Xử lý nghiêm hành vi hành hung nhà báoLao động
Bảo vệ nhà báo là bảo vệ quyền được thông tinTuổi Trẻ
Cái ác ngang nhiên tồn tạiLao động


Gần 100 “đơn xin thôi việc” tại ổ mại dâm trá hình Dân Trí
Công an Hà Nội vừa “dọn” ổ mại dâm lớn ở Gia Lâm. Gái mại dâm từ 17- 28 tuổi đến từ nhiều tỉnh thành, kiếm được chừng 300-500 ngàn đồng cho một lần bán dâm. Trước khi “đi khách”, các cô gái phải ký vào một mẫu “đơn xin thôi việc”… ...
Đường dây mại dâm lớn núp bóng karaoke ở Gia LâmZing News
Ổ mại dâm lớn núp bóng quán karaokeNgôi Sao
Kinh doanh mại dâm tinh vi của quán karaokeVNExpress
Thanh Niên -An ninh thủ đô -cand.com

Những suy nghĩ sai về cách rửa mặt
(Dân trí) - Khi lựa chọn sữa rửa mặt, phái đẹp thường tìm mua loại sữa rửa mặt với nhiều tính năng kết hợp như: làm sạch, làm sáng, dưỡng ẩm da… Thực chất những loại sữa rửa mặt “đa di năng” này hoàn toàn không tốt cho da.



Bài của Thomas L. Friedman trên tờ New York Times về Trung Quốc-- Diễn đàn X-Cafe
Bây giờ ai đang ngủ ?

Bởi Thomas L. Friedman
đăng ngày: 09 Tháng 1 Năm 2010

Đổng Kiến Hoa, vị đặc khu trưởng người đầu tiên được Trung Quốc-bổ nhiệm tại Hồng Kông sau khi bàn giao vào năm 1997, ban cho tôi ba câu tóm tắt về một ngày khác của lịch sử kinh tế hiện đại Trung Quốc: "Trung Quốc đã ngủ quên trong cuộc Cách mạng công nghiệp. Nàng chỉ mới vừa thức dậy trong Cách mạng công nghệ thông tin. Nàng dự định tham gia hết mình trong cuộc Cách mạng xanh ".

Tôi sẽ nói. Nhờ đang được ở tại Trung Quốc ngay thời điểm này khiến tôi bị thuyết phục hơn bao giờ rằng khi các sử gia nhìn lại vào cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, họ sẽ nói rằng điều quan trọng nhất xảy ra không phải là một nạn suy thoái lớn, nhưng chính là Cú nhảy vọt màu Xanh của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh hiểu được rõ ràng rằng cuộc cách mạng về ET - Kỹ thuật Năng lượng - là cả một nhu cầu lẫn cơ hội, và họ không có ý định bỏ lỡ nó.

Ngược lại, chúng tôi thì có ý định sửa chữa Afghanistan. Chúc một ngày vui vẻ nhé.

Được thôi, đấy là một cú đánh không đẹp. Nhưng quả này thì ngang ngửa đây: Andy Grove, vị đồng sáng lập của Intel, nói rằng các công ty đang đi đến "những khúc quanh chiến lược", nơi mà các nguyên tắc cơ bản kinh doanh đã đổi thay và họ, hoặc phải quyết định cứng rắn để đầu tư vào một chu kỳ đi xuống và tham gia một quỹ đạo hứa hẹn hơn hoặc không làm gì cả rồi tàn lụi đi . Điều này cũng đúng đối với tình hình các quôc gia.

Hoa Kỳ đang ở đúng vào khúc quanh chiến lược. Chúng ta hoặc sẽ đưa ra một mức giá carbon và các chế độ ưu đãi đứng đắn để bảo đảm rằng Mỹ là đối thủ cạnh tranh chính hoặc là đối tác của Trung Quốc trong cuộc cách mạng ET, hoặc chúng ta sẽ dần dần nhường ngành công nghiệp lại cho Bắc Kinh và những công ăn việc làm tốt cùng vền an ninh về năng lượng cũng đi theo luôn.

Phải chăng Tổng thống Obama sẽ hoàn tất vấn đề chăm sóc y tế và sẽ xếp qua một bên để giải quyết sau các pháp chế về năng lượng - và giá cả carbon - mà Quốc hội đã thông qua để chuyển vào giai đoạn midterm không có các vị Cộng Hoà kêu rên " đánh thuế nữa ư ?" Hay ông sẽ nắm lấy cơ hội này trước midterms - có thể là cơ hội cuối cùng của ông để đặt đa số tại Thượng viện vào với nhau, bao gồm cả một số Cộng hòa, cho cái giá carbon - và đem lại được một cỗ máy thực sự của Mỹ cho sáng kiến về năng lượng sạch và nền an ninh năng lượng?

Tôi đã choáng váng để tìm hiểu về khối lượng tuyệt đối của gió, mặt trời, vận chuyển khối lượng, hạt nhân và các dự án than đá hiệu quả hơn - từng lên mầm mọc rễ tại Trung Quốc chỉ trong năm vừa qua.

Đây là e-mail từ Bill Gross, người điều khiển công ty eSolar, khởi động một loại nhiệt lượng mặt trời đầy hứa hẹn tại tiểu bang California : Vào ngày thứ Bảy, tại Bắc Kinh, Gross cho biết, ông đã công bố " một giao dịch thương mại về nhiệt lượng mặt trời lớn nhất chưa từng thấy. Đó là một thoả thuận xây dựng các nhà máy năng xuất 2 gigawatt trị giá 5 tỉ ở Trung Quốc xử dụng công nghệ có căn cứ tại California của chúng tôi. Trung Quốc còn đang tích cực hơn so với Hoa Kỳ. Chúng tôi đã từng nạp thủ tục để xin mượn một món nợ từ bộ Năng lượng Hoa kỳ cho một dự án 92 megawatt tại New Mexico, và trong một thời gian ngắn hơn là thời gian phải đi qua giai đoạn 1 của việc xem xét đơn, Trung Quốc đã ký, chấp thuận, và sẵn sàng để bắt đầu xây dựng trong năm nay trong một dự án lớn hơn 20 lần ! "

Đúng, biến đổi khí hậu là một mối quan tâm đối với Bắc Kinh, nhưng tức thời hơn, các lãnh đạo của Trung Quốc biết rằng đất nước của họ đang ở giữa mê trận di dân lớn nhất của người dân từ nông thôn đến các trung tâm đô thị trong lịch sử của nhân loại. Điều này tạo ra một sự đột biến trong nhu cầu năng lượng, khiến Trung Quốc cương quyết để đáp ứng với các nguồn sạch hơn, ở trong nước để nền kinh tế trong tương lai của họ ít dễ bị tổn thương khiến mang đến các chấn động và do đó họ sẽ không tự ô nhiễm chính mình đến chết.

Chỉ riêng trong năm qua, rất nhiều nhà sản xuất tấm năng lượng mặt trời xuất hiện ở Trung Quốc khiến giá cả năng lượng mặt trời đã giảm từ khoảng 59 cent một kilowatt giờ đến 16 cent, theo Keith Bradsher, trưởng phòng của tờ Times ở đây. Trong khi đó, tuần qua, Trung Quốc đã thử nghiệm chiếc xe lửa nhanh nhất thế giới - 217 dặm / giờ - từ Vũ Hán đến Quảng Châu. Theo ghi nhận của Bradsher, Trung Quốc "đã gần hoàn tất việc xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc từ Bắc Kinh tới Thượng Hải với chi phí $ 23.5 tỉ. Xe lửa này chạy suốt các tuyến đường 700 dặm chỉ trong năm giờ, so với 12 giờ hôm nay. Để so sánh: xe lửa Amtrak cần ít nhất 18 giờ để đi di chuyển một khoảng cách tương tự từ New York đến Chicago".

Trung Quốc cũng tham gia vào việc bành trướng năng lượng hạt nhân nhanh nhất thế giới. Dự kiến xây dựng khoảng 50 lò phản ứng hạt nhân mới vào năm 2020; cả phần còn lại của thế giới kết hợp lại có thể xây dựng được 15 lò như vậy.

"Vào cuối thập niên này, Trung Quốc sẽ thống trị nền sản xuất toàn cầu của toàn bộ các thiết bị điện," ông Andrew Brandler, Tổng Giám đốc của Tập đoàn CLP, điện năng lớn nhất của Hồng Kông tuyên bố.

Trong quá trình này, Trung Quốc sẽ làm cho các công nghệ năng lượng sạch rẻ hơn cho bản thân và mọi người khác. Nhưng ngay cả các chuyên gia Trung Quốc cũng sẽ cho bạn biết được rằng tất cả sẽ xảy ra nhanh hơn và hiệu quả hơn nếu như Trung Quốc và Mỹ cùng làm việc với nhau - với Mỹ giỏi hơn về phát minh và kháo cứu năng lượng, trong khi Trung Quốc vẫn còn yếu, cũng như trong các liên doanh đầu tư và dịch vụ mới về công nghệ sạch, và với Trung Quốc thành thạo hơn trong sản xuất lớn hàng loạt.

Đây là một khúc quanh chiến lược. Rõ ràng là nếu chúng ta, Mỹ, quan tâm đến nền an ninh năng lượng, sức mạnh kinh tế và chất lượng môi trường của chúng ta, cần phải đưa ra một mức giá carbon dài hạn khiến kích thích và ban thưởng được các sáng kiến về năng lượng sạch. Chúng ta sẽ không kham nổi cho sự ngủ quên trước một Trung Quốc cường tráng hoàn toàn tỉnh táo.


nguồn : http://www.nytimes.com/2010/01/10/op...ml?ref=opinion



Bong bóng nhà đất Trung Quốc tồi tệ “gấp 1000 lần” sự kiện Dubai
VIT - Mới đây, Thời báo New York đã đưa ra lời nhận định của ông James Chanos, một trong những nhà đầu tư hàng đầu của Mỹ về sự sụp đổ của nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc. Theo cảnh báo của ông này, “bong bóng bất động sản Trung Quốc tồi tệ gấp 1000 lần so với sự kiện Dubai”.



Khoảng 4 ngàn quan chức Trung Quốc tẩu tán 50 tỷ đôla ra nước ngoài
Theo báo chí Trung Quốc, từ 30 năm nay, khoảng bốn ngàn quan chức nhà nước đã trốn ra nước ngoài, hạ cánh an toàn với món tiền bất chính 50 tỷ đô la Mỹ. Thông tín viên Marc Lebeaupin từ Bắc Kinh tường thuật.


2010: Kinh tế Trung Quốc còn nhiều thách thức
VIT - Nền kinh tế Trung Quốc được dự đoán sẽ trên đà phát triển nhanh trong năm 2010, song những khó khăn cũng sẽ ngày càng nhiều trên con đường phía trước.


Tổng số lượt xem trang