Thứ Hai, 5 tháng 4, 2010

Hãy nhìn đây… Trung Quốc

James Mann
Phỏng theo tờ The New Republic
KD chuyển ngữ
nguồn: http://www.tnr.com/article/world/behold-china

Trong mấy mươi năm nay, các viên chức Trung Quốc và những người ngoài cuộc khác đã nhiều lần cam đoan với thế giới rằng Đảng CS của quốc gia này rồi sẽ dự định mở khóa chế độ độc tài đảng trị của họ. Người ta nói rằng chế độ này rồi sẽ có nhiều cải tổ và giải phóng chính trị lớn lao để đi kèm với những cải tổ kinh tế đã được Đặng Tiểu Bình khởi xướng vào cuối thập niên 1970. Vấn đề còn lại chỉ là thời điểm chín mùi mà thôi. Viết cho tờ Foreign Affair hai năm trước đây, nhân vật có nhiều quan hệ rộng rãi với các viên chức cao cấp ở Bắc Kinh kiêm chủ tịch tổ chức Brookings Institution [một trong những think tank lâu đời nhất ở Hoa Thịnh Đốn] ông John L. Thornton đã cho biết rằng một cựu viên chức lão thành trong ĐCS TQ đã nói với ông rằng “những tranh cãi ở Trung Quốc không còn vây quanh vấn đề Dân Chủ hay là không nữa… mà về vấn đề khi nào và như thế nào.”



Nhiều năm trôi qua, có hàng loạt các giải thích ngắn hạn đã được đưa ra trước câu hỏi tại sao các dự tính của lãnh đạo Trung Quốc về về thay đổi chính trị vẫn bị trì hoãn. Tập thể lãnh đạo của Trung Quốc vẫn còn quá mới mẻ với công việc nên chưa thể tiến hành cải tổ hay là có thể họ đã ngự trị quá lâu? Không, họ không thể nào nới lỏng tinh thần ngay trước Đại Hội Đảng Cộng Sản xảy ra mỗi 5 năm. Họ cũng không thể làm gì trong mỗi năm có con số 9 nằm sau cùng (có quá nhiều ngày kỷ niệm nhạp cảm trong những năm này, kể cả ngày kỷ niệm sự kiện đàn áp Thiên An Môn của năm 1989). Họ không thể mạo hiểm cải tổ chính trị trước Thế Vận Hội Olympic. Và chắc chắn là không thể nào trong thời điểm khủng hoảng kinh tế hoặc khi kinh tế phát triển chậm – và với lý do tương tự, không trong lúc kinh tế phát triển mạnh hay khi lạm phát gia tăng.

Nếu bạn suy nghĩ kỹ về tất cả các biện luận về sự trì trệ ngắn hạn này trong thời gian qua thì sẽ thấy rằng thời điểm thích hợp nhất cho chế độ độc tài Trung Quốc khởi đầu công cuộc mở khóa thể chế chính trị của họ có thể là ngay trong lúc này. Năm nhạy cảm với con số 9 đứng cuối vừa trôi qua, TVH Olympic đã xong lâu rồi. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã cùng giữ chức vụ với nhau hơn 7 năm nay, và Đại Hội Đảng lần kế tiếp vẫn còn 2 năm nữa mới tái diễn. Có thể vẫn còn đó những lo ngại bồn chồn trong lĩnh vực tài chính, như một bong bóng địa ốc mới chẳng hạn, nhưng nói chung thì kinh tế Trung Quốc đang vững vàng, không trong tình trạng khủng hoảng cũng không tăng trưởng quá nóng đến mức đáng sợ.

Tuy nhiên, không có dấu hiệu gì cho thấy giải phóng chính trị sẽ xảy ra. Hơn nữa, trong khoảng 1 năm qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và những phụ tá của ông ta đã có vẻ như đi ngược hướng khi siết chặc quản lý đối với các tổ chức chính trị đối lập và kể cả những luật gia đại diện cho các nhà bất đồng chính kiến.

Tháng 12 vừa qua, lãnh đạo Trung Quốc đã chính thức tố cáo ông Liu Xiaobo, thũ lĩnh của phong trào Hiến Chương 08 kêu gọi tự do bầu cử và đòi hỏi tự do ngôn luận, với tội danh “xúi giục lật đổ nhà cầm quyền quốc gia.” Ông Liu đã bị đem ra xử và kết tội với bản án 11 năm tù giam, mặc kệ những lời thỉnh cầu từ Liên Minh Âu Châu và Hoa Kỳ đòi trả tự do cho ông ta. Trong lúc đó thì ông Gao Zhisheng đã biệt tích từ gia cư của ông và ngày 4 tháng Hai năm 2009. Ông Gao là một luật sư nổi tiếng đã từng đại diện cho các công nhân mõ than, giáo dân Công Giáo, và thành viên của phong trào Pháp Luân Công đòi hỏi bồi thường từ chính quyền TQ. Lãnh đạo Trung Quốc không lên tiếng gì về sự mất tích của ông Gao trong gần 1 năm và rồi chỉ cho biết rằng ông Gao đang “ở nơi mà ông nên ở.” Tháng vừa qua, các viên chức TQ cho biết rằng ông Gao đã đi làm xa ở tận tỉnh Tân Cương hẻo lánh; vợ chính thức của ông Gao cũng không được phép liên lạc ông ấy. Vào tháng Hai, nhà tranh đấu bảo vệ môi trường TQ ông Tan Zouren đã bị xử 5 năm tù giam với tội danh “thúc giục lật đổ chính quyền sau khi ông ta liệt kê danh sách các trẻ em bị thiệt mạng trong trận động đất ở Tứ Xuyên. Những sự kiện nổi bật này là một phần của một loạt các sự kiện tương tự. Phỏng theo lời của giám đốc phân bộ Á Châu của Tổ Chức Giám Sát Nhân Quyền (HRW) bà Sophie Richardson thì “Những cuộc bắt bớ vẫn còn tiếp diễn không chỉ đối với các nhà phê bình chính quyền nổi tiếng mà kể cả những người biểu tình ôn hòa, phóng viên báo chí, và những người đang tìm cách đòi bồi thường từ việc con cái của họ bị thiệt mạng bời sữa độc và những trường học được xây cất cẩu thả. Kể cả những thương gia ngoại quốc cũng nói rằng chính quyền Trung Quốc không có dấu hiệu nào cho thấy họ tôn trọng những quyền tự do con người cơ bản nhất.

Trung Quốc đã qua được nhiều đợt đàn áp, bắt bớ trong quốc nội trong quá khứ mà không cần đến sự thay đổi tiếp nối nào trong các quan hệ đối ngoại. Nhưng lần này thì ranh giới nghiêm ngặt về bất đồng chính kiến trong nước đã đi liền với thái độ đặc biệt nhằm củng cố địa vị của họ trong một số các vấn đề quốc tế. Trong Hội Đồng Bảo An LHQ, Trung Quốc đại diện cho trở ngại chính thức đối với nổ lực của từ nhiều phía nhằm ngăn chặn Iran sở hữu vũ khí hạt nhân. Trung Quốc cũng đa theo đuổi các chính sách vụ lợi chủ yếu bằng cách duy trì tiền tệ ở giá thấp, bỏ mặc nhiều lời kêu gọi từ phía Hoa Kỳ, Âu Châu, và nhiều nơi khác. Theo nhiều lời tường thuật thì Trung Quốc đã dẫn đầu trong việc cản trở những hành động đáng kể đối với vấn đề thay đổi khí hậu trong hội nghị ở Copenhagen tháng 12 vừa qua. Sau khi giám sát chặt chẽ chuyến viếng thăm của tổng thống Barack Obama vào tháng 11 vừa qua, lập trường của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ đã cứng rắn hơn qua vấn đề buôn bán vũ khí cho Đài Loan và qua sự kiện đức ĐaLai Lạt Ma đã viếng thăm Hoa Thịnh Đốn. Nhưng không chỉ riêng Hoa Kỳ mà thôi, cả khối Âu Châu, Anh, và Ấn Độ.. tất cả cũng đã từng đối đầu với thái độ quyết đoán mới mẻ này của Trung Quốc.



Điều gì đã dẫn đến cử chỉ gần đây của chính quyền Trung Quốc? Giải thích hiển nhiên nhất, và cũng là giải thích nhiều lần được đưa ra nhất, là việc Trung Quốc cuối cùng đã nhận thức được uy lực đang gia tăng của chính mình. Theo lý luận này thì kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu của năm 2008 và những thâm thủng trong ngân sách Hoa Kỳ, lãnh đạo Trung Quốc đã nhận thức được rằng họ có được lợi thế kinh tế để đòi hỏi nhiều hơn, để nhấn mạnh những yêu cầu thay đổi nguyên trạng, và nói chung là để nói với mọi người hãy tránh ra. Và vì thế, chúng ta có thể xem rằng mình đang chứng kiến sự trả đũa của Trung Quốc đối với phương Tây cho tất cả những sự sĩ nhục mà TQ đã hứng chịu kể từ cuộc chiến Nha Phiến [giữa Anh và TQ, thế kỷ 19].

Vấn đề ở đây là lời giải thích này có vẻ như không đầy đủ cho lắm. Đúng, Trung Quốc gần đây có một cách nhìn mới và đầy đủ hơn về sức mạnh kinh tế của họ so với các nước khác – nhưng điều này không nhất thiết phải dẫn đến thái độ bất trị rõ ràng mà thể chế này đã thể hiện. Thật ra trong quá khứ thì nhận thức về sức mạnh của mình đã dẫn đến một thái độ rất khác trong tầng lớp cai trị của Trung Quốc – đó là thái độ bình thản uy nghi đối với thế giới bên ngoài. (Thái độ này này được biểu hiện qua câu nói nổi tiếng vua Càn Long đã đối đáp trước lời khẩn nài mở cửa thông thương của sứ thần nước Anh, Lord Macartney. Câu trả lời đó là: “Chúng tôi chưa bao giờ xem trọng những sản phẩm trí tuệ, cũng như chúng tôi chưa bao giờ cần đến gì từ các nhà sản xuất ở nước ông.” ) Những vị quân chủ uy quyền nhất của Trung Quốc lúc nào cũng, dù giả dối thế nào, có thái độ khiêm tốn trong quan hệ đối xử với người ngước ngoài. Khi tổng thống Richard Nixon gặp gở Mao Trạch Đông lần đầu tiên, ông ta nói với Mao rằng tư tưởng của Mao đã vận chuyển Trung Quốc và thay đổi thế giới. Mao đã chần chừ trả lời: “Tôi đã không thể thay đổi nó, tôi chỉ có thể thay đổi một vài nơi trong phạm vi lân cận Bắc Kinh.” Phô trương quyền lực, nói một cách khác, không bao giờ là truyền thống kiên định chưa từng đứt đoạn của Trung Quốc.

Thật ra thì thái độ khẳng định gần đầy của Trung Quốc đôi lúc có vẻ phản hiệu quả theo nhiều kiểu mà chính sách đối ngoại của Trung Quốc chưa bao giờ có. Thường xuyên hơn, Trung Quốc dày dặn kinh nghiệm với chính sách uyển chuyển, chân mềm; mục đích chính là khiến các cường quốc khác chia rẽ và khi có thể, cạnh tranh với nhau khi cố gắng tạo ảnh hưởng với Bắc Kinh. Nhưng các chính sách gần đây của Trung Quốc đối với vấn đề nhân quyền, với việc duy trì nhân dân tệ ở mức độ thấp, và với vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu, tất cả đã nhắc cho dân Hoa Kỳ và dân Âu Châu nhớ lại những lợi ích mà họ cùng chia xẻ khi giao tiếp với Trung Quốc.

Nếu chính sách đối ngoại của Trung Quốc (ở nhiều mức độ khác nhau) đã trở nên phản hiệu quả, đó có thể là vì mục tiêu mà Trung Quốc nhắm đến không phải là Hoa Thịnh Đốn hoặc Brussels [thủ đô của Bỉ]. Đó có nghĩa là sách lược giao tiếp quốc tế của Trung Quốc càng ngày càng bị chi phối bởi các đợt sóng ngầm quốc nội. Vị thế lãnh đạo của Trung Quốc có vẻ như gần mất đi quyền kiểm soát. Trong nhiều năm qua, họ đã phải lo ngại về sự phát triển của một phong trào đại chúng có thể so sánh với những phong trào đã dẫn đến những cuộc “cách mạng màu” ở Ukraine và Georgia. Trong năm qua, Trung Quốc cũng đã quan sát sự tăng trưởng của Phong trào Tuổi Trẻ Xanh (Green Movement) ở Iran. Đối với người ngoài cuộc, lối so sánh này có vẻ ngớ ngẩn; hai quốc gia nào không thể nào khác nhau hơn nữa. Trong mấy mươi năm nay, Iran đã có nhiều phong trào ở nhiều dạng khác nhau khởi động bởi tầng lớp trung lưu (không kể đến các cuộc bầu cử).

Nhưng thật ra, những tiến triển gần đây ở Iran và Trung Quốc có những tác động đối với nhau đến bất ngờ. Ngay sau khi cuộc bầu cử uyên náo ở Iran xảy ra vào tháng 6 năm vừa qua, bộ ngoại giao TQ đã lên tiếng ủng hộ Ahmadinejad và nói rằng họ hy vọng Iran có thể duy trì “sự ổn định và tinh thần đoàn kết.” Khi các cuộc nổi loạn xảy ra ở tỉnh Tân Cương, TQ vào tháng 7 vừa qua, chỉ vài tuần sau cuộc bầu cử tại Iran, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã rút ngắn chuyến đi Âu Châu của mình và trở về xử lý tình hình. Trung Quốc nhanh chóng cắt bỏ đường truyền mạng Internet trong cả khu vực. Chỉ trong 2 tháng trước đó, tờ báo chính thức của ĐCS TQ tờ Nhật Báo Nhân Dân (People’s Daily) đã cảnh báo vai trò của mạng Internet tại Iran và đặc biệt liên đới nó với Hoa Kỳ: “Những rối loạn liên tục sau đợt bầu cử tại Iran đã diễn ra như thế nào? Đó là một cuộc chiến tin học khởi động bởi Hoa Kỳ với những lời tuyên truyền gây chia rẽ, kích động và gieo nỗi bất hòa được truyền qua YouTube và Twitter.”

Trong lúc đó thì lãnh đạo TQ đã phải xoay trở với một vấn đề chính trị quốc nội từ một hướng khác. Đó là một vấn đề tự họ hình thành: một chủ nghĩa dân tộc vang dội hơn bao giờ hết của người Trung Quốc. Nhà cầm quyền TQ đã nung đốt lòng yêu nước này để thay thế những giá trị CS chỉ còn một vài người Trung Quốc tin tưởng vào mà thôi. Sự thật là qua 60 năm sau khi Tưởng Giới Thạnh bỏ lục địa TQ trốn sang Đài Loan, nhà cầm quyền TQ đánh bại ông ta đã và đang tạo nên một Chủ Nghĩa Dân Tộc Trung Hoa khác, với đầy dẫy những nhũng nhiễu của chủ nghĩa cũ. Nhưng càng khuyến khích chủ nghĩa dân tộc, giới lãnh đạo TQ càng phải lo ngại thêm về khả năng chính họ bị xem là cúi đầu trước ngoại bang. Họ đã cho phép các cuộc biểu tình chống Mỹ được bùng phát sau khi phi cơ Mỹ dội bom ngay lãnh sự quán TQ ở Belgrade, Serbia. Họ đã cho phép các cuộc biểu tình chống Nhật xảy ra một ài năm sau đó. Trong hai trường hợp này, nhà cầm quyền TQ đã phải ra sức ghìm đám đông phản kháng lại khi các cuộc biểu tình có nguy cơ bung to hơn mức độ có thể kiểm soát. Niềm lo sợ lớn nhất là vào một ngày nào đó, chủ nghĩa dân tộc có thể sẽ quay lại đối đầu với chính nhà cầm quyền TQ.


Ở Hoa Kỳ và Âu Châu, phản ứng đối với sự cứng rắn này nói chung là lo ngại. Thật ra thì chúng ta hiện nay đang chứng kiến sự tan rã dần dần của viễn ảnh và sách lược của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong thời hậu chiến-tranh-lạnh. Một phân tích viên kỳ cựu về Trung Quốc ông David Shambaugh gần đây đã mô tả tình trạng trí thức gay go hiện nay với một phát biểu cô đọng: “Những bình luận gia đã cho rằng quốc gia này [TQ] đang vững tiến đến những cải tổ và mở rộng chính trị lớn đã bắt đầu kiểm soát lại những gì mình đã thừa nhận từ bấy lâu nay.”

Sách lược đối phó với Bắc Kinh của Hoa Kỳ trong gần hai thập niên qua đã dựa vào việc sử dụng mậu dịch và quan hệ kinh tế để đưa Trung Quốc vào hệ thống quốc tế hiện tại và dần dần nhích họ về hướng giải phóng thể chế chính trị - như chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện Mỹ ông Richard Hass đã từng nói, “để kết hợp Trung Quốc vào một trật tự thế giới dẫn đầu bởi Hoa Kỳ.”

Sách lược này cần một khoảng thời gian để kết tinh. Trong suốt thập niên 1970 và 1980, chính sách về Trung Quốc của Hoa Kỳ hoàn toàn được đặt trên khái niệm TQ là đồng minh cùng đối phó với Liên Bang Xôviết trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Lúc đó không ai nói gì đến việc đâm thọc thể chế chính trị của Trung Quốc, cho dù một số người ở Hoa Thịnh Đốn tin rằng Đặng Tiểu Bình sẽ kèm theo những đổi mới kinh tế của ông ta với những thúc đẩy thay đổi chính trị tương đối.

Sau những đợt nổi dậy của 1989 - đợt biểu tình ở Thiên An Môn cùng vụ đàn áp đẫm máu cộng với sự sụp đổ của bức tường Bá Linh trong cùng năm sau đó - giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã phải xoay trở khó khăn để lập ra nền tảng cơ sở mới để ứng xử với Trung Quốc. Sách lược ứng xử đầu tiên đến từ TT George H.W. Bush. TT Bush đã chọn sách lược thương lượng theo “giao kết” khi tìm cách giải thích những mối quan hệ tiếp tục giữa Hoa Kỳ với một chế độ vừa mới xả đạn vào chính người dân của họ. Danh từ được chọn là một danh từ kỳ lạ. Nhóm từ “giao kết có tính cách xây dựng” đã được dùng bởi chính phủ Reagan một vài năm trước đó như lời giải thích cho chính sách thân thiện với Nam Phi trước nổ lực phê chuẩn ngăn chặn mậu dịch của quốc hội đối với chế độ tách biệt chủng tộc của nhà cầm quyền Nam Phi. Dù sao đi nữa thì khi áp dụng với Trung Quốc, danh từ “giao kết” đã được chọn sử dụng một cách khá rộng rãi. Trong hai thập niên qua, nó đã được sử dụng để diễn tả không chỉ những mối quan hệ với Bắc Kinh mà còn với những nhà cầm quyền áp bức khác trên toàn thế giới từ Miến Điện đến Sudan đến Iran.

Dù vậy, như nhiều người đề xướng nó đã thừa nhận, danh từ “giao kết” chính nó cũng chỉ là một mưu lược, một giao ước để họp mặt, chứ không phải là một sách lược. Sách lược là việc mà chính quyền Clinton đã phải nghĩ ra. Hoa Kỹ đã hy vọng mở rộng được thể chế chính trị của Trung Quốc. Và phương tiện để đạt được sự thay đổi đó sẽ là mậu dịch thương mại và đầu tư thị trường. Sách lược này dự đoán rằng tăng trưởng kinh tế rồi sẽ dẫn đến giải phóng thể chế chính trị. Trong sự phân tích này, Trung Quốc sẽ đi theo đường lối chính trị mà các quốc gia láng giềng Đông Nam Á của họ đã đi. Nam Hàn và Đài Loan hai quốc gia này đã chuyển đổi từ chủ nghĩa độc tài sang thể chể dân chủ vào thập niênn 1980.

Các anh đang đứng bên lề trái của lịch sử.” Clinton đã nói với Chủ tịch Giang Trạch Dân như thế trong một buổi họp báo tại Hoa Thịnh Đốn năm 1997 – theo quan điểm thời hậu chiến-tranh-lạnh của Francis Fukuyama về việc lịch sử sẽ vững tiến về hướng chủ nghĩa tự do, với một vài thay đổi. Clinton đã nói về thay đổi chính trị ở Trung Quốc như là “một việc không thể tránh, như việc không thể tránh trong sự sụp đổ của bức tường Bá Linh.”

Viễn ảnh thẳng lợi mà trong đó Hoa Kỳ thay đổi Trung Quốc không có gì là Dân Chủ hay Cộng Hòa, không có gì là cởi mở hay bảo thủ cả. Người kế vị Clinton, TT George W. Bush đã tuyên bố, “Hãy tự do làm thương mại với Trung Quốc, thời gian sẽ đứng về phía bạn.” (Sau khi Trung Quốc tố giác Hoa Kỳ sử dụng sách lược “diễn biến hòa bình” để ngầm phá hoại sự cai trị của ĐCS TQ, các viên chức Hoa Kỳ từ các cấp thường thừa nhận rằng họ thật đã tin tưởng vào diễn biến hòa bình.)

Những tiên đoán về vận mệnh thay đổi chính trị của Trung Quốc đơn thuần là một phần của phong cảnh bình luận thuộc tầng lớp trí thức chính trị của những năm sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Trong một cuộc hội thảo tại ĐH Stanford năm 1996 nhằm để phác họa một Trung Quốc trong năm 2010 sẽ như thế nào, nhân vật giỏi nhất và lừng danh nhất trong những nhà Hán học của Hoa Kỳ ông Michel Oksenberg đã tiên đoán như sau: “Tôi rất muốn tiên đoán rằng thành phần lãnh đạo tối cao của Trung Quốc (trong năm 2010) sẽ được trực tiếp chọn thông qua một nghị trường đa đảng quốc gia do dân bầu, thế giới bên ngoài và trạng thái lũng đoạn của những ranh giới ở Trung Quốc sẽ khiến việc cưỡng lại khuynh hướng này trở nên khó khăn đối với giới lãnh đạo ở TQ.”

Điểm chủ yếu của sách lược kết hợp, trong giới hạn của chính sách, là sự thành công trong nỗ lực đem Trung Quốc vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Với sự thành công đó, chính phủ Hoa Kỳ đã chấm dứt quá trình bầu cử quốc hội thường niên để gia hạn quyền trao đổi mậu dịch của TQ ở Hoa Kỳ (một đề tài tranh cãi sôi nổi đầu thập niên 90 mà rốt cuộc chỉ là một nghi lễ trống rỗng.)

Trong tiến trình bào chữa cho việc gia nhập Trung Quốc vào danh sách thành viên WTO, chính phủ Clinton đã nói với công chúng Hoa Kỳ về tác động nó sẽ dẫn đến bên trong Trung Quốc. Biện luận này được sắp xếp rất cẩn thận, nhưng cũng đủ rõ ràng. TT Bill Clinton năm 2000 đã nói: “Gia nhập TQ vào WTO không bảo đảm rằng họ sẽ chọn cải tổ chính trị, nhưng tăng tốc tiến trình này, tiến trình thay đổi kinh tế, sẽ buộc Trung Quốc đối diện với sự lựa chọn đó nhanh hơn, và nó sẽ khiến sự lựa chọn đúng đắn trở nên khẩn thiết hơn… Tôi hiểu rằng hành động này [việc gia nhập TQ vào WTO] chính nó không pải một vấn đề nhân quyền. Nhưng tuy vậy, nó sẽ rất có thể ảnh hưởng sâu sắc đển nhân quyền và tự do chính trị.”

Một thập niên sau, sách lược thay đổi Trung Quốc qua mậu dịch thương mại này có vẻ như đã phản tác dụng. Nói cho đúng hơn thì địa vị thành viên của TQ trong WTO đã có sửc ảnh hưởng kinh tế rất to lớn. Đối với những ai muốn đầu tư vào Trung Quốc hoặc muốn chuyển bộ phận sản xuất vào nội địa Trung Quốc, địa vị thành viên WTO đem đến sự vững bền dài hạn và khả năng ước đoán trong việc làm ăn. Các công ty có được sử bảo vệ của WTO; họ không cần phải lo sợ về việc quyết định từ hội nghị quốc hội thường niên sẽ ảnh hưởng đến khả năng họ có thể tiếp tục làm ăn hay không.

Nhưng những thay đổi kinh tế lan rộng đã không thôi thúc được quyết định tiến hành cải tổ chính trị của Trung Quốc như Clinton và nhiều người khác đã dự đoán. Thay vào đó, giới lãnh đạo TQ đã trì hoãn quyết định này, nếu có. Vị thế thành viên WTO đã giúp gia tăng phát triển kinh tế nâng cấp đời sống của người dân thành thị với nguồn vốn đầu tư to lớn hơn trong cấp bậc chính trị hiện tại. Người dân Trung Quốc có nhiều khả năng tự trị ở mức cá nhân hơn so với một thập niên trước đây (trong phạm trù phong cách sống, quần áo mặc, và việc tự do đi lại), nhưng những tổ chức bất đồng chính kiến hoặc đối lập với nhà cầm quyền ở mức tối thiểu vẫn bị đàn áp triệt để như 10 năm trước. Từ chổ đứng của giới lãnh đạo Trung Quốc, những thay đổi kinh tế của 10 năm qua có nghĩa là gia tăng dự trữ mậu dịch quốc tế và tất nhiên là gia tăng lợi thế chưa bao giờ có trong thương lượng với các quốc gia khác. Tại sao phải làm gì hơn để lay chuyển con tàu?


xem tiếp: Hãy nhìn đây... Trung Quốc (2/2)
_______________________________________________

Ông James Man là tác giả của ba quyển sách về quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc. Ông ta là một tác giả thường trú tại Học Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Cấp Tiến Paul H. Nitze thuộc ĐH Johns Hopkins. - Hãy nhìn đây… Trung Quốc (1/2)



James Mann
Phỏng theo tờ The New Republic
KD chuyển ngữ
nguồn: http://www.tnr.com/article/world/behold-china

Bài 1: Hãy nhìn đây... Trung Quốc (1/2)


Trong những tháng gần đây, các đồng minh của TQ ở hải ngoại đã từng biện hộ nhiều năm và kêu gọi một sự hiểu biết thêm về đường lối lãnh đạo của TQ giờ đây đã bắt đầu lên tiếng về một khía cạnh bi quan đến bất ngờ. Trong một bài diễn văn vào tháng Giêng, cựu viên chức ngoại giao đã từng góp phần trong phong trào mở rộng quan hệ với TQ thời Nixon ông Chas W. Freeman Jr. đã phát biểu rằng nhà cầm quyền đương thời của TQ đã “không có giá trị đáng tin gì, họ không tin tưởng vào những người họ cai trị và cũng không được những người họ cai trị tin cậy. Họ [nhà cầm quyền TQ] phải gánh chịu mức độ tham ô cao và không có viễn kiến rõ ràng gì để cải thiện nó.” Ông Chas kết thúc như sau: “Bất chấp những thành tựu trong lĩnh vực kinh tế và khả năng phòng bị gia tăng, sự ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc sẽ mãi bị hạn chế nếu họ vẫn thất bại trong việc chuyển đổi sang một thế chế chính trị hấp dẫn hơn. Việc họ sẽ chuyển đổi không phải là không thể xảy ra, nhưng hiện nay không có dấu hiệu hay bằng chứng gì để chứng tỏ rằng họ sẽ chuyển đổi.”


Và sau đây… Barrack Obama. Khi đề cập đến Trung Quốc, TT Obama khác với Bush và Clinton một cách rất rõ ràng. Trong những công bố trước công chúng, TT Obama thường không nói rằng mậu dịch và đầu tư thương mại sẽ dẫn đến giải phóng chính trị hoặc nói rằng sự thịnh vượng đang gia tăng của Trung Quốc sẽ tạo nên một niềm mong ước chung về thay đổi thể chế độc đảng của quốc gia này. Ông [TT Obama] cũng không rào đón quan điểm thắng lợi về việc lịch sử sẽ đứng về phía Hoa Kỳ. Trong một bài diễn văn ở Thượng Hải, TT Obama đã nói như sau: “Tôi tin ràng mỗi quốc gia cần phải hoạch định phương hướng riêng của họ.”

Thay vào đó, chính phủ Obama đã miêu tả tương lai chính trị của Trung Quốc theo lối không hy vọng cho lắm: Chúng ta không thể thay đổi Trung Quốc, nhưng chúng ta vẫn phải đối phó với họ bằng một cách nào đó vì họ rất quan trọng đối với chính sách ngoại giao (hãy nghĩ đến Iran và Bắc Hàn) và nền kinh tế (hãy nghĩ đến trái phiếu nhà nước) của chúng ta. Khi các tranh chấp nổi lên, câu nói sáo ngữ mới thịnh hành sẽ là Hoa Kỳ và Trung Quốc có một “mối quan hệ chính chắn”. Cho nên, hai quốc gia sẽ tiếp tục gặp mặt và bàn luận với nhau về các vấn đề trọng đại, nhưng đồng thời cũng có những bất đồng mạnh mẽ. (Trong cùng ý nghĩa này, chính quyền Obama cũng có một “mối quan hệ chính chắn” với John Boehner và Mitch McConnel.

Ý nghĩ về một Hoa Kỳ hùng mạnh dẫn dắt Trung Quốc vào hệ thống hiện hữu đang bị lu mờ dần. Nếu TT Obama đã biểu lộ được gì thì đó chỉ là một ý thức được thổi phồng về sức mạnh của Trung Quốc. Khi ông viếng thăm Trung Quốc vào tháng 11 vừa qua, TT Obama đã chấp nhận những giới hạn về các chi tiết viếng thăm và khả năng ông có thể giao tiếp với người dân TQ. Đó là một việc làm đi xa hơn cả những gì Bill Clinton đã phải chịu đựng hơn một thập niên trước đó. TT Obama cũng đã đồng ý chung một bản “đồng tuyên bố” chính thức dài dòng với Trung Quốc mà trong đó, các câu chữ mơ hồ đã khơi lên nhiều bồn chồn lo âu ở Hoa Kỳ. Trong đó, Hoa Kỳ và Trung Quốc hứa hẹn sẽ tôn trọng “mục đích chủ yếu” của đối phương, một nhóm từ mà Trung Quốc đã định nghĩa để thu gom Đài Loan, Tây Tạng, và Tân Cương. Chính quyền Obama vẫn khẳng định rằng lời tuyên bố này không có gì là mới mẻ cả, nhưng Trung Quốc thì đã nhanh chóng lợi dụng nó và sẽ tiếp tục làm thế. (Khi TT Obama gặp gỡ Đức Dalai Lạt Ma vài tuần lễ vừa qua, Trung Quốc đã lập tức phàn nàn rằng đó là một hành vi vi phạm lời tuyên bố kia.)

Chính quyền Obama tránh né những tuyên bố hàng loạt về tương lai chính trị ở Trung Quốc vì họ nhận thấy được, qua lỗi lầm, những hạn chế trong quyền lực của mình khi đem đến thay đổi. Trong lúc đó thì ở những nơi khác trong nội địa Hoa Kỳ, qua các cuộc tranh luận trí thức công khai, ý niệm cũ của thập niên 1990 về việc mậu dịch thương mại sẽ đem đến giải phóng chính trị cho Trung Quốc đã nhường đường cho những công thức mới nhằm lệch hướng các mối quan ngại đối với việc Trung Quốc vẫn tiếp tục đàn áp các tổ chức bất đồng chính kiến. Câu nói cũ là Trung Quốc rõ ràng đang hướng về một cuộc đổi mới chính trị bất khả kháng. Câu nói mới là phần lớn người dân TQ không muốn thay đổi chính trị, dù sao đi nữa thì: người ta cho rằng nhân dân TQ còn thích thể chế chính trị của TQ hiện nay. Thật ra thì hướng suy nghĩ này không mới lạ, nó chỉ được khơi sống lại mà thôi. Nó vang dội lại những luận cứ được đưa ra ở Tây phương về Trung Quốc trong thập niên 60 và đầu thập niên 70 cho đến lúc bị chứng minh là sai lầm khi Mao Trạch Đông từ trần.

Những người có quan điểm lạc quan về tính đại chúng của nhà cầm quyền TQ đôi lúc đề cập đến Kế Hoạch Thăm Dò Quan Điểm Toàn Cầu của trung tâm nghiên cứu PEW tiến hành hai năm trước đây. Kế hoạch này cho thấy rằng 86% người Trung Hoa hài lòng với “những tiến triển đang xảy ra trong xã hội, quốc gia hôm nay.” Nhưng cuộc thăm dò ý kiến của PEW đồng thời cũng cho thấy một con số rất nhỏ về việc người dân Trung Quốc, so với tiêu chuẩn thế giới, hài lòng với những tiến triển đang xảy ra trong cuộc sống của họ, thay vì đối với cả quốc gia. Cuộc thăm dò của PEW đã không hỏi – vì không tổ chức thăm dò nước ngoài nào có thể hỏi - những câu hỏi cơ bản nhất: Bạn có muốn được bầu chọn người lãnh đạo của mình không? Bạn có thích Đảng CS Trung Quốc không? Ban có nghĩ quốc gia nên được lãnh đạo bởi một đảng phái duy nhất hay không?


Nhận thức về việc quan hệ thương mại của chúng ta với Trung Quốc sẽ không mở rộng thể chế chính trị của họ đã tác động đến chính sách của Hoa Kỳ và phương cách giải thích hoặc biện luận của họ về quan hệ Trung Quốc. Cuối cùng thì Hoa Kỳ có thể theo đuổi một chính sách kinh tế với Trung Quốc phù hợp với những mục tiêu kinh tế của người dân Hoa Kỳ - riêng biệt với những mục đích chính trị hay kế hoạch to lớn khác. Chúng ta không nên bấu vếu vào viễn ảnh cổ lỗ sĩ rằng chúng ta sẽ giải phóng Trung Quốc bằng mậu dịch thương mại trong khi Bắc Kinh thì chỉ theo đuổi những chính sách gây lợi và bảo vệ cho công nhân và các công nghiệp của ho.

Trong thời gian vận động ở những bang có nghành công nghiệp cao cho các cuộc bầu cử sơ bộ của năm 2008, cả Obama và Hillary Clinton đều tấn công các chính sách kinh tế của Trung Quốc và hứa hẹn nhiều thay đổi trong chính quyền mới. Bà Clinton đã phát biểu một cách cảm xúc khi tiếp xúc với một đám đông thuộc hội lao động ở thành phố Pittsburgh: “Không thể chấp nhận được việc Trung Quốc và các quốc gia khác cứ tiếp tục thao tác mức tiền tệ của họ với mục đích gây bất lợi cho các mặt hàng của chúng ta.” TT Obama thì không nhiều nóng giận như thế nhưng cũng đã phát biểu tương tự trong cùng một ngày. Obama đã nói rằng lãnh đạo TQ đã “hạ thấp giá tiền tệ của họ một cách đáng sợ, làm tăng lợi thế cho những sản phẩm của họ một cách không công bằng.” Những hứa hẹn của họ [Clinton và Obama] về một chính sách mới đã nhanh chóng được gác lên kệ sau khi chính phủ của họ chấp chính. Bộ trưởng Ngân Khố Hoa kỳ ông Timothy Geithner đã nói với Ủy Ban Tài Chính Thượng Viện trong một bản tuyên bố rằng “Tổng thống Obama… tin rằng Trung Quốc đang thao tác giá tiền tệ của họ.” Nói ngắn gọn, có lẽ sợ người ta lo ngại chính phủ mới có thể sẽ bắt đầu với thái độ không thiện cảm với Trung Quốc, nên ông Geithner đã thay đổi phương cách. Tháng Tư vừa qua, trong bản báo cáo chính thức đầu tiên về vấn đề tiền tệ, Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ đã quyết định không nói gì về sự thao tác này của Trung Quốc.

Đã đến thời hạn chính quyền Obama phải soạn thảo một bản báo cáo mới trong tháng tới và một lần nữa phải đề cập đến câu hỏi về Trung Quốc. Và Trung Quốc có thể sẽ nhượng bộ bằng một thay đổi giá trị ở mức độ nhỏ với nổ lực lánh né những thay đổi lớn. Vài nhà bình luận về Trung Quốc đã cảnh báo rằng giới lãnh đạo Trung Quốc không thể nhanh chóng chuyển động để chỉnh đốn những lạm dụng quyền lực của họ vì nếu họ làm thế, các công dân Trung Quốc sẽ bị sa thải trên phương diện lan rộng. Điều này thật đáng tiếc, nhưng chính quyền Obama cần phải chú trọng vào số việc làm ở Hoa Kỳ và thúc đẩy những thay đổi đáng kể trong giá tiền tệ của đồng Yuan Trung Quốc. Phỏng theo ước lượng gần đây của Paul Krugman, chính sách hiện tại của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến 1.4 triệu công ăn việc làm tại Hoa Kỳ trong thời hạn 2 năm tới đây.

Khi nói đến quan hệ ngoại giao, những cân nhắc cần thiết cũng được áp dụng. Ý tưởng kếp hợp Trung Quốc và một quy chế trật tự thế giới dẫn đầu bởi Hoa Kỳ ngay từ đầu đã là một con chimera [quái vật nhiều đầu trong thần thoại Hy Lạp]. Cho nên thay vì theo đuổi giá trị những mục tiêu to lớn mơ hồ, đơn giản là chúng ta phải theo đuổi những mục đích của chính chúng ta, như Trung Quốc đã và đang làm. Chúng ta có thể ngưng không hoang tưởng rằng những mục tiêu đó cùng đồng hợp với nhau. Không cần phải ký kết các bản tuyên bố vĩ đại về sự hợp tác Hán-Mỹ khi chúng không phản ảnh trực trạng đằng sau giữa hai quốc gia. Ở thời điểm này, các bài diễn văn viện dẫn những ngày hôm qua thuộc thời điểm Nixon-Kissinger không những không giúp ích gì mà còn cản trở những thương nghiệp chúng ta có thể thực hiện với Bắc Kinh. Nói chuyện mơ hồ trên không trung về quá khứ sẽ làm lệch hướng của chúng ta thay vì phải đối đầu với những bất đồng của hiện tại. Việc làm đó sẽ thiết lập một khung cảnh sai lầm mà trong đó, những lãnh đạo mới của Hoa Kỳ sẽ phải cảm thấy mặc cảm tội lỗi vì không thể giao tiếp với đối tác của họ như Kissinger đã làm với Chu Ân Lai.

Với những câu hỏi về dân chủ và nhân quyền, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tin rằng thể chế chính trị Trung Quốc sẽ không mở rộng trong thời gian sắp tới. Trong chuyến viếng thăm đầu tiên với tư cách Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton đã nói rằng bà ta không muốn chú tâm vào các vấn đề nhân quyền vì chúng tôi biết trước họ sẽ trả lời như thế nào.” Lời nói đó đã đúng phần nào. Nếu mục đích thảo luận về nhân quyền với Trung Quốc là để thắng giới lãnh đạo Trung Quốc, họ sẽ chỉ tốn hơi. Nhưng lý do tiếp tục đề cập đến những vấn đề này là để truyền đạt niềm tin không phai nhạt của chúng ta về những giá trị của quyền tự do và công khai tranh luận về chính trị với hy vọng rằng những người khác ở Trung Quốc, ngoài giới lãnh đạo, sẽ lắng nghe và quan tâm.

Những nhận thức của Hoa Kỳ về Trung Quốc thay đổi từ mùa này sang mùa khác. Chỉ một năm trước đây trong khi hai chính quyền làm việc để kích thích nền kinh tế của họ giữa cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu, có người đã nói đến việc nhà cầm quyền của hai quốc gia này đang hoạt động như một khối “G-2” mới cùng hợp lại để cai trị thế giới. Giờ đây, giữa những náo động từ Copenhagen và chuyến viếng thăm ngượng ngịu của TT Obama, chúng ta nghe được những lời tuyên đoán chung rằng chỉ có một mình Trung Quốc mà thôi: Trung Quốc như một khối G-1.

Có thể Trung Quốc sẽ sớm cử động để làm lắng dịu tình hình. Họ có thể giảm nhẹ chính sách chi phối giá tiền tệ đến mức lãnh đạo Hoa Kỳ và Âu Châu có thể xem đó là một thắng lợi nhỏ. Họ có thể sẽ có một chút cố gắng để trợ giúp Iran để khỏi bị xem là kẻ cản trở sự phê chuẩn của số đông. Có thể trong một năm tới, danh từ sớm nở tối tàn nổi tiếng dùng để áp dụng cho Trung Quốc sẽ thay đổi lại một lần nữa từ “quyết đoán” sang “uyển chuyển.

Nhưng, không cần biết chúng ta mô tả thái độ của Trung Quốc như thế nào để phản ảnh những chu kỳ thay đổi tương đối nhỏ trong chính sách của họ, quan điểm đằng sau đó của chúng ta về quốc gia này đã khác biệt một cách rõ rệt. Hoa Kỳ đã nhận thức được rằng những ước đoán của họ về Trung Quốc trong thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 là rất kỳ quặc và có giới hạn thời gian, điều này phản ảnh sự tự tin thái quá của Hoa Kỳ sau thời kỳ chiến tranh lạnh. Lúc đó, giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã nghĩ rằng Trung Quốc đứng bên lề trái của lịch sử và đang di chuyển về hướng của chúng ta với sứ mạng giải phóng bất khả kháng. Cuối cùng thì lịch sử cũng không còn chắc ăn cho lắm.


_______________________________________________

Ông James Man là tác giả của ba quyển sách về quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc. Ông ta là một tác giả thường trú tại Học Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Cấp Tiến Paul H. Nitze thuộc ĐH Johns Hopkins.

Tổng số lượt xem trang