Thứ Năm, 21 tháng 10, 2010

Osho – Maitri Bhavana – Pháp quán từ bi

Osho – Maitri Bhavana – Pháp quán từ bi

Đặng Hữu Phúc dịch

Có một pháp thiền Phật giáo tên là Maitri Bhavana: Pháp Quán Từ Bi. Pháp này bắt đầu bằng cách nói với chính mình “Tôi muốn làm cho tôi an vui mạnh giỏi, tôi muốn làm cho tôi hạnh phúc, tôi muốn làm cho tôi thoát khỏi trạng thái đối nghịch, tôi muốn làm cho tôi không có ý xa lánh những điều thiện hảo để rồi tạo ra tổn hại cho chính tôi” (May I be free from ill will against myself). Sau khi chính mình thâm nhập những cảm-thọ do những tư-tưởng này lưu-xuất, giai đoạn kế tiếp của pháp thiền này gồm có việc giàn trải những tư-tưởng này đến những người khác- bắt đầu với quán tưởng làm hiện rõ những người bạn từ bi yêu thương (love) và trao gửi những cảm-thọ tốt đẹp này đến họ; và sau đó cũng làm như thế đối với những người bạn từ bi yêu thương kém hơn, cho tới khi bạn có thể vẫn cảm thấy lòng đại bi với cả những người bạn thấy thù ghét.

Tôi đã cảm thấy pháp thiền này khiến tôi trở nên quảng đại, phóng khoáng, theo cách này cách khác, đối với những người khác. Nhưng tôi đã buông bỏ pháp thiền này bởi vì tôi đã thấy trong pháp thiền này có cái nguy hiểm vì nó là một loại tự thôi miên. Tôi vẫn cảm thấy pháp thiền này hấp dẫn tôi nhưng tôi cũng hoang mang – tôi có nên tiếp tục pháp thiền, có lẽ với một thái độ khác, hoặc chỉ việc buông bỏ nó. Xin ngài vui lòng giảng về pháp thiền này. Tôi chân-thành tri-ân.

Maitri Bhavana Pháp Quán Từ Bi là một trong những pháp thiền thâm nhập sâu sắc nhất. Bạn không phải lo sợ là đang đi vào một loại nào đó của tự thôi miên; pháp thiền này không phải loại đó đâu. Thật ra nó là một loại giải trừ thôi miên. Nó giống như thôi miên bởi vì nó là một tiến trình ngược chiều. Nó giống như bạn đi đến gặp tôi từ nhà bạn, bạn bước dọc theo cùng con đường đó để về lại nhà bạn. Điều khác biệt sẽ là giờ đây bạn sẽ đưa lưng về phía căn nhà tôi. Con đường sẽ vẫn như vậy, bạn sẽ vẫn như vậy, nhưng khuôn mặt bạn hướng về phía nhà tôi trong khi bạn đi đến đây; bây giờ lưng bạn sẽ hướng về phía nhà tôi.

Con người đã bị thôi miên rồi. Câu hỏi là không phải hiện nay bị thôi miên hoặc không bị thôi miên – bạn đã bị thôi miên rồi. Tiến-trình toàn thể của xã hội là một loại thôi miên. Người ta gọi một ông là một người Ki-tô giáo thế nên tâm trí ông ta lặp lại nhiều lần, bị điều kiện hóa và ông ta nghĩ chính ông ta là một người Ki-tô giáo. Có người thì là người Ấn giáo, có người thì là người Hồi giáo. Những người này tất cả đều ở trạng thái bị thôi miên. Bạn đã bị thôi miên rồi. Nếu bạn nghĩ bạn khốn khổ, đây là một trạng thái thôi miên. Bất cứ cái gì bạn là, thì bạn là một thứ bị thôi miên. (Whatsoever you are is a sort of hypnosis). Xã hội đã ban cho bạn những ý tưởng này, và bây giờ bạn chứa đầy những ý tưởng này và những đáp ứng đã bị điều-kiện hóa hun đúc (conditionings).

Pháp Quán Từ Bi là một giải trừ thôi miên: Nó là một nỗ lực đem cái tâm tự-nhiên của bạn trở lại với bạn; nó là một nỗ lực mang cái bản lai diện mục trở lại với bạn; nó là một cái nỗ lực mang bạn tới cái điểm mà bạn mới sinh ra và xã hội chưa khởi sự vo tròn bóp méo bạn, chưa biến đổi bạn thành kỳ quái (the society had not yet corrupted you). Khi một đứa trẻ được sinh ra nó ở trong trạng thái thiền quán Từ bi. Pháp thiền Từ bi chính là cảm-thức mênh mông của thân hữu, từ bi yêu thương, đại bi. Khi đứa trẻ được sinh ra nó không biết thù ghét, nó biết chỉ có từ bi yêu thương. Từ bi yêu thương là tự nó có; sân hận là cái nó sẽ học về sau. Tính tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh (jealousy), tính chiếm-hữu (possessiveness), tính thèm-khát-được-như-người (envy), nó sẽ học về sau. Những cái này chính là những cái xã hội sẽ dạy những đứa trẻ: làm thế nào để tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh, làm thế nào để lòng-chứa-đầy-thù-ghét, làm thế nào để lòng đầy sân hận hoặc bạo lực. Những điều này xã hội sẽ dạy chúng.

Khi đứa trẻ được sinh ra nó chỉ là từ bi yêu thương đơn thuần. Nó phải-là-như-thế, bởi vì nó không biết một cái gì khác cái đó. Trong tử cung của người mẹ nó không gặp phải bất cứ một kẻ thù nào. Nó sống trong lòng yêu thương từ bi sâu đậm trong chín tháng, bao bọc xung quanh bởi lòng từ bi thương yêu, nuôi dưỡng bởi lòng từ bi thương yêu. Nó biết là không ai gây chướng ngại cho sự phát triển tồn tại của nó. Nó biết chỉ có bà mẹ và lòng từ bi thương yêu của bà mẹ. Khi nó được sinh ra thì toàn thể kinh nghiệm của nó là kinh nghiệm của từ bi yêu thương, thế nên làm sao bạn có trông mong nó biết bất cứ thứ gì về thù ghét. Nó mang theo với nó lòng từ bi yêu thương; cái này là bản lai diện mục (this is the original face). Thế rồi sẽ có những vấn đề, những khó khăn và rồi sẽ là bao nhiêu kinh nghiệm khác nữa. Nó sẽ bắt đầu không tín nhiệm vào lòng thành thật, lòng hiền lương của con người. Một đứa trẻ mới sinh ra thì sinh ra đơn thuần với lòng tín nhiệm nơi lòng thành thật, lòng hiền lương của con người. (A newborn child is simply born with trust).

Trẻ con đang tín nhiệm nơi con người, nhưng dần dần chúng sẽ có những kinh nghiệm bị lừa dối đưa chúng tới những khó khăn, những vấn đề – những kinh nghiệm trong đó chúng bị chống đối, bị đàn áp, những kinh nghiệm trong đó chúng trở nên kinh sợ. Dần dần chúng sẽ học tất cả các trò lừa đảo của thế giới. Đó là những gì xảy ra, nhiều hoặc ít, cho tất cả mọi người.

Giờ đây thiền pháp từ bi đang kiến tạo lại tình cảnh bắt đầu trước đây: nó là một giải trừ thôi miên. Nó là một nỗ lực để buông bỏ thù ghét, sân hận, tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh, tính thèm-khát-được-như-người và trở lại với thế giới ở nơi chốn khởi đầu vào lúc bạn mới đến (as you came in the first place). Nếu bạn tiếp tục thực hành pháp thiền này, trước hết bạn bắt đầu từ bi với chính mình, yêu thương chính mình– bởi vì bạn gần gũi thân cận chính bạn hơn bất cứ một ai khác. Rồi thì bạn trải rộng lòng từ bi yêu thương của bạn, lòng bạn hữu thân thiết của bạn, lòng đại bi của bạn, cảm thức của bạn (your feelings), lòng mong muốn lương hảo của bạn (your well-wishing), lòng vô úy thí của bạn (lòng đem lại an-ổn-không-sợ-hãi của bạn – your benediction), lòng tùy thuận của bạn (lòng chấp thuận-và-hỗ-trợ – your blessings) – bạn trải rộng những lòng này đến những người bạn từ bi yêu thương những bạn hữu, những người tình của bạn. Rồi sau đó dần dần, bạn trải rộng lòng này tới nhiều người hơn, những người mà bạn không từ bi yêu thương nhiều lắm, và rồi sau đó đến những người xa lạ, không liên hệ – mà bạn chẳng yêu cũng chẳng ghét – và rồi sau đó dần dần tới những người mà bạn thường ghét bỏ. Chậm chạp dần dà bạn đang giải trừ thôi miên cho chính bạn. (Slowly you are de-hypnotizing yourself). Chậm chạp dần dà thong dong bạn lại đang tạo lập lại một thai tạng của từ bi yêu thương xung quanh chính bạn (a womb of love around yourself.)

Khi một vị Phật ngồi, ngài ngồi trong hiện hữu (tồn sinh) như là toàn thể hiện hữu lại trở thành thai tạng của mẫu thân ngài. (When a buddha sits, he sits in existence as if the whole existence has again become his mother’s womb). Chẳng có gì là thù ghét đối nghịch. Ngài đạt tới thân pháp tánh ngài (He has attained to his original nature). Ngài đã đến với thân tự tánh của ngài (He has come to know the essential in himself). Bây giờ chính lúc này có thể giết ngài nhưng bạn không thể hủy diệt lòng đại bi của ngài. Chính ngay cả lúc đang chết, ngài vẫn an-trú với lòng đại bi hướng về bạn. Bạn có thể giết ngài nhưng bạn không thể hủy diệt tín nhiệm của ngài vào lòng thành thật, lòng lương hảo của bạn (you can kill him but you cannot destroy his trust). Giờ đây ngài biết rằng tín nhiệm vào lòng thành thật lòng lương hảo là một cái gì đó rất là căn-để mà một khi bạn đã đánh mất lòng tín nhiệm nơi thành thật, lương hảo là bạn đánh mất tất cả. (Once you lose trust you lose all). Và nếu bạn không đánh mất lòng tín nhiệm nơi thành thật, lương hảo và mọi thứ khác điều bị đánh mất thì chỉ, cái-không-đáng-gì là bị mất đi (nothing is lost) Bạn có thể lấy đi mọi thứ từ nơi ngài nhưng bạn không thể lấy đi lòng tín nhiệm của ngài nơi sự thành thật, sự lương hảo. Thiền pháp từ bi là diệu mỹ (Maitri Bhavana is beautiful) (beautiful = very skillful). Không việc gì phải buông bỏ nó (there is no need to drop it). Nó giúp đỡ muôn vàn cho bạn. Nó là sự giải trừ các khuôn mẫu do cấu trúc nối kết (It is a de-structuring).

Bản-ngã thì được sáng tạo với ghét bỏ, đối nghịch, đấu tranh. Nếu bạn muốn buông bỏ cái bản ngã bạn sẽ phải sáng tạo những cảm thọ từ bi nhiều hơn (more love feelings). Khi bạn từ bi, yêu thương, bản ngã biến mất. Nếu bạn từ bi yêu thương vô hạn, từ bi yêu thương không điều kiện, từ bi yêu thương tất cả, thì vào lúc đó cái bản ngã không thể tồn-tại. Bản-ngã một cái ngu ngốc nhất có thể xuất hiện và ảnh hưởng đến (can happen to) một người đàn ông hoặc đàn bà. Một khi nó đã vào cuộc thì bạn khó thấy được nó vì nó làm bạn tối mắt.

Một khi bản ngã xuất hiện, vào cuộc nó tiếp tục thu góp khắp mọi nơi hữu lý, vô lý — nhưng nó tiếp tục cảm thọ chính nó quan trọng. Trong từ bi yêu thương, bạn nói “Bạn cũng quan trọng, không phải chỉ có tôi”. Khi bạn từ bi yêu thương một ai đó, bạn đang nói gì? Bạn đang muốn nói hoặc không muốn nói, nhưng cái gì thực sự nằm sâu trong tim bạn? Bạn đang nói hoặc bằng lời nói hoặc bằng im lặng, “Bạn cũng quan trọng rất nhiều như tôi”. Nếu lòng từ bi yêu thương phát triển sâu đậm hơn nữa, bạn sẽ nói “Đến ngay cả lúc này, bạn vẫn quan trọng nhiều hơn tôi. (you are even more important than me). Nếu phát sinh một tình huống nơi đó chỉ có thể một người có thể tồn tại, tôi sẽ chết cho bạn và tôi muốn bạn tồn tại được”. Người khác đã trở thành quan trọng hơn; Chính đến lúc này, bạn sẵn sàng hy sinh chính bạn cho người bạn từ bi yêu thương (love = từ bi = yêu thương) Và nếu sự vụ này tiếp tục trải rộng ra trong thiền quán từ bi, thì sau đó dần dần bạn bắt đầu biến mất. Nhiều thoáng giây sẽ đến khi mà bạn sẽ không ở đó –tĩnh lặng tuyệt đối, không một chút bản ngã, không có trung tâm, chỉ là chân không (just pure space). Đức Phật nói: “Khi điều này được đạt đến với tính thường hằng, và bạn hòa nhập với chân không này, lúc đó bạn chứng ngộ.

Khi bản ngã bị mất đi hoàn toàn bạn chứng ngộ: Khi bạn trở thành vô ngã như thế khiến cho bạn không thể, chính ngay lúc này nói “Tôi là” (I am) bạn không thể ngay chính lúc này nói rằng “Tôi là bản ngã” (I am a self) .Từ ngữ mà Đức Phật dùng cho trạng thái này là vô ngã (anatta): Phi hữu-thể (no-being, non-being: vô thể, phi hữu thể), vô bản ngã, phi ngã (no self). Bạn không thể chính lúc này thốt ra cái từ ngữ “Tôi”, chính cái từ này trở thành phàm phu, thế tục, ngoại đạo, bất kính tâm linh, bất kính tôn giáo (you cannot even utter the word “ I ” the very word becomes profane). Trong thương yêu, trong từ bi sâu thẳm “Tôi” biến mất. Bạn đã được giải trừ cấu trúc. (= Bạn tự do).

Khi đứa trẻ được sinh ra nó đến với đời không đem theo “cái tôi”. Nó đơn giản chỉ là một tờ giấy trắng, không có cái gì được viết trên đó cả. Lúc bấy giờ, ngay tức khắc xã hội sẽ khởi sự viết, và sẽ khởi sự thu hẹp tâm thức của nó (his consciousness). Xã-hội sẽ dần dần quy định một vai trò cho nó — “Đây là vai trò của bạn; đây là bạn”– và nó sẽ bám chặt vào vai trò đó. Vai trò đó sẽ không bao giờ cho phép nó được hạnh phúc bởi vì hạnh phúc có thể có khi mà bạn vô biên, vô tận (infinite). Khi bạn thu hẹp, bạn không thể hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là một chức năng của cái hạn hẹp; hạnh phúc là một chức năng của vô-tận-xứ, hư không vô-tận-xứ. (happiness is a function of infinite space). Khi bạn mênh mông thênh thang như thế thì toàn thể có thể vào trong bạn, và chỉ lúc đó bấy giờ bạn có thể hạnh phúc.

Matri Bhavana – Thiền quán từ bi có thể là một trợ giúp mênh mông.

Chú thích của người dịch bản Việt ngữ

Để đoạn dứt sự e sợ danh từ VÔ NGÃ của phàm phu, Đức Như Lai đã giảng trong Kinh Lăng già:

Phật bảo Đại Huệ:

Ta nói Như Lai Tạng chẳng đồng với cái thuyết “Chơn ngã” của ngoại đạo. Đại Huệ! Ta có lúc nói Không, Vô tướng, Vô nguyện, Như thật tế, Pháp tánh, Pháp thân, Niết Bàn, lìa tự tánh, bất sanh bất diệt, bổn lai tịch tịnh, tự tánh Niết Bàn v.v… dùng những danh từ này để thuyết Như Lai Tạng xong, ấy là vì Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác muốn đoạn dứt sự e sợ danh từ VÔ NGÃ của phàm phu, nên nói cảnh giới lìa vọng tưởng, Vô Sở Hữu là Như Lai Tạng.

Đại Huệ! Bậc Bồ Tát vị lai, hiện tại, chẳng nên sanh ngã kiến chấp trước. Ví như thợ gốm nơi một đống đất dùng phương tiện nhơn công, nước, cây, bánh xe quay để làm ra các món đồ gốm, thì Như Lai cũng như thế; ở nơi pháp Vô Ngã lìa tất cả tướng của vọng tưởng, dùng đủ thứ trí huệ, phương tiện khéo léo, hoặc thuyết Như Lai Tạng, hoặc thuyết Vô Ngã. Do nhân duyên này, nên cái thuyết Như Lai Tạng của ta chẳng đồng với cái thuyết chơn ngã của ngoại đạo. Vì khai mở cái trói chấp ngã của các ngoại đạo, nên có cái thuyết Như Lai Tạng, khiến họ lìa vọng tưởng ngã kiến chẳng thật, ngộ nhập cảnh giới ba cửa giải thoát, mong họ chóng được Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phải thuyết Như Lai Tạng như thế. Nếu chẳng như vậy, ắt đồng với ngoại đạo. Cho nên, Đại Huệ! Vì lìa kiến chấp của ngoại đạo, cần phải y theo pháp Vô Ngã của Như Lai Tạng mà tu học.

(Kinh Lăng già. Bản dịch Thích Duy Lực, trang 67-68).

Nguồn: Đặc san Hiện Thực (Úc), số 16/2009, năm thứ 5 , trang 146-154. Pháp thoại nguyên bản trích từ: Osho – Compassion: The Ultimate Flowering of Love.

Phụ lục

Asanga – Pháp quán đại bi

Đặng Hữu Phúc dịch

[Tu tập mở đầu]

Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng (equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu tình và rồi tư duy về giáo pháp tâm linh về nhân và quả có bảy chi do ngài Di Lặc giảng cho ngài Vô Trước. Trước nhất, hãy tưởng tượng xuất hiện trước bạn một hữu tình chẳng hề giúp đỡ bạn cũng chẳng hề gây tổn hại bạn. Hãy nghĩ “Ông này tự thấy ông ta muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau, hoàn toàn giống như mọi người khác cũng đều mong muốn như vậy. Tôi sẽ làm cho tôi thoát khỏi sự yêu thích và không yêu thích. Tôi chẳng muốn cảm thấy thân cận với vài người và giúp đỡ họ trong khi đó cảm thấy xa cách những người khác và làm tổn hại họ. Tôi sẽ phát triển tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình. Chư vị lạt ma và chư thiên hãy gia hộ cho tôi làm được điều này!”

Một khi bạn cảm thấy tâm bình đẳng đối với người trung lập đó, hãy tưởng tượng một người mà bạn yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình đẳng đối với người đó. Hãy nghĩ “Lòng thiên lệch của tôi là do lòng yêu thích của tôi. Vì tôi luôn luôn ham muốn những hữu tình quyến rũ, tôi đã tái sinh liên tục trong vòng sinh – tử đầy khổ lụy”. Hãy ngăn chặn lòng ham muốn của bạn bằng tư duy như thế và hãy thiền định.

Một khi bạn cảm thấy tâm bình đẳng đối với con người yêu thích đó, hãy tưởng tượng đến một người không yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình đẳng đối với người này. Hãy nghĩ “Bởi vì đã có một sự không hòa thuận giữa chúng tôi, tôi đã phát triển một sự không yêu thích đối với người này và do thế tôi thiếu tâm bình đẳng. Không có tâm bình đẳng tôi không thể có tâm Bồ-đề trong tâm trí tôi!” Hãy ngăn chặn lòng không yêu thích của bạn bằng tư duy như thế và hãy thiền định.

Khi bạn cảm thấy tâm bình đẳng đối với người không yêu thích đó, hãy tưởng tượng cả hai người chung với nhau. Hãy nghĩ “Hai người này đều giống nhau ở điểm mỗi người tự mình muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau. Nhìn từ quan điểm của tôi, người này giờ đây tôi thân cận như thế nhưng đã tái sinh làm kẻ thù của tôi vô số lần rồi. Người này tôi cảm thấy bất hòa nhưng đã tái sinh làm mẹ của tôi vô số lần và đã săn sóc tôi với lòng từ bi, lòng yêu thương. Tôi nên yêu thích người nào đây? Tôi nên oán ghét người nào đây? Tôi muốn cảm thấy tâm bình đẳng, không vướng vào yêu thích và không yêu thích”. Chư vị Lạt ma và chư thiên, hãy gia hộ tôi thực hiện được tâm bình đẳng này.

Một khi bạn đã cảm thọ tâm bình đẳng như thế, hãy trải rộng tâm này đến tất cả hữu tình. “Tất cả hữu tình đều như nhau. Mỗi hữu tình đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tất cả hữu tình đều là người trong gia đình của tôi. Do đó tôi sẽ học tâm bình đẳng và không vướng mắc vào chuyện yêu thích kẻ tôi thấy thân cận và không yêu thích kẻ mà tôi thấy xa cách, giúp đỡ vài người và tổn hại những người khác. Chư vị Lạt ma và chư thiên hãy gia hộ tôi thành tựu điều này!”

[1: Tất cả hữu tình đều là mẫu thân]

Một khi bạn đã phát triển được tâm bình đẳng, hãy thực thi giáo chỉ thứ nhất của bảy giáo chỉ về nhân và quả để đạt đến Tâm Bồ đề. Hãy quán tưởng chư vị lạt ma và chư thiên trước mặt bạn và hãy tư duy “Tại sao tất cả hữu tình là người trong gia đình tôi? Vì không có sự khởi đầu của vòng sinh tử, thế nên cũng không có sự khởi đầu của các tái sinh của tôi. Trải qua vô lượng vô biên cuộc sống này, không hình thức sinh sống nào mà tôi không được sinh ra. Trong tất cả hữu tình, không ai mà không là mẹ của tôi trong vô số lần. Mỗi người là mẹ của tôi trong thế giới con người vô lượng lần, và sẽ lại trở thành mẹ tôi nhiều lần nữa”.

Khi bạn đã kinh nghiệm đầy đủ sự thật này, hãy tư duy về lòng từ bi (the kindness) mà chúng sinh đã hiển hiện cho bạn khi họ đã là mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt ma và chư thiên trước bạn, hãy tưởng tượng rõ ràng mẹ của bạn ở đời này, khi bà còn trẻ và khi bà già dần đi. “Bà không những chỉ là mẹ tôi trong đời này, nhưng bà đã chăm lo săn sóc cho tôi biết bao nhiêu đời qua mà con số không thể đếm được. Trong đời này bà đã từ bi cho tôi an-trú trong thai tạng của bà, và khi tôi được sinh ra bà đã thương yêu đặt tôi trên chiếc gối mềm mại và ru tôi trong vòng tay của bà. Bà đã ôm ấp tôi với bộ ngực ấm áp của bà, đã cho tôi bú những giòng sữa ngọt ngào của bà. Bà đã đón chào tôi với nụ cười âu yếm và ngắm nhìn tôi với đôi mắt hạnh phúc sung sướng. Bà lau sạch nước mũi cho tôi và thu dọn sạch sẽ các thứ tôi bài tiết. Tôi có đau yếu chút ít thì làm bà lo lắng khốn khổ hơn so với cái lo bà có khi bà sắp chết. Xem nhẹ các đau khổ thân tâm, các cơ cực về tinh thần, các lạm dụng, tệ bạc, không quan-tâm chút nào đến chính bà, bà cung cấp cho tôi đầy đủ, sẵn sàng mọi thứ tôi cần cũng y như lúc bà cung cấp thức ăn thức uống và nơi cư-trú. Bà cho tôi vô lượng hạnh phúc và lợi-ích và bảo-vệ tôi tránh khỏi mọi khổ đau và những tổn hại không thể đo lường được”. Hãy tư duy về lòng từ bi vô lượng của bà. Và rồi sau đó, cũng theo cách đó, hãy tư duy về lòng từ bi của cha của bạn và những người khác thân thiết với bạn, bởi vì họ cũng là mẹ của bạn đã vô số lần.

[2: Tưởng nhớ ân đức của tất cả hữu tình mẫu thân]

Khi bạn có đầy đủ kinh nghiệm về sự thật này, hãy thiền quán về những hữu tình bạn cảm thấy vô tư đối với họ (impartial) “Mặc dầu giờ đây có vẻ như họ không có liên quan gì với tôi, họ đã là mẹ của tôi vô số lần, và trong những đời sống đó, họ đã bảo vệ tôi với lòng từ bi và nhân-đức”. Khi bạn đã có kinh nghiệm về sự thật này hãy thiền quán về những hữu tình mà họ giờ đây là đối-thủ đua tranh với bạn. Hãy tưởng tượng rõ ràng trước bạn, và hãy nghĩ: “Làm sao bây giờ tôi có thể cảm thấy rằng những người này là những kẻ thù của tôi? Vì số lượng cuộc đời đã vô lượng, họ đã là mẹ tôi trong vô số lần. Khi họ là mẹ tôi họ đã đem đến cho tôi hạnh phúc và lợi ích vô lượng và đã bảo-vệ tôi thoát khỏi khổ đau và tổn hại. Nếu không có họ tôi không thể tồn tại ngay chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi và nếu không có tôi họ sẽ không thể chịu nổi những đau khổ cơ cực dù chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi cảm thấy một sự gắn bó mạnh mẽ như thế trong vô số lần. Thế mà bây giờ họ là những đối-thủ của tôi do duyên khởi vận-hành (due to bad evolutionary actions). Vào một thời gian khác trong tương lai họ sẽ lại là mẹ của tôi, người bảo vệ tôi với lòng từ bi.” Khi bạn có kinh nghiệm đầy đủ về sự thật này, hãy thiền quán về lòng nhân-đức của tất cả hữu tình.

[3: Phát triển ý-nguyện báo ân hữu tình mẫu thân]

Sau đó hãy thiền quán về báo ân tất cả hữu tình, tất cả các bà mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt ma và chư thần bảo-hộ (deities) trước bạn và tư duy. Từ thời vô-thủy những bà mẹ này đã bảo vệ tôi với lòng từ bi nhân đức. Vậy mà từ đó tới nay (yet as) tâm trí của họ bị phiền não (phiền-động não-loạn) bởi những ma chướng của say mê, mê đắm (demons of addictive passsions) họ đã không có được tâm trí tự chủ và thành ra bị quẩn trí. Họ thiếu con mắt để thấy hoặc con đường đưa tới cõi người và chư thiên hoặc con đường đưa tới Niết Bàn, tối-thượng thiện-hảo. Họ không có được vị thầy tâm linh, người dẫn đường cho những kẻ mù. Liên tục bị thoi nện bầm dập tả tơi do các tác-nghiệp sai-trái đánh-nhầu-với-nhau-một-trận, họ lăn trượt tới bên bờ vực thẳm dễ sợ của tái sinh trong tương tục của sinh tử, đặc biệt là những cảnh-giới thấp kém của tử-sinh (continually pummeled by the discord of wrong deeds, they slip to the edge of the terrifying abyss of rebirth in the life-cycle, especially its lower states). Tảng-lờ-không-ngó-ngàng đến những bà mẹ từ bi nhân-đức này là không biết hổ thẹn. Để báo-ân tôi sẽ giải-thoát họ khỏi khổ đau sinh tử tương-tục và sẽ an-lập họ trong đại-lạc của giải thoát. Chư vị lạt ma và chư thiên, hãy gia hộ cho tôi làm được điều này.

[4: Phát triển tâm từ bi: Giúp hữu tình mẫu thân làm chủ hạnh phúc và căn nguyên của hạnh phúc]

Rồi sau đó hãy thiền quán về từ bi (Love). Hãy tưởng tượng một người bạn quý mến rất nhiều, chẳng hạn như mẹ của bạn. “Làm thế nào để bà ta có thể có được hạnh phúc vô-lậu, hạnh phúc không còn tập khí phiền não, (undefiled happiness: tịnh lạc) khi mà bà không có được ngay cả hạnh phúc hữu lậu (defiled happiness), hạnh phúc vẫn còn tập khí phiền não của cõi đời sinh tử tương tục? Những gì hiện nay bà hãnh-diện khoe-khoang khoác-lác là hạnh phúc thì trơn tuột mất biến thành khổ đau. Bà khao khát và khao khát, nỗ lực và nỗ lực, ham muốn cái hạnh phúc phù du của giây phút thoáng qua (desiring a moment’s happiness), nhưng bà chỉ tạo lập căn-nguyên của khổ đau tương lai và những tái sinh trong những cảnh-giới thấp kém hơn của hữu tình. Nên trong cõi đời này, mệt lử và kiệt sức, bà chỉ tạo ra khốn khổ, khổ đau. Nhất-định-là-dứt-khoát-là, bà không có hạnh phúc thật sự. (She definitely does not have real happiness). Thật là tuyệt diệu biết bao nếu bà làm chủ được hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Bà mong muốn làm chủ chúng. (May she possess them!)

Tôi sẽ làm cho bà làm chủ hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Chư vị lạt-ma và chư thiên hãy gia hộ tôi làm được điều này!”

Khi bạn đã đạt được kinh nghiệm này, hãy tiếp tục thiền quán, trước hết hãy tưởng tượng những người khác thân thiết với bạn, tỉ dụ cha của bạn, và sau đó hãy tưởng tượng một người mà bạn cảm thấy vô tư với họ, và sau đó một người đối nghịch và sau cùng tất cả hữu tình.

[5: Phát triển tâm đại bi: Giải cứu khổ đau của hữu tình mẫu thân trong sinh tử tương tục]

Và rồi sau đó hãy thực hiện pháp thiền đại bi và trách-nhiệm phổ-quát (Then do the meditation of great compassion and universal responsibility): “Chư vị phụ-thân và mẫu thân của tôi, số lượng có thể chất đầy bầu trời, đang bị buộc chặt vào vòng duyên khởi nhân quả và những thống khổ trong hoàn cảnh bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ (helplessly). Bốn dòng sông giòng tương tục của ái dục (desire), giòng tương tục của hữu (existence), giòng tương tục của vô-minh (ignorance), giòng tương tục của tà-kiến [hoặc tin vào đấng tạo lập hữu ngã thường hằng, bản ngã thường hằng; hoặc tin vào đoạn diệt, không có đời trước đời sau, không có duyên khởi, không có giải thoát (fanaticism: chủ-thuyết tôn giáo cuồng tín vào cực đoan = tà-kiến)], tất cả bốn dòng sông này quét họ vào trong giòng nước lũ của sinh tử tương tục trong cảnh họ bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ, vào nơi mà họ bị vùi giập tả tơi hoa lá bởi những con sóng của sinh, già, bệnh và chết (The four rivers, the rivers of desire, existence, ignorance, and faniticism, sweep them helplessly into the currents of the life cycle, where they are battered by the waves of birth, old age, sickness anh death). Họ bị trói buộc trọn vẹn vào cái vòng trói chặt chẽ và khó mà phá được các mối nối kết đủ loại của các tác nghiệp duyên khởi nhân quả. Từ thời vô-thủy họ đã bước vào cái lồng sắt của thủ chấp những ý niệm “tôi” và “của tôi” ở ngay tâm điểm của lòng họ. Cái lồng này thì rất khó mà khai mở bởi bất cứ một ai. Bị bao trùm bởi bóng tối mênh mông của vô-minh (=vô thủy vô minh) nên mọi phán đoán thiện ác đều bị ngăn ngại, họ không nhìn thấy, chính lúc này, con đường đưa đến những trạng thái hạnh phúc của hữu tình. Nói chi đến chuyện họ thấy con đườnggiải thoát và giác ngộ (Much less do they see the path leading to liberation and enlighttenment).

[6: Trách nhiệm phổ quát = Bản thệ: Nếu tôi không cứu, ai sẽ cứu?]

“Những hữu tình tiều tụy này đã bị hành hạ không ngừng nghỉ bởi những khổ đau của khốn khổ (khổ khổ), khổ đau của biến dịch (hoại khổ), và khổ đau lan tràn của tạo tác (hành khổ). Tôi thấy tất cả các hữu tình này, những mẫu thân của tôi, đang bị trầm luân thê thảm trong đại-dương của sinh-tử. Nếu tôi không cứu họ, ai sẽ cứu? Nếu tôi tảng-lờ-không-hay-biết đến họ, tôi sẽ không biết xấu hổ là gì, một loại thứ thấp kém nhất trong tất cả hữu tình. Nguyện-vọng của tôi theo học đại thừa sẽ chỉ thuần là từ-ngữ, và tôi không thể nào trình diện mặt tôi trước Chư Phật và Bồ-Tát. Thế nên, trong mọi hoàn cảnh, tôi sẽ phát triển khả năng cứu vớt tất cả mẫu thân hiền-đức âu sầu của tôi ra khỏi đại-dương sinh-tử và an-lập họ nơi quả-phật. Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách-nhiệm phổ-quát, dũng mãnh, tinh thành và nhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ (Think this and generate a very strong and pure universal responsibility).

[7: Phát triển Bồ-Đề-Tâm]

Cuối cùng hãy thiền định về tâm Bồ-đề. Hãy tự hỏi bạn có thể hoặc không thể an-lập tất cả hữu tình nơi quả phật, và hãy phản-tỉnh (reflect), “Tôi không biết tôi đang đi đâu; làm sao tôi có thể an lập vào chính lúc này, một hữu tình nơi quả phật? Ngay cả đến những vị đã thành tựu những quả vị học trò của Đức Phật (disciple: Thanh Văn) hoặc ẩn-sĩ Phật (hermit Buddha: Độc giác Phật) cũng chỉ có thể thành tựu những mục tiêu nhỏ bé của hữu tình, và không thể an-lập các hữu tình nơi quả Phật. Thế nên chỉ có một vị Phật toàn giác (a perfect Buddha) mới có thể dẫn tất cả hữu tình đến toàn giác (full enlighttenment). Thế nên trong mọi hoàn cảnh (no matter what), tôi sẽ đạt quả vị Phật Vô-Thượng Chánh-Đẳng-Chánh-Giác (peerless and completely perfect Buddhahood) vì lợi ích của tất cả hữu tình. Chư vị lạt ma và chư thiên , hãy hoan hỉ gia hộ tôi làm được điều này!”

Chú thích của bản dịch Việt ngữ

1: Trong bản dịch Việt ngữ, những gì bên trong dấu […] đều là chú thích của người dịch bản Việt.

2:

Bản Anh ngữ: Think this and generate a very strong and pure universal responsibility.

Pure: Clear- clean- does not contain any harmful substances – complete and total – produced or practised according to a standard or form that is expected of it (Formal)

Universal: 1. of affecting or including all; 2. existing or occuring everywhere

Bản Việt ngữ: Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách nhiệm phổ quát dũng mãnh, tinh thành và nhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

Nhất tâm = dốc lòng.

Universal love = compassion = đại bi, tình yêu phổ quát

Universal responsibility = trách nhiệm phổ quát = tâm đại bi

Mother beings: hữu tình mẫu thân

3.

Mười hai chi của một vòng duyên khởi:

1.Vô minh 2.hành 3.thức 4.danh sắc 5.Sáu xứ 6.xúc

7.thọ 8. ái 9.thủ 10.Hữu 11.Sinh 12.lão tử

Hữu (Bhava: Sanskrit)

Hữu (Existence) là trở thành (becoming). Hữu là tiến trình của nghiệp, là quả của nghiệp hiện tại, nuôi dưỡng bởi Ái và Thủ. Hữu là giai đoạn đi trước giai đoạn tái sinh (new existence): sinh và lão tử. Thế nên Hữu được gọi tên là Hữu, theo quả của nó.

4.

Các biểu ngữ về kiến chấp: có 360 vọng kiến (false views) và 62 tà kiến (wrong views) của các triết gia (=nhà ngoại đạo), có thể tóm tắt thuộc hai nhóm có và không (hữu và vô, thường hằng và đoạn diệt-being and non-being, to be and not to be, eternalism and nihilism).

Nhập Lăng già Đại thừa kinh tuyên bố là “…Các triết gia cũng như những kẻ sơ trí, họ tôn quý cái nhị biên giữa có và không (they cherish the dualism of being and non-being)”.

Các pháp do duyên khởi nên không có tự tính.

Whatever depends upon conditions.

That is empty of intrinsic existence. Nhân duyên hội hợp nên pháp gọi là có; nhân duyên biệt ly nên pháp gọi là không. Thế nên duyên khởi (dependent arising) cũng là tánh không (= các pháp đều thiếu vắng cái hiện hữu có tự tính = chân không = chân không diệu hữu: emptiness, openness), cũng là trung đạo (=lìa hữu vô: middle way, beyond extremes), cũng là huyễn mộng (illusion).

Kính lễ Đức Phật:

Đức Phật Cồ Đàm Đại Thánh Chủ

Thương xót hữu tình thuyết nhân duyên

Để đoạn dứt tất cả kiến chấp

Nay tôi dốc lòng đảnh lễ Phật

Bồ Tát Long Thọ

Kệ tụng kết thúc Trung Luận

Bồ Tát Đại Huệ Mahamati tán thán Đức Phật

Thế gian lìa sinh diệt

Như hoa đốm trên không

Trí chẳng trụ hữu, vô

Mà khởi tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn

Xa lìa nơi tâm thức

Trí chẳng trụ hữu, vô

Mà khởi tâm đại bi

Xa lìa chấp đoạn thường

Pháp thế gian như mộng

Trí chẳng trụ hữu, vô

Mà khởi tâm đại bi

Đức Phật giảng về không có tự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già (trích Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang 164-165):

[76] Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”. Này Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tính là vô sinh. Tất cả các pháp không có tự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác; này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính.

Lại nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn và luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân hồi; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy. Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập (thể nghiệp) cái không, vô sinh, vô nhị và vô tự tánh.

Nguồn: Đặc san Hiện Thực (Úc), số 16/2009, năm thứ 5, trang 154-165. Bản Anh ngữ: Robert A.F. Thurman. “Asanga’s Teaching of Great Compassion.” Trích từ: Essential Tibetan Buddhism. [1996]

Tổng số lượt xem trang