Thứ Tư, 27 tháng 10, 2010

Phỏng vấn của talawas

Trương Nhân Tuấn trả lời phỏng vấn của talawas
Tôi trả lời “bài phỏng vấn cuối cùng” của BBT talawas với tâm trạng nửa bâng khuâng, nửa bất an. Tôi không tin lần viết này là lần chót trên trang mạng talawas. Hy vọng đây chỉ là quyết định tạm thời của talawas.
Về các câu hỏi:

1.
Theo thứ tự, hiện nay theo tôi 5 vấn đề hệ trọng nhất của Việt Nam là: a/ giáo dục và chấn hưng văn hóa truyền thống Việt Nam; b/ ngoại giao và quốc phòng; c/ kinh tế; d/ ô nhiễm môi trường và phát triển bền vững và e/ luật pháp không minh bạch và các vấn đề thuộc về an sinh xã hội.
Nếu hỏi vì sao thì tôi xin nói lý do ở hai điểm a và b như sau:
a/ Việt Nam hiện nay vẫn còn xếp hạng trong các nước nghèo trên bảng tính của thế giới, mặc dầu đã được hơn ba thập niên thanh bình để chấn chỉnh nội bộ và phát triển đất nước. Cũng với vốn thời gian này, Nhật Bản đã vươn lên từ đống tro tàn của đất nước họ sau Thế chiến thứ II để trở thành một cường quốc kinh tế. Cũng với thời gian đó, các nước đồng sàng với Việt Nam như Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Mã Lai… đã vượt lên, thành rồng thành hổ, bỏ xa Việt Nam lại đàng sau vài thập niên.
Theo tôi có các nguyên nhân đã làm cho Việt Nam trì trệ: do sai lầm từ việc lựa chọn thể chế chính trị, do sai lầm về đường lối ngoại giao, do sai lầm về chiến lược quốc phòng… các sai lầm này đã làm cho Việt Nam vừa bị cô lập với thế giới tự do, vừa bị đẩy vào hai cuộc chiến đẫm máu với hai lân bang, gây tổn hại biết bao xương máu mà không đem lại lợi lộc nào cho dân và nước, ngoài việc kết thêm thù hận và đem lại sự nghèo khổ cùng cực cho người dân. Ngoài ra còn có những sai lầm trọng đại khác, đã khiến cho đất nước ngày càng đắm chìm vào vòng nghèo đói, khiến xã hội đầy dẫy bất công, luân thường đạo lý suy đồi: sai lầm về chiến lược phát triển kinh tế, sai lầm và bất cập đã tạo ra nền công lý bất phân minh, xã hội đảo điên do luân thường đạo lý (văn hóa truyền thống gia đình) suy đồi.
Nguyên nhân vì đâu Việt Nam đã có một loạt các lựa chọn sai lầm đó? Một câu trả lời đơn giản: nếu có lãnh đạo sáng suốt, chắc chắn Việt Nam đã không liên tục phạm những sai lầm tai hại.
Đến nay Việt Nam vẫn chưa (hay không) có một chiến lược nhất định để phát triển đất nước. Lãnh đạo Việt Nam vẫn chỉ loay hoay từng ngày, đối phó với từng thử thách, từng vấn đề một. Các Đại hội Đảng tiếp nối nhau đi qua, các nghị quyết lần lượt đi vào quá khứ, nhưng mục tiêu đề ra vẫn mập mờ, không điều gì hoàn tất hay thành công trọn vẹn.
Vấn đề cốt lõi, theo tôi, là do kết quả giáo dục và đào tạo con người.
Tất cả các đổ vỡ của dân tộc Việt Nam, từ sau khi giành được độc lập từ tay Pháp (thậm chí đến ngày hôm nay), là do các tầng lớp lãnh đạo quá tồi dở. Những lớp lãnh đạo này phần lớn chưa bao giờ được đào tạo có bài bản từ trường lớp.
Thời cộng sản, người lãnh đạo không có kinh nghiệm quản lý quốc gia (chỉ có kinh nghiệm cầm súng), không có kiến thức (ngoài lý thuyết Mác-Lênin lỗi thời)… do đó làm lãnh đạo không khác chi làm nghiên cứu sinh, lần mò thử nghiệm trong phòng thí nghiệm. Nhưng mỗi thất bại về chính sách của lãnh đạo là mỗi lần gây đau đớn cho người dân, là đem lại mất mát cho đất nước, vì những người lãnh đạo ấy đã lấy dân và nước làm vật thử nghiệm. Điều phẫn nộ là những cá nhân đáng lẽ phải chịu trách nhiệm về các thất bại đó, trước các nạn nhân của nó, thì chưa bao giờ bị trừng trị theo phép nước. Ngoại lệ đã bắt đầu từ thời ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ vẫn đứng ngoài mọi trách nhiệm, cho dầu ông là tác nhân gây thiệt hại của hàng trăm ngàn sinh mạng, gây đổ vỡ của hàng triệu gia đình… Phương châm của Đảng CSVN làm lãnh tụ là được phép sai lầm. Phép nước đã bị coi không ra gì bắt đầu từ ấy.
Con người quyết định tất cả. Con người thế nào thì phản ảnh ra xã hội như thế ấy.
Đã có rất nhiều nhà mô phạm có lương tâm và có lòng với đất nước thường xuyên lên tiếng báo động về giáo dục.
Để ý, bất kỳ một quốc gia nào, tiên tiến, phát triển hay đang phát triển, nhà nước luôn dành cho bộ giáo dục ngân sách lớn nhất. Việc này nói lên hết tầm quan trọng của vấn đề giáo dục (và văn hóa) đối với sự phát triển của quốc gia. Quốc gia giàu mạnh hay không phần lớn tùy thuộc vào kết quả việc giáo dục và đào tạo công dân của quốc gia đó.
Tôi mới đọc được thống kê về thành quả của học trò gốc Châu Á (mà Việt Nam chiếm phần lớn vì kiều dân Việt Nam sống tại Pháp đông hơn các sắc dân Châu Á khác) so với các nước Châu Âu, đặc biệt là nước Pháp. Theo đó chỉ có 52% học trò Pháp tốt nghiệp đại học trong khi tỉ lệ học trò các giống dân Châu Á lên đến 62%. Tỉ số này còn đậm nét hơn nếu nhìn sang Hoa Kỳ. Ở đây học trò gốc Châu Á luôn đứng đầu lớp. Thống kê này được các cơ quan thẩm quyền Pháp quốc thực hiện nhằm tổng kết thành quả “hội nhập” của các sắc dân khác sống tại nước Pháp. Thống kê được thực hiện trên các gia đình di dân đã sinh sống khá lâu, có con cái sinh ra và trưởng thành tại Pháp. Cũng theo kết quả đó, thành phần ít thành công trong học đường là các con em có gốc Châu Phi (vùng ảnh hưởng Hồi giáo). Thống kê khác, về tội phạm, cũng cho thấy thành phần con em Châu Á rất ít phạm tội hình sự, trong khi thanh niên gốc Phi Châu Hồi giáo thì liên tục phá mọi kỷ lục về tội phạm trên nước Pháp.
(Nên phân biệt, thống kê này không ghi nhận tội phạm gây ra từ những di dân mới. Điều đáng ghi nhận: tội phạm gốc Việt Nam những năm gần đây đã chiếm một con số rất lớn trên các nước Châu Âu, làm đảo ngược thứ tự mọi thống kê từ trước tới nay. Do các tệ nạn này mà tinh thần “bài Việt” đã nổi dậy rất mạnh mẽ trên một số nước, nhất là các nước Đông Âu cũ.)
Rút được kết luận gì cho giáo dục hiện nay tại Việt Nam? Phải chăng con em gốc Châu Á thông minh hơn con em các nước Châu Âu và con em của các giống dân Á-Âu thì có chỉ số thông minh vượt trội hơn con em gốc Châu Phi?
Theo tôi, không hiện hữu vấn đề “chủng tộc siêu việt”. Dân tộc nào chỉ số thông minh cũng sàn sàn như nhau.
Tôi cho rằng các yếu tố sau đây là yếu tố quyết định: văn hóa truyền thống gia đình, hệ thống giáo dục, đức hạnh của những người làm giáo dục và phẩm chất của chương trình và phương pháp giáo dục.
12% khác biệt mức độ thành công ở thống kê trên là do từ văn hóa truyền thống gia đình. Con số này rất lớn nếu so sánh với tỉ lệ thành công 52%.
Văn hóa Hồi giáo (cực đoan), có nhiều nét tương đồng với lý thuyết cộng sản, như cực đoan và bất bao dung. Văn hóa Châu Âu thì quá phóng khoáng, gia đình đôi khi không là điểm tựa vững chắc về tinh thần và vật chất cho con em để chúng có thể thành công. Trong khi văn hóa phương Đông (Việt Nam) hài hòa và bao dung (thành phần Việt kiều trên đất Pháp đa số theo Phật giáo và Thiên Chúa giáo). Cha mẹ sẵn sàng hy sinh tất cả để con cái được thành công.
Việt Nam sau bao nhiêu năm sống trong nền “văn hóa mới xã hội chủ nghĩa”, lăng tẩm, đền đài, đình, miếu, mồ mả cha ông… đã bị đào xới, nền văn hóa truyền thống do đó lần hồi biến dạng.
Đại lễ “1000 năm Thăng Long” là dịp để người Việt nhìn lại chính mình. Thấy gì? Con người Việt mới xã hội chủ nghĩa (cực đoan và bất bao dung) đã tự đào hố chôn quá khứ của mình, trong khi cái mới thì chưa hình dung được thế nào, vẫn loay hoay ở định hướng và các ý định về xây dựng. Những gì thể hiện chung quanh đại lễ “1000 năm Thăng Long” là sự phản ảnh tự nhiên của việc, mà tôi gọi là khủng hoảng căn cước và  mặc cảm về nguồn gốc, của người Việt hiện nay. Những gì đã thấy từ các sản phẩm văn hóa cống hiến cho đại lễ, từ màu sắc cho đến các tấn tuồng, rõ ràng là ngoại lai. Nhưng khi định tâm trước việc đề nghị cái gọi là “bản sắc Việt Nam”, rõ ràng mọi người có một sự ngập ngừng lớn. Một ngàn năm độ hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ một bọn “lai căn”…
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói những lời như tiên tri: lũ chúng ta chỉ là một bọn “lai căn”. Nếu không nhận diện được các khuyết tật (do đoạn tuyệt với quá khứ) của mình ngay từ hôm nay thì ba thập niên nữa Việt Nam cũng không thoát khỏi tình trạng khủng hoảng căn cước và mặc cảm về nguồn gốc.
Do đó trọng trách về văn hóa và giáo dục rất là lớn lao. Tiên khởi là nhận diện nền văn hóa truyền thống gia đình (đã chứng tỏ thành công trên đất Pháp) đó như thế nào để chấn hưng và phát huy nó, để từ đó làm nền tảng cho văn hóa dân tộc.
Việc hệ trọng khác, để có thể đào tạo người tốt cho xã hội, là đức hạnh và tính chuyên môn của người làm văn hóa giáo dục. Câu hỏi thứ hai tôi xin xen vào ở đây, nếu tôi có quyền tuyệt đối trong 24 tiếng đồng hồ, một việc mà tôi sẽ làm là tìm những người như thầy giáo Đỗ Việt Khoa, mời vào làm Tổng thanh tra Bộ Giáo dục, phẩm hàm ngang hàng Thứ trưởng, trực thuộc phủ Thủ tướng, để cầm trịch trong việc làm sạch hệ thống giáo dục của Việt Nam. Người làm giáo dục phải là những người gương mẫu. Có vậy mới có thể đào tạo được học trò tốt. Mô phạm là có ý nghĩa như vậy.
Nhưng nghĩ lại, khi nghe ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng than: “Từ lúc làm Thủ tướng đến nay tôi chưa kỷ luật đồng chí nào cả!”. Phép nước có cũng như không. Có 1 triệu tấm lòng như ông Đỗ Việt Khoa thì cũng (bó tay chấm com)! Và bây giờ mỗi đảng viên cấp cao là một lãnh tụ, lãnh đạo trong một vùng, một tỉnh riêng. Mỗi người cứ noi gương Bác có quyền được “sai”, không ai chịu trách nhiệm về hậu quả của việc “sai” này.
Xem ra cái nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nói “né” như trong nước, là lỗi do hệ thống; nhưng nói thẳng là do Đảng CSVN. Nếu Đảng vẫn coi quyền dân phép nước không ra gì; quyền dân không bằng quyền Đảng, luật nước chỉ áp dụng cho dân (và luật được suy diễn theo ý của Đảng) và đảng viên đứng ra ngoài (hay trên) luật nước, thì tất cả những nỗ lực đều chỉ hoài công.
Các vấn đề khác, hệ thống giáo dục là hệ thống nào và phẩm chất của chương trình giáo dục là phẩm chất gì thì nhiều người đã nói, tôi không bàn thêm.
b/ Về quốc phòng và ngoại giao: Truyền thống Việt Nam, những người đã vẽ nên những trang sử hào hùng cho con cháu đọc các đời sau đều là các vị tướng lãnh, với những trận chiến hào hùng mở nước và giữ nước. Ngày nay có lẽ cũng không khác, vấn đề giữ nước vẫn quan trọng hàng đầu (vì định mạng đã sắp đặt như thế, Việt Nam ở kế một nước lớn mà từ lịch sử dựng nước của họ đã đặt nền tảng trên một thứ chủ nghĩa bành trướng cực đoan). Nhưng thời thế hôm nay là làm thế nào để giữ nước, bảo vệ được quyền lợi của quốc gia, sinh mạng và quyền lợi của mỗi người dân, mà không gây chiến tranh. Chiến tranh phải là điều nên tránh. Đó là việc làm kết hợp giữa quốc phòng và ngoại giao.
Nhưng xem ra thế hệ hôm nay thua kém xa thế hệ cha ông. Việt Nam vẫn không bảo vệ được lãnh thổ, hải phận, hải đảo và quyền lợi của quốc gia ở các nơi đó. Ngoại giao và quốc phòng Việt Nam cũng không bảo vệ được sinh mạng và tài sản của người dân.
Quốc phòng Việt Nam vẫn chưa đủ thể lực để có thể răn đe các thế lực bành trướng. Ngoại giao Việt Nam vẫn thường xuyên bó tay trước những hành vi ngang ngược của Trung Quốc (cũng như của các nước khác) tại biển Đông, ngay trên vùng mà chủ quyền của Việt Nam được xác định.
Thế trận “dân quân tự vệ biển” vẫn không (hay chưa) được khai triển. Việc này còn bị chống đối. Theo tôi, thế trận này khả dĩ chống lại được những gieo rắc kinh hoàng cho ngư dân Việt Nam của những chiếc tàu Ngư Chính (những chiếc tàu đội lốt lực lượng hành chính bảo vệ các nguồn tài nguyên của Trung Quốc), thực tế hành xử như hải tặc. Vấn đề là khai triển thế trận này như thế nào để vừa bảo vệ quyền lợi cũng như sinh mạng của ngư dân Việt Nam, vừa khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại các vùng biển của Việt Nam, đồng thời không tạo nên cớ để Trung Quốc phát động chiến tranh.
Thời gian gần đây, quốc phòng và ngoại giao Việt Nam đã có những bước đi khả quan, như liên kết được Hoa Kỳ vào thế đối trọng với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển Đông. Nhưng quyền lợi Việt Nam trong dự án “quốc tế hóa vấn đề biển Đông” vẫn không rõ ràng. Sự nhập cuộc của Hoa Kỳ vẫn không rõ rệt, chỉ đơn thuần ở mức tuyên bố. Nhiều tiếng nói (thuộc Học viện Ngoại giao hay của một tổ chức nghiên cứu độc lập) vừa qua cho thấy quyền lợi Việt Nam bị đặt vấn đề.
Dường như hai phe quốc phòng và ngoại giao có hiện tượng “lệch pha”.
Quốc tế hóa một vấn đề tranh chấp ở phạm vi khu vực có nhiều ý nghĩa, tùy theo mức độ của việc tranh chấp. Trường hợp biển Đông, trong giờ phút này, quan trọng hơn hết là phải vận động dư luận quốc tế ủng hộ lập trường (hay lý lẽ) của Việt Nam ở biển Đông, về chủ quyền của Việt Nam ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dầu Hoa Kỳ chỉ mới tỏ lập trường ở tuyên bố, nhưng đã cho thấy rõ rệt ý kiến của họ: Hoa Kỳ không ủng hộ phe nào trong việc tranh chấp. Tức là Hoa Kỳ vẫn hoài nghi về lập trường (hay lý lẽ) của Việt Nam ở biển Đông (về chủ quyền của Việt Nam tại các đảo) nhưng vẫn mở một cánh cửa để đó cho Việt Nam.
Thuyết phục quốc tế, trong đó Hoa Kỳ là chính, là sứ mạng của những người nghiên cứu nhưng là công việc của ngoại giao.
Lập trường (hay lý lẽ) của Việt Nam rất bất lợi trước dư luận quốc tế, vì các tác phẩm về nghiên cứu biển Đông của các học giả trên thế giới phần nhiều đều phản đối lập trường Việt Nam. Có nhiều lý do: do các hành động vô trách nhiệm của các lãnh đạo Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong quá khứ, do thiên vị vì ý thức hệ chính trị, do diễn giải sai các dữ kiện lịch sử hoặc do đầu độc bởi các luận điệu xuyên tạc và “phịa sử” của phía các học giả Trung Quốc. Điều trớ trêu, một số “học giả” Việt Nam lại bị tiêm nhiễm rất nặng nề quan điểm của các học giả quốc tế nói trên. Điều quan trọng khác, các tác phẩm này đã ảnh hưởng rất lớn đối với các thế hệ thanh niên Hoa Kỳ sau này.
Do đó, công việc của các học giả Việt Nam là vừa tự “giải độc” cho “phe mình”, vừa phải phản biện từng lý lẽ một của các học giả quốc tế.
Nói chung, về quốc phòng và ngoại giao, thử thách trước mắt rất lớn, thành quả của việc giải quyết vấn đề sẽ xác định bản lĩnh và trí tuệ của Việt Nam.
2.
Nếu được cầm quyền tuyệt đối tại Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, tôi sẽ vận động để quần tụ một Quốc dân Đại hội gồm đại diện trí thức của các miền, các sắc tộc, các tôn giáo… để soạn thảo bộ luật hòa giải dân tộc.
Từ lâu nay, người Việt Nam chỉ hiểu “hòa giải” như là một hành động, một thủ đoạn chính trị. Họ đã đúng vì thực tế đã cho phép họ nghĩ như vậy. Mỗi khi nghe nói đến “hòa giải” là nghe đến “chính phủ hòa hợp hòa giải dân tộc”, “chính phủ hòa giải hai (ba, bốn bên) v.v… Tất cả chỉ là thủ thuật chính trị để tranh giành hay chia chác quyền lực. Chưa bao giờ hòa giải được hiểu như là một vấn đề thuộc phạm trù đạo đức.
Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc có nhiều xung đột nhất, kể cả việc xung đột với văn hóa, lịch sử… tức là với chính quá khứ của mình.
Dân tộc Việt Nam phải hòa giải với quá khứ để nhìn lại chính con người thật của mình, nhận thấy mặt thật của mình, để thoát khỏi khủng hoảng về căn cước và mặc cảm về nguồn cội. Lòng tự hào dân tộc chỉ có thể phát sinh nếu không còn mặc cảm về nguồn cội.
Nhưng lòng tự hào của dân tộc từ lâu đã bị đánh tráo với lòng tự hào về các cuộc chiến thắng. Các cuộc chiến thắng này đang bị đánh giá lại. Ngày hôm nay sự thật về các chiến thắng đó dần dần lộ rõ: chiến thắng đó là chiến thắng của Đảng CSVN, hay đúng ra là của phe cộng sản quốc tế. Người cộng sản có thể tự hào về các chiến thắng này nhưng người Việt Nam thì không thể tự hào.
Phải hòa giải với quá khứ, với nạn nhân, với gia đình nạn nhân trong các cuộc cách mạng đẫm máu: Cải cách Ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm… bằng cách phục hồi nhân phẩm cho họ, cho con cháu họ. Phải đền bồi, cho dầu ở mức tượng trưng.
Phải hòa giải với những kẻ chiến bại (trước phe cộng sản), phục hồi danh dự và đền bồi cho họ, cho gia đình dòng tộc của họ. Hành động đầu tiên là cho trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa, thành một khu “di tích quốc gia”, như đề nghị của một sử gia gần đây trên talawas.
Làm được như vậy là hòa giải đạo đức với chính trị, đưa đạo đức vào lại trong sinh hoạt chính trị.
Từ đó lòng tự hào dân tộc sẽ được phục hồi. Và khi có lòng tự hào về dân tộc mình, người ta có thể làm mọi thứ để hy sinh và phụng sự nó.
3.
Việt Nam năm 2010 thì đã nói và nhiều người đã nói. Nhưng không cần nói thì cũng thấy: một Việt Nam nghèo đói, chậm tiến, bất công, tham nhũng lan tràn… Việt Nam 2010 còn có thêm một xấu hổ lớn với thế giới là vẫn còn giữ một chế độ độc tài do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mà chủ nghĩa cộng sản đã bị thế giới vứt bỏ vào sọt rác lịch sử từ lâu.
Về tương lai Việt Nam 2020 hay 2030, tôi không bi quan mà cũng không lạc quan. Việt Nam tốt đẹp hay bi đát sau này đều do ảnh hưởng của 5 điều mà tôi cho là quan trọng nhất ở trên. Tất cả đều có thể quyết định ngay từ hôm nay.
Theo tôi, sẽ tốt đẹp cho tương lai Việt Nam nếu chế độ chính trị sớm được thay đổi. Vì nó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Chế độ độc tài đảng trị hiện nay đã chứng tỏ sự bất lực ở mọi phương diện, kể cả vấn đề công bằng xã hội, là hòn đá tảng của chế độ chủ nghĩa xã hội. Nhưng giới lãnh đạo Đảng CSVN vẫn tiếp tục dẫn đất nước phiêu lưu không định hướng. Càng “phát triển” thì xã hội càng đầy dẫy bất công, chênh lệch giàu nghèo ở mức cao nhất thế giới. Pháp luật diễn giải tùy tiện theo ý của cán bộ, công an. Tài nguyên khai thác lần hồi kiệt quệ. Vấn đề khai thác bừa bãi đã đưa đến việc ô nhiễm, hay đe dọa ô nhiễm nghiêm trọng. Miền Trung bị đe dọa do việc khai thác bauxite trong khi đồng bằng sông Cửu Long thì vừa bị đe dọa do thiên nhiên (biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao), vừa bị đe dọa do… thiên triều với những cái đập xây dựng ở đầu nguồn. Miền Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ trở thành một vùng “no man’s land”, không có người sinh sống.
Một chế độ dân chủ đa nguyên, trên nền tảng tự do về kinh tế, theo tôi sẽ thích hợp cho hoàn cảnh Việt Nam hiện nay. Chế độ chính trị này đã chứng minh sự hữu hiệu ở rất nhiều nước trên thế giới. Điển hình, khá đồng dạng với hoàn cảnh xã hội và lịch sử của Việt Nam, là Đài Loan và Đại Hàn trước đây, hai xứ này áp dụng chế độ dân chủ đa nguyên từ gần hai thập niên nay. Kết quả cho thấy họ đã có một sức bật mãnh liệt trên mọi phương diện, sản phẩm văn hóa cũng như khoa học kỹ thuật của họ đã cạnh tranh với những nước tiên tiến nhất trên thế giới. Hai nước này cũng đã vượt qua khó khăn do khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 một cách dễ dàng và lành mạnh hơn các nước khác trong khu vực như Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan… Lý do giải thích là vì Đại Hàn và Đài Loan có nền tảng chính trị dân chủ đa nguyên, so với các nước kia còn vướng vít ít nhiều trong vòng độc tài, các chế độ lãnh tụ chế hay vương quyền.
Như thế, tương lai của Việt Nam ở các năm 2010, 2020, 2030 thì tùy thuộc vào chế độ chính trị. Tôi tin tưởng ở con người Việt Nam, những người đầy tài năng và bản lĩnh, nhưng nhiều thế hệ đã bị mai một vì không thể thi thố tài năng. Chỉ có một chế độ dân chủ đa nguyên mới có thể giúp họ thi thố tài năng, trên mọi lãnh vực. Nếu thuận tiện và tốt đẹp, năm 2030 Việt Nam có thể vượt qua Đại Hàn.
Nhưng nếu Việt Nam vẫn như hôm nay, nhất định theo đuổi “định hướng xã hội chủ nghĩa” với sự dẫn dắt (mù quáng theo “lề phải”) của Đảng CSVN, thì năm 2030 dân Việt Nam sẽ biến thành… đàn cừu (nói theo khoa học gia Ngô Bảo Châu). Bằng không thì dân Việt Nam sẽ chỉ là một dân tộc chuyên làm thuê gánh mướn cho các nước tư bản chung quanh.
4.
Kết luận: Với một thời gian ít ỏi và một tâm trạng bất an tôi viết trả lời bài “phỏng vấn cuối cùng” của talawas. Những thao thức, trăn trở của tôi về đất nước từ nhiều năm nay không thể dàn trải mạch lạc một lần là xong. Việt Nam có quá nhiều điều cần phải nói. Mà muốn nói cho đúng, cho thuyết phục hơn thì cần có một tâm trạng ổn định với nhiều vốn thời gian. Vì thế tôi hy vọng rằng quyết định của talawas chỉ là quyết định tạm thời.
Tôi không biết lý do nào để talawas có quyết định ngừng hoạt động. Tôi thấy mô hình sinh hoạt nào cũng có khuyết điểm nhưng mô hình nào cũng có thể bổ khuyết cho hoàn chỉnh hơn. Chỉ có con người vừa có uy tín vừa có khả năng lại vừa có tấm lòng thì thật là hiếm hoi. Tôi hy vọng các bạn, sau một thời gian nghỉ ngơi sẽ hồi tâm, sẽ tiếp tục dấn thân, nghĩa bóng và nghĩa đen, trên một hình thức khác, một lề lối sinh hoạt khác. Tôi sẵn sàng cộng tác với các bạn qua một mô hình bất kỳ. Đây là lời hứa long trọng của tôi đến những người bạn mà tôi chưa hề gặp mặt, nhưng suốt đời có lẽ không thể tôi quên, những người thật đáng trân trọng và quí mến.
Hẹn sớm gặp lại, những viên ngọc quí của đất nước.
Marseille, ngày 23 tháng 10 năm 2010
© 2010 Trương Nhân Tuấn
© 2010 talawas
Đỗ Kh. trả lời phỏng vấn của talawas
Báo thức trên di động reo điệu “Quốc tế ca”, vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian, nhưng tôi không vùng lên, không vùng dậy, đứng dậy tôi cũng không. Tôi không dậy. Tôi mò lấy điện thoại, tắt đi và ngủ tiếp. Việc gì tôi phải dậy, ai bắt tôi được. Hôm nay tôi là người cầm quyền tuyệt đối tại Việt Nam.
24 tiếng này bắt đầu từ nửa đêm vào lúc thật ra thì tôi chưa ngủ. Tôi còn đang uống Beaujolais Villages 2008 để hòng dỗ giấc. 6,95 Euro, vì ngày cầm quyền của tôi mới bắt đầu nên chưa ai mang đến biếu tôi Puligny-Montrachet (là loại rượu phải cởi nón ra và quỳ gối để thưởng thức như Alexandre Dumas nói). Khi tôi lên giuờng thì đã hai giờ sáng, vẫn chưa thấy có gì nhúc nhích, ai bấm chuông gọi tôi ra mà lo việc nước. Tôi cẩn thận cộng thêm 8 và để báo thức vào lúc 10 giờ 05. Một ngày tôi ngủ phải 8 tiếng chứ, và bắt đầu cầm quyền chính thức là tôi đã ăn gian thêm 5 phút. Nhưng quyền lực, lại là tuyệt đối, thì đến 10 giờ 05 như đã nói, thì ai làm gì tôi.
Tôi bò ra đến phòng tắm thì trời đã quá Ngọ. Ngồi dưới vòi nóng nửa tiếng thì tôi nghĩ đến những em bé, những bà mẹ Phi châu hay là Trung Á, đầu đội can nước đi bộ 20 cây số dưới thời tiết nhiệt độ 40. 40 là nhiệt độ mấy chục can nước vòi xịt tứ phía lên người tôi từ nãy giờ. Phục vụ cho tôi một bữa tắm buổi sáng là hai mươi cô Phi châu đội nước trên đầu uốn éo xếp hàng thành một caravan ở sa mạc, cộng với thêm 10 cô Trung Á ở nhà đun lên cho nóng sau khi chổng mông lên đi mót củi trên những đồi đá. Nhưng Phi châu hay Trung Á thì việc gì mà tôi bận tâm. Tôi cầm quyền là ở Việt Nam.
“Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui” từ ông Hùng thứ nhất đến tôi, thì thời gian của ba ly café là cái gì. Tôi làm ly thứ tư, nhìn đồng hồ thì chết mẹ chưa, đã ba giờ chiều! Giờ hành chánh chỉ còn có hai tiếng, mà chúng nó đàn ông thì đã dời nhiệm sở đi đón con tan trường, đàn bà thì tất tả về sớm mà lo cơm nước cho mấy cha nội. Hôm nay nhà có bún xào măng, thì mấy đứa bé nó ăn, bố nó tối nay lại bận họp cơ quan ở quán nhậu. Tôi thần ra một lúc, thôi thì chẳng vội, 10 giờ khuya đủng đỉnh mình ra nhà hàng, thằng nào chưa xỉn, tôi vẫn còn hai tiếng tuyệt đối toàn quyền để mà ra chỉ thị.
© 2010 Đỗ Kh.
© 2010 talawas

Phạm Đình Trọng – Thời điểm quyết định số phận dân tộc Việt Nam
talawas đưa ra câu hỏi: Tiên đoán Việt Nam năm 2010. 2020. 2030. Tôi chỉ bàn về hai mốc 2010 và 2020 thôi. Số phận và tương lai Việt Nam gắn liền với việc dứt bỏ tai ương cộng sản. Cộng sản là ngoại lai, là bạo lực, là đấu tranh giai cấp khốc liệt! Ngoại lai đối lập với dân tộc! Bạo lực đối lập với văn hóa, nhân văn! Đấu tranh giai cấp phá tan rã khối đoàn kết dân tộc! Tư tưởng ngoại lai dùng bạo lực chuyên chính vô sản triệt tiêu tinh hoa dân tộc! Dứt bỏ được tai ương cộng sản lúc nào, tinh hoa và khí phách dân tộc Việt Nam sẽ được hội tụ và thăng hoa lúc đó, Việt Nam sẽ nhẹ nhõm cất cánh bay vào quĩ đạo phát triển, hòa nhập vào kỉ nguyên văn minh của xã hội loài người lúc đó!

Hơn nửa thế kỉ thực hiện chuyên chính vô sản trong chính sách cán bộ, trong đối xử, sử dụng con người, nhà nước chuyên chính vô sản đã vô hiệu, loại bỏ triệt để, hoàn toàn tầng lớp trí thức tài năng do lịch sử để lại, sau đó lại gạt bỏ những trí thức ở thế hệ mới có tài năng, có năng lực sáng tạo nhưng trung thực khảng khái, dám bộc lộ chính kiến riêng, dám nói sự thật và lẽ phải. Trong không khí ấy, nhiều tài năng trung thực khác phải ngậm ngùi rời bỏ đất nước ra đi! Một đội ngũ công chức công nông có bằng cấp, học hàm, học vị cao ngất nhưng nghèo trí tuệ, nghèo sáng tạo được đào tạo và trọng dụng đang nắm giữ những vị trí lãnh đạo của bộ máy quản lí và điều hành nhà nước từ trung ương tới địa phương. Những nguy khốn của đất nước, những cơ cực của người dân hôm nay chính là hậu quả của bộ máy công chức đã vắng bóng tài năng và sáng tạo, vắng bóng cả cái đức của bộ  máy công bộc, lại thiếu vắng cả khí phách và ý thức dân tộc. Năm 2010 là năm bộc lộ đầy đủ nhất, rõ nhất hậu quả này!
Tê liệt ý thức dân tộc, thấp kém bản lĩnh chính trị nên đã nhanh nhảu kí kết cho Trung Quốc vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên, hủy diệt tận gốc rễ một mảng văn hóa dân tộc quí hiếm, đặc sắc! Đưa đội quân nước ngoài hùng hậu vào khai thác bô xít, đội quân ấy cũng chiếm giữ địa thế hiểm yếu khống chế cả bán đảo Đông Dương! Nhắm mắt chấm cho Trung Quốc thắng thầu hàng loạt công trình xây dựng trọng yếu để những công trình đó trở thành con tin của Trung Quốc, trở thành nhượng địa của Trung Quốc để họ xuất khẩu lao động, xuất khẩu nguyên vật liệu, xuất khẩu máy móc, xuất khẩu cả tư tưởng đại Hán, xuất khẩu cả ý chí thôn tính, nô dịch lân bang! Công trình xây dựng dây dưa kéo dài trở thành gánh nặng, trở thành sức ỳ của cả nền kinh tế! Cho nước ngoài thuê với giá rẻ mạt như cho không để nước ngoài làm chủ suốt nửa thế kỉ cả dải rừng rộng lớn, nơi phên giậu quốc gia trong thế trận giữ nước, nơi bất khả xâm phạm đối với tấm thảm xanh thiên nhiên để hóa giải những trận lũ dữ  từ núi cao đổ xuống đồng bằng! Chỉ một tập đoàn thuộc thành phần chủ đạo nền kinh tế đất nước đã vỡ nợ gần một trăm ngàn tỉ đồng, mỗi người dân nghèo phải gánh cho tập đoàn nhà nước vỡ nợ đó hơn một triệu đồng tiền nợ thì làm sao đất nước có thể phát triển, thì làm sao cuộc sống người dân không khốn đốn! Rừng mất đằng rừng! Đất đai biên ải mất đằng đất đai biên ải! Biển mất đằng biển! Người dân chài Việt Nam ra khơi đánh cá ở vùng biển của tổ tiên để lại từ ngàn xưa vẫn bình yên nay bị tàu chiến nước ngoài bắn giết, bắt giữ, cướp bóc! Người nông dân Việt Nam một sương hai nắng làm ra hạt gạo nuôi cả thế giới mà quanh năm nghèo đói còn mấy ông chủ doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thóc gạo ngồi trong phòng máy lạnh quyết định giá hạt gạo, quyết định thời điểm và số lượng thóc gạo mua cho người nông dân thì hưởng lãi lớn! Nghèo khổ, những thiếu nữ hơ hớ tuổi xuân ở hai vựa lúa lớn của đất nước phải tìm đến những dịch vụ hôn nhân bán duyên bán phận cho những ông già nước ngoài tật nguyền để tự cứu bản thân và cứu gia đình! Đó là sự thật đau lòng về một đất nước nghèo khổ, là bằng chứng xác thực về năng lực trống vắng và trái tim vô cảm của những người quản lí điều hành đất nước!
Chủ nghĩa Cộng sản của học thuyết Mác là ngoại lai. Theo đuổi chủ nghĩa Cộng sản là phải hướng ngoại, quay lưng lại dân tộc! Thực hiện chuyên chính vô sản cực đoan, bạo liệt của học thuyết Mác phải triệt tiêu triệt để tinh hoa và khí phách dân tộc! Thực tế tám mươi năm chủ nghĩa Cộng sản tồn tại ở Việt Nam đã chứng minh rất rõ điều đó! Những tai họa khủng khiếp giáng xuống dân tộc Việt Nam tám mươi năm qua đã chứng minh rõ điều đó! Người lãnh đạo tê liệt ý thức dân tộc thì dân tộc trở nên hèn kém, tủi nhục! Còn gì tủi nhục hơn người dân Việt Nam tập hợp lại để nói với kẻ đã chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam liền bị chính công an Việt Nam bắt bớ, tra hỏi! Còn gì tủi nhục hơn Hoàng Sa, Trường Sa là dấu chân mở đất của tổ tiên ta, là xương máu của ông cha ta mà lớp thanh niên yêu nước ngày nay phải lén lút canh chừng công an mới dám viết chữ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam!
Tai ương cộng sản quàng vào dân tộc Việt Nam suốt tám mươi năm nay phải dứt bỏ, tinh hoa và khí phách dân tộc Việt Nam mới được khơi dậy để giữ gìn trọn vẹn giang sơn gấm vóc, để xây dựng đất nước huy hoàng, văn minh, để những trí tuệ, tài năng Việt Nam không phải ngậm ngùi tìm đến xứ người mới được thể hiện hết mình, để những cô gái Việt Nam không phải gạt nước mắt mang thân sang xứ người đánh đổi thân con gái lấy cơm áo cho gia đình! 2010 – 2020 là giai đoạn chuyển động đau đớn, quyết liệt để đến 2020 dân tộc Việt Nam sẽ hoàn toàn, vĩnh viễn thoát khỏi tai ương cộng sản! Đến 2020 Việt Nam vẫn chưa dứt bỏ được chủ nghĩa cộng sản bạo liệt thì dân tộc Việt Nam thật đáng thương vì đã sinh ra một đội ngũ trí thức thật đáng trách!
© 2010 Phạm Đình Trọng
© 2010 talawas
Trần Doãn Nho trả lời phỏng vấn của talawas
1.
Theo tôi, chỉ có một vấn đề hệ trọng: cơ chế đảng cầm quyền đồng nhất với nhà nước, khiến cho nhà nước bị tròng một “vòng kim cô” chặt cứng. Hủy bỏ sự đồng nhất đó sẽ mở ra một sinh lộ để giải quyết không những 5 mà là 10 hay nhiều hơn nữa các vấn đề khác của Việt Nam.
2.
Huy động những nhà làm luật xuất sắc nhất của đất nước để soạn thảo pháp lệnh tự giải thể toàn bộ chính phủ do tôi thành lập và trao quyền cho một trong những phong trào đối lập mà tôi vừa hợp pháp hóa vào cùng lúc đó để tôi ký ngay trước khi thời hạn 24 giờ chấm dứt.
3.
Lịch sử lệ thuộc vào những việc làm hiện đang diễn ra hơn là những tiên đoán thường bao giờ cũng đậm chất thơ ca.
© 2010 Trần Doãn Nho
© 2010 talawas
-Bùi Văn Phú – Lời chia tay cùng talawas
1. Một vài suy nghĩ
Tuần trước nhận thư của chị Phạm Thị Hoài, không phải một thư độc giả muốn liên lạc hay trao đổi ý kiến riêng như tôi đã từng nhận được từ toà soạn chuyển. Bức thư loan báo tin sắp đến giờ chia tay với talawas. Ngạc nhiên. Hụt hẫng. Bâng khuâng. Thắc mắc. Và buồn.
Mấy hôm nữa talawas sẽ từ biệt bạn đọc diễn đàn mạng để trở thành một dấu vết quá khứ với đóng góp của nhiều người để làm đẹp hơn cho văn hoá tranh luận, phản biện vốn không có ở trong nước. Nếu tinh thần talawas được phát huy tại Việt Nam thì đó là một phúc lợi cho dân tộc, còn không đất nước vẫn cứ quanh quẩn ở chừng mực phát triển như hiện tại, vẫn đứng ở vị trí thấp kém so với láng giềng cho dù thời gian có là 10 năm hay 20 năm nữa.
Ba câu hỏi đưa ra. Những vấn nạn của Việt Nam thì có nhiều. Nhưng nếu cho tôi quyền tuyệt đối lãnh đạo đất nước, như thế đã phong cho tôi thành một nhà độc tài, tôi xin từ chối trách nhiệm này vì sáng kiến của một cá nhân, dù có tài giỏi, hay cả sáng kiến của một đảng cầm quyền cũng không phải là ý của đa số nếu người dân không được tự do nói lên ý nguyện của họ.
Tôi kiến nghị lãnh đạo Việt Nam đương thời mấy điểm sau:
1/ Bỏ điều 4 Hiến pháp. Dân tộc Việt Nam đã bị cản bước tiến vì những bản Hiến pháp trong quá khứ hơn 60 năm qua, của cả hai miền Việt Nam, đều có những điều khoản loại bỏ đóng góp của công dân vì quan điểm chính trị khác biệt.
2/ Bỏ những luật lệ xử phạt công dân phát biểu quan điểm chính trị, cụ thể là các điều 79 và 88 của Bộ Luật hình sự. Phóng thích những tù nhân đã bị kết án vi phạm những điều luật này.
3/ Sửa đổi hay ban hành luật để quyền tự do thông tin, báo chí được tôn trọng.
4/ Ban hành những đạo luật về tổ chức, sinh hoạt của các đảng chính trị.
5/ Ban hành những đạo luật về bầu cử Quốc hội với những bảo đảm cho các đảng chính trị được quyền tham gia tranh cử. Một quốc hội mới sẽ bầu chọn Thủ tướng là người lãnh đạo, lập nội các để điều hành guồng máy quốc gia.
Thời gian cần có và đủ cho những thay đổi này tôi cho tối đa 2 năm. Sau đó chúng ta mới có thể hy vọng và tin vào tương lai đất nước sẽ vươn lên trong vòng 10 hay 20 năm tới. Còn không, tôi e ngại mức độ phát triển của Việt Nam cũng vẫn ở vị trí như hiện nay so với thế giới.
2. Nhìn lại chút kỉ niệm
Tôi vẫn còn nhớ rõ chuyện liên quan đến bài viết đầu tiên của mình trên talawas. Đó là bài điểm sách Nếu đi hết biển của đạo diễn Trần Văn Thuỷ đăng ngày 30.01.2004. Bài đưa lên mạng tôi đọc được một lần, sáng hôm sau đọc lại thấy bài bị rút ruột, tựa còn đó nhưng bấm vào chỉ thấy trang mạng trắng. Mà trong cùng ngày chỉ có bài của tôi bị thế thôi.
Ngay lúc đó tôi có cơ duyên gặp chị Phạm Thị Hoài tại nhà một người quen ở Mỹ, nhân dịp chị đến nói chuyện về văn học Việt Nam tại Đại học Berkeley. Tôi hỏi bài viết của mình có vấn đề gì mà không hiểu tại sao mới lên mạng thì lại bị rút ruột. Chị điện ngay về Đức, nói tiếng Đức với người lo kĩ thuật mà tôi không hiểu gì, để giải quyết trục trặc này. Nhưng cho đến nay tôi cũng chưa rõ vì sao có sự việc bài mình bị rút ruột. Sau này, có dịp nói đến duyên ngộ với talawas, tôi hỏi lại chị Hoài về chuyện này những vẫn không có câu trả lời.
Hôm đó tôi đã bàn luận nhiều với chị về sinh hoạt truyền thông, báo chí trong và ngoài nước để hiểu chủ trương sinh hoạt của chị trước khi đóng góp bài cho talawas. Tôi đã chọn talawas để trao gửi những đứa con tinh thần của mình, 90 bài viết, vì tin rằng chúng sẽ được nuôi dưỡng, chăm sóc và nếu có khen chê cũng trong tinh thần giáo dục, tự do thông tin, tranh luận một cách hài hoà, xây dựng, tôn trọng nhau dù có khác biệt tầm nhìn, quan điểm. Cũng từ đó talawas trở thành thân quen và là mảnh vườn chữ nghĩa có nhiều thông tin, nghị luận, văn hoá đa dạng, đa sắc mà tôi vào đọc mỗi ngày. Chính vì nét phong phú về quan điểm nên talawas có nhiều người đóng góp, có nhiều bạn đọc khắp thế giới và cả trong nước dù độc giả tại Việt Nam phải khó khăn vượt tường lửa.
Cuối năm 2008, sau khi talawas loan báo tạm ngừng hoạt động mấy tháng, tôi nhận thư của chị Phạm Thị Hoài thông báo về sự kiện chuyển đổi hình thức hoạt động. Qua thư mời và những điều lệ sinh hoạt nhận được, trong đó có việc cho độc giả tự do đóng góp ý kiến, tôi e ngại talawas blog có thể trở thành một diễn đàn dễ bị lạm dụng qua những phản hồi lạc đề hay biến thành nơi xả rác như nhiều mạng khác. Tôi quan tâm và có những thảo luận với chị và được vấn an: “Anh yên tâm, talawas sẽ không trở thành thùng rác”.
Tôi tiếp tục đóng góp cho talawas như là một blogger của mạng. Đến nay, kể cả bài viết này, tôi có 65 bài viết cho talawas blog và tương đối hài lòng với sinh hoạt trên talawas tuy đã có những lần phải lên tiếng để tránh tình trạng lạc đề hay “cãi lấy được”. Tinh thần talawas hợp với tôi vì tôi biết ở đó dù có khác biệt với nhau nhưng hầu hết những ai vào sân chơi này đều biết tôn trọng nhau. Qua talawas tôi đã có dịp quen biết thêm nhiều người, trong cũng như ngoài nước, và đã chia sẻ với nhau những quan điểm, nhận định về một số vấn đề của đất nước, của cộng đồng.
3. Chia tay cùng talawas
Không như hai năm trước talawas chỉ tạm đình bản, lần này talawas sẽ ngừng thở để từ giã các tác giả và độc giả sau 9 năm góp mặt. Xin mượn ca từ của Trịnh Cộng Sơn để chia tay talawas.
Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng giờ đây cũng vội
Khép lại từng đêm vui
Đường quen lối từng sớm chiều mong
Bàn chân xưa qua đây ngại ngần
Làm sao biết từng nỗi đời riêng
Để yêu thêm yêu cho nồng nàn
Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình thoảng như gió vội

Trong tôi, talawas đã là những nụ hồng đem lại cho đời những niềm vui, những sắc mầu tươi đẹp.
Cám ơn chị Phạm Thị Hoài và các bạn đã điều hành sinh hoạt talawas trong những năm qua. Cũng cám ơn bạn đọc của tôi trên diễn đàn này từ sáu năm qua.
Hy vọng hương hoa talawas sẽ lan toả và một ngày không xa chúng ta có cơ hội gặp lại nhau trong vườn hoa tươi những sắc mầu trên quê hương Việt Nam. Lúc đó sẽ vui biết bao.
Berkeley một ngày đầu mùa mưa, tháng 10.2010
© 2010 Bùi Văn Phú
© 2010 talawas
Tống Văn Công – Cây cầu talawas Thiện Ý
Trong bài “Về tác giả bài ‘Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ“, nhà thơ Hoàng Hưng viết: “Một thời gian dài sau khi về hưu, Tống văn Công hầu như không xuất hiện trong đời sống báo chí, hoặc chỉ xuất hiện dưới bút danh nào đó với những bài vô thưởng vô phạt, dường như anh đã an phận thủ thường”. “Những bài vô thưởng vô phạt” mà Hoàng Hưng nói đến là bài bàn về tình yêu, hôn nhân, gia đình, viết chung với bút danh Chị Hạnh Dung trên báo Phụ Nữ và viết về văn hóa ẩm thực cho báo Sài Gòn Tiếp thị. Tức là những đề tài cách rất xa chính trị.
Cho tới năm 1980, tôi vẫn còn dùng tên thật làm bút danh, đến khi bài viết ca ngợi ông Võ Văn Kiệt xé rào bị chỉ trích về “ý thức hệ”, tôi bắt đầu dùng bút danh để không ai biết; khi đã có người biết, tôi lập tức đổi bút danh khác. Trong những ngày ấy, tôi rất đau lòng tự hỏi: Tại sao trên đất nước tự do mà tôi phải giấu mình khi lên tiếng những vấn đề lớn thuộc quốc kế dân sinh? Để vượt qua câu hỏi đó, tôi luôn bị “thổi còi”!
Cuối những năm 80, khi đã khá thân nhau, nhà văn Phạm Thị Hoài thổ lộ trước một vài bạn bè tâm huyết ở Hà Nội: “Hồi mới quen anh Công tôi thất vọng lắm, nghĩ thầm, bộ dạng cha này chắc chả dám làm gì!”. Tôi quý chị Hoài vì những ý tưởng mới mẻ, giọng văn có cá tính đang hiếm hoi, những trang viết cách tân, sự ứng xử đường hoàng trước quyền lực.
Sau khi về hưu, có thời gian chiêm nghiệm nhiều điều, nhưng tôi không viết ra. Anh Hoàng Hưng biết, hay nhắc, hỏi. Tôi không viết, nhưng đau lòng lắm, khi nghĩ rằng chế độ này có một phần bồi đắp, dù bé nhỏ của tôi! Tôi đâu có  tư cách  phê phán nó? Mới  đây, blogger Beo viết, nếu được cầm quyền tuyệt đối 24 giờ như talawas giả thiết thì chị sẽ ra duy nhất một sắc lệnh “cấm hưu trí phát ngôn” vì những lý do: “Lão hóa tư duy; Tiếp nhận thông tin gián tiếp; Nói lấy được, bất chấp hậu quả thời ông ta nắm quyền gây ra; Đạo đức giả; Cho mượn mồm; Bạn bè trẻ trung tân tiến Âu Mỹ đâu mà lại phải mượn trí khôn của những người già nua cũ kỹ?”
Tôi im lặng vì vẫn là một “ngu trung” và phần nào bởi tâm trạng lão suy, “Trong thầm lặng riêng sợ khi nhìn thấy cảnh vật đổi mới” (Nguyễn Du, trong “Xuân tiêu lữ thứ”) và có chút mặc cảm, e ngại bị những quy kết khi tuổi tác không cho mình có đủ sức chịu đựng. Chính talawas và tình bạn của Hoài là một chiếc cầu giúp tôi “vượt qua chính mình”. Tôi đã trút tâm sự của mình vào một số bài viết gửi talawas với bút danh mới Thiện Ý. Rồi bài “Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ”, tôi viết với cả tấm lòng của một kẻ thấy trách nhiệm của mình đối với quá khứ và chân thành mong muốn điều tốt đẹp sẽ đến trong tương lai. Tôi muốn Đảng mà tôi từng phục vụ trong những ngày đòi hỏi chỉ có hy sinh không chút tính toán cho riêng mình, trước hết là vì lý tưởng Độc lập, Tự do, Hạnh phúc và cả những ảo tưởng nhưng rất đẹp trong ước mơ trong sáng ngày ấy: Một xã hội không người bóc lột người! Đảng ấy ngày nay đang bị thách thức trước hai hiểm họa mà hình như nó đang thúc thủ: Ngoại xâm và nội xâm. Tôi muốn kêu lên tiếng nói cảnh báo, nhưng chỉ với  bút danh Thiện Ý, thanh minh cho hành động của mình rất khó được những người đương quyền chấp nhận.
Bản thảo lên mạng do “cướp cò”. Ngay hôm sau, đã có bài viết của một đồng chí, đồng nghiệp của tôi phản công dữ dội. Bài viết phê phán bài của tôi có tiêu đề “Mưu đồ thâm hiểm phía sau lời ‘góp ý“. Tình huống này đặt cho tôi một lựa chọn: Im lặng sẽ tránh được đòn hiểm của đồng chí quy chụp mình là kẻ địch, nhưng như vậy là vô hiệu hóa bài viết, bởi ai tin được lời của một kẻ đang ở ngoài nước, rắp tâm với “âm mưu thâm hiểm”! Tôi đành quyết định phải bước ra ánh sáng, nhận mình là tác giả, sẵn sàng nhận hậu quả để bảo vệ những điều mà mình tin là chân lý. Bài viết hoàn chỉnh đăng trên talawas là chiếc cầu thứ hai mà  sau khi bước qua, tôi đã lột bỏ tấm ngụy trang cuối cùng, công khai chịu trách nhiệm niềm tin mới của mình, vận mệnh của dân tộc mình.
Nhờ talawas, tôi được nghe những lời khen chê thẳng thắn, chân tình của nhiều bạn bè quen biết và chưa quen biết, anh Hoàng Trường Sa, anh Tưởng Năng Tiến, nhạc sĩ Tô Hải, bác sĩ Phạm Hồng Sơn… rất bổ ích để tôi tiếp tục suy nghĩ. Cả những lời chỉ trích có tính “địch ta” của Chính Văn (dù đăng trên mạng khác, nhưng cũng khởi điểm từ bài của tôi đăng trên talawas) cũng là dịp để cọ xát, làm sáng tỏ thêm lẽ phải còn bị che khuất.
Phải từ giã talawas, tiếc thay! Nhưng tôi không thể tin sẽ đến một kết cục có chút gì tiêu cực đâu! Tôi vẫn cứ tin rằng, chỉ vài ngày tới đây thôi, ngày 3/11/2010, Ban Biên tập talawas và Phạm Thị Hoài sẽ vén bức màn bí mật, cho chúng ta thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy con đường mới, bản thiết kế mới mời gọi tất cả bạn bè tâm huyết góp sức thi công.
© 2010 Tống Văn Công
© 2010 talawas
Nguyên Trường trả lời phỏng vấn của talawas
I. Theo tôi, Việt Nam hiện nay đang đối diện với MỘT vấn đề hệ trọng: Đảng Cộng sản. Mọi vấn đề khác (đạo đức suy đồi, giáo dục xuống cấp, tham nhũng tràn lan…) chỉ là hậu quả của vấn đề hệ trọng duy nhất nói trên mà thôi.
II. Tôi sẽ làm ngay hai việc sau đây:
1. Giải tán Đảng Cộng sản và xóa bỏ tất cả các biểu tượng của nó.
2. Ban bố một bản hiến pháp minh định rõ ràng rằng Việt Nam là nhà nước pháp quyền, dân chủ và đa nguyên; trong đó nhất định phải có hai điều kiện tiên quyết sau đây:
- Ở nước Việt Nam, sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất được coi là quyền tự nhiên, bất khả nhượng và được pháp luật bảo hộ. Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất đều phải bị truy tố trước pháp luật.
- Ở nước Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, tự do thể hiện được coi là quan trọng hơn tất cả các chính phủ, quan trọng hơn tất cả các đảng phái; mọi hành vi xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do biểu hiện đều phải bị lên án một cách nghiêm khắc nhất.
Ban bố bản hiến pháp nói trên cũng có nghĩa giai đoạn nắm quyền tuyệt đối của tôi là giai đoạn cuối cùng, là dấu chấm hết cho mọi chính thể độc tài, toàn trị. Sau khi có bản hiến pháp như thế, bất cứ kẻ nào nói rằng hắn ta hay tổ chức của hắn ta chính là những người nắm được chân lí và có thể cầm quyền cho đến muôn đời sau đều sẽ bị nhân dân hất vào đống rác của lịch sử ngay lập tức.
III. Tôi rất bi quan về cộng nghiệp của người Việt Nam. Nói ra sợ làm nản lòng độc giả.
© 2010 Nguyên Trường
© 2010 talawas


Trần Thị Trường trả lời phỏng vấn của talawas
talawas – Ngày 03/11/2010 sắp tới, talawas sẽ tròn 9 tuổi và xin nói lời chia tay độc giả. Chúng tôi sẽ nhìn lại chặng đường 9 năm qua và trình bày nguyên nhân kết thúc hoạt động. Nhân dịp này, chúng tôi cũng mời các cộng tác viên tham gia trả lời 3 câu hỏi của talawas sau đây:
1. Theo chị, 5 vấn đề hệ trọng nhất của Việt Nam hiện nay là gì?2. Nếu được cầm quyền tuyệt đối tại Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, chị sẽ làm gì?
3. Hình dung của chị về Việt Nam năm 2010, 2020 và 2030.
____________
Trần Thị Trường
I. Theo tôi, 5 vấn đề hệ trọng nhất của Việt nam hiện nay là:
1. Pháp quyền
Một bộ phận không nhỏ dân số vẫn duy trì mọi quan hệ và trật tự xã hội bằng bản năng chứ không bằng tư duy pháp luật. Mặc dù vẫn có khẩu hiệu “sống và làm việc theo pháp luật” nhưng từ cơ quan công quyền đến công dân vẫn coi chuyện pháp luật là chuyện của toà án, của mấy ông luật sư và mấy kẻ tội phạm. Không coi luật pháp ra gì, có ý nghĩa như thế nào với đời sống cộng đồng và cá thể. Khi phạm luật hoặc là rất sợ luật pháp, chạy tội, chạy án bằng mọi giá, và vì thế nhiều khi các cơ quan công quyền càng coi việc người dân không hiểu luật pháp là điều kiện thuận lợi, là mảnh đất để “cây lộc” phát triển.
Khi không biết nghĩa vụ công dân bao gồm những gì, quyền lợi hợp pháp của mình là bao nhiêu thì người dân dễ hèn yếu. Khi không biết nghĩa vụ công chức là những gì, thì công chức dễ lạm quyền, đẻ ra tham nhũng, tham ô, quan tham và bệnh cửa quyền hay còn gọi là thủ pháp bịt miệng.
2. Văn hóa
Có người nói, cuộc Cải cách Ruộng đất là cú triệt tiêu các giá trị gia đình truyền thống hoàn hảo nhất trong lịch sử Việt thì song song với nó là các chuẩn giá trị bị đảo lộn. Kẻ ít học, ít kinh nghiệm nhưng nhờ sự ngu trung mà chiếm được các vị trí xung yếu khiến cho xã hội loạn chuẩn.
3. Giáo dục
Sự loạn chuẩn diễn ra ở diện rộng khiến cho mục tiêu giáo dục bị nhiễu. Từ đó các căn bệnh học chỉ để lấy bằng chứ không để lấy kiến thức, thậm chí mua bằng, làm bằng giả phát triển không có thuốc trị. Không có kiến thức thật không thể làm ra hiệu quả thật sẽ dẫn đến nhiều căn bệnh khác: nói dối, thành tích, bè phái, phá hoại, liều lĩnh…
4. Y tế
Nếu con người còn quá lo sợ khi phải đối mặt với các dịch vụ y tế, thì bản năng sống sẽ khiến cho con người ấy trở nên tham lam, giành giật một cách vô độ hơn. Với mức độ 3 đến 4 người trên 1 giường bệnh thì con người (cả thày thuốc lẫn bệnh nhân) đều khó có được một ứng xử văn hoá, chưa nói đến điều thiết yếu: bệnh viện phải là nơi an ủi nhất đối với các tâm hồn và thể xác lâm bệnh.
5. Tôi coi 4 vấn nạn trên đẻ ra nhiều vấn nạn khác và hầu như đều rất trầm trọng.
II.
Là một câu hỏi vui. Tôi cũng trả lời để mua vui thế này. Nếu có 24h cầm quyền tuyệt đối tại Việt Nam, tôi sẽ mời tất cả những ai đã có sẵn câu trả lời này trong đầu, viết ra trên blog, hay trên các trang mạng, ăn kem. Khi nhiệt cơ thể giảm xuống nửa độ, là lúc tôi sẽ hỏi: Nào, vì tổ quốc thân yêu của chúng ta, vì toàn thể người dân Việt Nam thân yêu của chúng ta (dù người đó có là một người hay phản biện) chúng ta sẽ mời ai làm tổng chỉ huy?
III. Tôi hy vọng Việt Nam 10 năm nữa sẽ có một phần tư công dân hiểu rằng trật tự xã hội không chỉ được duy trì bằng những hành động bản năng mà bằng đạo đức và trí tuệ, hay nói cách khác, được duy trì bằng đạo đức pháp luật. Mỗi người dân vừa thoải mái sống trong khuôn khổ pháp luật, với bộ luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức văn hoá và mọi người bình đẳng trước bộ luật đó. 20 năm nữa, số người biết mình có quyền từ chối cái gì, hưởng cái gì và phải làm những gì để cái quyền của mình hài hoà với các quyền của người khác và của cộng đồng sẽ tăng lên một phần tư nữa. Điều đó đồng nghĩa với việc xã hội sẽ được ổn định một cách nền tảng, hiện tượng bịt miệng hay mượn mồm ít còn cơ hội xảy ra. Nhưng đó chỉ là hy vọng. Cái hy vọng này sẽ không có cơ hội thành hiện thực khi một trang mạng như talawas bỗng ngừng lại không hoạt động.
© 2010 Trần Thị Trường
© 2010 talawas

Nguyễn Hưng Quốc - Talawas ngưng hoạt động VOA 27.10.2010 Cách đây mấy ngày, tôi nhận được email của nhà văn Phạm Thị Hoài báo tin Talawas sẽ chấm dứt hoạt động vào ngày 3 tháng 11, lúc Talawas vừa tròn 9 tuổi. Sau đó, bản thông báo chính thức đã được đăng tải trên Talawas vào ngày 23 tháng 10.
Đọc cả hai, tự dưng tôi cảm thấy buồn hiu hắt.

Suốt cả gần 9 năm nay, trừ những khoảng thời gian ngắn Talawas bị gián đoạn để tái cấu trúc hay vì bị tin tặc tấn công, hầu như ngày nào tôi cũng vào đọc Talawas. Nó như một thói quen, hơn nữa, một cơn ghiền. Sáng, thức dậy, sau khi làm vệ sinh và pha cà phê, công việc đầu tiên trong ngày của tôi bao giờ cũng là bật máy vi tính và vào ngay một số tờ báo mạng, trước hết là các báo tin tức; sau đó là báo thiên về bình luận các vấn đề thời sự. Thuộc loại sau, bằng tiếng Việt, hầu như bao giờ Talawas cũng được đọc đầu tiên. Có ngày, khi có vấn đề gì thật hấp dẫn, tôi vào đọc nhiều lần, chủ yếu đọc phần ý kiến. Như vậy, có thể nói, liên tục trong 9 năm, Talawas trở thành một phần trong đời sống của tôi. Bây giờ, nghĩ, sáng thức dậy, bật máy vi tính lên, vào trang mạng, thấy Talawas tuy vẫn nằm đó, nhưng nằm một cách bất động, không còn thở, không còn cựa quậy, không còn ồn ào, làm sao tránh được cảm giác hụt hẫng và ngậm ngùi chứ?
Nhưng tôi không tiếc cho một thói quen trong ngày của mình bằng tiếc cho một tờ báo mạng thuộc loại có giá trị nhất trong lãnh vực chính trị, xã hội và văn hoá bằng tiếng Việt. Talawas có ưu thế hơn hẳn các tờ báo in ở chỗ: Nó ra hằng ngày như nhật báo nhưng lại thiên hẳn về phần trình bày quan điểm như các tạp chí. Bởi vậy, không có tờ nhật báo in nào có thể sánh được với Talawas ở phần bình luận và không có tờ tạp chí in nào có thể sánh được với Talawas ở độ cập nhật. Đây cũng là ưu điểm chung của tất cả các tờ báo mạng chứ không riêng gì của Talawas.
Nhưng Talawas có ưu điểm nổi bật hẳn so với tất cả các tờ báo mạng hay blog chính trị, xã hội và văn hoá bằng tiếng Việt khác ở chỗ: trong khi hầu hết các tờ báo mạng hoặc blog có tính nhật báo (nghĩa là đăng bài mỗi ngày) khác thường chỉ làm công việc khá đơn giản là cóp nhặt bài vở từ báo in hoặc từ các trang báo mạng đâu đó thì Talawas phần lớn chỉ đăng các bài mới do chính tác giả gửi tới. Trong ý nghĩa đó, Talawas là một trong vài tờ báo mạng đúng nghĩa chứ không phải chỉ là một thứ trạm thông tin, một thứ cầu nối với chức năng đầy nhiệt tình nhưng kém sáng tạo là chỉ lựa lọc bài vở giùm cho những độc giả quá bận bịu.
Giá trị của Talawas, theo tôi, còn vượt quá cái mức là một tờ báo hay. Giá trị của nó còn ở chỗ: nó góp phần làm nên đời sống trí thức của người Việt Nam. Có thể nói, trong những năm vừa qua, không có tờ báo nào, kể cả báo in lẫn báo mạng, phản ánh những suy tư thao thức của giới trí thức trước tình hình chính trị, xã hội và văn hoá Việt Nam đậm nét như là Talawas. Tờ báo bao quát được rất nhiều vấn đề; có những vấn đề thật nhạy cảm, liên quan đến đời sống, thậm chí, vận mệnh của Việt Nam. Những vấn đề ấy thu hút ý kiến của nhiều người thuộc nhiều giới, xuất phát từ nhiều lập trường, gắn liền với nhiều kinh nghiệm và nhắm đến nhiều mục đích khác nhau. Phải nhìn nhận là lực lượng cộng tác viên của Talawas đông và thật đa dạng. Trong nước: có. Hải ngoại: có.
Ở trong nước, Nam: có; Bắc: có; những người ly khai: có; những người đang cộng tác với chính quyền: cũng có. Ở hải ngoại cũng thế, từ khuynh tả đến khuynh hữu, từ tị nạn đến du học sinh, từ những người kiên quyết chống cộng đến cùng đến những người có nhiều thiện chí muốn hợp tác với chế độ để làm một cái gì đó cho đất nước. Ở phương diện này, không thể không thừa nhận Talawas là một diễn đàn dân chủ thực sự. Đó là một trong những diễn đàn hiếm hoi mà ban chủ trương không nêu và cũng không công khai cổ vũ cho một chủ trương chính trị nào rõ rệt cả.
Nói đến giá trị phản ánh của Talawas, tôi không thể không nói đến điều này: tôi nghĩ bản thân những sự chuyển hướng của Talawas cũng là những chuyển hướng trong đa số giới trí thức Việt Nam nói chung. Có mấy sự chuyển hướng chính. Một, lúc đầu, từ tháng 3 năm 2002 đến tháng 11 năm 2008, Talawas là một tờ báo; sau, nó biến thành một blog. Hai, ở dạng báo, lúc đầu, nó nghiêng về phía văn học nghệ thuật, đặc biệt là mỹ thuật, thậm chí, có lúc nó còn có tham vọng đặt ra giải thưởng văn học lấy tên là Bùi Giáng nữa; sau, nó ngả hẳn sang hướng chính trị xã hội; số lượng bài viết về văn học nghệ thuật tuy vẫn còn, nhưng chỉ đóng một vai trò khá khiêm tốn và mờ nhạt. Ba, thoạt đầu, nó có vẻ có tham vọng quốc tế hóa với những bài viết hoặc những bài dịch tiếng Anh, chủ yếu châu tuần chung quanh các cuộc hội thảo liên quan đến mỹ thuật, nhưng sau, phần tiếng Anh dần dần biến mất, các cộng tác viên người ngoại quốc cũng dần dần bặt tăm, chỉ còn lại phần tiếng Việt giữa những người Việt Nam với nhau. Cuối cùng, thoạt đầu, nó là diễn đàn của những cây bút ít nhiều chuyên nghiệp với những bài viết hoàn chỉnh hoặc khá hoàn chỉnh; sau, tính đối thoại càng lúc càng gia tăng qua vai trò của phần “ý kiến” từ một ít, những cây bút, với những mức độ khác nhau, đã có tên tuổi, và nhiều hơn, những độc giả thực sự là độc giả, theo nghĩa: họ chưa từng viết và chưa từng đăng tải bất cứ điều gì khác ngoài các phản hồi trên báo mạng.
Những biến chuyển trên thể hiện các xu hướng chính: blog hóa, chính trị hóa, Việt Nam hóa về phương diện ngôn ngữ và vai trò nổi bật của độc giả như một thành tố chính của diễn đàn.
Bất cứ xu hướng nào ở trên cũng có thể và cũng cần được khai triển nhiều hơn. Tuy nhiên, ở đây, tôi chỉ muốn đề cập một chút về xu hướng chính trị hóa.
Sực nhớ, lúc Talawas mới ra đời, trong một lần nói chuyện qua điện thoại với Phạm Thị Hoài, tôi có phàn nàn: sao Talawas lại không tập trung hẳn vào lãnh vực văn học nghệ thuật mà lại sa đà vào chuyện chính trị xã hội làm gì? Phạm Hoài chỉ tắc lưỡi: “Càng ngày tôi càng thấy ở đời có nhiều việc quan trọng hơn văn học nghệ thuật, anh ạ.” Tôi không hỏi thêm để xem thử, với chị, cái (hoặc những cái) mà chị cho là quan trọng hơn văn chương nghệ thuật đó là gì. Nhưng thú thực, lúc ấy, tôi cảm thấy có phần hơi tiếc. Tôi nghĩ Hoài là một cây bút có tài, một trong những cây bút có tài nhất của Việt Nam; chị nên tập trung vào sáng tác; và nếu làm báo, thì chỉ nên tập trung hẳn vào văn học. Nhưng rồi, rốt cuộc, tôi cũng bị Talawas cuốn hút và đọc miên man từ ngày này sang ngày khác. Rồi khi Talawas chuyển sang hình thức blog, tôi lại cảm thấy Hoài càng sa vào con đường thời sự chính trị, xã hội và lại thấy tiếc cho chị. Nhưng rồi, một lần nữa, tôi lại bị cuốn hút vào cái blog của chị.
Cuối cùng, bản thân tôi cũng không thoát được những ám ảnh về chính trị và xã hội.
Lại nhớ, lúc mới cầm bút, tôi tự nhủ: sẽ không viết gì ngoài chuyện văn chương. Không phải tôi không nghĩ đến các vấn đề chính trị và xã hội. Nghĩ, có nghĩ, hầu như thường xuyên nghĩ; nhưng viết thì lại không viết. Cứ coi như đó là chuyện của... người khác. Vậy mà, tôi vẫn cứ bị phiền hà về chính trị. Về nước, cứ bị công an văn hóa theo dõi và hạch sách. Rồi bị cấm nhập cảnh mà không có một lý do chính đáng nào cả. Tôi mới ngộ ra điều này: trong một không khí chính trị vẩn đục, không ai có thể thoát khỏi tác động của chính trị để thực sự thanh thản tiếp tục sống mãi trong tháp ngà chuyên môn của mình cả.
Tôi cho đó là một bi kịch lớn nhất của giới cầm bút và cả giới trí thức Việt Nam nói chung: biết chính trị là chuyện phù du, nhưng không thể quay lưng hẳn lại với nó được.
Xu hướng chính trị hóa của Talawas có lẽ cũng là xu hướng chung của rất nhiều trí thức có lòng với đất nước.
Talawas đóng cửa, mất đi một diễn đàn có tầm vóc, hẳn những người có lòng sẽ ít nhiều cảm thấy bơ vơ. Ít nhất cho đến lúc một diễn đàn bề thế khác xuất hiện.
Nguyễn Huệ Chi – Lá thư giã từ talawas
Chị T. ơi,
Phải nói một lời chia tay với talawas, nhưng ba câu hỏi Hoài đặt ra đánh đố người ta thì người khác đã trả lời nhiều quá và trả lời nào cũng thâm thúy cả, nên tôi đành thay vào đó bằng lá thư phúc đáp chị mà tôi biết dầu có mượn đăng công khai chị cũng không nỡ giận tôi và chắc bà chủ talawas cũng vui lòng dành cho một chỗ để tôi thổ lộ tâm tình với chị và cả với người tình talawas của không phải chỉ riêng tôi trong suốt chín năm qua.
Những lời chị viết cho tôi ngắn gọn mà sao xúc ₫ộng thế. Chị là một phụ nữ đẹp và vị tha. Đó là điều quý giá nhất ở phái đẹp trong quan niệm cố hữu của tôi. Vì thế, tôi quý chị ngay trong những ngày mới đến San Jose đầu tháng tháng 9 năm 2001, và cảm xúc này ở lại trong tôi suốt 10 năm nay mỗi khi nghĩ về chị. Gặp lại nhau cũng tại San Jose trong những ngày giữa tháng 10 này tôi càng thấy rõ điều mình đinh ninh đã không lầm. Chị viết trong thư: “Mấy hôm nay nhìn lại mình trong gương tôi chợt nhận ra, tôi đã không yêu tôi tí nào, tôi đã phí phạm thì giờ… Hy vọng sẽ gặp lại anh tại Hà Nội, lúc ấy tôi đã đòi lại được nụ cười rạng rỡ ngày xưa“.
Những gì chị nói không sai bởi với một con người vị tha thì sống cho người khác và cả cho những giấc mộng không tưởng rằng mình có thể xây dựng một sự nghiệp làm đẹp cuộc đời bằng trái tim nhiệt huyết, đó là bản năng tự nhiên mà chị. Chị đừng vận vào mình về những thất bại mà mình đã vấp. Cứ nhìn cho khắp mà xem trong cả một thế hệ chúng ta ai là người không thất bại đâu, chỉ có người dạng này người kiểu khác mà thôi. Nói gì lớp chúng ta, trẻ trung, xinh đẹp và giọng hát quyến rũ đến như TM mà chẳng mang một khuôn mặt rười rượi về sự tan vỡ mơ hồ đang không tránh khỏi đấy sao? Chị cầu mong cho tôi: “Thân chúc anh thành công trên đường tranh đấu đầy cam go này, Tôi tin anh sẽ thành công“. Lời chúc ấy đối với tôi cao quá. Thú thật, về một phương diện nào đó mà ví von, chúng tôi cũng đang làm những việc cầm chắc thất bại trong tay như chị đấy. Chúng tôi cũng chỉ muốn đòi lại nụ cười rạng rỡ cho một đất nước vốn rất hiền hòa chứ có làm gì bạo liệt đâu. Vậy mà khi cái ác đã công nhiên được chính danh trong bấy nhiêu năm bằng một triết lý ngó như cao thâm “ác cho mục tiêu thiện” thì thực hành điều thiện thiên tính là đối đầu với cái ác-thiện nhân tạo này mất rồi. Một giấc mơ không tưởng như thế mà chúng tôi vẫn cứ lao đầu vào mà không hề nghĩ đến thất bại, bởi lẽ sống của đám người có chút lương thức làm sao mà làm khác được hở chị, nếu không thì mình đâu còn là mình nữa. Có điều trong tình thế hôm nay, khi chúng tôi trước sau chỉ là những ông K đơn độc đứng trước LÂU ĐÀI như F. Kafka từng thủ thỉ kể cho mình từ nhiều thập niên trước, và đi quanh ngả nào thì trước mắt cái lâu đài vẫn cứ hiện ra sừng sững, một kiểu lâu đài ma mà mình tưởng đã nhìn thấu mọi ngóc ngách ma quỷ của nó song rốt cục nó vẫn cứ là một thực thể bất khả giải, chị thử nghĩ, để vững tâm cho được mà không hốt hoảng, phải biết tự chủ đến như thế nào. Trong tôi bao giờ cũng có một lời nhắc thầm lặng: mi hãy nhớ cái limite mà mi phải dừng và cứ giẫm chân qua lại trên đó đủ để gây một áp lực thức tỉnh cho ma nó sợ chứ đừng có hùng hổ và bồng bột khoa đuốc lên làm một ngọn đuốc sống tự đốt cháy mình trong phút chốc. Ai chê ai khen tôi vẫn cứ phải nghiêm túc nhắc nhủ mình như vậy tuy không dám nói là bỏ ngoài tai mọi sự phẩm bình.
Nhớ lại những ngày được cơ quan chức năng thăm hỏi, tối đến, trở về nhà, anh Phạm Toàn hầu như hôm nào cũng đến, tôi tìm một chai vang cất trên tủ tường, lôi xuống mở ra, vợ tôi thấy thế lặng lẽ đi rang một mớ lạc để vào trong cái khăn mặt để giữ nóng rồi lui ra, mặc cho hai anh em ngồi trầm ngâm nhìn vào bóng tối và cứ ngồi như thế cho tới quá nửa đêm lúc nào không biết nữa. Những thời khắc không bao giờ quên được đó câu thơ của Trần Tử Ngang sao mà cứ chập chờn như một ám ảnh: “Tiền bất kiến cổ nhân / Hậu bất kiến lai giả / Niệm thiên địa chi du du / Độc sảng nhiên nhi lệ hạ” (Trước, không thấy người xưa / Sau, người sau đâu thấy / Nghĩ trời đất thật vô cùng / Riêng mình đau mà lệ chảy). Quả thật, cả tôi và Toàn không ai nói với ai nhưng đều mường tượng trước mặt mình đoạn đường còn đi được quá ngắn mà bầu trời thì tối đen. Tuy nhiên, sau mấy tiếng đồng hồ nằm thiếp đi, sáng mai thức dậy ánh mặt trời rọi vào mắt lại có sức cứu rỗi mình. Ý thức mất đi và vô thức sống lại. Lại bình thản lên xe đi đến một nơi nào đấy để tiếp tục trả lời những câu hỏi như đã được lập trình sẵn và bỗng nhiên lại cảm thấy phấn chấn vì đã quên hết cái giới hạn sinh học ngắn ngủi của đời người thân phận trong hai thằng tôi cụ thể mà suốt đêm hôm qua cùng ngồi thao thức. Thì ra mới biết, mỗi chúng ta sống và hoạt động được là nhờ QUÊN. Nghĩ về Hoài – một người bạn quen biết từ đầu những năm 80 thế kỷ trước đến nay – hình như Hoài cũng đã dấn thân trong triết lý “quên” suốt từ khi đứng ra chủ trương talawas, để rồi sau 9 năm thì bỗng như có một tia sáng rọi vào đầu làm cho nàng chuyển “quên” thành “nhớ” và đấy chính là lúc sinh mệnh talawas chợt điểm. Hoài chấm dứt talawas để lại một sự đơn độc không thể bù lấp cho nhiều người bạn đã từng nhìn Hoài mà dấn bước, đã quen có trong tâm lý cái cảm giác phải có bạn bầu trong cuộc đi vô định, cuộc hành xác vất vả cực nhọc này mà đằng chân trời đã lấp ló một tia sáng nào chưa hay vẫn là một ảo ảnh trên sa mạc? Hình như vẫn chưa ai trả lời được câu hỏi ấy kể cả những người bặm trợn nhất.
Về chị, một trái tim phụ nữ dịu dàng và nồng thắm, những vấp váp trong tình cảm và đời sống là chuyện thường. Như đã nói với nhau tối hôm chia tay, chị hãy làm lại, trở lại với MÌNH. Chắc chắn ngày gặp lại nhau, tôi lại tìm thấy ở chị một khuôn mặt trẻ trung như trước hay hơn trước. Hy vọng chị cũng nghĩ về tôi như vậy.
Hai đêm ở nhà vợ chồng bạn NHL chúng ta hát và ngâm thơ đến 2 giờ sáng là hai đêm tuyệt diệu không một ai thờ ơ không thấy lòng trẻ lại, nó khiến tôi cứ bồi hồi nghĩ đến cái đêm cuối tháng 9 năm 2001 chúng ta hát thâu đêm trước lúc tôi về lại Boston. Tôi lại có thêm nhiều bạn mới TT, M, TM, TA… cũng là nòi tình vì yêu nhạc tiền chiến, say thơ tiền chiến. Đó là một hạnh phúc đối với tôi.
Chị hãy giữ lấy chiếc khăn lụa 10 năm trước như hôm gặp nhau chị đã quàng nó mặc dù nó đã sờn, và đừng bao giờ quên người bạn của chị ở tận bên kia bán cầu lúc nào cũng cầu mong cho chị hạnh phúc.
© 2010 Nguyễn Huệ Chi
© 2010 talawas
Nguyễn Lệ Uyên trả lời phỏng vấn của talawas
Nhận điện thư của BBT talawas với mấy dòng ngắn: “talawas sẽ chấm dứt hoạt động vào ngày 03.11.2010 sắp tới. Trong những ngày tới, chúng tôi sẽ ra thông cáo về quyết định này” khiến chúng tôi (và có lẽ cả độc giả của talawas) ngạc nhiên không cùng. Đã từ lâu, talawas là một trong số ít trang mạng mang sứ mệnh tự do ngôn luận theo đúng nghĩa của  nó đến với độc giả khắp bốn phương, có đến hàng trăm ngàn lượt độc giả truy cập mỗi ngày.
Trên diễn đàn này, các tác giả đã tự do bày tỏ quan điểm, thái độ cùng những phản hồi rất có trách nhiệm, về những bài viết của mình trước những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, văn học nghệ thuật… Cũng như các trang mạng đứng đắn khác, talawas là ngôi nhà chung cho tất cả mọi công dân thiết tha đến tiền đồ dân tộc, vận mệnh chính trị, văn hóa của một quốc gia có nguy cơ “biến mất”.
Vậy nhưng giờ đây, hết Damau kêu cứu, lại tiếp đến talawas tuyên bố sắp sửa đóng cửa… Sắp tới sẽ còn những trang mạng có tinh thần dân tộc nào nữa sẽ có tuyên bố tiếp theo? Điều gì đã xảy ra? Tài chánh, nhân lực, sự coi thường tự do ngôn luận dưới hình thức núp bóng tin tặc, xổ toẹt tính nhân văn của ngàn năm văn hiến của một dân tộc luôn ngời sáng trước những mối hiểm nguy… là những áp lực nặng nề đối với các trang này?
Tôi nghĩ, các vấn đề hệ trọng nhất của Việt Nam hiện nay là:
  • Nguy cơ bị Bắc phương đô hộ, đồng hóa;
  • Nền giáo dục không giống ai, dạy trẻ con nói dối, làm suy đồi ý chí của dân tộc;
  • Nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa” là loại hình kinh tế chụp giựt chỉ làm giàu cho cá nhân (và môn đệ) có quyền, sẽ dẫn tới hậu quả nợ nần ngập đầu, các thế hệ con cháu sau này phải è lưng ra trả;
  • Loạn sứ quân đã hình thành và lớn dần lên, không phải 12 như lịch sử trước đây mà có tới 64 sứ quân, chưa kể sứ quân dùi cui ma trắc tạo thành đám mafia đang bóp hầu bóp họng nhân dân…
Để xóa hết các quốc nạn trên, nếu được phép, đầu tiên là bỏ hẳn điều 2 và điều 4 của Hiến pháp (1992) để mọi người dân từ ải Nam Quan (mà ải Nam Quan còn đâu nữa?) tới mũi Cà Mau qui về một mối trên tinh thần “hào khí Đông A”. Thứ đến, các quan chức từ cơ sở đến tít tận trời cao, bắt nằm sấp, bẻ roi mót quất vào mông vì tội xúm nhau đục ruỗng mục quốc khố, cho về nông thôn tự lập hợp tác xã sản xuất để làm tùy sức hưởng tùy nhu cầu theo cái tem phiếu chủ nghĩa Mác-LêNin, Mao-ít và tư tưởng Hồ Chí Minh cũ rích, lạc hậu ấy… để làm “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, mà sống với nhau để thấu nỗi khổ đau của hàng triệu nhân dân đã từng đau khổ do họ gây ra.
22/10/2010
© 2010 Nguyễn Lệ Uyên
© 2010 talawas
Phạm Hồng Sơn trả lời phỏng vấn của talawas
1. Nếu nhìn tình hình Việt Nam hiện thời theo quan điểm “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” thì có 5 vấn đề hệ trọng như sau:
1. Đa phần giới có học vẫn coi các công việc xã hội, các vấn đề chính trị là những việc xa vời, không ảnh hưởng đến bản thân và gia đình.
2. Lòng tin (chữ tín) giữa con người với nhau chưa được coi trọng.
3. Tập quán làm việc thiếu suy xét kỹ lưỡng (duy lý), thiếu kiên trì, thiếu khát khao đạt tới hoàn hảo, nói một cách khác là thói quen làm việc theo cảm tính, chóng nản, dễ dãi vẫn phổ biến ở mọi giới, mọi nghành nghề.
4. Lối sống đua theo các bản năng cấp thấp (ăn uống, vẻ đẹp bề ngoài, tình dục,..) đang bao trùm giới trẻ.
5. Lòng tự tôn dân tộc, sự liêm sỷ trong hệ thống công quyền đã suy tới mức thấp nhất trong lịch sử nước nhà từ trước tới nay.
2.
Theo tôi, bất kỳ sự ảo tưởng nào cũng không có lợi cho quá trình dân chủ hóa.
3.
Tiến bộ sẽ đến chậm hơn hoặc không đến nếu chúng ta cứ loay hoay với câu hỏi “Khi nào?”
© 2010 Phạm Hồng Sơn
© 2010 talawas
Trần Trung Đạo trả lời phỏng vấn của talawas

1.
Việt Nam giống như con lạc đà cõng trên lưng một cơ chế chính trị độc tài, lạc hậu, cồng kềnh đừng nói gì là 5 mà vài chục vấn đề hệ trọng cũng có thể viết được: (1) Sự phân hóa vô cùng trầm trọng trong lòng dân tộc, (2) sự lạc hậu về mọi mặt so với đà tiến của văn minh nhân loại, (3) một nền giáo dục hủy diệt mọi khả năng sáng tạo, (4) một xã hội tham nhũng thối nát, trong đó giới lãnh đạo thờ ơ trước đòi hỏi của nhân dân và nhân dân không có niềm tin nơi giới lãnh đạo. Tuy nhiên một vấn đề hệ trọng thứ 5 có tính thời sự, tôi muốn viết ra ở đây, là Việt Nam hoàn toàn không sẵn sàng cho một cuộc xung đột võ trang trong vùng Đông Nam Á.
Sau cuộc chiến biên giới Việt Trung 1979, một bài bình luận có tựa là “Ai đã học bài học?” của tạp chí Time, trong đó tác giả (quá lâu nên tôi không còn nhớ tên và truy cập được) nhận xét rằng không phải Việt Nam mà là Đặng Tiểu Bình và giới lãnh đạo Trung Quốc mới chính là những người đã học bài học cay đắng. Với võ khí quá lạc hậu và chiến thuật biển người phi nhân cố hữu như họ đã từng sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên, trong tuần lễ đầu phía Trung Quốc đã chịu đựng các thiệt hại nhân mạng nặng nề. Hàng chục ngàn lính Trung Quốc gục xuống như rơm rạ trước hỏa lực ngày đó còn vượt trội của phía Việt Nam. Nhưng cũng từ bài học đó, họ Đặng đã thúc đẩy nhanh hơn chính sách hiện đại hóa hải, lục, không quân để ba chục năm sau công khai bày tỏ ý định thống trị biển Đông.
Việt Nam thì không. Hơn 30 năm sau chiến tranh biên giới, Việt Nam vẫn “tiếp tục canh giữ nền hòa bình thế giới” bằng một cơ chế chính trị độc tài, bằng một nền kinh tế lạc hậu, bằng một chính sách giáo dục ngu dân. Nếu gọi cái học là những gì còn lại sau khi quên hết thì cái còn lại trong các thế hệ trẻ là những bài học tuyên tuyền rẻ tiền phản văn minh, phản khoa học và phản dân tộc.
Việt Nam, hơn 30 năm, vẫn chưa được trang bị một hệ thống phòng thủ có khả năng bảo vệ tổ quốc. Cái duy nhất mà các lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam bảo vệ được, đó là quyền thống trị trên đầu trên cổ nhân dân, phó mặc cho đất nước đang rơi vào thảm họa diệt vong. Phần lớn tiền của, mồ hôi nước mắt của 80 triệu dân đã đổ trong một phần ba thế kỷ, nếu không bị thất thoát do quản lý tồi tệ thì cũng rơi vào túi của tập đoàn lãnh đạo Đảng. Những gì gọi là thành tựu tại Việt Nam ngày nay thật quá nhỏ nhoi so với sự chịu đựng triền miên của đồng bào cả nước.
Một số nhà đấu tranh trong và cả ngoài nước thường mô tả vị trí chính trị Việt Nam qua câu nói quen thuộc “đi với Tàu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng”, và có người còn đề cao Việt Nam khi cho rằng mối quan hệ giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam là quan hệ chân vạc. Tôi cho rằng đánh giá Việt Nam như thế là quá cao và không phản ảnh thực tế kinh tế chính trị của Việt Nam trong bang giao quốc tế. Việt Nam không có được vị trí của một chân kiềng hay chân vạc gì cả, và Việt Nam có muốn “đi theo Tàu” cũng chưa chắc được nhận mà “đi  theo Mỹ” cũng chưa hẳn được cho đi. Trung Quốc và Mỹ đều muốn làm thầy, làm chủ để sai khiến giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam hơn là một đồng minh thân cận, và cả hai, dù tuyên bố hùng hổ, cứng rắn bao nhiêu, cũng đều không muốn vì một Việt Nam nghèo nàn lạc hậu mà phải đụng độ nhau trong giai đoạn chưa cần thiết.
Tuy nhiên, chiến tranh là giải pháp cuối cùng của một xung đột chính trị. Những mâu thuẫn quyền lợi tại biển Đông giữa các cường quốc ngày càng gay gắt. Đối với Trung Quốc, mọi hòa hoãn nếu có chỉ là tạm thời bởi vì họ không sẽ bao giờ chấp nhận chủ trương xem biển Đông là chiếc ao nuôi cá chung của các quốc gia trong vùng, và không bao giờ chịu phân chia quyền lợi đồng đều với một quốc gia nhỏ cỡ Brunei. Chiến tranh tại Á Châu nếu không trong mười năm, thì hai chục năm nữa sẽ phải xảy ra. Và nếu đúng như vậy, Việt Nam sẽ xuất hiện sau chiến tranh như một quốc gia có nhiều lợi nhất như trường hợp Thụy Sĩ , Thổ Nhĩ Kỳ sau thế chiến thứ hai, hay mảnh giang sơm gấm vóc của tổ tiên để lại sẽ trở thành một biển máu đào, một rừng xương trắng? Đó là câu hỏi không phải chỉ dành cho giới lãnh đạo Đảng mà nhiều hơn cho những ai đang thao thức với tiền đồ dân tộc.
2.
24 giờ có thể quá ngắn để thực hiện bất cứ một thay đổi có tầm vóc quốc gia nào, tuy nhiên giống như trong quân sự, đó là thời gian cực kỳ quan trọng của người lãnh đạo. Và những việc phải thực hiện trong 24 giờ đầu:
- Long trọng thưa với nhân dân Việt Nam rằng từ thời điểm lịch sử đó, chế độc độc tài Cộng sản đã chính thức cáo chung, dân tộc Việt Nam đang bước vào một thời đại tự do, dân chủ qua ngưỡng cửa của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để.
- Trả tự do cho tất cả tù chính trị. Sau bao nhiêu chịu đựng, dân tộc Việt Nam có một ngày đoàn viên thật sự để cùng bắt tay nhau xây dựng quê hương. Con đường dân chủ hóa đất nước sẽ còn đầy gai góc và đạt đến nhanh hay chậm tùy thuộc vào sự đóng góp của từng con tim, từng khối óc của mỗi người Việt Nam trong cũng như ngoài nước.
- Một số bộ phận nhà nước vẫn tiếp tục hoạt động theo các chức năng chuyên môn để duy trì sự ổn định xã hội cần thiết trong giai đoạn chuyển tiếp, nhưng trong 24 giờ đầu tất cả các cơ chế đảng Cộng sản trong hệ thống hành chánh công quyền (đảng ủy, đảng đoàn) và quân đội (chính ủy) sẽ bị giải tán.
- Thành lập hội đồng chuyển tiếp dân chủ bao gồm nhiều ủy ban chuyên môn như tuyển cử, kinh tế, ngoại giao, giáo dục, quốc phòng, an ninh v.v… để chuyến hóa bộ máy nhà nước từ độc tài đảng trị sang dân chủ pháp trị.
- Trong lúc chờ đợi một quốc hội lập hiến được bầu và soạn thảo hiến pháp mới, hội đồng chuyển tiếp dân chủ sẽ lãnh đạo đất nước bằng sắc lệnh và một trong những sắc lệnh ban hành ngay trong 24 giờ đầu tiên là tuyệt đối ngăn cấm việc trả thù dưới bất cứ hình thức nào và vì bất cứ một lý do gì, mọi tội trạng hình sự sẽ được xét xử theo đúng thủ tục được quy định trong hiến pháp Việt Nam dân chủ.
3.
Năm 2010: Ngoại trừ các biến cố quốc tế khách quan hay thiên tai trầm trọng, Việt Nam sẽ không có thay đổi gì trong hai tháng nữa.
Năm 2020: Khi nghĩ đến chuyện 5 năm, 10 năm chúng ta thường nghĩ như khoảng thời gian dài. Thật ra 10 năm là thời gian tương đối ngắn. Diễn đàn talawas là một ví dụ, mặc dù những vấn đề thảo luận trong những ngày đầu vẫn còn đang nóng hổi cũng có một lịch sử 9 năm rồi.
Trong vòng 10 năm, các yếu tố đang có tác dụng sẽ trở nên hữu hiệu và ảnh hưởng rộng lớn hơn:
- Việt Nam có thể vẫn còn phải tiếp tục chịu đựng dưới ách độc tài nhưng các phong trào dân chủ không còn là các nhóm nhỏ hoạt động rải rác mà sẽ phối hợp chặt chẽ và thách thức chế độ một cách công khai bằng nhiều hành động cụ thể.
- Tranh đấu cho dân chủ là khẩu hiệu của thời đại, là niềm vui chứ không còn là nỗi sợ nữa.
- Các thế hệ trẻ tại Việt Nam trưởng thành về nhận thức các quyền căn bản của con người.
- Mạng lưới internet là nguồn tư liệu và cũng là phương tiện thông tin hữu hiệu hơn của các phong trào dân chủ.
- Nhiều trí thức và văn nghệ sĩ ý thức được viễn ảnh một Việt Nam tai họa trong xung đột quốc tế sẽ tích cực gióng lên tiếng nói đối lập với Đảng.
- Ngay trong nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản cũng có những người chọn đứng về phía dân tộc vì họ ý thức được dân chủ không chỉ là đôi cánh của dân tộc mà còn là lối thoát cho chính họ.
Năm 2030: Với các điều kiện chính trị quốc tế khách quan tác động từ bên ngoài và sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng dân chủ tại Việt Nam, 20 năm nữa Việt Nam sẽ là một quốc gia dân chủ. Tất cả cố gắng của người Việt Nam từ nhiều ngả, nhiều giới, nhiều thế hệ cuối cùng sẽ dẫn tới một điểm hẹn huy hoàng của lịch sử: cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ tại Việt Nam.
Phi trường Dallas 24 tháng 10 2010
© 2010 Trần Trung Đạo
© 2010 talawas
Phong Uyên trả lời phỏng vấn của talawas
1. Theo tôi, hiện nay không phải chỉ có 5 vấn đề hệ trọng mà sẽ như nước lũ, sản sinh ra cả chục vấn đề hệ trọng ngang nhau nếu không giải quyết được vấn đề một Đảng 2 phái chia nhau quyền hành. Tất cả mọi vấn đề ngăn cấm tự do ngôn luận, tham nhũng, đạo lí tha hoá, các bè phái trong Đảng dựa vào ngoại bang để chia nhau quyền thế, chia nhau mọi đặc quyền kinh tế, đều ở đó mà ra.
2.
Nếu được cầm quyền tuyệt đối ở Việt Nam 24 tiếng đồng hồ, tôi không đòi hỏi những cái mà cụ Hồ có sống lại cũng không đòi hỏi được như giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam, mà chỉ đòi hỏi 2 điều tối thiểu.
1. Thực hiện bước đầu của tự do ngôn luận: Những người viết báo (tuy là báo Đảng báo Đoàn) có một quy chế độc lập của những người hành nghề tự do muốn viết gì thì viết theo lương tâm của mình. Nếu sai phạm đã có toà án định đoạt và xử theo luật. Những hành động tin tặc, thiết lập tường lửa, ngăn cản truyền thông, là vi phạm luật pháp, vi phạm Hiến pháp, phải được làm sáng tỏ và đưa ra trước pháp luật.
2. Bỏ điều 4 Hiến pháp 92 để trả lại cho dân quyền dân chủ tối thiểu là quyền được  tự do bầu cử ứng cử một Quốc hội đa nguyên với những đại biểu độc lập không thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam hay những đoàn thể phụ thuộc đảng này. Quốc hội đa nguyên sẽ quyết định lấy lại Hiến pháp 46 tu chính nó trước khi đưa cho người dân phúc quyết như đã được quy định trong điều 70 của Hiến pháp này, hay bầu lại một quốc hội Lập hiến để làm lại hiến pháp khác.

3.
Năm 2010 đã sắp đi vào dĩ vãng và mọi người đều trông thấy Việt Nam đã bị đẩy vào ngõ tắc. Năm 2030 thì quá xa xôi nên tôi chỉ có thể hình dung được Việt Nam năm 2020 dưới 2 dạng, tùy theo Đảng Cộng sản Việt Nam diễn biến theo đường lối nào:
1. Đường lối Trung Quốc: Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là chủ tịch nước hay thủ tướng nắm mọi quyền hành. Đó là ý định của phe Lãnh đạo trong Đảng đang muốn thực thi đường lối này ngay từ sau Đại hội 11 nếu nắm được ưu thế. Đi theo đường lối này, Việt Nam có triển vọng trở thành 1 khu tự trị của Trung Quốc như Tây Tạng, Tân Cương ngay từ thập niên 20.
2. Đường lối dẫn tới chính thể đại nghị: Nếu trong Đảng có 1 phái cấp tiến đủ mạnh để sau Đại hội 11 bầu lại một quốc hội đa nguyên làm nền móng cho tam quyền phân lập. Một khi có một quốc hội đa nguyên mặc dầu vẫn là chế độ độc đảng, quyền hành của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ chỉ giới hạn vào quyền hành pháp với 1 thủ tướng do Quốc hội đề cử. Thủ tướng sẽ kiêm Tổng bí thư Đảng hay sẽ chỉ định ai giữ chức vị tổng bí thư, chỉ là chuyện nội bộ của Đảng. Thủ tướng chính phủ chỉ biết có Quốc hội, sẽ hoàn toàn dưới sự giám sát của Quốc hội và chịu trách nhiệm trước Quốc hội chứ không phải trước Bộ chính trị của đảng mình. Đường lối này có nhiều triển vọng đưa tới chế độ đa đảng ở thập niên 20, tạo điều kiện cho hoà giải dân tộc, đưa Việt Nam hội nhập với nền dân chủ thế giới và tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc.
© 2010 Phong Uyên
© 2010 talawas
Trần Kiêm Đoàn trả lời phỏng vấn của talawas
Ngày 20-10-2010, lúc 11 giờ 30 tối, tôi nhận được thư của talawas mời trả lời phỏng vấn cuối cùng.
Nếu không phải là một gã “hài nhi tóc bạc” được học đôi nét vỡ lòng về lý duyên khởi của nhà Phật – thản nhiên xem mọi sự xảy ra, đến và đi trong đời mình là dòng chảy hồn nhiên và vô tư của sự tương tác (duyên sinh) từ mọi thời và mọi phía; biến hiện không ngừng (vô thường) – thì có lẽ tôi đã pha một bình trà khuya, độc ẩm và mất ngủ vì tin talawas đóng cửa. Rồi gõ bình mà ngâm câu thơ… Tây thời học trò khi mỗi mùa Hè chia tay với thầy, bạn: Partir, c’est mourir un peu. C’est mourir à ce qu’on aime – Ra đi là chết trong lòng một ít – của Edmond Haraucourt (1856-1941); “Chanson de l’adieu’”.
talawas suốt 9 năm trường chèo chống trong sóng gió và đang vươn lên thành một trong những tên tuổi có uy tín và được ưa chuộng hàng đầu của môi trường truyền thông đại chúng Việt ngữ hiện nay.  Bỗng dưng talawas báo tin… ra đi! Vô thường đến độ bình thường như thế thì thôi. Tôi tẩn mẩn nghĩ đến những người tài hoa một cõi “đi sớm”, bất hứa nhân gian kiến bạch đầu, như M. Monroe, J. F. Kennedy, E. Hemingway, M. Jackson… mà không biết nói gì về talawas! Ba trăm  năm sau của Tố Như, tôi vẫn còn ấm ức vì cái đuôi “có hậu” đầy phiền não hơn là an lạc khi Nguyễn Du dàn dựng thêm cảnh “Kim Kiều tái hợp” trong Đoạn trường tân thanh. Tình yêu đầu đời của Kim Trọng và Thúy Kiều là một sự tái sinh xuất thần của tình cảm: Yêu! Sau 15 năm luân lạc, bày chi điều tái hợp đau xót của cảnh thiên đường đã mất. Sự gặp lại gượng gạo và ngang trái “đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ” là hóa đá tình cảm. Tạo cảnh Thúy Kiều rung đùi đánh cờ chiếu tướng và ngồi nhậu lai rai với Kim Trọng là đã nỡ ra tay đánh vỡ thiên đường mơ mộng. Xót quá! talawas ơi, dẫu có đột ngột bươn bả ra đi thì vẫn còn để lại những gì hoa gấm nhất trong lòng độc giả; nên đừng hẹn ngày tái hợp kiểu Kim Kiều nhé!
talawas muốn khép lại một chặng đường. Nhưng chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại. Ba câu hỏi đưa ra như một cái vẫy tay nghìn trùng để mở ra một cánh cửa ước mơ đầy dự phóng.
Chín năm cộng tác với talawas và đồng thời với nhiều trang website cả Việt lẫn Mỹ, tôi phải chân thành nói lên điều cần phải nói rằng, ban chủ biên talawas là một “chủ báo” đáng quý mà đời thường người cầm bút khó gặp. Đó là sự chọn lọc bài vở cẩn trọng và hết sức thẳng thắn. Chọn đăng hay từ chối đều có lý do minh bạch mà không sợ mất lòng ai, nên đã giữ được cho trang báo một mức độ nội dung tương đối có chất lượng cao, làm hài lòng độc giả. Toàn ban biên tập rất bản lĩnh và có khả năng vững vàng nên giữ được cả lượng và phẩm đều tay từ đầu chí cuối.
Xin tặng nhà văn Phạm Thị Hoài và toàn ban chủ trương biên tập talawas một vòng hoa khen tặng trước lúc chia tay.
*
Trở lại với bảng câu hỏi, tôi xin tuần tự trả lời các câu hỏi bằng sự xác tín cá nhân; nghĩa là không có ý trả lời thay cho ai hay vì dính mắc với ai cả. Giả định để mà cười cợt. Hư mà thật; thật mà hư… vẫn là một góc khuất đáng quý trong đặc tính văn hóa Việt Nam.

Về câu hỏi thứ nhất
1. Mâu thuẫn giữa nguyên tắc lãnh đạo và thực tế hoạt động
Khi Việt Nam và thế giới đang chuyển mình thì thế lực lãnh đạo đương quyền ở trong nước lại thiếu sự nhất quán về một đường lối thích hợp cho đất nước trong chiến lược toàn vùng và toàn cầu. Cụ thể như: Kinh tế thì muốn phát triển theo mô thức thị trường tự do; trong lúc phương thức chỉ huy và phát triển thì chưa thoát được sự cột trói với nguyên tắc và đường lối lãnh đạo “chuyên chính vô sản” của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lý thuyết chủ nghĩa nầy có thể chỉ còn là cái vỏ. Tuy nhiên, guồng máy quyết định vẫn chỉ có một thế lực duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, nên vô hình chung tuy vỏ mỏng mà không có ai bóc thì cái khung vẫn còn đóng kín. Tương tự về mặt xã hội, chính trị, văn hóa, giáo dục cũng đang bị rơi vào tình trạng tắc nghẽn hướng đi như thế. Tất cả đang chuyển mình theo trào lưu Toàn cầu hóa. Nhưng tất cả mọi công cụ phát triển đều nằm trong tay Đảng. Quán tính đấu tranh khắc nghiệt của thời chiến tranh vẫn còn đeo đẳng. Tâm lý tập thể xuất phát từ tính tổ chức quá chặt chẽ của Đảng đã tạo ra định kiến một chiều, tư duy kinh điển đến độ máy móc hoặc biết rõ mà không dám hành động vì bị khống chế trong nghi ngờ và thủ thế với nhau.
2. Quốc doanh hóa con người và tổ chức quần chúng
Nguyên tắc “ba dây thừng cùng trói một con gà” (Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ) thời kỳ cách mạng Mùa Thu vẫn còn duy trì như những chiếc loa đầu đường trong thời vệ tinh, vi tính hiện đại. Tổ chức lãnh đạo Đảng, từ đảng ủy trung ương đến chi bộ địa phương, cột buộc quá chặt chẽ mọi sinh hoạt động tĩnh của người dân đã thủ tiêu tinh thần và ý chí cá nhân phát huy và sáng tạo trong hơn 30 năm qua. Sự phát triển và phát tiết riêng tư là căn bản của tinh thần sáng tạo.  Thiếu sáng tạo, con người trong mọi lĩnh vực chỉ còn là người an phận thủ thường làm công ăn lương, ngoan ngoãn theo đuôi lãnh đạo. Vô hình chung họ đã bị “quốc doanh hóa” và thui chột tài năng. Cụ thể như các nhà khoa học, nghiên cứu, chuyên môn trong nước thường ở thế bị động trước chuyên viên nước ngoài hay chỉ phát huy được tài năng khi ra ngoài nước. Mặc dù chuyên viên ngoại quốc tài năng chưa hẳn cao hơn, nhưng họ lại được trang bị một tinh thần tự do và phát kiến rộng rãi nên năng lực sáng tạo phát triển không ngừng và không giới hạn. Một ví dụ điển hình rõ nét nhất cho sự thui chột tài năng vì bị quốc doanh hóa là hội nhà văn Việt Nam. Với một nghìn hội viên sinh hoạt thường xuyên, bầu bán rôm rả trong suốt 35 năm qua vẫn chưa thoát ra khỏi quán tính “gà công nghiệp văn nghệ” khi nhà văn bị hòa tan trong một tập thể công chức nhà nước viết lách ăn lương.  Tài năng văn học trong hội Nhà Văn không thiếu mà tác phẩm thì vẫn “mờ mờ nhân ảnh…” vì con đường sáng tạo quốc doanh trước sau vẫn chỉ là đường mòn một chiều. Khi mọi hướng nhìn đều dày đặc khẩu hiệu và nghị quyết, thì tìm đâu ra chỗ trống cho sự đơm hoa kết trái đầy hoa thơm cỏ lạ của văn học nghệ thuật đích thực. Cũng thế, khi tôn giáo, xã hội, văn nghệ bị quốc doanh hóa theo đường lối nhà nước, hoạt động theo bài bản, thì tất cả chỉ còn là công cụ chính trị.
3. Tham nhũng trở thành tiêu chuẩn sống của của thời đại
Tham nhũng là hiện tượng nhân sinh phổ biến, nhưng là một đại nạn của các nước nghèo, chậm tiến xưa nay. Riêng ở Việt Nam thì mọi hình thức tham nhũng diễn ra công khai trên bề mặt như một nghệ thuật sống khôn lanh của thời đại mới. Thậm chí, sự thành công của nhiều nhân vật hay viên chức có uy quyền không được đánh giá bằng những thành tựu ích quốc lợi dân mà bằng thước đo nhà cao cửa lớn, sở hữu tài sản kiếm được dưới nhiều hình thức tham nhũng, phi pháp. Đã từ lâu, vấn đề tham nhũng đã được đặt ra như một “quốc nạn” trực tiếp đe dọa toàn xã hội. Thế nhưng khổ nạn tham nhũng không thuyên giảm mà còn trên chiều hướng gia tăng. Trong khi các nước khác phải đầu tư công sức điều tra để khám phá những vụ tham nhũng mà khống chế, trừng trị, thì ở Việt Nam ngược lại, thế lực tham nhũng trở lại tấn công đối tượng điều tra và công khai hưởng thụ. Tham nhũng “tư” chạy phon phon trên đường bằng những chiếc xe đáng giá cả vụ mùa thu hoạch một huyện. Tham nhũng “công” mua bán văn kiện thủ tục, hợp đồng khai thác kinh tế thu tiền. Tham nhũng “bự “bán tài sản quốc gia không cần văn tự. Tham nhũng đã đẻ ra nhiều tệ trạng xã hội như một hệ quả tất nhiên, nhưng tại Việt Nam, hệ quả nghiêm trọng nhất là khoảng cách giữa hai thế giới giàu nghèo mỗi ngày một lan rộng và sự bức xúc giữa kẻ “có” và người “không” mỗi ngày một dâng cao.  Lý tưởng “xã hội chủ nghĩa” đang tự phủ nhận lấy chính nó khi những người tự nhận là “đầy tớ của nhân dân” đang trở thành những ông chủ nắm đầu và bóc lột nhân dân. Trước một thực trạng xã hội như thế, những người anh em theo “xã hội chủ nghĩa” nghĩ gì về vai trò của mình trước lịch sử?
4. Nguy cơ bị Trung Quốc xâm lăng
Người Việt trong cũng như ngoài nước, đang vũ trang một tinh thần nhất loạt vùng lên chống Trung Quốc xâm lăng quyết liệt hơn bao giờ hết. Viễn ảnh mất Trường Sa và Hoàng Sa vào tay Trung Quốc đã đánh thức những tâm hồn yêu nước thế kỷ 21 của người Việt. Cả thế giới bên ngoài, đặc biệt Mỹ và các nước lân bang trong vùng, cũng hết sức nhạy bén và cảnh giác cao độ trước con ngáo ộp Trung Hoa đánh trống, thổi kèn về chủ quyền và sức mạnh chính trị lẫn quân sự để giành độc quyền vùng biển đang tranh chấp. Mộng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc không còn nằm ở dạng nghi vấn mà là một thực tế truyền đời của lịch sử. Bên cạnh sự ồn ào về quân sự, Trung Quốc vẫn chủ trương dùng “quyền lực mềm” (chính trị, văn hóa, ngoại giao, hối lộ) để chinh phục hay quật ngã thế lực đối tác trong bóng tối. Phản ứng của nhân dân Việt Nam chống Trung Quốc đã thể hiện quá rõ ràng. Nhưng sự ứng xử bằng đường lối chính trị, kinh tế và ngoại giao của chính quyền Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi.
5. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sự hiện diện của Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhu lịch sử hay là sự áp đặt thời hậu chiến? Công bằng để nhận định, Đảng Cộng sản Việt Nam có một vai trò lịch sử trong cuộc chiến Việt Nam. Khi một cuộc chiến tranh có tầm cỡ quốc gia kết thúc, bất cứ một triều đại hay một thế lực chính trị nào cũng đòi hỏi một sự chuyển mình đầy quyền biến thời hậu chiến. Thế nhưng, chưa bao giờ nhân dân Việt Nam hay bản thân người cộng sản dám minh nhiên đặt lại vấn đề về sự cần thiết về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau 1975. Người trong Đảng xem chuyện đã hy sinh bỏ công lao ra chiến đấu thì phải có thời kỳ lên ngai hưởng thụ là chuyện đương nhiên. Quần chúng Việt Nam chưa bao giờ được có một cơ hội tự do để đặt lại vấn đề như thế. Tất cả đều được ban cho quyền tự do vô giới hạn là ca ngợi cùng tri ân công đức Đảng và lãnh tụ. Vấn đề cần được xét lại khi một thế hệ đàn anh cùng thời thế đi qua sắp hết. Thế hệ đàn em kế thừa cần xác định thế đứng, vị trí và thời điểm của đất nước mình.
Về câu hỏi thứ hai
Vì câu hỏi mang tính giả định nên câu trả lời cũng không ra ngoài đề cương “Nếu trúng số độc đắc Megabucks thì tôi sẽ… tôi sẽ…”
Nếu chỉ có 24 giờ làm vua thì có 3 điều dẫu muốn làm cũng không thể làm cho ra trò được vì không đủ thời gian là: Tham quyền cố vị, đảo chánh, cải cách; và có một điều dễ làm nhưng chưa nên làm là: Nhất dạ đế vương!
Khi tìm hiểu thêm hai ông vua Huê Kỳ cùng thế hệ – cùng tuổi Bính Tuất và cũng được học hành đại khái cùng cấp lớp ở trường Mỹ như tôi – là Clinton và Bush đã làm gì trong 24 giờ ngày đầu tiên lên làm tổng thống, tôi tìm ra một điều thú vị. Đó là cả hai đều quan tâm vào việc tìm hiểu sự khác nhau giữa tên gọi và vai trò thực sự của cấp lãnh đạo để có sự điều chỉnh hay phân công, phân nhiệm nhân sự thích ứng.
Hai chàng Bính Tuất kia là vua thật, Bính Tuất tôi là vua phường tuồng. Thế nhưng tôi vẫn thích một sự khởi đầu tích cực cho vai trò lãnh đạo bằng cách thông qua cách giải quyết mâu thuẫn về danh và thực như thế.
Nhưng khổ nỗi, talawas chỉ cho tôi vỏn vẹn 24 tiếng đồng hồ lãnh đạo Việt Nam bằng cây đèn thần của Aladin nên tôi không thể rề rà như người ta có cả hai nhiệm kỳ 4 đến 8 năm trước mắt.
Sự mâu thuẫn nội tại thâm căn cố đế của Việt Nam cần giải quyết tức khắc và dứt điểm mới mong có đường mà đi. Muốn khai thông quốc lộ là phải đẩy, khiêng, xô, kéo, lăn, hất… cho được những tảng đá đang cản đường về lại núi. Hay nói một cách cụ thể hơn là giải quyết cái “hệ lụy lãnh đạo” của toàn đất nước.
Dạ, hỡi Aladin và cây đèn thần, tại hạ không hề dám quên: Chỉ có 24 tiếng đồng hồ để lãnh đạo đất nước.
Lệnh khởi hành bắt đầu từ lúc 0 giờ, 0 phút, 0 giây giờ Sài gòn; tại cố đô Thăng Long vừa mới kỷ niệm 1000 năm:
Giờ 1: Lệnh cho tất cả các lực lượng quân đội, công an, cảnh sát, an ninh, dân phòng vũ trang ở yên tại chỗ và đặt trong tình trạng báo động vàng (hơn đỏ một chút).
Giờ 2: Triệu tập khẩn cấp 493 đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII (2007-2012). Tất cả phải có mặt tại hội trường Mỹ Đình chậm nhất là trong vòng 4 tiếng đồng hồ (đường bay xa nhất từ Sài gòn ra Hà Nội là 2 giờ). Mời hết thảy 15 vị trong Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tới tham dự.
Giờ 6: Đại biểu Quốc hội và đồng bào cả nước, thông qua hệ thống truyền thông đại chúng, tuyệt đối không kiểm duyệt hay cắt bỏ. Tất cả sẽ cùng nghe và trực tiếp hay gián tiếp phát biểu, thảo luận, phân tích và biểu quyết về đề tài: “Quyết định chung cuộc về vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời đại mới.” Căn cứ trên 5 vấn đề được xem là hệ trọng nhất của Việt Nam hiện nay để thảo luận và đánh giá một cách khách quan, công bằng và khoa học về vai trò và tác dụng thực chứng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 35 năm qua.
Giờ 7: Diễn văn và phát biểu mở màn. Mỗi người nói không quá 5 phút.
Giờ 8: Cuộc đại hội thảo bắt đầu. Mỗi vị trong Bộ Chính trị có 60 phút để trình bày trước Quốc hội và công luận hoàn toàn tự do, dân chủ của cả nước. Nội dung xoay quanh 5 câu hỏi sau đây:
-          8.1: Căn cứ trên hiệu quả lãnh đạo đất nước sau 35 cầm quyền và xu hướng thời đại toàn cầu, Việt Nam có cần thiết tiếp tục theo đuổi nguyên tắc và đường lối quản lý lãnh đạo theo tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin do Đảng Cộng sản Việt Nam làm thủ lĩnh nữa hay không?
-          8.2: Căn cứ trên tiêu chí cơ bản của người đảng viên gương mẫu “đại biểu của giai cấp công nhân, chiến sĩ tiền phong cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” thì những đảng viên ưu tú hàng đầu của Đảng đang nắm giữ vai trò quyết định ở trong Bộ Chính trị có đi đúng đường hay lạc hướng. Cụ thể là trước quốc nạn tham nhũng, hãy kiểm điểm thật thà và dũng cảm bằng cách tự phê bình và cởi mở nhận phê bình. So với đồng lương luật định và tài sản sở hữu hiện tiền mà toàn dân có thể cân đo đong đếm được, quý quan chức có thật sự trong sạch, không trực tiếp hay gián tiếp nhúng tay vào tham nhũng hay không?
-          8.3: Sau 35 năm đất nước đã hòa bình và thống nhất, toàn dân Việt Nam có hưởng được những tự do căn bản nhất của quyền làm người như: Tự do ngôn luận (xin đừng quan tâm tới sự đánh giá của “bọn xấu” – The Journalists without Borders – đã liệt Việt Nam vào hàng 169/173 các quốc gia vi phạm quyền tự do sách báo), tự do lập hội, tự do tôn giáo… hay chưa?
-          8.4: Trước âm mưu thôn tính Việt Nam truyền đời của Trung Quốc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang làm gì cho chiến lược ngắn hạn và dài hạn?
-          8.5: Biểu quyết cho sự hiện diện cần thiết hay không cần thiết của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò lãnh đạo đất nước của Quốc hội và toàn dân trong điều kiện hoàn toàn tự do dân chủ là cơ hội nghìn năm một thuở. Quyết định nầy là chung cuộc, bất thối và bất hồi tố. Nếu Quốc hội đạt tổng số phiếu “bứt phá” như trong cuộc bỏ phiếu quyết định về việc xây dựng hệ thống xe lửa cao tốc vừa qua tại hội trường Ba Đình Hà Nội với tỷ số 271/474 chống thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải trở về vị trí của một đảng chính trị thuần túy. Quyền bầu cử và ứng cử giao lại cho toàn dân. Từ quân đội, công an cảnh sát đến mọi ngành nghề trả về vị trí chuyên môn thuần túy. Việt Nam sẽ thực hiện một nền dân chủ pháp trị. Đảng Cộng sản (hiên hữu) cùng với Đảng Tự do (trong mơ) và đảng Dân chủ (trong ước) sẽ cùng phát huy thế mạnh của đảng mình để cử nhân sự chung tay lãnh đạo và xây dựng đất nước.
Giờ 24: Thời gian thì có hạn mà bản chất Việt Nam ta ưa trễ giờ và lòng thòng như dự tiệc cưới ở Mỹ nên Quốc hội vừa tuyên bố bế mạc thì cũng vừa hết giờ. Thôi thì cuộc biểu quyết chung cuộc xin dành lại vào giờ thứ 25. talawas nhé.
Về câu hỏi thứ ba
………
Tái bút: Mọi con đường đều đang bị kẹt xe. Những tảng đá cản đường nặng quá mà gặp toàn cả dân gầy vai yếu nên chỉ còn biết lấy tay áo lau mồ hôi nhìn nhau mà cười. Chưa nhích ra khỏi chỗ kẹt xe thì có thấy được gì trên con đường trước mặt đâu mà tiên đoán.
Thời hạn lãnh đạo Việt Nam 24 tiếng đồng hồ đã hết.  Mời bạn nghe Tom Petty hát “Làm vua thú nhỉ” (It’s Good to be King):




Xin tạm biệt nhau trên sân nhà talawas. Giữa vô thường, biết đâu phút chia tay là điểm đầu gặp lại.
Elk Grove, đầu mùa mưa 2010.
© 2010 Trần Kiêm Đoàn
© 2010 talawas

Tổng số lượt xem trang