Thứ Bảy, 13 tháng 11, 2010

Đất hiếm

-Việt Nam có nhiều đất hiếm không?
VOA: Xin chào Tiến sĩ Trần Tuấn Anh, Viện trưởng Viện Địa chất thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Thưa Viện trưởng, trong những tháng gần đây, vấn đề đất hiểm trở thành một đề tài thu hút sự chú ý của dư luận, nhất là kể từ khi Nhật Bản cáo buộc Trung Quốc dùng thế độc quyền để hạn chế việc xuất các mặt hàng được gọi là ‘đất hiếm’ cho Nhật. Trước hết xin Tiến sĩ cho biết đất hiếm là gì, là khoáng sản gì, và nó tập trung ở những nơi nào trên thế giới?

TS Trần Tuấn Anh: Người ta gọi các nguyên tố đất hiếm hay là các kim loại đất hiếm là tập hợp của khoảng 17 nguyên tố hóa học thuộc bảng tuần hoàn của Mendeleev, bao gồm 15 nguyên tố của nhóm Lantan, ngoại trừ promethi, cộng thêm với scandi và yttri, tức là khoảng 17 nguyên tố.

Trong vỏ trái đất chúng có hàm lượng rất nhỏ. Và người ta có thể tìm thấy đất hiếm trong rất nhiều nguồn khác; trong các đá trầm tích, thậm chí các mỏ quặng, các loại đá liên quan tới các quá trình magma.


Đất hiếm có rất nhiều ứng dụng, ví dụ như chúng được dùng trong chế tạo nam châm vĩnh cửu sử dụng cho các máy phát điện, hay trong các máy tuyển từ, hay chúng được đưa vào các chế phẩm trong phân bón vi lượng, hay được ứng dụng trong vật tiểu siêu dẫn, hay phát quang trong ứng dụng quang điện, công nghệ laser v.v., thậm chí cả những xúc tác trong hóa dầu.

VOA: Các nguyên tố đất hiếm như Tiến sĩ vừa kể tập trung ở những khu vực nào trên thế giới?

TS Trần Tuấn Anh: Nguồn cung thực ra có rất nhiều nơi. Tôi xin phép không đi vào chi tiết, vì nó rất nhiều. Nhưng nguồn cung hiện nay chủ yếu ở Trung Quốc, và một phần ở Ấn Độ.

VOA: Xin Tiến sĩ cho biết Việt Nam có giàu trữ lượng đất hiếm hay không, và nó tập trung ở những nơi nào.

TS Trần Tuấn Anh: Chúng tôi chỉ có thể cung cấp một số thông tin khoa học về đất hiếm ở Việt Nam. Theo đánh giá của cục địa chất trước đây về đất hiếm, thì tài nguyên tiềm năng có khoảng từ 12 đến 17 triệu tấn tài nguyên đất hiếm – tất nhiên còn có những số liệu khác nhau.

Gọi là đất hiếm nhưng thực ra nó lại là không hiếm, ở chỗ là đất hiếm chia ra thành đất hiếm nặng và đất hiếm nhẹ. Các nguyên tố đất hiếm nhẹ có giá trị rất thấp, trong khi đó đất hiếm nặng thì giá trị rất cao. Trong các mỏ đất hiếm của Việt Nam thì thành phấn đất hiếm nhẹ lại nhiều hơn.

Thứ hai là Việt Nam không có công nghệ để chế biến đất hiếm. Nếu xuất thô không thì giá trị của nó không đáng kể so với những nguồn tài nguyên khác. Thực sự nếu có được một công nghệ phù hợp để chế biến, thì mới có thể làm ra lợi nhuận được. Thế cho nên chúng ta không nên đánh giá quá cao về tiềm năng đất hiếm của Việt Nam, hay giá trị xuất khẩu của nó.

VOA: Như vậy thì khai thác đất hiếm có khó không? Nếu so sánh với khai thác than đá hoặc khai thác dầu khí chẳng hạn, thì khai thác đất hiếm có khó hay không? Và có phải vì khai thác quá khó mà trước đây Việt Nam chưa bao giờ từng nghe nói đến khai thác đất hiếm?


TS Trần Tuấn Anh: Về phần công nghệ thì viện của chúng tôi không chuyên lắm, tuy nhiên qua những thông tin mà chúng tôi nắm được thì công nghệ khai thác đất hiếm có những cái tương đối khó. Ngoài ra nhiều khi mình còn phải tính đến giá trị kinh tế, chẳng hạn như công nghệ này phù hợp với điều kiện của mỏ này của nước này, nhưng lại không phù hợp điều kiện của chúng ta.

Những mỏ đất hiếm của Việt Nam tập trung chủ yếu ở Nậm Xe, Tam Đường, Đồng Pao, một ít ở Mường Hum, và một ít ở Yên Bái, những nơi tương đối xa.

Đất hiếm thường thì lại liên quan tới các nguyên tố phóng xạ. Thế cho nên việc khai thác đất hiếm sẽ là một cái hàm số, phải cân đối giữa cái lợi nhuận và các chi phí bỏ ra cho môi trường, cũng như các chi phí khác.

VOA: Theo những thông tin mà ông biết, thì việc khai thác đất hiếm trên thế giới đã có xảy ra những tai nạn, rủi ro gì chưa?

TS Trần Tuấn Anh: Cho tới nay, theo tôi biết thì chưa có tại nạn nào lớn cả. Không tính đến tai nạn lao động. Tai nạn do phóng xạ của đất hiếm thì chắc là chỉ ở mức độ hạn hẹp.

VOA: Việt Nam đã có tiêu thụ đất hiếm không?

TS Trần Tuấn Anh: Trước đây ít nhiều đã tiêu thụ, làm phân bón vi lượng. Về vật liệu, theo Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, thì đất hiếm được dùng để chế tạo nam châm vĩnh cửu. Không rõ nguồn lấy từ đâu.

Trước đây một số mỏ ở Nậm Xe, Tam Đường cũng đã có khai thác. Ngoài những cái đó ra thì còn có những nguồn cung cấp nhỏ khác, gọi là không truyền thống thì cũng không hẳn, nhưng nó không tạo thành những cái mỏ, chẳng hạn như đi kèm với sa khoáng, đi kèm ilmenhit, thì có những khoáng vật như là monazit hay xenotim chứa đất hiếm.

Hay là những nguyên cứu vừa rồi của chúng tôi cho thấy sự tập trung đất hiếm trong một số khoáng vật, nhưng phần lớn là đất hiếm nhẹ. Tức là đất hiếm có rất nhiều nguồn gốc, và ở rất nhiều nơi. Vấn đề là nếu chúng tập trung lại thành một cái mỏ, thì lúc đó nó mới có giá trị kinh tế.

Về các nghiên cứu đất hiểm của Việt Nam, thì ngoài những mỏ lớn ra, chưa có những nghiên cứu đầy đủ về những nguồn cung cấp khác. Tất nhiên là cần thiết phải có những nghiên cứu thêm để khẳng định tốt hơn nữa về tiềm năng hay trữ lượng của mình. Và ngay cả sau khi đã nghiên cứu ra rồi, kể cả khẳng định được tiềm năng hay trữ lượng rồi, thì bước nữa là công nghệ, làm sao tách chiết được. Nó còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố.

VOA: Và Nhật Bản, thì chắc là họ có công nghệ?

TS Trần Tuấn Anh: Vâng, vì họ có một truyền thống sử dụng đất hiếm lâu lắm rồi, và cũng là nước đi tiên phong. Nhật Bản và Hoa Kỳ là những nước đi tiên phong trong việc sử dụng đất hiếm ứng dụng công nghệ cao. Họ sẽ có những công nghệ tách chiết, tinh lọc, rồi làm giàu. Chắc chắn những công nghệ đó rất đắt tiền, và ít nhiều gì đó phải là những bí mật của từng nước một hay là từng doanh nghiệp một.

VOA: Cám ơn Tiến sĩ Trần Tuấn Anh, Viện trưởng Viện địa chất thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn.
-Nhật – Mỹ hợp tác về kim loại đất hiếm (VOV)-Cả Mỹ và Nhật Bản đều mong muốn Liên minh châu Âu cùng tham gia ký kết thỏa thuận hợp tác về kim loại đất hiếm.-Industry groups lobby G20 on rare earth supply BRUSSELS (Reuters) - G20 leaders must address bottlenecks in the global supply of rare earth elements or risk blockages in economic growth and the fight against climate change, industry groups from around the world said on Monday.- South Korea discovers rare earths depositSEOUL (Reuters) - Hàn Quốc vừa tìm thấy đất hiếm tại phía đông Gangwon với trữ lượng không xác định.  -Khi đất hiếm lên ngôi (TVN) -Đất hiếm gần đây thu hút rất nhiều sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Nó được ví như “muối của cuộc sống” với cuộc cách mạng công nghệ cao. Trung Quốc và chiến lược đầu cơ đất hiếm
Mạnh Kim
image

hiếm 37% trữ lượng nguyên liệu đất hiếm (khoảng 36 triệu tấn) và kiểm soát đến hơn 97% sản lượng toàn cầu, Trung Quốc đang nắm lợi thế tuyệt đối trên thị trường nguyên liệu đất hiếm. Đây là kết quả một chiến lược đầu tư lâu dài mà Chính phủ Bắc Kinh âm thầm thực hiện nhiều thập niên qua…
Trung Quốc bắt đầu “lưu kho” đất hiếm từ lúc nào?


Từ khi đất hiếm được phát hiện lần đầu năm 1787 nhờ công của sĩ quan quân đội Thụy Điển Carl Axel Arrhenius, mối quan tâm đất hiếm và ứng dụng của chúng ngày càng tăng. Cho đến thập niên 1970, mỏ đất hiếm Mountain Pass tại California vẫn được xem là nơi cung cấp đất hiếm lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, sự quan tâm đất hiếm của Mỹ bắt đầu nhường chỗ cho kỹ thuật sinh học vào thập niên 1980. Trong khi đó, Trung Quốc lại đẩy mạnh chiến lược đầu tư đất hiếm, đặc biệt khi gửi du học sinh sang Mỹ nghiên cứu kỹ thuật khai thác đất hiếm, trong khuôn khổ hai chương trình nghiên cứu khoa học với tham vọng trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về phát kiến kỹ thuật. Tháng 3-1986, sau khi ba nhà khoa học trong nước đề xuất một lộ trình đầu tư khoa học kỹ thuật chi tiết và chỉn chu, lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đặt bút phê Chương trình 863, với mục tiêu “đặt chân vào vũ đài thế giới; đạt được những bước đột phá trong các lĩnh vực kỹ thuật then chốt cho đời sống kinh tế và an ninh quốc gia”. Bắt đầu từ thời điểm đó, Trung Quốc nhắm vào việc khai thác và tích trữ nguyên liệu đất hiếm. 11 năm sau, tháng 3-1997, Bộ Kỹ thuật – Khoa học Trung Quốc tung ra Chương trình 973. Đây là kế hoạch đầu tư nghiên cứu khoa học cơ bản lớn nhất Trung Quốc trước nay. Các dự án thuộc Chương trình 973 có thể kết thúc trong 5 năm và được tài trợ 10 triệu tệ (khoảng 1,46 triệu USD).
Riêng với các dự án đầu tư và ứng dụng đất hiếm, một trong những người có công hàng đầu tại Trung Quốc là giáo sư Từ Quang Hiến (Xu Guangxian), người mà hồi năm 2009, khi 89 tuổi, đã được trao giải thưởng Khoa học nhà nước trị giá 5 triệu tệ (“Quốc gia tối cao khoa học kỹ thuật tưởng” – được xem như một Nobel của giới khoa học nước này). Là nhà hóa học thứ hai được trao trong lịch sử giải trên, giáo sư Từ được xem là cha đẻ ngành nghiên cứu đất hiếm Trung Quốc. Học Đại học Columbia (Mỹ) từ năm 1946-1951, họ Từ lấy bằng tiến sĩ rồi trở về Trung Quốc sau khi cuộc chiến Triều Tiên bùng nổ. Làm giáo sư trợ giảng Đại học Bắc Kinh, Từ trở thành chuyên gia về hóa kim và hóa phóng xạ. Cách mạng Văn hóa bùng nổ; và năm 1969, Từ cùng vợ – Cao Tiểu Hà (Gao Xiaoxia) – bị kết tội làm tình báo cho Quốc dân đảng và bị tù khổ sai cho đến năm 1972. Trở về Đại học Bắc Kinh, Từ bắt đầu đầu tư nghiên cứu khoáng sản đất hiếm. Từ đó đến nay, giáo sư Từ trở thành nhà hóa học đất hiếm hàng đầu Trung Quốc. Cả hai phòng thí nghiệm cấp quốc gia lớn nhất Trung Quốc đều do ông thành lập: Phòng thí nghiệm ứng dụng nhà nước về hóa nguyên liệu đất hiếm, hợp tác với Đại học Bắc Kinh; và Phòng thí nghiệm ứng dụng nguồn đất hiếm, hợp tác với Viện Hóa ứng dụng Trường Xuân thuộc Viện Khoa học Trung Quốc đặt tại Trường Xuân (tỉnh Cát Lâm)…
Sau thời điểm 1992, khi Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “Trung Đông có dầu thì Trung Quốc có đất hiếm”, việc khai thác đất hiếm tại nước này bắt đầu tăng tốc. 7 năm sau, Chủ tịch Giang Trạch Dân tiếp tục đề cập chiến lược nguồn nguyên liệu, khi viết: “(Cần phải) cải thiện sự phát triển và ứng dụng đất hiếm và đưa lợi thế về nguồn thành thế mạnh kinh tế vượt trội”. Vậy là công nghiệp khoáng sản Trung Quốc lao vào các dự án khai thác đất hiếm – những nguyên liệu mà khi kỹ thuật cao càng phát triển thì tính ứng dụng của chúng càng nhiều. Đầu thập niên 1960, lanthanum bắt đầu được dùng trong công nghiệp kính quang; didymium – thành phần hỗn hợp giữa praseodymiumneodymium – được dùng rộng rãi trong công nghiệp kính màu. Công nghiệp khoáng Trung Quốc cũng chẳng bỏ sót nhiều loại đất hiếm mà thời điểm đó còn chưa biết làm gì: samarium europium chẳng hạn. Hàng tấn samarium europium cứ thế được khai thác và chất đống lưu kho. Đến nay, cả hai chất trên đều là nguyên liệu chủ lực trong kỹ thuật cao, đặc biệt samarium với ứng dụng kỹ thuật nam châm. Trung Quốc còn sang tận Mỹ với kế hoạch mua Molycorp (chủ khai thác quặng Mountain Pass – mỏ đất hiếm duy nhất ở Mỹ). Năm 1951, Molycorp mua Mountain Pass (năm 1978, Molycorp thuộc về hãng dầu Unocal – Mỹ). Năm 1982, mỏ Mountain Pass bắt đầu xử lý samarium oxidei; rồi neodymium oxide năm 1989 – cả hai đều là thành phần quan trọng cho nam châm vĩnh cửu. Năm 2005, tập đoàn dầu nhà nước Trung Quốc CNOOC (Trung Quốc Hải Dương Thạch Du) đưa ra giá 18,5 tỉ USD trong cuộc đấu thầu mua Unocal (bỏ giá cao hơn Chevron đến nửa tỉ USD!). Nếu vụ thâu tóm trên không bị Quốc hội Mỹ chặn đứng, Trung Quốc bây giờ đã là ông chủ quặng đất hiếm Mountain Pass và gần như trở thành nhà độc quyền số một có thể “hô phong hoán vũ” với lá bài đất hiếm trên thị trường thế giới.
Thu tóm và đầu cơ đất hiếm
Tham vọng thống trị hoàn toàn thị trường đất hiếm của Trung Quốc chưa dừng lại, với những chiến lược mở rộng tầm với toàn cầu. Đầu năm 2009, tập đoàn khai thác khoáng sản Úc Lynas Corporation lập kế hoạch xây khu khai thác mỏ đất hiếm lớn tại núi Weld ở Tây Nam Úc nhưng gặp vấn đề tài chính. Tháng 5-2009, một công ty Trung Quốc tên China Non-Ferrous Metal Mining Co lập tức nhảy vào với đề nghị hùn 252 triệu USD; đổi lại, họ được quyền giữ 51,6% cổ phần Lynas. Một lần nữa, tương tự Mỹ, Chính phủ Úc lại vào cuộc. Theo luật, dự án liên kết đầu tư với nước ngoài phải được Hội đồng xem xét đầu tư nước ngoài (FIRB) duyệt và tiến trình này thường kéo dài 30 ngày. Tuy nhiên, FIRB đã trì hoãn bằng cách yêu cầu đối tác Trung Quốc đệ trình một số khoản “bổ sung” đồng thời đề nghị chính phủ nước mình phải cân nhắc cẩn thận. Cuối cùng, tháng 9-2009, Trung Quốc rút lui sau khi FIRB đòi chỉnh sửa một số nội dung dự thảo hợp đồng trong đó có việc “giảm tỉ lệ cổ phần dưới 50%”. Dù vậy, trong vài thương vụ khác ở Úc, Trung Quốc đã thành công. Jiangsu Eastern China Non-Ferrous Metals hiện có hơn 25% cổ phần trong Arafura Resources Ltd là một ví dụ.
Thỏa mãn nhu cầu nội địa là lý do chính khi Trung Quốc ban lệnh hạn chế xuất khẩu đất hiếm. Theo Vương Thái Phượng (Wang Caifeng) thuộc Hiệp hội Công nghiệp đất hiếm Trung Quốc, năm 2008, thị trường Trung Quốc sử dụng 70.000 tấn nguyên liệu đất hiếm (so với 130.000 tấn toàn cầu). Đó cũng là năm Trung Quốc xuất khẩu 10.000 tấn nam châm từ nguyên liệu đất hiếm trị giá 400 triệu USD cùng 34.600 tấn sản phẩm khác liên quan đất hiếm trị giá 500 triệu USD. Tuy nhiên, hạn chế xuất khẩu đất hiếm và dùng đất hiếm như một công cụ cho chiến lược ngoại giao lẫn kinh tế mới thật sự là điều mà Trung Quốc đang tiến hành. Năm 2009, Bộ Tài nguyên – Đất đai Trung Quốc (“Quốc thổ tư nguyên bộ”) bắt đầu siết chặt hạn ngạch xuất khẩu khoáng sản, nhằm “bảo vệ và sử dụng chừng mực nguồn tài nguyên vượt trội của Trung Quốc”, đặc biệt “tungsten, antimony và đất hiếm”. Theo luật mới, Bộ Tài nguyên – Đất đai Trung Quốc “ngưng xem xét bất kỳ đơn xin khảo sát hoặc khai thác đất hiếm nào trên toàn quốc”… Cùng lúc, Trung Quốc cũng có kế hoạch kiểm soát và quản lý chặt hơn ngành công nghiệp này. Đất hiếm hiện có tại khắp 22 tỉnh và khu vực Trung Quốc. Theo dự thảo kế hoạch phát triển đất hiếm từ 2009-2015, Trung Quốc định chia công nghiệp đất hiếm thành ba khu (Nam, Bắc và Tây) – Nam với các tỉnh Giang Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hà Nam và Quảng Tây; Bắc với khu vực Nội Mông và Sơn Đông; và Tây với Tứ Xuyên.
Việc đầu cơ tích trữ đất hiếm như một lợi thế mang tính chiến lược đã thể hiện ngay trong nhận định của giáo sư Từ Quang Hiến. Họ Từ nói: “Chúng ta phải thiết lập một hệ thống dự trữ cho đất hiếm cũng như thorium (dùng trong công nghiệp năng lượng); đồng thời hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước như Bảo Cương (Baogang), Trung Quốc ngũ quáng tập đoàn (Minmetals) và Giang Tây đồng nghiệp hữu hạn công ty (Jiangxi Copper Co) việc thực hiện chiến lược dự trữ”. Theo An Tứ Hổ (An Sihu), trợ lý giám đốc Ủy ban quản lý khu kỹ thuật cao đất hiếm Trung Quốc, nước này hiện có nhiều kế hoạch vĩ mô để tích trữ đất hiếm như một kho chiến lược, đặc biệt tại các khu quặng mỏ phía Bắc lãnh thổ. Nói như tác giả Cindy Hurst thuộc Viện Phân tích an ninh toàn cầu (IAGS) trong tài liệu nghiên cứu 42 trang về đất hiếm Trung Quốc ấn hành tháng 3-2010, “phần còn lại của thế giới dường như đang ngủ trong khi Trung Quốc đã trưởng thành để thành người khổng lồ về công nghiệp đất hiếm. Thế giới đã mất gần 20 năm để đột nhiên tỉnh dậy với thực tế rằng, tương lai nền kỹ thuật cao lại có thể nằm trong tay một nhà phân phối…”.
Mặt trái của tấm huy chương
Tuy nhiên, mặt trái của tấm huy chương vàng trong lĩnh vực công nghiệp đất hiếm Trung Quốc là sự tàn phá và hủy diệt môi trường. Theo một tài liệu của Hội Đất hiếm Trung Quốc (Trung Quốc Hi thổ học hội), “mỗi tấn đất hiếm được sản xuất sẽ tạo ra 8,5kg fluorine và 13kg bụi; việc dùng kỹ thuật nung ở nhiệt độ cao với axit sulfuric đậm đặc để tạo ra một tấn quặng đất hiếm khô sẽ tạo ra 9.600-12.000 m3 khí thải chứa bụi, axit hydrofluoric, sulfur dioxide và axit sulfuric; cùng khoảng một tấn chất cặn phóng xạ”! Theo một khảo sát tại Bao Đầu (Nội Mông), một trong những khu khai thác đất hiếm nhộn nhịp nhất Trung Quốc, “tất cả công ty đất hiếm tại Bao Đầu hiện tung ra 10 triệu tấn nước thải đủ loại mỗi năm”; và hầu hết nước thải “đều bị tống ra môi trường mà không được xử lý hiệu quả khiến không chỉ ảnh hưởng nguồn nước sinh hoạt cho đời sống hàng ngày mà còn làm hỏng đất canh tác”. Đó là chưa kể 2.000 tấn phế liệu được sinh ra từ một tấn đất hiếm trong qui trình sản xuất – theo bà Vương Thái Phượng (nguyên phó tổng giám đốc Cơ quan Nguyên vật liệu thuộc Bộ Công nghiệp -Thông tin Trung Quốc). Có thể nêu ra một hình ảnh thấy hàng ngày trên bức tranh khai thác đất hiếm có phần nhếch nhác tại nhiều nơi Trung Quốc: thay vì được che chắn cẩn thận, đất quặng được khai thác tại Bayan Obo lại được vận chuyển đến Bao Đầu trên những xe ray không nắp khiến phế phẩm rơi dọc đường và lọt xuống Hoàng Hà (dòng sông chạy ngang mạn Nam của Bao Đầu và uốn lượn gần 2.100km qua các rặng núi cũng như nhiều khu dân cư đông đúc). Năm 2005, giáo sư Từ Quang Hiến đã phải lên tiếng rằng, thorium là nguồn nhiễm xạ tại Bao Đầu và dòng Hoàng Hà, khiến cá chết hàng loạt…
Dựa vào sản lượng trung bình 150.000 tấn đất hiếm/năm, chi phí đối với giới sản xuất Trung Quốc cho việc tuân thủ vài qui định trong luật môi trường sẽ là 1,1 tỉ tệ (161 triệu USD), chưa kể phí bảo vệ môi trường hàng năm khoảng 280 triệu tệ (41 triệu USD). Điều đó có nghĩa giới sản xuất bị cộng thêm từ 1.000-1.500 tệ (145-220 USD) cho việc sản xuất mỗi tấn sản phẩm đất hiếm. Liệu với mức phí như thế các nhà sản xuất đất hiếm Trung Quốc có dễ dàng chấp nhận? Dù biết rằng thậm chí họ có tuân thủ nghiêm nhặt thì cũng “cần ít nhất 10 năm nữa Trung Quốc mới theo kịp chuẩn môi trường” của các nước phương Tây chẳng hạn Úc (như nhận định của Dudley Kingsnorth, chuyên gia đất hiếm tên tuổi người Úc)!


Thái độ hành xử quanh vụ đất hiếm của Trung Quốc đã bắt đầu lộ dần chính sách theo kiểu “nuôi quân ba năm, dụng quân một giờ” của họ; và đó chỉ là một phần của sách lược tài nguyên – năng lượng quốc gia mà có thể tóm lược trong năm ý sau:
1- Thỏa mãn nhu cầu nội địa;
2- Khống chế giá thế giới;
3- Làm “reo” như một ưu thế ngoại giao-chính trị;
4- Tạo ảnh hưởng địa chính trị; (và cuối cùng là)
5- Củng cố an ninh năng lượng quốc gia.
Chiến lược vơ vét và khai thác tài nguyên khắp thế giới của Trung Quốc (trong đó có bauxite) càng cho thấy rõ ý đồ của “sách lược năm điểm” này!

M. K.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Đất hiếm by Hà Dương Tường
Chính sách của Trung Quốc đối với đất hiếm và các khoáng sản chiến lược khác làm cả thế giới lo ngại, và cắt nghĩa tuyên bố chung Việt-Nhật mới đây

Trong cuộc hội đàm song phương tại Hà Nội ngày 31.10, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thông báo với Thủ tướng Naoto Kan việc Việt Nam quyết định chọn Nhật Bản làm đối tác hợp tác trong phát triển ngành công nghiệp đất hiếm của Việt Nam. Bản tin ngoại giao dĩ nhiên không nói tới nguyên nhân đột xuất của quyết định này, song những ai theo dõi tình hình đều biết từ sự cố “đụng thuyền” ở đảo Senkaku đầu tháng trước và phản ứng bạo liệt của Trung Quốc, với việc Trung Quốc đe doạ cấm hoặc hạn chế xuất khẩu các loại khoáng sản này sang Nhật, thì vấn đề trở nên cấp bách đối với cường quốc công nghiệp này.
Không phải ngẫu nhiên mà báo chí quốc tế nhắc lại lời nói được cho là của Đặng Tiểu Bình năm 1992: “Trung Đông có dầu mỏ, Trung Quốc có đất hiếm ”. Vậy đất hiếm là cái gì mà quý thế?


Nguyên liệu chiến lược


Đất hiếm, theo Hiệp hội hoá học quốc tế, là tên gọi chung của 17 kim loại có nhiều tính chất tương tự, xếp gần nhau trong bảng tuần hoàn Mendeleïev, gồm các chất scandium (21Sc), yttrium (39Y) et 15 chất lanthanides có số nguyên tố từ 57 tới 71, đứng đầu là chất lanthanum (57La). Thật ra chúng không hiếm nhưng rất ít khi được tìm thấy trong dạng sạch mà thường lẫn với các loại khoáng vật khác (minéraux, tiếng Pháp còn gọi là terres - tức “đất”). Chất Cérium (58Ce) có trữ lượng trong vỏ trái đất tương đương với đồng. Các chất lanthanum, neodymium và yttrium dồi dào hơn chì và bạc.


Bảng tuần hoàn Mendeleiev
Tuy được biết tới từ đầu thế kỉ 19, đất hiếm chỉ thực sự chiếm lĩnh một vai trò chiến lược trong các khoáng sản từ nửa sau thế kỉ 20, khi nó được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ cao, dân sự hay quân sự. Đất hiếm được dùng trong các công nghệ « xanh », làm chất xúc tác trong ngành lọc dầu, trong nhiều loại hợp kim cao cấp, trong công nghiệp điện tử – màn hình phẳng, DVD, GPS -, công nghiệp thuỷ tinh và đồ gốm công nghiệp, trong các loại bóng đèn tiết kiệm năng lượng... Các chất neodymium và samarium có vai trò thiết yếu trong các loại nam châm vĩnh cửu, vừa mạnh, vừa nhẹ hơn các loại nam châm thường, lại rất dễ làm nhỏ, dùng trong các máy tính điện tử, trong máy xe hơi điện và máy điện gió… Quan trọng không kém, đất hiếm được dùng trong các bộ phận điện tử quân sự từ màn hình radar đến tia laser, hệ thống điều khiển tên lửa và những thiết bị nhìn đêm.

Phản ứng của phương Tây


Dễ hiểu là không chỉ Nhật mà hầu hết các nước Tây phương quan tâm tới chính sách hạn chế xuất khẩu đất hiếm của Trung Quốc.
Ngày 26.10, Tổ chức các doanh nghiệp lớn ở Đức (BDI) đã bày tỏ lo ngại trước viễn cảnh này tại một buổi họp có mặt ông Rainer Brüderle, bộ trưởng kinh tế Đức. Berlin xác nhận với báo chí là sự có mặt của ông Brüderle chứng tỏ chính phủ Đức coi đây là một vấn đề “ưu tiên hàng đầu ”. Ông Pascal Lamy, tổng gián đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng được mời và tới tham dự hội nghị, cùng với ông Andris Piebalgs, Uỷ viên phụ trách về phát triển trong hội đồng châu Âu. Đức thông báo sẵn sàng hợp tác với các nước có mỏ đất hiếm để mở rộng nguồn cung cấp các khoáng sản này. Về phần Mỹ, một báo cáo của công ty Roskill năm 2007 đã nhấn mạnh nhu cầu đất hiếm ngày càng tăng của chính các ngành công nghiệp Trung Quốc và việc nước này bắt đầu giảm xuất khẩu mặt hàng chiến lược này. Từ đó, quan tâm đến việc mở ra các nguồn khác đã bắt đầu sớm hơn. Ngày 17.3.2010, ông Mike Coffman, đại biểu Hạ nghị viện đã đề đạt một Dự luật nhằm tái khởi động công nghiệp khai thác và chế biến đất hiếm ở Mỹ. Dự luật được thông qua ngày 29.9 vừa qua. Trong tháng 4.2010, Cơ quan Kiểm tra Chính Phủ (Government Accountability Office - GAO) thuộc Quốc hội, đã ra một Báo cáo trình các Tiểu ban Quốc phòng Hạ và Thượng nghị viện về vai trò của đất hiếm trong quốc phòng và ngày 6.5.2010 bộ Năng lượng đã công bố một thư mời cung cấp thông tin, nhằm xác định nhu cầu đất hiếm trong ngành năng lượng...


Không chỉ có đất hiếm, TQ còn chiếm lĩnh thị trường nhiều khoáng sản chiến lược khác
Nguồn : Uỷ ban Châu Âu, 2006

Khởi động lại


Thật ra, như đã nói, đất hiếm không hiếm. Hiện nay, hàng năm Trung Quốc sản xuất khoảng 110.000 tấn trên tổng số 125.000 tấn đất hiếm được sử dụng trên thế giới, và chiếm lĩnh tới hơn 95% thị phần xuất khẩu mặt hàng này. Nhưng điều đó trước kia không thế – cho tới những năm 1950 Nam Phi và Hoa Kỳ mới là nhà sản xuất đất hiếm hàng đầu trên thế giới - và sau này chắc cũng sẽ khác. Trữ lượng khoáng sản có đất hiếm trên thế giới, theo báo cáo nói trên của GAO là khoảng 99 triệu tấn (trong đó Trung Quốc chiếm 36%, Mỹ 13%, Úc 5,4%, các nước Liên Xô cũ 19%, các nước khác 22%), đủ dùng cho cả thế giới vài trăm năm! Nhưng sản xuất đất hiếm thuần tuý (độ tinh khiết đòi hỏi nhiều khi lên đến 99,9999%) từ đất mỏ có trộn lẫn nhiều loại khoáng chất, bao gồm nhiều công đoạn rất ô nhiễm, độc hại – kể cả nguy cơ nhiễm phóng xạ do nhiều mỏ đất hiếm có các chất phóng xạ (thorium, uranium). Chi phí sản xuất dĩ nhiên càng cao khi xã hội càng đòi hỏi những biện pháp bảo vệ môi trường và bảo vệ nhân công.
Trung Quốc bắt đầu khai thác đất hiếm từ những năm 1980 và loại dần các đối thủ do giá thành rẻ mạt của mình. Mỏ đất hiếm Mountain Pass ở California, Mỹ, buộc phải đóng cửa từ năm 2002. Trung Quốc cũng có kế hoạch để tăng cường thống trị của mình trên mặt hàng này, bằng cách xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao, giá rẻ dùng đất hiếm, song song với tăng giá nguyên liệu - thậm chí ép các nước Tây phương cung cấp công nghệ cao đó, nếu không sẽ khoá ngay nguồn đất hiếm…
Nhưng cũng vì tính chất chiến lược mà mặt hàng này đang đòi hỏi chính quyền Mỹ và các nước Tây phương khởi động lại công nghiệp sản xuất và chế biến đất hiếm, dù sao cũng với một ưu thế nhất định về mặt khoa học và công nghệ. Một thông tin từ Đại học Leeds (Anh) cuối năm 2009, cho biết một ê-kip của đại học này, khi nghiên cứu về một quy trình thu hồi oxyd titan (TiO2) từ các phế liệu công nghiệp, đã đồng thời tìm được một phương thức mới để thu hồi các loại đất hiếm có trong đó, một cách đơn giản và ít tốn kém (theo Futura Sciences). Mọi nghiên cứu giúp các nhà sản xuất giảm nhẹ cường độ ô nhiễm và giá thành của công nghệ sản xuất đất hiếm sẽ đẩy nhanh quy trình khởi động lại này...

Trữ lượng đất hiếm ở Việt Nam khoảng 7 - 8 tỉ tấn


Nguồn đất hiếm ở Việt Nam đã được phát hiện và khảo sát hàng chục năm trước trong nền đá cổ ở miền Bắc, và theo Tổng cục địa chất, trữ lượng các mỏ đất hiếm ở Việt Nam khoảng 7 - 8 tỉ tấn, điều kiện khai thác thuận lợi. Mỏ đất hiếm Đông Pao thuộc tỉnh Lai Châu, do một Công ty TNHH nhà nước quản lý khai thác. Tuy nhiên, công ty này mới chỉ tiến hành khai thác quặng fluorit với sản lượng hàng năm khoảng 1.000 tấn CaF2 hàm lượng 75 - 80%, cung cấp cho luyện kim.
(nguồn : khoahocphothong.com)

Nguồn quặng đất hiếm: Không nên kỳ vọng quá nhiều (Sgtt)-Tập đoàn Alcoa (Mỹ) muốn hợp tác khai thác bauxite(PL)- Ngày 2-11, ông Deve Olney, Phó Giám đốc Tập đoàn Alcoa (hãng sản xuất nhôm lớn nhất tại Mỹ), đến tỉnh Đăk Nông tìm hiểu các dự án khai thác bauxite và chia sẻ kinh nghiệm trong việc khai thác.- Đất hiếm – khó có ‘cửa’ cho Việt Nam (Tiền Phong)-Làm chủ công nghệ chế biến đất hiếm (TT)-
China's Rare Earth Strategy: Interview with Theodore H. Moran Peterson Institute Press-With China’s rare earths export policy in the news, Dr. Theodore H. Moran of Georgetown University and the Peterson Institute for International Economics speaks with China Brief Insight. Dr. Moran is the author of the recently released “China's Strategy to Secure Natural Resources: Risks, Dangers, and Opportunities. ,” which covers China’s rare earth strategy among other issues. You can purchase the book on the Peterson Institute website here.
Listen to the podcast here

Tổng số lượt xem trang