Thứ Sáu, 3 tháng 12, 2010

Chuyển hóa dân chủ tại Việt Nam

-Đoàn Viết Hoạt - Về tiến trình và lộ trình dân chủ hóa Việt Nam x-cafevn.org -
Tự do hóa toàn diện là điều kiện cần thiết để thiết lập nền dân chủ toàn dân và chân chính. Chương trình hành động của phía dân chủ trong ngoài nước là tìm mọi cách giúp mở rộng tự do sinh hoạt cho người dân, và thu hẹp khả năng kiềm tỏa của nhà nước CS, trong hai lãnh vực văn hóa và chính trị. Tự do càng toàn dân toàn diện, dân chủ đến càng nhanh.
03.12.2010
Trong hai bài trước, chúng tôi đã trình bày về chuyển hóa dân chủ nói chung và lộ trình chuyển hóa dân chủ khả thi và thích hợp với Việt Nam. Trong bài này chúng tôi sẽ phân tích cụ thể hơn về tiến trình này, qua việc giải thích rõ hơn ý nghĩa của 3 khái niệm đã được sử dụng: đó là chuyển hóa dân chủ, tiến trình và lộ trình dân chủ hóa.

Trước hết, về thuật ngữ chuyển hóa dân chủ. Thuật ngữ này bao gồm 2 khái niệm, chuyển hóa và dân chủ. Hai khái niệm này gắn liền với nhau trong quan điểm mới về dân chủ hóa, dân chủ qua chuyển hóa, được các nhà nghiên cứu sử dụng để diễn tả hiện tượng chuyển đổi thể chế từ độc tài sang dân chủ tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đợt dân chủ hóa thứ 3 kể từ cuối thế kỷ 20 đến nay. Nếu trong đợt dân chủ hóa thứ 1 (“làn sóng dân chủ” 1) tại các nước Âu Mỹ, cuộc cách mạng kỹ nghệ là tác nhân chính, thì trong làn sóng dân chủ thứ 2, bắt đầu từ sau đệ nhị thế chiến, biến động xã hội và sự nổi dậy của quần chúng đã đưa đến sự sụp đổ của chính quyền độc tài và thể chế dân chủ được thiết lập. Trong đợt sóng dân chủ thứ 3, các yếu tố kinh tế, văn hóa và chính trị cùng tạo ra các điều kiện thúc đẩy xã hội biến đổi nhanh chóng và toàn diện để cuối cùng dẫn đến dân chủ. Trong bối cảnh thay đổi xã hội toàn diện đó, dân chủ hóa cũng mang tính toàn diện, khởi đi bằng tự do hóa kinh tế thương mại đến tự do hóa văn hóa thông tin, sinh hoạt xã hội và chính trị. Đặc biệt, bước vào thế kỷ 21, có thêm một yếu tố mới tác động ngày một mạnh mẽ hơn vào tiến trình tự do hóa tại mỗi quốc gia: hiện tượng toàn cầu hóa toàn diện, từ kinh tế thương mại, đến văn hóa xã hội, và chính trị. Một cộng đồng nhân loại đã xuất hiện, với các sinh hoạt liên quốc gia, khu vực và toàn thế giới, với tính di động toàn cầu (global mobility) nhanh và sâu rộng, không biên giới hay biên giới mở, trong mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội. Hiện tượng toàn cầu này không ngừng tác động vào sinh hoạt hàng ngày của người dân cũng như vào chính sách đối nội và đối ngoại của chính quyền tại mỗi quốc gia, nhất là tại các nước đang phát triển. Hiện tượng toàn cầu hóa này đang tạo ra một số điều kiện mới thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình chuyển hóa từ độc tài, đóng cõi sang tự do, cởi mở.
Chuyển hóa dân chủ diễn ra toàn diện nhưng qua một tiến trình dân chủ hóa gồm nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn có các tính chất và lãnh vực chuyển hóa khác nhau. Có ba lãnh vực chính trong sinh hoạt xã hội: kinh tế, văn hóa và chính trị. Tiến trình dân chủ hóa diễn tả quá trình thay đổi khách quan của ba lãnh vực này qua thời gian và trong các điều kiện khách quan của toàn bộ xã hội, từ các thành phần quần chúng trong đáy tầng xã hội đến hệ thống chính quyền trên mặt tầng.
Lộ trình dân chủ hóa diễn tả hành động chủ quan của các tác nhân tác động vào tiến trình chuyển hóa khách quan. Không có sự tác động nào thì xã hội cũng ngày càng được tự do hóa và dân chủ hóa hơn vì đây là xu thế đương nhiên của thời đại, và do đó, tiến trình chuyển hóa dân chủ cũng sẽ xẩy ra, tuy nhiên việc thay đổi thường chậm và gặp nhiều may rủi. Đấy là chưa kể chính quyền độc tài thường tìm cách can thiệp vào tiến trình khách quan, ngăn cản hoặc làm chậm lại tiến trình này, như đang xẩy ra tại Việt Nam (đảng CS chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của “các thế lực thù địch”). Các nhóm dân chủ cần tìm cách tác động vào tiến trình dân chủ khách quan để vừa đẩy nhanh tiến trình này vừa vô hiệu hóa ý đồ can thiệp của chính quyền độc tài. Lộ trình dân chủ chính là kế hoạch chủ động của phe dân chủ trong việc thúc đẩy tiến trình chuyển hóa khách quan, tuy chủ động nhưng không thể đi ngược lại hay đi ra ngoài tiến trình khách quan, vì sẽ không có hiệu quả. Lộ trình phải bao gồm các diễn biến và sự kiện xẩy ra trong ba lãnh vực kinh tế, văn hóa và chính trị. Có các diễn biến mang tính khách quan như cung thấp thì cầu cao, sản phẩm ít mà nhu cầu nhiều thì giá cả tăng, dân chúng bị đè nén áp bức thì sẽ nổi dậy khi có cơ hội…; có các diễn biến do các tác nhân (con người, chính sách và cơ chế) tạo ra. Lộ trình là kết hợp được các yếu tố khách quan và các tác nhân chủ quan trong một kế hoạch diễn tiến có trình tự thời gian từng giai đoạn.
Tiến trình dân chủ khách quan, trong làn sóng dân chủ hóa hiện nay, thường diễn ra qua 3 giai đoạn: thay đổi trong lãnh vực kinh tế đi trước một bước, dẫn tới thay đổi trong sinh hoạt văn hóa, thông tin, giáo dục và xã hội, để cuối cùng thúc đẩy tới thay đổi chính trị. Tại Liên Sô và các nước Đông Âu vào cuối thập niên 1980, trong giai đoạn chuyển tiếp từ làn sóng dân chủ thứ 2 sang làn sóng dân chủ thứ 3, thay đổi chính trị đã xẩy ra nhanh hơn thay đổi kinh tế và văn hóa, nhờ chiến tranh lạnh chấm dứt tạo điều kiện mở bung cánh cửa tự do dân chủ. Tại các nước cộng sản còn lại, tình hình quốc tế và khu vực của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, và hiện tượng toàn cầu hóa đã tạo ra những điều kiện và nhu cầu khác, trong đó phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế là các đòi hỏi của thời đại và tác động mạnh mẽ lên mọi biến chuyển xã hội.
Đảng CSVN, rút kinh nghiệm từ các biến động ở LS và các nước Đông Âu, đã chủ động tiến hành các thay đổi kinh tế kịp thời, đồng thời ngăn chặn và làm chậm lại sự thay đổi trong hai lãnh vực văn hóa và chính trị. Họ đã thực hiện một lộ trình chuyển hóa của họ, tức là chương trình “đổi mới”, đề ra Cương Lĩnh của “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Đây không phải là một lộ trình dân chủ, mà là một lộ trình vẫn xây dựng trên một số tiền đề tư tưởng Mác-xit không tưởng, đã tan vỡ, như: chủ nghĩa tư bản vẫn mang đầy mâu thuẫn nội tại, và chủ nghĩa xã hội theo mô hình Mác xit là xu thế tất yếu của nhân loại. Lộ trình này không phản ảnh diễn biến thực tế của đất nước, của khu vực ĐNA và thế giới, chỉ tạo ra nghịch lý trong tiến trình phát triển. Dù chỉ chấp nhận tự do hóa các hoạt động kinh tế, nhưng ngay trong kinh tế cũng tạo ra các khu vực đặc quyền đặc lợi, tìm cách “kiểm soát” sự phát triển của nền kinh tế tự do. Kết quả là đã tạo ra một nền “tư bản hoang dã”. Trong lãnh vực văn hóa và chính trị thì hoặc kìm hãm các hoạt động “ngoài luồng”, hoặc đàn áp các tiếng nói và sáng tạo tư tưởng tự do, độc lập. Những nghịch lý này, đã được phân tích trong bài trước, đang thúc đẩy sự bùng vỡ từ trong đảng CS ra (“tự diễn biến”) và từ quần chúng đáy tầng xã hội lên (cách mạng mầu).
Những người dân chủ và dân tộc tiến bộ cần đề ra và thực hiện một lộ trình dân chủ toàn diện, vận dụng các nghịch lý hiện có, vô hiệu hóa lộ trình lạc hậu của đảng CS và đẩy nhanh tiến trình chuyển hóa toàn diện của xã hội, từ kinh tế đến văn hóa tư tưởng và chính trị-xã hội, để sớm đưa đến thay đổi chính trị. Nhưng để vạch ra và thực hiện được lộ trình này, chúng ta cần tìm hiểu tiến trình chuyển hóa khách quan tại Việt Nam, cần phân tích tình hình một cách toàn diện để xem hiện nay là giai đoạn nào trong tiến trình chuyển hóa. Sau đó nhận diện ra được các yếu tố và các tác nhân có khả năng tác động vào giai đoạn chuyển hóa này, để từ đó khai dụng các yếu tố và tác nhân tích cực cho tiến trình dân chủ hóa, và triệt tiêu hay giảm thiểu tác hại của các yếu tố và tác nhân tiêu cực.
Từ năm 2000, chúng tôi đã phổ biến hai tài liệu, đưa ra sách lược tiến trình khách quan và lộ trình chủ động vận động dân chủ hóa Việt Nam (*). Từ 2005, trong chuyến đi vận động tại Âu Châu, và năm 2009, trong buổi hội thảo chính trị tại Washington DC, chúng tôi cho rằng chuyển hóa dân chủ tại Việt Nam đã bước vào cuối giai đoạn 2, thay đổi trong lãnh vực văn hóa-giáo dục-thông tin, và đang chuyển vào đầu giai đoạn 3, thay đổi trong sinh hoạt chính trị-xã hội của người dân và trong cơ chế chính quyền. Những thay đổi này là những đòi hỏi khách quan của phát triển xã hội sau giai đoạn phát triển kinh tế.
Khi đất nước còn nằm trong chế độ độc tài, qui luật phát triển khách quan là: người dân càng được tự do, xã hội càng phát triển. Nông dân được giải thoát khỏi sự kìm kẹp của cơ chế hợp tác xã quốc doanh, chỉ sau vài năm, đã giúp Việt Nam dư gạo để xuất khẩu, đứng hàng thứ ba trên thế giới. Kinh tế Việt Nam phát triển ngoạn mục chính nhờ người dân được tự do kinh doanh. Ngày nay, nền kinh tế đã tương đối phát triển, đời sống vật chất của một bộ phận nhân dân được cải thiện, nhưng các bệnh thái văn hóa xã hội ngày một trầm trọng, tình trạng tham nhũng lạm quyền, áp bức nhân dân không kiềm tỏa được. Chỉ có tiếp tục con đường tự do hóa văn hóa và chính trị mới giải quyết được tệ nạn này. Các nhà nghiên cứu quốc tế gọi đó là “Đổi mới 2” (Renovation 2). Đảng CSVN vẫn cưỡng lại hoặc trì hoãn đổi mới 2, vì thành công của nó tất yếu dẫn đến một xã hội dân chủ, có tự do toàn diện, có cạnh tranh trong kinh tế cũng như trong văn hóa và chính trị.
Tự do hóa toàn diện là điều kiện cần thiết để thiết lập nền dân chủ toàn dân và chân chính. Chương trình hành động của phía dân chủ trong ngoài nước là tìm mọi cách giúp mở rộng tự do sinh hoạt cho người dân, và thu hẹp khả năng kiềm tỏa của nhà nước CS, trong hai lãnh vực văn hóa và chính trị. Tự do càng toàn dân toàn diện, dân chủ đến càng nhanh.
__________________
(*) Đề Cương Vận Động Dân Chủ (10.2000) - Lộ Trình Dân Chủ Toàn Diện (1.2003) –
Tiến Trình Chuyển Hoá Dân Chủ Tại Việt Nam Và Giai Đoạn Hiện Nay (Hội Thảo, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, Washington DC, 22.11.2009) - www.doanviethoat.org

----------
Chuyển hóa dân chủ tại Việt Nam Đoàn Viết Hoạt
Chúng tôi thường nhận được môt số câu hỏi như sau: Nếu là chuyển hóa dân chủ thì sẽ không có đột biến chính trị tại Việt Nam? Việt Nam sẽ chuyển hóa sang dân chủ một cách ôn hòa, êm thắm, và do đảng CS Việt Nam chủ động thực hiện, như trường hợp ở Đài Loan? Các câu hỏi tựu trung xoay quanh vấn đề: Việt nam sẽ dân chủ hóa như thế nào?
Chuyển hóa dân chủ nói chung diễn ra qua 1 trong 3 lộ trình:
(1) Đảng cầm quyền chấp nhận dân chủ hóa và chủ động thực hiện dần từng bước, dù công bố hay không công bố lộ trình này; (2) phong trào đòi dân chủ ngày càng lớn mạnh, dù bị chính quyền đàn áp khốc liệt, để sau cùng đủ sức phát động quần chúng nổi dậy lật đổ chế độ; (3) phong trào đòi dân chủ ngày càng lớn mạnh, cộng với ảnh hưởng quốc tế, tạo điều kiện cho phe ủng hộ dân chủ trong ban lãnh đạo CS nắm được quyền lực, chấp nhận chế độ dân chủ đa đảng.
Cả ba lộ trình dân chủ hóa đều đã xẩy ra trên thế giới. Lộ trình 1 xẩy ra tại Đài Loan, khởi đầu từ cuối thập niên 1970. Trước đó Đài Loan bị đặt trong tình trạng thiết quân luật vì mối đe dọa thường trực từ Trung hoa lục địa nên những cuộc đấu tranh đòi dân chủ đều bị đàn áp, nhiều khi khốc liệt. Khi Tưởng Kinh Quốc lên cầm quyền năm 1978, ông mở rộng tự do, chấp nhận tiến trình dân chủ hóa, cuối cùng dẫn đến cuộc bầu cử đa đảng, trong đó đảng đối lập thắng cử. Lộ trình 2 đã xẩy ra ở hầu hết các quốc gia chuyển sang dân chủ trong giai đọan từ sau đệ nhị thế chiến đến đầu thập niên 1990. Chế độ độc tài bị lật đổ sau nhiều thập niên đấu tranh bạo động đòi dân chủ đầy đổ vỡ và chết chóc. Hàn quốc và Indonesia có thể coi là hai trường hợp tiêu biểu tại Á Châu. Các cuộc vận động dân chủ hóa trong những năm cuối cùng của thế kỷ trước và đầu thế kỷ 21 tại một số quốc gia như ở Trung Á, đã đi theo Lộ trình 3. Đột biến chính trị vẫn xẩy ra nhưng thời gian bạo động ngắn hơn, và giới cầm quyền chấp nhận dân chủ nhanh hơn. Những cuộc vận động này được gọi tên là các cuộc “cách mạng mầu”, dựa vào mầu tiêu biểu được những người đấu tranh chọn.
Lộ trình 1 chỉ xẩy ra khi đảng cầm quyền chấp nhận dân chủ hóa. Theo tôi, Quốc Dân Đảng ở Đài Loan có chủ trương dân chủ ngay trong Tam Dân chủ nghĩa của họ nên khi kinh tế đã phát triển, có đấu tranh đòi dân chủ, và tình hình bớt căng thẳng hơn với lục địa, họ đã chủ động chấp nhận chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng. Các đảng cầm quyền độc tài khác không có chủ trương dân chủ rõ ràng nên chế độ dân chủ chỉ đến sau khi quần chúng nổi dậy lật đổ chính quyền độc tài.
Tại Việt Nam, đảng CS vẫn duy trì Cương lĩnh “xây dựng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, nên chưa có dấu hiệu nào cho thấy Lộ trình 1 đang hay sẽ diễn ra. Lộ trình 2 cũng khó xẩy ra. Trong những năm gần đây đã có những cuộc nổi dậy bạo động của nông dân và dân oan ở nhiều nơi, vây hãm nhân viên chính quyền nhiều ngày. Chúng ta còn nhớ cuộc biểu tình ôn hòa của dân oan “đóng chốt“ hàng tháng tại Saigon mấy năm trước, trong đó HT Thích Quảng Độ đã xuất hiện để ủng hộ họ. Sinh viên, thanh niên cũng đã rầm rộ xuống đường biểu tình chống Trung quốc tại Saigon và Hà Nội. Nhưng tất cả đều bị dẹp tan và chìm vào bối cảnh một Việt nam phát triển ồn ào, rối loạn, vô trật tự, đầy bệnh thái nhân văn, xã hội và môi sinh. Tại Việt Nam, đấu tranh bạo động không thể kéo dài và không phù hợp với một quần chúng đã phải trải qua nửa thế kỷ đầy máu lửa và bạo loạn.
Lộ trình dân chủ hóa tại Việt Nam đang và sẽ xảy ra phù hợp với chính thực trạng đầy nghịch lý của chế độ “cộng sản” mang nhiều đặc tính của một xã hội “tư bản rừng rú”.  Nghịch lý Việt Nam có thể nhận ra được dưới nhiều góc độ quan sát khác nhau.
Những nghịch lý này có thể thấy được ngay trong đời sống hàng ngày: hào nhoáng, giầu sang nhưng “thiếu văn hóa”, nhiều khi “hoang dã”, trong ứng xử giữa người với người, giữa chính quyền với người dân, giữa con người với môi sinh. Phẩm chất đời sống phi vật chất không tăng cùng nhịp với đời sống vật chất, mà ngày càng xuống thấp và suy thoái. Nghịch lý còn thể hiện trong đường lối đối nội và đối ngọai đầy lúng túng, thiếu minh bạch, trong sáng; trong cung cách hành xử thiếu tự tin, không trưởng thành, của giới cầm quyền với người dân, và với quốc tế – chưa tương xứng với vị trí chính trị mà VN đang được quốc tế tạo cho.
Không gì có thể che đậy được những nghịch lý hiển nhiên này nữa, trong bối cảnh đất nước đang phát triển, đang hội nhập quốc tế, sức sống của người dân đang bung ra, và các phương tiện thông tin điện tử đang ngày càng phong phú, đa dạng. Nó thể hiện cả trong quan hệ “tế nhị” giữa Việt nam và Trung quốc – đang là bạn mà vẫn chưa hết là thù, nhưng cũng không thể coi là thù được; và giữa Việt Nam với Hoa kỳ – muốn làm bạn vì biết là cần thiết và có lợi, mà vẫn chưa thật sự là bạn được.
Trên hết, nghịch lý thể hiện rõ nét trong dự thảo Cương lĩnh mà ban lãnh đạo CS đang đưa ra để các đảng viên góp ý, nhất là trong phần bổ sung quan trọng vào Cương Lĩnh cũ mà ông Nguyễn Phú Trọng đã công bố: “…nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn như: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;…” (*)
Trong số các cặp quan hệ này, có hai cặp liên quan trực tiếp đến dân chủ. Đó là quan hệ giữa “đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị”, và quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Ban lãnh đạo CS phải bổ sung vào Cương lĩnh của họ việc giải quyết hai cặp quan hệ này phải chăng vì các cặp quan hệ đó đã không được đặt ra, hoặc đặt ra nhưng đã không được giải quyết “tốt”. Các cặp quan hệ được nêu ra trong dự thảo, vì không được giải quyết “tốt” nên trong thực tế đã xẩy ra những nghịch lý mà mọi người đều quan sát thấy. Nhưng để giải quyết “tốt” những cặp quan hệ này, nhất là hai cặp quan hệ liên quan trực tiếp đến dân chủ, cần từ bỏ cách tiếp cận “loại bỏ nhau” như hiện nay, và dứt khoát chấp nhận phương hướng “cùng tồn tại”. Cho đến nay việc giải quyết các cặp quan hệ này vẫn bị chi phối bởi qui luật “mâu thuẫn hủy diệt” đầy phi nhân và sai lầm, và bởi não trạng “ai thắng ai” của thời kỳ chiến tranh lạnh đã hoàn toàn sụp đổ.
Xã hội luôn đa nguyên, luôn có và cần có những cặp quan hệ khác nhau. Qui luật phát triển bình thường và lành mạnh trong xã hội phải là qui luật “hỗ tương” và “đối lập thống nhất”, nghĩa là những mặt đối lập tác động lẫn nhau để cùng tiến. Chính tiến hóa và hỗ tương là yếu tố giúp thống nhất các mặt đa dạng, khác nhau, đối lập nhau để đun đẩy nhau cùng tiến về phía trước. Đổi mới kinh tế sở dĩ thành công vì áp dụng qui luật này, chấp nhận sự cạnh tranh tự do giữa nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Kinh tế còn phát tiển tốt hơn nữa, bớt “rừng rú’’ hơn, bớt mafia hóa hơn hiện nay, nếu các qui luật kinh tế thị trường được triệt để áp dụng, không dành ưu tiên cho khu vực nhà nước, vừa kém hiệu quả vừa tạo bất bình đẳng xã hội và đặc quyền đặc lợi cho giới quan chức.
Muốn quan hệ giữa kinh tế và chính trị được tốt, cần chấp nhận tự do cạnh tranh trong văn hóa và chính trị, như trong kinh tế. Quan hệ giữa đảng, nhà nước và nhân dân, cần đổi lại thành cặp quan hệ minh bạch giữa một bên là giới cầm quyền và một bên là nhân dân. Phải chấm dứt quan hệ thống trị – bị trị giữa chính quyền và nhân dân. Chính quyền các cấp đều phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân, được tín nhiệm hay bị bãi miễn trực tiếp bởi nhân dân. Chức vụ càng cao càng phải như thế. Để chấm dứt hay ít nhất có cơ chế kiềm tỏa được các tệ nạn tham nhũng, lạm quyền và lộng quyền vô trách nhiệm, nhân dân cần có tiếng nói tự do và có các đoàn thể văn hóa, xã hội, chính trị độc lập và đối lập với đảng cầm quyền. Đây là những điều bình thường trong sinh họat chính trị – xã hội tại tất cả các quốc gia phát triển, ổn định và bền vững. Trái với thế là bất bình thường, là bệnh thái, và là mầm mống gây bất ổn thường trực.
Nếu trước đây ban lãnh đạo CS đã nhìn ra và giải quyết tốt các cặp quan hệ này thì các bệnh thái và nghịch lý văn hóa, chính trị – xã hội đã không trầm trọng và lan rộng như hiện nay. Nhưng nếu lại giải quyết “nửa vời”, không chấp nhận “đối lập”, “cùng tồn tại”, cạnh tranh bình đẳng và tự do trong văn hóa và chính trị như trong kinh tế; vẫn tiếp tục đặt độc quyền lãnh đạo và đặc quyền đặc lợi của đảng trên quyền lợi của nhân dân và tiền đồ của tổ quốc; không chính thức chấp nhận dân chủ hóa, thì nghịch lý càng phát triển sâu rộng thêm, rối loạn xã hội là điều không thể chấm dứt được, dù bằng thủ đoạn tinh vi hay bạo lực thô bạo.
Các lực lượng dân chủ và tiến bộ trong nước không thể bị động, ngồi chờ may rủi, trông đợi “thiện chí” của ban lãnh đạo CS. Cần tích cực chuẩn bị xuất hiện công khai một lực lượng chính trị đối lập, giúp tăng cường sức mạnh của quần chúng đáy tầng, đẩy nhanh đến đột biến chính trị, để ngăn chặn hoặc rút ngắn thời gian rối loạn và mở đường cho chế độ dân chủ ra đời, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển ổn định và bền vững – qua một cuộc cách mạng mầu, nhân bản và dân tộc.
© Đoàn Viết Hoạt
© Đàn Chim Việt
___________________________________________________________
(*) Nguyễn Phú Trọng, Những định hướng bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991”,
http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30257&cn_id=421204#

Tổng số lượt xem trang