Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2010

Góp ý Cương lĩnh: Vấn đề phòng, chống suy thoái của Đảng cầm quyền phải là một vấn đề lớn trong Cương lĩnh

Vấn đề phòng, chống suy thoái của Đảng cầm quyền phải là một vấn đề lớn trong Cương lĩnh
Chungta.com 15/10/2010
TS. Hồ Bá Thâm
Vấn đề “suy thoái nhân cách, quyền lực của Đảng cầm quyền” là một vấn đề lớn, hệ trọng, có tính cương lĩnh, mà bất cứ đảng cầm quyền nào cũng phải đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, không ít đảng đã phải trả giá đắt. Những bài học lịch sử xưa nay vẫn còn mới và mang tính thời sự. Chúng tôi nghĩ rằng trong Cương lĩnh cũng như Văn kiện trình ĐH 11 của Đảng cần nêu bật, đậm nét vấn đề này.


Đảng ta cũng đã biết và quan tâm nhưng chưa đủ mức cần thiết, chưa nổi bật, chưa mạnh, chưa chính diện và còn thiếu. Cách diễn đạt có khi còn quen thuộc (đúng nhưng nhàm) như Xây dựng đảng trong sạch vững mạnh.

Nghiên cứu Cương lĩnh sự thảo, trong mục nói về Đảng, có viết: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái”…v.v

Nói về mặt cần đấu tranh như “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái.” Thế nhưng những biểu hiện, cần chống khác như: xa dân, không thật sự lắng nghe dân, không có cơ chế trưng cầu dân ý; hoặc bệnh đặc quyền đặc lợi, tham nhũng; hoặc tư tưởng giáo điều, nóng vội, sai lầm về chủ trương đường lối, hoặc bao biện, làm thay chính quyền, vô trách nhiệm; chuyên quyền độc đoán…thì lại không thấy nhắc đến. Chúng ta điều biết bài học cay đắng xảy ra đối với Đảng cộng sản Liên Xô cũ và một số đảng phái cầm quyền khác. Và ngay cả bài học của các triều đại phong kiến ở VN trước đây cũng vậy. Môi trường kinh tế xã hội ở nước ta dễ làm nảy sinh tha hóa nhân cách và quyền lực của đảng cầm quyền còn rất lớn. Thực tế cũng đã và đang chứng tỏ ít nhiều như vậy. Thậm chí có nhà khoa học còn cảnh báo rất nghiêm túc rằng, sứ mệnh, “sự sống còn của Đảng ta đang tính hàng ngày một”. Chúng ta không được chủ quan, coi thường, cho rằng đó là tầm phào!

Trong Cương lĩnh phần nói về nhà nước có khẳng định: “Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân”.

Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, vẫn không đủ. Vấn đề chống biểu hiện đặc quyền đặc lợi không thấy nêu lên trong các văn kiện của Đảng. Ai dám bảo ở nước ta không có. Một trong những nguyên nhân lớn nhất, trực tiếp tác động xấu nhất đến niềm tin của nhân dân, qua kinh nghiệm Liên Xô cũ đối với ĐCS là tệ nạn đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, độc đoán, mất dân chủ. Đây là những điều mà gần đây báo chí nước ra cũng đã có bài viết về tình hình này. Cho nên rất cần bổ sung vào Cương lĩnh: Chống chuyên quyền độc đoán, đặc quyền đặc lợi …Nhưng bao trùm hơn cả là Phòng và chống tha hóa quyền lực, nhân cách của đảng cầm quyền.

Có lẽ cần có một đoạn riêng, thậm chí mục riêng (cho cả hệ thống chính trị) nói đậm hơn, tập trung hơn về vấn đề này. Tuy nhiên các văn kiện khác cũng phải cụ thể hóa, nhất là quan điểm và cơ chế, luật pháp thì mới có cơ sở cho thành công.

Nhân đây, chúng tôi cũng xin phản ánh đến Đảng thêm tình hình. Về các khuyết điểm, hay sự tha hóa nào đó trong đảng cầm quyền nhìn chung trên các văn kiện chính thức thường nói có mức độ, vừa phải dễ chấp nhận trong nội bộ (ở đại hội đảng các cấp cũng vậy), nhưng trong giới chuyên gia, các nhà khoa học lại thường nêu lên khá nổi bật và cảnh báo mạnh mẽ hoặc có ý kiến khác biệt khá rõ (đã thể hiện một phần qua kênh báo chí). Nhưng một tầng dư luận phi chính thức (quanh bàn trà, tâm sự hàng ngày…) rất đáng quan tâm, là rất nhiều ca thán, phê phán khá nặng nề, với tâm trạng thiếu niềm tin ở Đảng ta. Đáng chú ý không phải là phần tử xấu mà phần nhiều là cán bộ đảng viên. Tôi không hiểu các cấp đánh giá tình hình này như thế nào cho đúng, trúng, nhìn thẳng vào sự thật, có hơi thở của cuộc sống.

Chúng tôi cũng đề nghị cần có quy định về thăm dò uy tín đối với Đảng và Nhà nước, với các cán bộ đứng đầu, như các nền dân chủ văn minh thường làm (Bảng đo lường, chỉ số tín nhiệm). Chỉ số này sẽ cảnh báo cho đảng cầm quyền tránh tình trạng cứ bình chân như vại rằng tình thế không thể đảo ngược!

Vấn đề là không phải bắt buộc có tính pháp lý mà quan trọng nhất là Đảng phải thật sự làm gương như thế nào để nhân dân “tâm phục khẩu phục” là Đảng cầm quyền duy nhất, đảng của chúng ta, của nhân dân của dân tộc, của sự phát triển tiến bộ, “là đạo đức, là văn minh” (Hồ Chí Minh). Có như thế thì mới đảm bảo rằng bất luận tình huống nào đi nữa thì đảng CSVN (dù tên gọi là gì) vẫn là đảng duy nhất (hay chủ yếu, chính yếu) là đảng cầm quyền và hoàn thành tốt nhất sứ mệnh lịch sử mà nhân dân và dân tộc giao phó. Tinh thần này có thể cần ghi vào Cương lĩnh.

Cuối cùng, thiết nghĩ Cương lĩnh và cả các Văn kiện nên có cách diễn đạt mới, tránh cách thể hiện quá quen thuộc, nhàm chán, biết rồi, nói mãi, và nhẹ về khí phách, tâm huyết, tinh thần thực tiễn, ít lửa, kém thu hút.

Nguồn: Chungta.com
---------
Phản Ứng Ngược Chống Diễn Biến Hoà Bình
Người Yêu Nước

Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ năm 1986. Nhiều thành tựu lớn đã đạt được nhờ công cuộc đổi mới này. Và cũng bắt đầu từ khi có đổi mới, mấy từ “diễn biến hòa bình” cũng bắt đầu xuất hiện trong các văn kiện của Đảng, và trên báo chí. Các cán bộ tuyên huấn được cử về các chi bộ Đảng ở từng địa phương để phổ biến về sự nguy hiểm của “diễn biến hòa bình”, và các giải pháp chống “diễn biến” này ra sao. Rất nhiều chỉ thị, nghị quyết về chống “diễn biến hòa bình” đã được ban hành. Ngày 17/2/1998, Bộ chính trị Khóa 8 ra Nghị quyết số 08 về “Chiến lược an ninh quốc gia”. Ngày 30/12/2002, Ban bí thư ra Kết luận số 94 về “Nhiệm vụ tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa”. Ngày 14/10/ 2006, Bộ chính trị khóa 9 ra Chỉ thị số 05 về “Tăng cường lãnh đạo, bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới”. Và gần đây nhất, Ban Bí thư lại ra Chỉ thị số 34 ngày 24 tháng 4 năm 2009, lặp lại nội dung chống “diễn biến hòa bình” đã được nêu trong Kết luận số 94 nêu ở trên.


Thế nhưng càng chống “diễn biến hòa bình”, kết quả càng có vẻ đi xuống. Đảng ta quả là đang đứng trước những khó khăn hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống diễn biến hòa bình.

Sau khi phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, nhất là Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ, thì mọi lý luận nhằm biện minh cho sự vô địch của chủ nghĩa Mac-Lênin đều chỉ là trò hề của “ông vua cởi truồng”. Nhà viết truyện thiếu nhi nổi tiếng thế giới Andersen, người Đan Mạch đã viết truyện “Ông vua cởi truồng” , đại khái như sau: người thợ may tặng ông vua bạo chúa một bộ quần áo trong suốt. Ông vua độc tài đó hãnh diện cởi bộ quần áo đang mặc ra, thay bộ quần áo trong suốt vào, và đi ra phố. Người dân xì xào rằng ông vua đang cởi truồng. Nhưng ai cũng sợ, không dám nói cho ông vua biết. Đám nịnh thần cũng biết là vua đang cởi truồng, nhưng không nói sự thật, mà chỉ ra sức khen bộ quần áo đẹp, vì còn mong được hưởng bổng lộc vua ban phát. Chỉ ông vua độc tài không biết mình cởi truồng.

Đảng ta khác ông vua cởi truồng kia ở chỗ ông vua đó không biết mình đang cởi truồng. Còn Đảng ta biết mình đang cởi truồng, nhưng cố tình nhắm mắt làm ngơ. Cái học thuyết Mac-Lê nin đó đã thất bại cả về học thuyết, lẫn thực tế, thế mà sao Đảng ta vẫn cố tình làm ngơ, cố tình níu kéo? Một trong những nguyên nhân của tình trạng làm ngơ, níu kéo này là sự nghèo nàn về tư tưởng. Đảng ta đã từng là lực lượng tiên phong, tiến bộ, nên đã lãnh đạo dân ta đi đến nhiều thành công. Hơn 20 năm đổi mới đã cho thấy Đảng ta cũng có sự khôn lỏi. Áp dụng cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn ngụy trang với khẩu hiệu “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nên vừa đạt được sự thành công bước đầu về kinh tế, xã hội, vừa tạo được bức màn mỏng để che cho cái cơ thể trần truồng của mình. Thế nhưng cái anh chàng “diễn biến hòa bình” này quả là tai hại. Anh ta đang mưu toan kéo tuột nốt cái màng mỏng tang ấy xuống nữa, để Đảng ta hoàn toàn trần truồng trước thanh thiên bạch nhật. Nguy quá. Phải chống. Nhưng chống sao đây? Đảng ta có thể bắt giam, bỏ tù các nhà dân chủ, chặn từ sân bay cửa khẩu không cho mấy tên “phản động” về nước, tịch thu các tài liệu “phản động” từ nước ngoài gửi về, dựng tường lửa ngăn chặn internet, tổ chức học tập, tuyên truyền, viết các bài báo chống diễn biến hòa bình, ngăn cấm báo chí tư nhân, xuất bản tư nhân, ngăn cấm tự do hội họp, lập hội, quản lý chặt chẽ báo chí... Những việc đó Đảng ta đã và đang làm khá hiệu quả.

Nhưng có những việc Đảng ta không làm được. Hiện nay, hàng năm có khoảng 38.000 sinh viên Việt Nam ra nước ngoài du học, chủ yếu học ở các nước “tư bản dãy chết” như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật... Họ sẽ là những chiến sĩ “diễn biến hòa bình” tiên phong để đấu tranh với nỗ lực chống diễn biến hòa bình của Đảng ta, mà Đảng ta không thể làm gì được. Hầu hết con các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng ta nằm trong số các sinh viên ưu tú này. Rõ ràng, cuộc đấu tranh chống diễn biến hòa bình đang len lỏi vào gia đình của từng vị lãnh đạo Đảng ta. Người ta thấy ngày càng rõ là đứng trên diễn đàn công khai, các vị lãnh đạo Đảng ta ra sức hô hào chống diễn biến hòa bình. Nhưng về nhà, các vị lẳng lặng thu xếp cho con các vị đi ra các trung tâm diễn biến hòa bình trên thế giới để học tập.

Hàng năm nước ta có khoảng 45.000 lao động xuất khẩu. Đây cũng là các nhân tố tiếp thu “diễn biến hòa bình” rất hiệu quả. Họ lao động ở nước ngoài, và họ hiểu được cái ưu việt của các nước tự do, dân chủ, và Đảng ta không tài nào tẩy não được họ.

Tất cả các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài cũng là các đầu mối dễ bị “diễn biến hòa bình” nhất. Đây là nơi mà các nhân viên sứ quán thường cười vào mũi các nghị quyết chống “diễn biến hòa bình” của Đảng ta được gửi ra cho các Đại sứ quán, bởi vì các nhân viên ngoại giao quá hiểu sự thật của xã hội các nước mà họ đang công tác, với sự thật ở quê hương yêu dấu của họ. Khi có biến động, họ sẽ là những người đầu tiên vứt thẻ đảng vào sọt rác. Hàng năm có hàng trăm ngàn lượt cán bộ đảng viên, nhân dân đi công tác nước ngoài. Họ cũng là các nhân tố dễ bị “diễn biến hòa bình”.

Lại còn hơn 3 triệu Việt kiều sống khắp thế giới. Lực lượng này mới thật là gay go, làm sao mà tẩy não họ được, làm sao mà ngăn cấm họ gửi tiền, hàng về cho thân nhân, làm sao mà ngăn cấm họ kể các câu chuyện về xã hội tự do, dân chủ ở xứ mà họ đang sống cho bà con, bạn bè ở Việt Nam nghe.

Thế rồi hàng năm đang có hàng triệu khách du lịch đến Việt Nam, họ mang theo cái hình ảnh các nước dân chủ giàu có, thịnh vượng, tự do, dân chủ đến cho Việt Nam. Khách du lịch là các sứ giả vô tình của “diễn biến hòa bình” đầy hiệu quả mà không một nghị quyết nào có thể đấu tranh nổi. Rồi còn hàng trăm ngàn người nước ngoài đang làm việc trong các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, các dự án ODA, NGO... Họ cũng là các đại sứ vô tình đầy hiệu quả cho công cuộc diễn biến hòa bình đầy nguy hiểm này.

Còn về việc dựng tường lửa, quản lý internet, chặn bắt các blogers... cũng chỉ là “bắt cóc bỏ đĩa”, bịt chỗ này, dò chỗ kia. Dân Việt Nam ta nổi tiếng thông minh. Vượt tường lửa chẳng là cái gì cả.

Chao ơi. Đảng ta quả là đáng thương. Càng chống, càng thấy bị động, càng thấy lộ rõ tấm thân trần truồng của mình. Công cuộc đổi mới càng thành công, thì càng cho thấy cái đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là vô duyên, không ăn nhập gì với các thành quả đã đạt được. Đảng ta đang tự ru ngủ là các thành công về kinh tế trong công cuộc đổi mới sẽ làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào Đảng, làm cho Đảng ta thêm vững mạnh. Nhầm to. Làm sao mà càng kinh tế phát triển, càng mở cửa, thì người chống đối càng nhiều lên như thế? Khiến cho Đảng ta càng phải lo ngay ngáy chống diễn biến hòa bình đến thế? Cái vũ khí cuối cùng Đảng ta đang nêu cao để chống “diễn biến hòa bình”, là học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh nếu học tập nghiêm chỉnh, không cắt xén, thì Đảng ta cũng thật là nguy nan. Vì giá trị thật sự của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện đầy đủ nhất ở bản Hiến Pháp 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo, thì Đảng ta không cho đảng viên và dân học. Đảng ta chỉ cho đảng viên và nhân dân học về đạo đức Hồ Chí Minh, còn tư tưởng thật sự của Bác Hồ thì Đảng ta cắt xén, che dấu, và chỉ cho học vừa vừa thôi.

Thế cho nên tư tưởng Hồ Chí Minh nếu được học tập thật sự đầy đủ, không cắt xén, thì cũng thật sự nguy hiểm cho Đảng ta. Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của Đảng ta quả là cuộc đấu tranh không cân sức. Cái ông vua cởi truồng - Đảng ta - không thể cứ cởi truồng mãi được.

Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.


http://lamphong72.multiply.com
--------------

Dân chủ thật sự là vấn đề trung tâm, cốt tử của Chủ nghĩa xã hội
Chungta.com 30/10/2010
TS. Hồ Bá Thâm
Hiện nay, và cũng như trong Văn kiện dự thảo trình ĐH 11 của Đảng thì vấn đề dân chủ được đặt ra cả về mặt lý luận và nhất là về mặt thực tiễn. Ở đây ta thấy dân chủ vừa là một trong những mục tiêu và động lực của CNXH… Hoặc có sự dịch chyển mục tiếu dân chủ lên trước mục tiêu công bằng.

Cương lĩnh dự thảo ở mục IV, viết: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”

Nhưng chúng ta thấy vấn đề dân chủ vẫn chưa xứng tầm với nó trong xu thế phát triển hiện nay. Theo chúng tôi, Dân chủ là một vấn đề trung tâm, cốt tử của CNXH…

Sau đây, chúng tôi muốn làm rõ thêm một số khía cạnh và góp ý cùng ĐH 11, mà trước đây chưa có dịp bàn luận:

1- Dân chủ là quyền lực gắn với lợi ích, quyền làm chủ của nhân dân. Đúng là bao nhiêu quyền lực, quyền lợi là ở nơi dân. Dân chủ không chỉ là một hình thái nhà nước mà còn là quyền lực căn bản và quyền lợi chính trị - xã hội của nhân dân, trách nhiệm ý chí và trí tuệ của nhân dân trong tất cả tổ chức xã hội.

Trong thể chế dân chủ một đảng cầm quyền cũng vậy, dân chủ như vậy không phải chỉ là ý chí, quyền lực nhà nước pháp quyền mà chủ yếu là ý chí, quyền lực, trí tuệ của nhân dân. Ý Đảng phải trước hết từ ý Dân, chứ không đơn giản là ý Đảng, lòng Dân.

Cần thay đổi cơ chế: Đảng lãnh đạo - nhân dân làm chủ - nhà nước quản lý, hay Đảng lãnh đạo - nhà nước quản lý,- nhân dân làm chủ, sang cơ chế Nhân dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý. Tức nhân dân là chủ thể, vừa là mục đích và là động lực của thể chế chính trị này. Xã hội ta là một xã hội Nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng nhà nước pháp quyền và các đoàn thể xã hội dân sự cũng như cơ chế kinh tế thị trường..

Nói cách khác, từ bản chất, đó là xã hội Dân chủ Nhân dân (của dân, do dân và vì dân), nên Đảng lãnh đạo hay nhà nước quản lý, xã hội dân sự tự quản, cơ chế thị trường tự điều chỉnh. Đó là nền dân chủ theo hướng hiện đại, XHCN.

Dân chủ hiện đại (dân chủ pháp quyền) hình thành, là sản phẩm tổng hòa giữa kinh tế thị trường- nhà nước pháp quyền- xã hội dân sự văn minh (gắn với kỷ nguyên thông tin), chứ không phải của một mặt riêng lẻ nào. Quyền lực nhân dân hay dân chủ là chủ thể trung tâm, linh hồn trong các trụ cột ấy.

Do vậy, Cương lĩnh và các văn kiện khác khi nói về dân chủ không nên chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hệ thống chính trị. Vì chính dân chủ trước hết là dân chủ kinh tế và cơ chế kinh tế thị trường cũng là cơ chế của nền dân chủ về mặt kinh tế (tự do kinh danh, tự do cạnh tranh, bình đẳng trước pháp luật…).

Hơn nữa, về cách trình bày. Trong Cương lĩnh dự thảo, 2011, mục IV- với tiêu đề “Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng”, nhưng lại sau đó, dưới cái tiêu đề ấy, đã trình bày ngay “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”, là chưa hợp lý, hẫng hụt, thiếu lô gích, liến mạch. Nói cụ thể là thiếu câu dẫn.

Đúng ra nên viết : Đổi mới, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị là trước hết là nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân, phát triển, phát huy nền dân chủ XHCN. Và tiếp theo là trình bày về dân chủ và các thiết chế của hệ thống chính trị từ nhà nước trở đi…(như tiêu đề đã nêu).

2- Dân chủ là một vấn đề cơ bản, mục tiêu, động lực lớn bậc nhất, và cũng là vấn đề, nội dung và nhiệm vụ trung tâm thường xuyên của CNXH. Chỉ có vấn đề giàu mạnh (cả kinh tế và văn hóa) cho cả người dân và dân tộc trên nền tảng phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, nhất là khả năng tạo ra năng suất lao động, từ đó mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân này càng được nâng cao, thì mới có CNXH.

CNXH không chỉ là như vậy, nhưng không có nó thì không có CNXH đích thực, văn minh, hiện đại, tức là chỉ có CNXH khổ hạnh, tiểu nông hay công xã. Đối với nước ta nó có ý nghĩa sống còn. Đối với các nước TBCN phát triển cao thì chủ yếu nhất là tạo ra dân chủ XHCN từ dân chủ tư sản. Dân chủ đến cùng là CNXH {Lênin}. Giả sử ở VN có dân chủ XHCN mà kinh tế vẫ phát triển chưa cao thì cũng chưa thể có CNXH đích thực được.

Tuy nhiên, khi có trình độ kinh tế rất cao (giả sử như vậy) mà không có dân chủ thật sự của dân, do dân và vì dân ( xét về bản chất, thì dân chủ nhân dân= dân chủ xã hội= dân chủ XHCN), thì cũng chưa thể có CNXH. Dù rằng về mặt nào đó các nước TBCN phát triển cao lại có nhiều nội dung XHCN hơn các nước từng tuyên bố là XHCN nhưng về kinh tế mới ở mức nước kém phát triển hay đang phát triển, thậm chí đã bắt đầu phát triển.

Ngược lại, dù phát riển kinh tế chưa cao nhưng nếu có dân chủ thật sự thì người dân vẫn cảm thấy tính ưu việt nhất định của CNXH.

Dân chủ không chỉ là nội dung trung tâm của CNXH mà còn là động lực lớn phát triển đất nước và cũng là của CNXH, không dân chủ hóa thật sự sẽ không có đất nước (và nhân dân) vừa giàu vừa mạnh.

Do vậy, cần suy nghĩ sâu sắc căn dặn lại trong Di chúc của Hồ Chí Minh, rằng Dân chủ và giàu mạnh, chứ không phải Giàu mạnh và dân chủ. Trật tự này không đơn giản là hình thức mà là lôgich của tiến trình biện chứng khách quan.

Trong chế độ ta CÓ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀ CÓ CNXH. Mất dân chủ (nghiêm trọng) là mất CNXH.

Dân chủ và Giàu mạnh như vậy là hai mặt cơ bản, cốt lõi nhất, cấu thành CNXH thật sự, đích thực.

3- Nền dân chủ ở nước ta hiện nay là chưa thuần thục, chưa trưởng thành, còn thấp, nhiều hạn chế, chưa đi đến cùng. Gần như lần đầu tiên Cương lĩnh mới nêu lên xây dựng nền dân chủ XHCN, nghĩa là nó chưa có về cơ bản mà mới có những tiền đề và yếu tố, nên không chỉ là phát huy.

Nhận thức dân chủ là nền tảng của CNXH (có bài báo nêu như vậy, nhưng văn kiện cũng chưa có nếu khái niệm này), bên cạnh nền tảng kinh tế và văn hóa, thì phải dựa vào nền tảng này mà phát triển. Còn dân chủ là động lực thì cần phát huy. Dân chủ là mục tiêu thì cần phấn đấu hướng tới.

Dân chủ là vấn đề trung tâm thì các lĩnh vực khác phải hướng vào, để thực hiện, và phát huy nó làm cho nó lan tỏa xung quanh trong các lĩnh vực, trụ cột khác. Điều đó càng quan trọng trong bối cảnh hiện nay có yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, cải cách dân chủ, mở rộng quyền tự do, dân chủ của người dân, phát huy cao động lực dân chủ, như một động lực chủ yếu để xây dựng đất nước, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, xã hội mới, con người

Cương lĩnh viết như sau: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.

Nhưng không rõ xây dựng nền dân chủ của nhân dân ngày càng cao, càng toàn diện – thực chất của nền dân chủ XHCN so với xây dựng nền kinh tế hiện đại thì nó có vị thế so sánh như thế nào?

Theo chúng tôi, Dân chủ là một vấn đề trung tâm, cốt tử của chế độ mới, nhất là của CNXH… Dân chủ trước hết, nhân dân là trung tâm, là chủ thể sáng tạo chứ không phải là đối tượng. Dân chủ nhân dân là sinh khí, sức sống của chế độ mới, và của CNXH.

Ngay cả xu hướng và hiện thực chủ nghĩa dân chủ xã hội (chúng ta hay dịch là CNXH dân chủ, cách dịch này khái niệm dân chủ đựa ra sau mang tính chất tính từ, trong khi đó quan niện của họ dân chủ đứng đầu là danh từ, là chủ thể) thì theo họ chẳng thà không nói, chứ nói thì phải nói CNXH dân chủ để phân biệt với CNXH Xôviết, mà thực chất có một thời gian dài là CNXH chuyến chế, toàn trị. Dân chủ của nhân dân là thực chất và là trung tâm của CNXH nhân bản, nhân đạo, nhân văn, CNXH khoa học. .

4- Cần tập trung xây dựng nền dân chủ của nhân dân, từng bước hình thành, hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Điều này hết sức quan trọng là khi chúng ta tiến lên xây dựng xã hội mới trong hoàn cảnh lịch sử từ chế độ tập trung, tập quyền, chuyên chế cao của phương thức sản xuất châu Á, lại trải qua chiến tranh, và chế độ thuộc địa nửa phong kiến và sau đó trải qua thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp.

Hiện nay, chúng ta thực hiện chế độ một đảng. Với chế độ một đảng cầm quyền thì phải dân chủ hóa mạnh mẽ để khắc phục khả năng một đảng thì dễ quan liêu, bảo thủ, độc đoán, lạm quyền Một đảng thì khả năng ổn định chính trị nhiều hơn nhưng phải tránh ổn định - trì trệ.

Chính chế độ một đảng nên phải dân chủ hóa mạnh mẽ hơn nữa. Cụ thể là cần thừa nhận thực hiện xã hội dân sự văn minh; thực hiện chế độ trưng cầu ý dân; thực hiện theo định kỳ Bảng đo lường uy tín cán bộ chủ chốt của Đàng và nhà nước; thực hiện các cơ chế độc lập giám sát và phản biện xã hội, kiểm soát quyền lực,kể cả đối với đảng cầm quyền cũng như đối với các cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân, thể chế hóa sự cầm quyền của đảng cầm quyền; tùy theo từng thời kỳ mà xây dựng thể chế dân chủ cho phù hợp với quá tình dân chủ hóa…; đồng thời phải xây dựng ý thức dân chủ, nâng cao dân trí và quan trí về dân chủ, có bản lĩnh rèn luyện và thực thi dân chủ.

Xây dựng và thực hiện nền dân chủ (cả về văn hóa dân chủ, thể chế dân chủ, hành vi, phong cách dân chủ) là một quá trình lâu dài cũng như xây dựng nền kinh tế. Ngay dân chủ TBCN cũng như vậy, huống hồ gì dân chủ XHCN.

Đảng tin dân, dựa vào dân, vì nhân dân thì không thể sợ hay ngại xã hội dân sự. Không thể vin vào mặt hạn chế nào đó của xã hội dân sự để bài bác nó. Ngay cả nhà nước cũng có mặt trái: còn nhà nước thì còn quan liêu lạm quyền, tham quyền cố vị, đặc quyền đặc lợi…Có là điều phải hạn chế tối đa mặt trái của nó bằng cơ chế, thể chế và sức mạnh của nhân dân, của dân chủ và pháp quyền mà thôi.

Vấn đề hiện nay là có thể hay chỉ cần bổ sung vào Cương lĩnh là xây dựng, thực hiện nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân là phát triển xã hội dân sự văn minh, xã hội dân chủ, pháp trị theo định hướng XHCN; Dân chủ là một vấn đề trung tâm, cốt tử, Dân chủ là sinh khí, sức sống của chế độ mới, và của CNXH. Như đã nói ở trên cần phải thể hiện ngày càng sinh động trong cuộc sống.

Nguồn: Chungta.com



Tổng số lượt xem trang