Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 (VCR 2010) công bố đầu tuần này cho thấy năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn rất khiêm tốn, chủ yếu dựa vào các điều kiện “thiên thiên” sẵn có và yếu tố đầu vào giá rẻ.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Kết luận này cũng được phản ảnh phần nào qua danh sách 500 công ty lớn nhất Việt Nam (VNR500) vì suy đến cùng, năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế phải được thể hiện qua sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Giống như nhiều bảng xếp hạng khác trên thế giới, các công ty trong ngành dầu khí, ngân hàng, điện, và viễn thông chiếm nhiều vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng VNR500. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ một chút thì sẽ thấy cấu trúc “top 500” của Việt Nam có nhiều điểm đặc biệt so với các danh sách cùng loại.
Đầu tiên, mặc dù Việt Nam không phải là một cường quốc về dầu khí nhưng 21/100 công ty lớn nhất lại liên quan đến xăng, dầu, và khí. Nếu tính cả các hoạt động “ngoài ngành” của các doanh nghiệp dầu khí nhà nước trong các lĩnh vực điện lực, thương mại, và dịch vụ thì con số này còn lớn hơn nữa.
Thứ hai, mặc dù mức độ sung túc và thể trạng của người dân Việt Nam đều nằm dưới mức trung bình của thế giới nhưng trong số 100 công ty lớn nhất có tới năm công ty vàng, bạc, đá quý; đồng thời cũng có tới sáu công ty chuyên sản xuất chất dễ gây nghiện (rượu, bia, thuốc lá). Đáng lưu ý là tất cả 11 công ty này đều là công ty trong nước, chủ yếu phục vụ nhu cầu của thị trường nội địa.
Thứ ba, có tới sáu công ty lương thực, thực phẩm nằm trong “top 100”. Điều này một mặt phản ảnh tầm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế, mặt khác cho thấy điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu) là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam.
Thứ tư, nếu như ở nhiều bảng xếp hạng khác, một doanh nghiệp phải thực sự sản xuất ô tô mới có thể trở thành doanh nghiệp lớn nhất, thì ở Việt Nam chỉ cần lắp ráp ô tô thôi cũng đã có thể lên ngồi “chiếu trên”.
Đáng lưu ý là doanh thu cao của các doanh nghiệp lắp ráp ô tô không xuất phát từ năng lực cạnh tranh quốc tế của chúng, mà trái lại, từ sự bảo hộ hào phóng trong một thời gian rất dài của Chính phủ. Cũng chính vì sự bảo hộ hào phóng này mà ngành công nghiệp ô tô “non trẻ” của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa chịu trưởng thành.
Thứ năm, hai phần ba trong “top 100” là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chủ yếu nhờ tận khai tài nguyên: trong các ngành dầu khí và khai khoáng hoặc khai thác vị thế độc quyền: trong các ngành điện lực, viễn không, hàng không, đường sắt... trên thị trường nội địa. Nói cách khác, quy mô doanh thu của các DNNN này có tính phái sinh, chủ yếu xuất phát từ những đặc quyền, đặc lợi do Nhà nước ban cho chứ không phải từ năng lực cạnh tranh nội sinh của chúng.
Cuối cùng, đa số công ty vào được “top 100” không hề phải cạnh tranh quốc tế mà chỉ nhờ bảo hộ, nhờ khai thác ưu đãi trên thị trường nội địa, đặc biệt nhờ tiếp cận các yếu tố đầu vào giá rẻ và vị thế độc quyền - những dấu hiệu đặc trưng của một nền kinh tế mưu cầu đặc lợi (rent-seeking economy). Như vậy, lớn chưa hẳn là mạnh. Không những thế, lớn mà thiếu căn cơ còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khôn lường.
Từ kết quả phân tích của VCR 2010, để những doanh nghiệp lớn thực sự trở nên mạnh, Chính phủ cần tạo lập môi trường cạnh tranh công khai và bình đẳng, sao cho các nguồn lực được chuyển đến tay người sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, Chính phủ cũng cần giải quyết những vấn đề cố hữu của nền kinh tế, cụ thể là phải ổn định vĩ mô, cải thiện nguồn nhân lực, nâng cao cơ sở hạ tầng, và giảm chi phí tuân thủ luật định. Đây sẽ là những tiền đề quý báu để những con thuyền nhỏ tự tin hơn khi dong buồm ra biển lớn.
“Trong khi các công ty nước ngoài đánh giá môi trường ở Việt Nam là khá cởi mở thì các doanh nghiệp tư nhân trong nước lại đang phải chật vật khẳng định vai trò lớn hơn của mình trong nền kinh tế. Cạnh tranh chủ yếu vẫn tập trung về giá và đối đầu trực tiếp, chứ không phải dựa trên chất lượng và khác biệt hoá sản phẩm dịch vụ”. (Trích từ Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam) |
(Theo TBKTSG)
Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 (VCR 2010) công bố đầu tuần này cho thấy năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn rất khiêm tốn, chủ yếu dựa vào các điều kiện “thiên thiên” sẵn có và yếu tố đầu vào giá rẻ.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Kết luận này cũng được phản ảnh phần nào qua danh sách 500 công ty lớn nhất Việt Nam (VNR500) vì suy đến cùng, năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế phải được thể hiện qua sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Giống như nhiều bảng xếp hạng khác trên thế giới, các công ty trong ngành dầu khí, ngân hàng, điện, và viễn thông chiếm nhiều vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng VNR500. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ một chút thì sẽ thấy cấu trúc “top 500” của Việt Nam có nhiều điểm đặc biệt so với các danh sách cùng loại.
Đầu tiên, mặc dù Việt Nam không phải là một cường quốc về dầu khí nhưng 21/100 công ty lớn nhất lại liên quan đến xăng, dầu, và khí. Nếu tính cả các hoạt động “ngoài ngành” của các doanh nghiệp dầu khí nhà nước trong các lĩnh vực điện lực, thương mại, và dịch vụ thì con số này còn lớn hơn nữa.
Thứ hai, mặc dù mức độ sung túc và thể trạng của người dân Việt Nam đều nằm dưới mức trung bình của thế giới nhưng trong số 100 công ty lớn nhất có tới năm công ty vàng, bạc, đá quý; đồng thời cũng có tới sáu công ty chuyên sản xuất chất dễ gây nghiện (rượu, bia, thuốc lá). Đáng lưu ý là tất cả 11 công ty này đều là công ty trong nước, chủ yếu phục vụ nhu cầu của thị trường nội địa.
Thứ ba, có tới sáu công ty lương thực, thực phẩm nằm trong “top 100”. Điều này một mặt phản ảnh tầm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế, mặt khác cho thấy điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu) là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam.
Thứ tư, nếu như ở nhiều bảng xếp hạng khác, một doanh nghiệp phải thực sự sản xuất ô tô mới có thể trở thành doanh nghiệp lớn nhất, thì ở Việt Nam chỉ cần lắp ráp ô tô thôi cũng đã có thể lên ngồi “chiếu trên”.
Đáng lưu ý là doanh thu cao của các doanh nghiệp lắp ráp ô tô không xuất phát từ năng lực cạnh tranh quốc tế của chúng, mà trái lại, từ sự bảo hộ hào phóng trong một thời gian rất dài của Chính phủ. Cũng chính vì sự bảo hộ hào phóng này mà ngành công nghiệp ô tô “non trẻ” của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa chịu trưởng thành.
Thứ năm, hai phần ba trong “top 100” là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chủ yếu nhờ tận khai tài nguyên: trong các ngành dầu khí và khai khoáng hoặc khai thác vị thế độc quyền: trong các ngành điện lực, viễn không, hàng không, đường sắt... trên thị trường nội địa. Nói cách khác, quy mô doanh thu của các DNNN này có tính phái sinh, chủ yếu xuất phát từ những đặc quyền, đặc lợi do Nhà nước ban cho chứ không phải từ năng lực cạnh tranh nội sinh của chúng.
Cuối cùng, đa số công ty vào được “top 100” không hề phải cạnh tranh quốc tế mà chỉ nhờ bảo hộ, nhờ khai thác ưu đãi trên thị trường nội địa, đặc biệt nhờ tiếp cận các yếu tố đầu vào giá rẻ và vị thế độc quyền - những dấu hiệu đặc trưng của một nền kinh tế mưu cầu đặc lợi (rent-seeking economy). Như vậy, lớn chưa hẳn là mạnh. Không những thế, lớn mà thiếu căn cơ còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khôn lường.
Từ kết quả phân tích của VCR 2010, để những doanh nghiệp lớn thực sự trở nên mạnh, Chính phủ cần tạo lập môi trường cạnh tranh công khai và bình đẳng, sao cho các nguồn lực được chuyển đến tay người sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, Chính phủ cũng cần giải quyết những vấn đề cố hữu của nền kinh tế, cụ thể là phải ổn định vĩ mô, cải thiện nguồn nhân lực, nâng cao cơ sở hạ tầng, và giảm chi phí tuân thủ luật định. Đây sẽ là những tiền đề quý báu để những con thuyền nhỏ tự tin hơn khi dong buồm ra biển lớn.
“Trong khi các công ty nước ngoài đánh giá môi trường ở Việt Nam là khá cởi mở thì các doanh nghiệp tư nhân trong nước lại đang phải chật vật khẳng định vai trò lớn hơn của mình trong nền kinh tế. Cạnh tranh chủ yếu vẫn tập trung về giá và đối đầu trực tiếp, chứ không phải dựa trên chất lượng và khác biệt hoá sản phẩm dịch vụ”. (Trích từ Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam) |
(Theo TBKTSG)
Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 (VCR 2010) công bố đầu tuần này cho thấy năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn rất khiêm tốn, chủ yếu dựa vào các điều kiện “thiên thiên” sẵn có và yếu tố đầu vào giá rẻ.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Kết luận này cũng được phản ảnh phần nào qua danh sách 500 công ty lớn nhất Việt Nam (VNR500) vì suy đến cùng, năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế phải được thể hiện qua sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Giống như nhiều bảng xếp hạng khác trên thế giới, các công ty trong ngành dầu khí, ngân hàng, điện, và viễn thông chiếm nhiều vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng VNR500. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ một chút thì sẽ thấy cấu trúc “top 500” của Việt Nam có nhiều điểm đặc biệt so với các danh sách cùng loại.
Đầu tiên, mặc dù Việt Nam không phải là một cường quốc về dầu khí nhưng 21/100 công ty lớn nhất lại liên quan đến xăng, dầu, và khí. Nếu tính cả các hoạt động “ngoài ngành” của các doanh nghiệp dầu khí nhà nước trong các lĩnh vực điện lực, thương mại, và dịch vụ thì con số này còn lớn hơn nữa.
Thứ hai, mặc dù mức độ sung túc và thể trạng của người dân Việt Nam đều nằm dưới mức trung bình của thế giới nhưng trong số 100 công ty lớn nhất có tới năm công ty vàng, bạc, đá quý; đồng thời cũng có tới sáu công ty chuyên sản xuất chất dễ gây nghiện (rượu, bia, thuốc lá). Đáng lưu ý là tất cả 11 công ty này đều là công ty trong nước, chủ yếu phục vụ nhu cầu của thị trường nội địa.
Thứ ba, có tới sáu công ty lương thực, thực phẩm nằm trong “top 100”. Điều này một mặt phản ảnh tầm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế, mặt khác cho thấy điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu) là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam.
Thứ tư, nếu như ở nhiều bảng xếp hạng khác, một doanh nghiệp phải thực sự sản xuất ô tô mới có thể trở thành doanh nghiệp lớn nhất, thì ở Việt Nam chỉ cần lắp ráp ô tô thôi cũng đã có thể lên ngồi “chiếu trên”.
Đáng lưu ý là doanh thu cao của các doanh nghiệp lắp ráp ô tô không xuất phát từ năng lực cạnh tranh quốc tế của chúng, mà trái lại, từ sự bảo hộ hào phóng trong một thời gian rất dài của Chính phủ. Cũng chính vì sự bảo hộ hào phóng này mà ngành công nghiệp ô tô “non trẻ” của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa chịu trưởng thành.
Thứ năm, hai phần ba trong “top 100” là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chủ yếu nhờ tận khai tài nguyên: trong các ngành dầu khí và khai khoáng hoặc khai thác vị thế độc quyền: trong các ngành điện lực, viễn không, hàng không, đường sắt... trên thị trường nội địa. Nói cách khác, quy mô doanh thu của các DNNN này có tính phái sinh, chủ yếu xuất phát từ những đặc quyền, đặc lợi do Nhà nước ban cho chứ không phải từ năng lực cạnh tranh nội sinh của chúng.
Cuối cùng, đa số công ty vào được “top 100” không hề phải cạnh tranh quốc tế mà chỉ nhờ bảo hộ, nhờ khai thác ưu đãi trên thị trường nội địa, đặc biệt nhờ tiếp cận các yếu tố đầu vào giá rẻ và vị thế độc quyền - những dấu hiệu đặc trưng của một nền kinh tế mưu cầu đặc lợi (rent-seeking economy). Như vậy, lớn chưa hẳn là mạnh. Không những thế, lớn mà thiếu căn cơ còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khôn lường.
Từ kết quả phân tích của VCR 2010, để những doanh nghiệp lớn thực sự trở nên mạnh, Chính phủ cần tạo lập môi trường cạnh tranh công khai và bình đẳng, sao cho các nguồn lực được chuyển đến tay người sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, Chính phủ cũng cần giải quyết những vấn đề cố hữu của nền kinh tế, cụ thể là phải ổn định vĩ mô, cải thiện nguồn nhân lực, nâng cao cơ sở hạ tầng, và giảm chi phí tuân thủ luật định. Đây sẽ là những tiền đề quý báu để những con thuyền nhỏ tự tin hơn khi dong buồm ra biển lớn.
“Trong khi các công ty nước ngoài đánh giá môi trường ở Việt Nam là khá cởi mở thì các doanh nghiệp tư nhân trong nước lại đang phải chật vật khẳng định vai trò lớn hơn của mình trong nền kinh tế. Cạnh tranh chủ yếu vẫn tập trung về giá và đối đầu trực tiếp, chứ không phải dựa trên chất lượng và khác biệt hoá sản phẩm dịch vụ”. (Trích từ Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam) |
(Theo TBKTSG)