Đôi lời: Nhân vật “gần đất xa … dân” này mới đây gây nhiều tranh cãi quanh bài phỏng vấn của tờ báo Trung Quốc. Mời bà con coi thêm bài: Giáo sư Nguyễn Huy Quý có phải là nhà Trung Quốc học?” của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc và bấm vô đây để biết thêm nhiều phản ứng của cư dân mạng. Còn bài gốc tiếng Anh ở đây: China-Vietnam: synergy greater than discord.
Ngoài ra, sau những trần tình của Nguyễn Huy Quý, một blogger đã cho BS biết ông có trong tay bản ghi âm cuộc phỏng vấn này, song chưa muốn đưa lên, vì e sẽ rất bất lợi cho sức khỏe Nguyễn Huy Quý.
Còn với riêng TTXVN, sau một tháng rưỡi mới đưa lại bài này (với lối ỡm ờ vốn có về thời gian của bài báo: “số ra gần đây“), họ có ý gì, một miếng thảm lót đường hoan hỉ đưa chân “tân TBT” vào Nhà đỏ, hay chỉ là thực hiện cái nghiệp vụ báo chí cà-là-mèng thâm căn cố đế thôi? Xin bà con đánh giá, đặc biệt lưu ý vài dòng phi lộ, ít khi có, của chính TTXVN nặn ra cốt để nhấn mạnh thêm (phòng khi “tân TBT” không có thì giờ để mắt đến nội dung bài? Hic!)
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Thứ Bảy, ngày 12/02/2011
TTXVN (Bắc Kinh 7/2)
Theo “Thời báo hoàn cầu” số ra gần đây: Trong các thập niên 70, 80 thế kỷ trước, giữa hai nước láng giềng Trung Quốc – Việt Nam đã có một thời kỳ không yên ả, mãi đến năm 1991 quan hệ hai nước mới được bình thường hoá. Năm 1993 Viện nghiên cứu Trung Quốc-Viện khoa học xã hội Việt Nam thành lập, chuyên gia nổi tiếng của Việt Nam về vấn đề Trung Quốc, Giáo sư Nguyễn Huy Quý bắt đầu giữ chức Viện trưởng, cho đến khi nghỉ hưu vào tháng 8/2002. Trong thập niên 1950 từng là lưu học sinh tại Khoa lịch sử, Trường Đại học Bắc Kinh, năm nay 74 tuổi, “nhà thông hiểu Trung Quốc” Nguyễn Huy Quý đã “nghỉ nhưng vẫn không hưu”, luôn quan tâm đến vấn đề phát triển trong quan hệ hai nước và tình hình mỗi nước. Trong cuộc trả lời phỏng vấn của “Thời báo hoàn cầu” mới đây, Giáo sư Nguyễn Huy Quý tỏ ý lạc quan về triển vọng quan hệ Việt-Trung, đồng thời đặc biệt lưu ý rằng thế lực bên ngoài bắt đầu can thiệp vào vấn đề Nam Hải (Biển Đông) giữa hai nước mà các thế lực đó không hề có liên quan, đó chính là gây mâu thuẫn trong quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, Trung Quốc “không nên mắc lừa” trong vấn đề này, đồng thời ông cũng nhận định Trung Quốc và Việt Nam cần có mối quan hệ đặc biệt giống như quan hệ Mỹ-Anh. Dưới đây là nội dung trả lời phỏng vấn của Giáo sư Nguyễn Huy Quý.
Thời báo hoàn cầu (TBHC): Là học giả Việt Nam lâu năm nghiên cứu Trung Quốc, Giáo sư nhìn nhận thế nào về quan hệ hai nước trước đây?
Giáo sư Nguyễn Huy Quý (GS NHQ): Tôi thường nói hai nước Trung Quốc-Việt Nam có quan hệ “ba đồng” là Đồng văn-Đồng chủng-Đồng chí: Việt Nam khác với phần lớn các nước ASEAN khác, văn hoá Việt Nam và văn hoá Trung Quốc là cùng (đồng) nguồn gốc; Trung Quốc có 56 dân tộc, Việt Nam có 54 dân tộc, khu vực biên giới Việt-Trung có một, hai chục dân tộc sống chung ở cả hai bên biên giới, nhà lãnh đạo Việt Nam Nông Đức Mạnh là người dân tộc Tày, qua nghiên cứu cho thấy, dân tộc thiểu số lớn nhất này ở Việt Nam và dân tộc Choang ở Trung Quốc sống qua biên giới của nhau; hai nước đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Những yếu tố này đều rất quan trọng. Giống như quan hệ của Mỹ với Anh cũng khác với quan hệ của Mỹ với các nước phương Tây khác, vì hai nước Mỹ-Anh không chỉ gắn liền với nhau về chính trị mà về phương diện dân tộc cũng tương đồng. Bởi thế, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vốn phải được coi là mối quan hệ đặc biệt, chỉ do nguyên nhân lịch sử nên mới xuất hiện một số vấn đề. Thời kỳ quan hệ Trung-Việt xấu đi tôi rất buồn. Lúc đó có rất nhiều học giả Việt Nam nghiên cứu Trung Quốc bị buộc phải chuyển ngành, có người nghiên cứu lịch sử Trung Quốc hoặc văn học Trung Quốc phải chuyển sang nghiên cứu lịch sử Liên Xô và văn học Pháp, một số người nghiên cứu triết học cổ đại Trung Quốc chuyển sang nghiên cứu triết học Mác-Lê, nhưng tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu Trung Quốc. Sau khi quan hệ hai nước bình thường hoá trong thập niên 1990, tôi hết sức phấn khởi. Tôi cho rằng quan hệ hai nước từ khi bình thường hoá đến nay cũng có lúc căng thẳng, nhưng những căng thẳng đó không phản ánh thực chất quan hệ hai nước. Trong những năm đó khi đến Trung Quốc đại lục và các khu vực Hồng Công, Ma Cao, Đài Loan, tôi đều tiến hành giao lưu học thuật. Cách đây không lâu khi đến tham gia hội nghị khoa học ở An Huy, tôi quả thực phát hiện thấy quan hệ hai nước trở nên bình lặng chứ không căng thẳng như trước kia. Tuy nhiên một số học giả Việt Nam cũng có cách nhìn nhận khác với một số báo chí Trung Quốc đưa tin về Việt Nam.
(TBHC): Một số học giả Trung Quốc cũng cho rằng trên báo chí Việt Nam có lúc cũng xuất hiện những tiếng nói không hữu nghị đối với Trung Quốc, Giáo sư nhìn nhận thế nào trước những tin tức mà báo chí đăng tải về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam như vậy?
(GS NHQ): Đối với Trung Quốc, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa hiện đang tồn tại ở Việt Nam cũng có rất nhiều điểm tốt, vì thế nhiệm vụ quan trọng của chúng ta là xử lý quan hệ hai nước như thế nào. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ hai nước, trong đó có báo chí, vì báo chí đề cập đến rất nhiều vấn đề nhạy cảm. Có một số nhà báo Việt Nam chịu ảnh hưởng của ý thức hệ chính trị phương Tây, thậm chí có nhà báo còn không biết Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, đó là một vấn đề nghiêm trọng. Trên trường quốc tế cũng có tiếng nói cố ý khiêu khích, chủ yếu là những Việt kiều bỏ trốn ở hải ngoại chống lại chính phủ hiện nay ở Việt Nam, họ lợi dụng tình cảm dân tộc để gây chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ Việt-Trung xấu đi là họ vui mừng. Báo chí hai nước cần tìm hiểu những tình hình như vậy. Quan hệ hai nước có lúc mâu thuẫn nhưng báo chí không nên tiếp tục dẫn đến sự hiểu lầm. Tôi thường nói với những người làm công tác báo chí Việt Nam rằng quan hệ hai nước Trung-Việt hết sức quan trọng, hai đảng hai nước cần đoàn kết chặt chẽ, không đưa những tin không xác thực, không được đi theo hướng cực đoan, mà phải đưa ra nhiều ý kiến mang tính xây dựng.
(TBHC): Là học giả Việt Nam, Giáo sư nhìn nhận bất đồng giữa hai nước trong vấn đề Biển Đông như thế nào?
(GS NHQ): Tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam trước đây chủ yếu ở ba phương diện: Biên giới trên bộ, phân giới Vịnh Bắc bộ và vấn đề Biển Đông. Hiện nay, phần còn lại chính là vấn đề Biển Đông. Ở mức độ rất lớn, quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bị ảnh hưởng bởi vấn đề Biển Đông. Theo góc độ nhìn nhận của tôi với tư cách là một học giả, cả hai bên tuyên bố và tỏ thái độ đều có phần “quá”, có phần “cứng”, tách khỏi thực tế, rất khó thực hiện. Hai bên không thể đem theo tình cảm dân tộc để bàn vấn đề hết sức phức tạp như vậy trong bối cảnh còn thiếu nghiên cứu. Đây là vấn đề không có nhiều khả năng giải quyết trong một thời gian ngắn, trong nội bộ Trung Quốc-Việt Nam cần tạo nên được bầu không khí thật tốt.
(TBHC): Năm nay, Mỹ tỏ cho thấy muốn can thiệp vấn đề Biển Đông, Giáo sư nhìn nhận thế nào về thực tế này?
(GS NHQ): Đối với một số thế lực bên ngoài như vậy, vấn đề Biển Đông không liên quan gì với họ, nhưng họ đang tạo ra mâu thuẫn giữa hai nước Việt-Trung.
(TBHC): Hiện nay có một cách nói, rằng Việt Nam đang đến gần với Mỹ để kiềm chế Trung Quốc, có đúng như vậy hay không?
(GS NHQ): Có người nói khi quan hệ Trung-Việt tốt, Việt Nam xa rời Mỹ, nhưng khi Việt Nam cảm thấy sức ép từ Trung Quốc đối với Việt Nam lớn, Việt Nam sẽ tiếp cận với Mỹ. Kỳ thực đây không phải là bản chất của vấn đề mà chỉ là đường lối ngoại giao của Việt Nam. Toàn bộ các nước Đông Nam Á đều muốn cân bằng quan hệ đối ngoại của mình, đây là một hiện thực. Có một vấn đề là nước Mỹ cũng gây sức ép đối với chế độ chính trị ở Việt Nam. Về phương diện ngoại giao, Việt Nam sẽ thực hiện cân bằng giữa Trung Quốc và các nước phương Tây, cũng như cân bằng trong các vấn đề quốc tế. Đồng thời, Việt Nam cũng cảnh giác với nước Mỹ. Quan chức cấp cao Việt Nam cũng nói đến “diễn biến hoà bình”, lo ngại cách làm của Mỹ đối với Việt Nam trong các vấn đề tôn giáo và nhân quyền. Ở nước Mỹ có hơn một triệu Việt kiều, phần lớn ra đi từ thời chính quyền nguỵ trước đây, trong đó có một số người còn muốn lật đổ chính quyền Việt Nam hiện nay, vì thế chúng ta phải đặc biệt cảnh giác với bộ phận người này. “Lợi dụng Việt Nam để bao vây Trung Quốc”, đó là cách nghĩ của nước Mỹ, vì thế nếu Trung Quốc có ý kiến về việc “Việt Nam cải thiện quan hệ với Mỹ” là đã mắc lừa Mỹ.
(TBHC): Ở trong nước Việt Nam có phân biệt theo các nhóm “thân Trung”, “thân Mỹ” hoặc “thân Nga” hay không?
(GS NHQ): Tôi cho rằng trong nước Việt Nam không có sự phân biệt giữa thân Trung hay thân Mỹ. Gặp phải những sự kiện liên quan đều phải phân tích những vấn đề cụ thể.
(TBHC): Trước đây phương Tây nói theo “Thuyết Trung Quốc đe doạ”, nay lại nói theo “Thuyết Trung Quốc cứng rắn”, Giáo sư nhìn nhận về những cách nói trên đây như thế nào?
(GS NHQ): Tôi tin chắc 100% rằng Trung Quốc hiện nay không, trong tương lai khi đã lớn mạnh cũng không xâm lược bất cứ một quốc gia nào mà Trung Quốc đã công nhận. Nhưng đối với quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc thì đó lại là vấn đề khác. Nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nếu lúc đó xảy ra xung đột với Trung Quốc thì đó không phải là xâm lược mà là hành động Trung Quốc áp dụng để thu hồi chủ quyền. Ví dụ như vấn đề về đảo Điếu Ngư, Trung Quốc không thể tấn công vào đất của Nhật Bản, nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt, nếu xảy ra xung đột vũ trang ở gần đảo Điếu Ngư thì khả năng đó cũng có thể xảy ra.
Nếu bạn hỏi người Việt Nam về vấn đề này thì phần lớn họ cũng đều giống như cách nhìn nhận đó của tôi. Dân chúng Việt Nam cũng có ý thức về nguy cơ như vậy. Là một học giả, tôi thường nói với dân chúng Việt Nam rằng Trung Quốc nói “trỗi dậy hoà bình”, vì thế khả năng xảy ra xung đột rất ít, Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa, chú trọng chính sách ngoại giao hoà bình, không thể sử dụng vũ lực đối với Việt Nam. Tôi đã viết bài đăng trên ấn phẩm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nói rằng xung đột giữa hai nước trong vấn đề Biển Đông chỉ là một sự kiện “bất trắc”, cần phải thấy rằng quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam-Trung Quốc mới là dòng chủ lưu.
Có người đề xuất lên rằng “Trung Quốc là Trung Quốc của thế giới, thế giới là thế giới của Trung Quốc”, cho rằng Trung Quốc đang dùng thực lực kinh tế để cải tạo Đông Nam Á, thậm chí cải tạo thế giới. Họ muốn đề xuất như vậy để Trung Quốc đứng ra lãnh đạo thế giới, còn nhà lãnh đạo Trung Quốc đề xuất “Trung Quốc không tách khỏi thế giới, thế giới không tách khỏi Trung Quốc”. Điều này rất hợp lý. Tôi cho rằng thực lực cứng Trung Quốc đã có, hiện nay Trung Quốc phải tiếp tục nâng cao thực lực mềm của mình, trong tương lai mới có thể phát triển thành một nước siêu cường. Trung Quốc phải kết hợp giữa văn hoá phương Đông với Chủ nghĩa xã hội, như vậy mới ổn thoả hơn. Trong thâm tâm của người Việt Nam, nhất là những người Việt Nam ở tầm cao đều hết sức mong muốn xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, như vậy không chỉ có khả năng thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, mà còn giữ được chế độ của mình. Vì thế tôi vẫn rất lạc quan về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.
(TBHC): Giáo sư nhìn nhận thế nào về hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc?
(GS NHQ): Đối với Trung Quốc, Việt Nam là cây cầu để Trung Quốc tiến vào thị trường lớn Đông Nam Á. Xét trên bình diện kinh tế, Việt Nam-Trung Quốc vừa hợp tác vừa cạnh tranh, cạnh tranh đó là bình thường, giống như giữa các tỉnh ở Trung Quốc cũng có cạnh tranh, giữa các tỉnh ở Việt Nam cũng có cạnh tranh.
(TBHC): Tháng 6/2010 Quốc hội Việt Nam phủ quyết dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam tổng trị giá 56 tỉ USD, có một số dư luận nói Việt Nam không muốn hợp tác với Trung Quốc xây dựng đường sắt cao tốc. Giáo sư nghĩ thế nào về việc này?
(GS NHQ): Tôi cho rằng không phải Việt Nam không yên tâm đối với Trung Quốc, mà kế hoạch xây dựng lớn này bị ảnh hưởng bởi kế hoạch kinh tế tổng thể của Việt Nam, sẽ là đảo lộn trạng thái phát triển cân bằng giữa thành thị và nông thôn ở Việt Nam. Phương Tây giúp Việt Nam xây dựng đường Hồ Chí Minh nhưng hiện nay xem ra tác dụng không nhiều. Xây dựng một công trình lớn về đường sắt cao tốc Bắc-Nam như vậy có thể là vấn đề mà mấy chục năm sau mới cần phải xem xét.
(TBHC): Giáo sư cho rằng trong quá trình phát triển tại Việt Nam, có những mặt nào Trung Quốc đáng phải quan tâm và noi gương học tập?
(GS NHQ): Trung Quốc nói “giai đoạn đầu của Chủ nghĩa xã hội”, Việt Nam nói “thời kỳ quá độ của Chủ nghĩa xã hội”, đó chỉ là hai cách biểu đạt về cùng một cách làm. Tôi cho rằng Việt Nam còn phải học tập Trung Quốc. Có một số dư luận ở phương Tây cho rằng cải cách chế độ dân chủ ở Việt Nam nhanh hơn Trung Quốc, dân chủ ở Việt Nam có phần nhiều hơn Trung Quốc, nhưng nói như vậy không đúng, không thể nói cách làm của nước nào hay hơn.
(TBHC): Trong bảng xếp hạng về “chỉ số hạnh phúc” của một quốc gia do một cơ quan ở nước Anh công bố hồi năm 2009, Việt Nam được xếp ở vị trí thứ 5, tại sao người Việt Nam lại có được chỉ số hạnh phúc cao như vậy?
(GS NHQ): Người Việt Nam tính cách lạc quan, dù điều kiện sống khó khăn vẫn mỉm cười đối diện với cuộc sống. Đơn cử một ví dụ như cách đây không lâu có một doanh nghiệp ở Hà Nội đóng cửa khiến 2.000 người mất việc làm, nhưng hai hôm sau những người này đã thu xếp ổn thoả, có người trở về quê, có người đến làm việc ở một cửa hàng khác. Có học giả Trung Quốc hỏi tôi tại sao Việt Nam có thể giải quyết vấn đề này nhanh chóng như vậy? Tôi cho rằng chủ yếu do Việt Nam không lớn như Trung Quốc. Trung Quốc hiện nay chủ yếu tồn tại hai vấn đề: Một là vấn đề phát sinh ở các đô thị lớn không dễ giải quyết; hai là các khu vực xa xôi phát triển còn tương đối chậm.
Bài báo cho biết năm 2010 trường Đại học giao thông Thượng Hải đã triển khai đợt điều tra dư luận tại 13 nước và khu vực châu Á về ảnh hưởng của Trung Quốc, hiện đã có được dữ liệu tại Mông Cổ, Philíppin, Xinhgapo, Việt Nam và Đài Loan, cho thấy dân chúng ở các nước và khu vực nói trên đều cho rằng ảnh hưởng của Trung Quốc ở châu Á là lớn nhất, nhưng đối với mô hình phát triển và ảnh hưởng của Trung Quốc có phải là tích cực hay không, về câu hỏi này kết quả lại tương đối bất đồng. Trong số 1.191 người Việt Nam được khảo sát, ngoài 30% số người tham gia chưa có câu trả lời, còn lại 28,2% lựa chọn mô hình “tự thân”, lựa chọn theo mô hình Trung Quốc có 14,9%, trong khi số người lựa chọn theo mô hình của Mỹ chỉ có 6,4%. Ngoài “mô hình tự thân”, mô hình được dân chúng Việt Nam coi là mô hình phát triển tốt nhất hay mô hình quốc gia tốt nhất chính là “mô hình Trung Quốc”. Kết quả nói trên cho thấy sự khác biệt rất rõ so với những người được hỏi ý kiến tại các nước và khu vực khác. Dù là Philippin hay Đài Loan, Xinhgapo hay Mông Cổ, ngoài lựa chọn mô hình phát triển của riêng mình, còn lại tất cả đều lựa chọn theo mô hình phát triển của Mỹ và Nhật Bản, tỉ lệ lựa chọn theo mô hình của Trung Quốc rất thấp. Kết quả thực tế của cuộc điều tra cho thấy hình ảnh tích cực của Trung Quốc trong cách nhìn nhận của dân chúng Việt Nam là có cơ sở về quan niệm giá trị rất rõ. Từ đó có thể suy luận tiếp là sự tương đồng về chế độ chính trị và quan niệm giá trị ở hai nước là ưu thế lớn nhất để hai dân tộc chung sống với nhau.
Đại hội toàn quốc lần thứ 11 Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy rõ xu hướng “đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới mở cửa”, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Công cuộc đổi mới mở cửa ở Việt Nam vốn “coi Trung Quốc là thầy”, dù là thực hiện xã hội hay ý thức hệ, con đường hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng đều rất giống Trung Quốc. Sau gần 25 năm đổi mới mở cửa, kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, đã bước lên chuyến tàu cuối cùng trong chuỗi chuyển dịch ngành nghề của toàn cầu. Đại hội Đảng lần thứ 11 xác định phát triển kinh tế là trung tâm, cố gắng thực hiện giá trị tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng bình quân hàng năm từ 7% đến 7,5%, phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nói không với thể chế đa đảng.
Đối với con đường phát triển của Việt Nam, Trung Quốc hiển nhiên nhất trí và cảm thấy mừng, điều này có thể nhận rõ qua việc báo chí Trung Quốc đưa rất nhiều tin và bình luận tích cực về Đại hội Đảng của Việt Nam. Trong quá trình xây dựng nhà nước độc lập và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kỳ của mình, Việt Nam đã được Trung Quốc ủng hộ. Giữa Trung Quốc và Việt Nam mặc dù cũng đã có không ít xung khắc, thậm chí là chiến tranh, quan hệ song phương nóng lạnh không ổn định nhưng những năm gần đây từng bước trở lại bình thường, trong dịp kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao năm 2010, hai bên xác định lấy đó làm năm hữu nghị. Hiện nay Mỹ đang ra sức “trở lại Đông Nam Á”, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước ASEAN, đồng thời tăng cường hợp tác với Việt Nam trên nhiều phương diện, thể hiện rõ ý đồ mới bao vây chiến lược Trung Quốc ở khu vực xung quanh Trung Quốc. Trong điều kiện như vậy Trung Quốc và Việt Nam cần phải tăng cường quan hệ hữu nghị. Xét từ góc độ chiến lược, quan hệ Trung-Việt là một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc. Chiến lược toàn cầu của Trung Quốc trước hết là chiến lược châu Á, chiến lược láng giềng xunh quanh. Môi trường an ninh ở xung quanh Trung Quốc có được ổn định hay không, vấn đề quan trọng ở chỗ Trung Quốc có được mục tiêu chiến lược châu Á và mục tiêu chiến lược toàn cầu rõ rệt hay không, những mục tiêu này có được dân chúng ở các nước châu Á và khu vực hiểu rõ và thừa nhận hay không.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, chế độ chính trị, quan niệm giá trị và ý thức hệ không còn là cơ sở của quan hệ quốc tế, Trung Quốc cũng chưa bao giờ coi ý thức hệ và chế độ chính trị là nguyên tắc giao lưu quốc tế, nhưng khi xác định chiến lược toàn cầu của một quốc gia, căn cứ xem xét về quan niệm giá trị lại là một nhân tố quan trọng không thể thiếu được.
Mỹ đã ra sức phổ biến ý thức hệ và quan niệm giá trị theo phiên bản của họ ra toàn thế giới, coi tự do dân chủ, nhân quyền và ý thức hệ kiểu Mỹ là cơ sở cho giá trị phổ quát và chiến lược toàn cầu, bảo vệ địa vị bá chủ thế giới và lợi ích quốc gia dưới danh nghĩa ý thức hệ. Nếu so sánh với Mỹ thì chiến lược lớn toàn cầu của Trung Quốc vẫn còn thiếu cơ sở quan niệm giá trị. Trong khi xử lý các vấn đề về địa chính trị và quan hệ láng giềng, Trung Quốc vẫn chưa tỏ rõ được mục tiêu chiến lược toàn diện và lâu dài.
Nói về quan hệ Việt-Trung, việc nhất trí về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội không chỉ là một nguyên nhân đặc biệt, mà còn là cơ sở chiến lược trong quan hệ giữa hai nước. Chiến lược toàn cầu của Trung Quốc cũng vậy, cần phải được tuyên bố ra toàn thế giới, Trung Quốc tán thành quan niệm giá trị xã hội chủ nghĩa và coi đó là cơ sở của chiến lược toàn cầu. Đây hoàn toàn không phải là lặp lại tình trạng đối đầu về ý thức hệ của thời đại Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc cũng không cần phải tự giương lên ngọn cờ gì để làm lãnh tụ thế giới, nhưng đối với việc định vị con đường phát triển của bản thân Trung Quốc, nếu nói về chiến lược lớn toàn cầu thì sự mơ hồ về quan niệm giá trị là không thể chấp nhận được.
Trước chuyến thăm Mỹ ngày 18/1 của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, các giới quan sát tại Mỹ đánh giá cả về sức mạnh quân sự giữa hai bên, lẫn vấn đề Biển Đông như một điểm nóng tạo ra căng thẳng trong quan hệ Mỹ-Trung.
BBC tiếng Việt đã phỏng vấn Tiến sĩ Richard Weitz từ Mỹ về bối cảnh cán cân quân sự của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và nhu cầu tìm kiếm đồng minh từ Mỹ. Trước hết, ông Weitz, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quân sự Hudson tại Oasinhton, nói về an ninh khu vực Đông Nam Á năm qua:
“Tôi cho rằng tình hình an ninh khu vực đã trở nên tồi tệ hơn trong năm qua, chủ yếu là do Trung Quốc thay đổi cách ứng xử của họ. Tình hình hơi bất ổn một chút, nào là diễn tập quân sự, Trung Quốc xích lại gần Bình Nhưỡng hơn. Còn ở Biển Đông thì hải quân Trung Quốc và các nhà ngoại giao Trung Quốc cũng trở nên hung hăng hơn trong việc xử lý một số vấn đề hàng hải.
Chuyện tương tự như xảy ra ở vùng biển Đông Á với Nhật Bản. Do đó, bên ngoài vùng biên hải Trung Quốc, nhiều vụ tranh chấp đã và đang trở nên gay gắt hơn, với cường độ cao hơn. Tôi cho rằng đó là do Trung Quốc đã thay đổi thái độ. Nhưng không hiểu vì lý do gì họ lại cho rằng mình đang đi bước lùi. Trong vài tháng qua, Trung Quốc dần đi chệch khỏi khuynh hướng chính sách truyền thống là kiềm chế, không giải quyết triệt để các vụ xung đột, đồng thời cũng không làm cho các vụ xung đột đó căng thẳng hơn. Nhưng dù sao đi nữa, họ cũng bắt đầu ra tuyên bố rằng Biển Đông nằm trong khu vực của họ và thuộc chủ quyền của họ. Họ cũng trở nên hung hăng hơn trong thái độ ứng xử với Nhật Bản trên một số hòn đảo. Họ cũng đã cho tàu hải quân tấn công thuyền đánh cá của Việt Nam. Nói tóm lại, chính sách ngoại giao của Bắc Kinh trên các vùng biển đang trở nên mạnh bạo hơn bình thường”.
- Lãnh đạo Việt Nam đang bàn thảo về cái gọi là Chiến lược 10 năm về Biển Đông. Trong bài viết của ông, ông cho rằng đây là chiến lược “xù lông nhím” để Trung Quốc không dám động vào. Ông có thể giải thích thêm ý này được không?
+ Đó là cách tôi giả định về việc Việt Nam hành xử với Trung Quốc trong quan hệ bất cân bằng và không theo thông lệ nào cả. Các lực lượng quân sự chính thống của Trung Quốc chắc chắn hùng mạnh hơn và được trang bị tốt hơn Việt Nam. Do đó Việt Nam rơi vào thế bất cân bằng trong tương quan với Trung Quốc.
Việt Nam dựa vào chiến tranh du kích và chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhằm tạo thế cho mình. Và tuy thế lực này bất tương xứng với Trung Quốc nhưng cũng đủ mạnh để ngăn ngừa ý chí xâm lược từ Trung Quốc. Bởi vì những lợi ích Trung Quốc đạt được sẽ bị đổi lại bằng nhiều mất mát từ sự chống trả của Việt Nam.
- Quân đội Nhân dân Việt Nam có nhiều năm kinh nghiệm chiến đấu và họ theo học thuyết Chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên, học thuyết này có thể không hiệu quả trên biển?
+ Biển là địa bàn chiến sự hoàn toàn khác, rồi còn cả vấn đề dùng phương tiện hải quân nào nữa. Đúng vậy, học thuyết này không hiệu quả trên biển. Họ có thể đã mất đảo Hoàng Sa rồi. Tình hình đang trở nên khó khăn. Đơn giản là Việt Nam không có đủ sức mạnh để tự mình chống trả sự chiếm đóng hay xâm lược lãnh thổ của Trung Quốc. Do đó Việt Nam cần tìm đối trọng quyền lực với Trung Quốc từ bên ngoài, mà tôi cho là Mỹ. Nhưng như ta biết, Việt Nam cũng không quá lộ liễu khi làm như vậy. Việt Nam sẽ cảm thấy rất bất ổn khi ký kết với Mỹ để kiềm chế Trung Quốc một cách lộ liễu. Thực tế là Việt Nam thích gắn bó quan hệ ngoại giao với Mỹ hơn. Nếu không, tôi chắc chắn là Việt Nam biết họ phải giải quyết việc này với cả Trung Quốc, Mỹ cùng các nước láng giềng một khi Việt Nam muốn khẳng định chủ quyền trên các khu vực họ muốn./.
Ngoài ra, sau những trần tình của Nguyễn Huy Quý, một blogger đã cho BS biết ông có trong tay bản ghi âm cuộc phỏng vấn này, song chưa muốn đưa lên, vì e sẽ rất bất lợi cho sức khỏe Nguyễn Huy Quý.
Còn với riêng TTXVN, sau một tháng rưỡi mới đưa lại bài này (với lối ỡm ờ vốn có về thời gian của bài báo: “số ra gần đây“), họ có ý gì, một miếng thảm lót đường hoan hỉ đưa chân “tân TBT” vào Nhà đỏ, hay chỉ là thực hiện cái nghiệp vụ báo chí cà-là-mèng thâm căn cố đế thôi? Xin bà con đánh giá, đặc biệt lưu ý vài dòng phi lộ, ít khi có, của chính TTXVN nặn ra cốt để nhấn mạnh thêm (phòng khi “tân TBT” không có thì giờ để mắt đến nội dung bài? Hic!)
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
VỀ QUAN HỆ VIỆT – TRUNG
Tài liệu tham khảo đặc biệt (bản in, không có trên mạng, được Ba Sàm thường xuyên cho đánh máy lại và đưa lên trang)Thứ Bảy, ngày 12/02/2011
TTXVN (Bắc Kinh 7/2)
Theo “Thời báo hoàn cầu” số ra gần đây: Trong các thập niên 70, 80 thế kỷ trước, giữa hai nước láng giềng Trung Quốc – Việt Nam đã có một thời kỳ không yên ả, mãi đến năm 1991 quan hệ hai nước mới được bình thường hoá. Năm 1993 Viện nghiên cứu Trung Quốc-Viện khoa học xã hội Việt Nam thành lập, chuyên gia nổi tiếng của Việt Nam về vấn đề Trung Quốc, Giáo sư Nguyễn Huy Quý bắt đầu giữ chức Viện trưởng, cho đến khi nghỉ hưu vào tháng 8/2002. Trong thập niên 1950 từng là lưu học sinh tại Khoa lịch sử, Trường Đại học Bắc Kinh, năm nay 74 tuổi, “nhà thông hiểu Trung Quốc” Nguyễn Huy Quý đã “nghỉ nhưng vẫn không hưu”, luôn quan tâm đến vấn đề phát triển trong quan hệ hai nước và tình hình mỗi nước. Trong cuộc trả lời phỏng vấn của “Thời báo hoàn cầu” mới đây, Giáo sư Nguyễn Huy Quý tỏ ý lạc quan về triển vọng quan hệ Việt-Trung, đồng thời đặc biệt lưu ý rằng thế lực bên ngoài bắt đầu can thiệp vào vấn đề Nam Hải (Biển Đông) giữa hai nước mà các thế lực đó không hề có liên quan, đó chính là gây mâu thuẫn trong quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, Trung Quốc “không nên mắc lừa” trong vấn đề này, đồng thời ông cũng nhận định Trung Quốc và Việt Nam cần có mối quan hệ đặc biệt giống như quan hệ Mỹ-Anh. Dưới đây là nội dung trả lời phỏng vấn của Giáo sư Nguyễn Huy Quý.
Thời báo hoàn cầu (TBHC): Là học giả Việt Nam lâu năm nghiên cứu Trung Quốc, Giáo sư nhìn nhận thế nào về quan hệ hai nước trước đây?
Giáo sư Nguyễn Huy Quý (GS NHQ): Tôi thường nói hai nước Trung Quốc-Việt Nam có quan hệ “ba đồng” là Đồng văn-Đồng chủng-Đồng chí: Việt Nam khác với phần lớn các nước ASEAN khác, văn hoá Việt Nam và văn hoá Trung Quốc là cùng (đồng) nguồn gốc; Trung Quốc có 56 dân tộc, Việt Nam có 54 dân tộc, khu vực biên giới Việt-Trung có một, hai chục dân tộc sống chung ở cả hai bên biên giới, nhà lãnh đạo Việt Nam Nông Đức Mạnh là người dân tộc Tày, qua nghiên cứu cho thấy, dân tộc thiểu số lớn nhất này ở Việt Nam và dân tộc Choang ở Trung Quốc sống qua biên giới của nhau; hai nước đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Những yếu tố này đều rất quan trọng. Giống như quan hệ của Mỹ với Anh cũng khác với quan hệ của Mỹ với các nước phương Tây khác, vì hai nước Mỹ-Anh không chỉ gắn liền với nhau về chính trị mà về phương diện dân tộc cũng tương đồng. Bởi thế, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vốn phải được coi là mối quan hệ đặc biệt, chỉ do nguyên nhân lịch sử nên mới xuất hiện một số vấn đề. Thời kỳ quan hệ Trung-Việt xấu đi tôi rất buồn. Lúc đó có rất nhiều học giả Việt Nam nghiên cứu Trung Quốc bị buộc phải chuyển ngành, có người nghiên cứu lịch sử Trung Quốc hoặc văn học Trung Quốc phải chuyển sang nghiên cứu lịch sử Liên Xô và văn học Pháp, một số người nghiên cứu triết học cổ đại Trung Quốc chuyển sang nghiên cứu triết học Mác-Lê, nhưng tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu Trung Quốc. Sau khi quan hệ hai nước bình thường hoá trong thập niên 1990, tôi hết sức phấn khởi. Tôi cho rằng quan hệ hai nước từ khi bình thường hoá đến nay cũng có lúc căng thẳng, nhưng những căng thẳng đó không phản ánh thực chất quan hệ hai nước. Trong những năm đó khi đến Trung Quốc đại lục và các khu vực Hồng Công, Ma Cao, Đài Loan, tôi đều tiến hành giao lưu học thuật. Cách đây không lâu khi đến tham gia hội nghị khoa học ở An Huy, tôi quả thực phát hiện thấy quan hệ hai nước trở nên bình lặng chứ không căng thẳng như trước kia. Tuy nhiên một số học giả Việt Nam cũng có cách nhìn nhận khác với một số báo chí Trung Quốc đưa tin về Việt Nam.
(TBHC): Một số học giả Trung Quốc cũng cho rằng trên báo chí Việt Nam có lúc cũng xuất hiện những tiếng nói không hữu nghị đối với Trung Quốc, Giáo sư nhìn nhận thế nào trước những tin tức mà báo chí đăng tải về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam như vậy?
(GS NHQ): Đối với Trung Quốc, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa hiện đang tồn tại ở Việt Nam cũng có rất nhiều điểm tốt, vì thế nhiệm vụ quan trọng của chúng ta là xử lý quan hệ hai nước như thế nào. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ hai nước, trong đó có báo chí, vì báo chí đề cập đến rất nhiều vấn đề nhạy cảm. Có một số nhà báo Việt Nam chịu ảnh hưởng của ý thức hệ chính trị phương Tây, thậm chí có nhà báo còn không biết Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, đó là một vấn đề nghiêm trọng. Trên trường quốc tế cũng có tiếng nói cố ý khiêu khích, chủ yếu là những Việt kiều bỏ trốn ở hải ngoại chống lại chính phủ hiện nay ở Việt Nam, họ lợi dụng tình cảm dân tộc để gây chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ Việt-Trung xấu đi là họ vui mừng. Báo chí hai nước cần tìm hiểu những tình hình như vậy. Quan hệ hai nước có lúc mâu thuẫn nhưng báo chí không nên tiếp tục dẫn đến sự hiểu lầm. Tôi thường nói với những người làm công tác báo chí Việt Nam rằng quan hệ hai nước Trung-Việt hết sức quan trọng, hai đảng hai nước cần đoàn kết chặt chẽ, không đưa những tin không xác thực, không được đi theo hướng cực đoan, mà phải đưa ra nhiều ý kiến mang tính xây dựng.
(TBHC): Là học giả Việt Nam, Giáo sư nhìn nhận bất đồng giữa hai nước trong vấn đề Biển Đông như thế nào?
(GS NHQ): Tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam trước đây chủ yếu ở ba phương diện: Biên giới trên bộ, phân giới Vịnh Bắc bộ và vấn đề Biển Đông. Hiện nay, phần còn lại chính là vấn đề Biển Đông. Ở mức độ rất lớn, quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bị ảnh hưởng bởi vấn đề Biển Đông. Theo góc độ nhìn nhận của tôi với tư cách là một học giả, cả hai bên tuyên bố và tỏ thái độ đều có phần “quá”, có phần “cứng”, tách khỏi thực tế, rất khó thực hiện. Hai bên không thể đem theo tình cảm dân tộc để bàn vấn đề hết sức phức tạp như vậy trong bối cảnh còn thiếu nghiên cứu. Đây là vấn đề không có nhiều khả năng giải quyết trong một thời gian ngắn, trong nội bộ Trung Quốc-Việt Nam cần tạo nên được bầu không khí thật tốt.
(TBHC): Năm nay, Mỹ tỏ cho thấy muốn can thiệp vấn đề Biển Đông, Giáo sư nhìn nhận thế nào về thực tế này?
(GS NHQ): Đối với một số thế lực bên ngoài như vậy, vấn đề Biển Đông không liên quan gì với họ, nhưng họ đang tạo ra mâu thuẫn giữa hai nước Việt-Trung.
(TBHC): Hiện nay có một cách nói, rằng Việt Nam đang đến gần với Mỹ để kiềm chế Trung Quốc, có đúng như vậy hay không?
(GS NHQ): Có người nói khi quan hệ Trung-Việt tốt, Việt Nam xa rời Mỹ, nhưng khi Việt Nam cảm thấy sức ép từ Trung Quốc đối với Việt Nam lớn, Việt Nam sẽ tiếp cận với Mỹ. Kỳ thực đây không phải là bản chất của vấn đề mà chỉ là đường lối ngoại giao của Việt Nam. Toàn bộ các nước Đông Nam Á đều muốn cân bằng quan hệ đối ngoại của mình, đây là một hiện thực. Có một vấn đề là nước Mỹ cũng gây sức ép đối với chế độ chính trị ở Việt Nam. Về phương diện ngoại giao, Việt Nam sẽ thực hiện cân bằng giữa Trung Quốc và các nước phương Tây, cũng như cân bằng trong các vấn đề quốc tế. Đồng thời, Việt Nam cũng cảnh giác với nước Mỹ. Quan chức cấp cao Việt Nam cũng nói đến “diễn biến hoà bình”, lo ngại cách làm của Mỹ đối với Việt Nam trong các vấn đề tôn giáo và nhân quyền. Ở nước Mỹ có hơn một triệu Việt kiều, phần lớn ra đi từ thời chính quyền nguỵ trước đây, trong đó có một số người còn muốn lật đổ chính quyền Việt Nam hiện nay, vì thế chúng ta phải đặc biệt cảnh giác với bộ phận người này. “Lợi dụng Việt Nam để bao vây Trung Quốc”, đó là cách nghĩ của nước Mỹ, vì thế nếu Trung Quốc có ý kiến về việc “Việt Nam cải thiện quan hệ với Mỹ” là đã mắc lừa Mỹ.
(TBHC): Ở trong nước Việt Nam có phân biệt theo các nhóm “thân Trung”, “thân Mỹ” hoặc “thân Nga” hay không?
(GS NHQ): Tôi cho rằng trong nước Việt Nam không có sự phân biệt giữa thân Trung hay thân Mỹ. Gặp phải những sự kiện liên quan đều phải phân tích những vấn đề cụ thể.
(TBHC): Trước đây phương Tây nói theo “Thuyết Trung Quốc đe doạ”, nay lại nói theo “Thuyết Trung Quốc cứng rắn”, Giáo sư nhìn nhận về những cách nói trên đây như thế nào?
(GS NHQ): Tôi tin chắc 100% rằng Trung Quốc hiện nay không, trong tương lai khi đã lớn mạnh cũng không xâm lược bất cứ một quốc gia nào mà Trung Quốc đã công nhận. Nhưng đối với quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc thì đó lại là vấn đề khác. Nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nếu lúc đó xảy ra xung đột với Trung Quốc thì đó không phải là xâm lược mà là hành động Trung Quốc áp dụng để thu hồi chủ quyền. Ví dụ như vấn đề về đảo Điếu Ngư, Trung Quốc không thể tấn công vào đất của Nhật Bản, nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt, nếu xảy ra xung đột vũ trang ở gần đảo Điếu Ngư thì khả năng đó cũng có thể xảy ra.
Nếu bạn hỏi người Việt Nam về vấn đề này thì phần lớn họ cũng đều giống như cách nhìn nhận đó của tôi. Dân chúng Việt Nam cũng có ý thức về nguy cơ như vậy. Là một học giả, tôi thường nói với dân chúng Việt Nam rằng Trung Quốc nói “trỗi dậy hoà bình”, vì thế khả năng xảy ra xung đột rất ít, Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa, chú trọng chính sách ngoại giao hoà bình, không thể sử dụng vũ lực đối với Việt Nam. Tôi đã viết bài đăng trên ấn phẩm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nói rằng xung đột giữa hai nước trong vấn đề Biển Đông chỉ là một sự kiện “bất trắc”, cần phải thấy rằng quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam-Trung Quốc mới là dòng chủ lưu.
Có người đề xuất lên rằng “Trung Quốc là Trung Quốc của thế giới, thế giới là thế giới của Trung Quốc”, cho rằng Trung Quốc đang dùng thực lực kinh tế để cải tạo Đông Nam Á, thậm chí cải tạo thế giới. Họ muốn đề xuất như vậy để Trung Quốc đứng ra lãnh đạo thế giới, còn nhà lãnh đạo Trung Quốc đề xuất “Trung Quốc không tách khỏi thế giới, thế giới không tách khỏi Trung Quốc”. Điều này rất hợp lý. Tôi cho rằng thực lực cứng Trung Quốc đã có, hiện nay Trung Quốc phải tiếp tục nâng cao thực lực mềm của mình, trong tương lai mới có thể phát triển thành một nước siêu cường. Trung Quốc phải kết hợp giữa văn hoá phương Đông với Chủ nghĩa xã hội, như vậy mới ổn thoả hơn. Trong thâm tâm của người Việt Nam, nhất là những người Việt Nam ở tầm cao đều hết sức mong muốn xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, như vậy không chỉ có khả năng thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, mà còn giữ được chế độ của mình. Vì thế tôi vẫn rất lạc quan về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.
(TBHC): Giáo sư nhìn nhận thế nào về hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc?
(GS NHQ): Đối với Trung Quốc, Việt Nam là cây cầu để Trung Quốc tiến vào thị trường lớn Đông Nam Á. Xét trên bình diện kinh tế, Việt Nam-Trung Quốc vừa hợp tác vừa cạnh tranh, cạnh tranh đó là bình thường, giống như giữa các tỉnh ở Trung Quốc cũng có cạnh tranh, giữa các tỉnh ở Việt Nam cũng có cạnh tranh.
(TBHC): Tháng 6/2010 Quốc hội Việt Nam phủ quyết dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam tổng trị giá 56 tỉ USD, có một số dư luận nói Việt Nam không muốn hợp tác với Trung Quốc xây dựng đường sắt cao tốc. Giáo sư nghĩ thế nào về việc này?
(GS NHQ): Tôi cho rằng không phải Việt Nam không yên tâm đối với Trung Quốc, mà kế hoạch xây dựng lớn này bị ảnh hưởng bởi kế hoạch kinh tế tổng thể của Việt Nam, sẽ là đảo lộn trạng thái phát triển cân bằng giữa thành thị và nông thôn ở Việt Nam. Phương Tây giúp Việt Nam xây dựng đường Hồ Chí Minh nhưng hiện nay xem ra tác dụng không nhiều. Xây dựng một công trình lớn về đường sắt cao tốc Bắc-Nam như vậy có thể là vấn đề mà mấy chục năm sau mới cần phải xem xét.
(TBHC): Giáo sư cho rằng trong quá trình phát triển tại Việt Nam, có những mặt nào Trung Quốc đáng phải quan tâm và noi gương học tập?
(GS NHQ): Trung Quốc nói “giai đoạn đầu của Chủ nghĩa xã hội”, Việt Nam nói “thời kỳ quá độ của Chủ nghĩa xã hội”, đó chỉ là hai cách biểu đạt về cùng một cách làm. Tôi cho rằng Việt Nam còn phải học tập Trung Quốc. Có một số dư luận ở phương Tây cho rằng cải cách chế độ dân chủ ở Việt Nam nhanh hơn Trung Quốc, dân chủ ở Việt Nam có phần nhiều hơn Trung Quốc, nhưng nói như vậy không đúng, không thể nói cách làm của nước nào hay hơn.
(TBHC): Trong bảng xếp hạng về “chỉ số hạnh phúc” của một quốc gia do một cơ quan ở nước Anh công bố hồi năm 2009, Việt Nam được xếp ở vị trí thứ 5, tại sao người Việt Nam lại có được chỉ số hạnh phúc cao như vậy?
(GS NHQ): Người Việt Nam tính cách lạc quan, dù điều kiện sống khó khăn vẫn mỉm cười đối diện với cuộc sống. Đơn cử một ví dụ như cách đây không lâu có một doanh nghiệp ở Hà Nội đóng cửa khiến 2.000 người mất việc làm, nhưng hai hôm sau những người này đã thu xếp ổn thoả, có người trở về quê, có người đến làm việc ở một cửa hàng khác. Có học giả Trung Quốc hỏi tôi tại sao Việt Nam có thể giải quyết vấn đề này nhanh chóng như vậy? Tôi cho rằng chủ yếu do Việt Nam không lớn như Trung Quốc. Trung Quốc hiện nay chủ yếu tồn tại hai vấn đề: Một là vấn đề phát sinh ở các đô thị lớn không dễ giải quyết; hai là các khu vực xa xôi phát triển còn tương đối chậm.
***
Dựa trên những biểu hiện đặc thù trong quan hệ Trung-Việt, bài của tác giả Lưu Khang, Viện trưởng Viên nghiên cứu nghệ thuật nhân văn, Đại học giao thông Thượng Hải – Giáo sư Đại học Duke (Duke University) của Mỹ, đăng trên “Thời báo hoàn cầu” ngày 18/01/2011 cho rằng giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về chế độ xã hội và quan niệm giá trị, điều đó cần được xem là cơ sở chiến lược trong quan hệ giữa hai nước.Bài báo cho biết năm 2010 trường Đại học giao thông Thượng Hải đã triển khai đợt điều tra dư luận tại 13 nước và khu vực châu Á về ảnh hưởng của Trung Quốc, hiện đã có được dữ liệu tại Mông Cổ, Philíppin, Xinhgapo, Việt Nam và Đài Loan, cho thấy dân chúng ở các nước và khu vực nói trên đều cho rằng ảnh hưởng của Trung Quốc ở châu Á là lớn nhất, nhưng đối với mô hình phát triển và ảnh hưởng của Trung Quốc có phải là tích cực hay không, về câu hỏi này kết quả lại tương đối bất đồng. Trong số 1.191 người Việt Nam được khảo sát, ngoài 30% số người tham gia chưa có câu trả lời, còn lại 28,2% lựa chọn mô hình “tự thân”, lựa chọn theo mô hình Trung Quốc có 14,9%, trong khi số người lựa chọn theo mô hình của Mỹ chỉ có 6,4%. Ngoài “mô hình tự thân”, mô hình được dân chúng Việt Nam coi là mô hình phát triển tốt nhất hay mô hình quốc gia tốt nhất chính là “mô hình Trung Quốc”. Kết quả nói trên cho thấy sự khác biệt rất rõ so với những người được hỏi ý kiến tại các nước và khu vực khác. Dù là Philippin hay Đài Loan, Xinhgapo hay Mông Cổ, ngoài lựa chọn mô hình phát triển của riêng mình, còn lại tất cả đều lựa chọn theo mô hình phát triển của Mỹ và Nhật Bản, tỉ lệ lựa chọn theo mô hình của Trung Quốc rất thấp. Kết quả thực tế của cuộc điều tra cho thấy hình ảnh tích cực của Trung Quốc trong cách nhìn nhận của dân chúng Việt Nam là có cơ sở về quan niệm giá trị rất rõ. Từ đó có thể suy luận tiếp là sự tương đồng về chế độ chính trị và quan niệm giá trị ở hai nước là ưu thế lớn nhất để hai dân tộc chung sống với nhau.
Đại hội toàn quốc lần thứ 11 Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy rõ xu hướng “đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới mở cửa”, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Công cuộc đổi mới mở cửa ở Việt Nam vốn “coi Trung Quốc là thầy”, dù là thực hiện xã hội hay ý thức hệ, con đường hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng đều rất giống Trung Quốc. Sau gần 25 năm đổi mới mở cửa, kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, đã bước lên chuyến tàu cuối cùng trong chuỗi chuyển dịch ngành nghề của toàn cầu. Đại hội Đảng lần thứ 11 xác định phát triển kinh tế là trung tâm, cố gắng thực hiện giá trị tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng bình quân hàng năm từ 7% đến 7,5%, phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nói không với thể chế đa đảng.
Đối với con đường phát triển của Việt Nam, Trung Quốc hiển nhiên nhất trí và cảm thấy mừng, điều này có thể nhận rõ qua việc báo chí Trung Quốc đưa rất nhiều tin và bình luận tích cực về Đại hội Đảng của Việt Nam. Trong quá trình xây dựng nhà nước độc lập và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kỳ của mình, Việt Nam đã được Trung Quốc ủng hộ. Giữa Trung Quốc và Việt Nam mặc dù cũng đã có không ít xung khắc, thậm chí là chiến tranh, quan hệ song phương nóng lạnh không ổn định nhưng những năm gần đây từng bước trở lại bình thường, trong dịp kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao năm 2010, hai bên xác định lấy đó làm năm hữu nghị. Hiện nay Mỹ đang ra sức “trở lại Đông Nam Á”, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước ASEAN, đồng thời tăng cường hợp tác với Việt Nam trên nhiều phương diện, thể hiện rõ ý đồ mới bao vây chiến lược Trung Quốc ở khu vực xung quanh Trung Quốc. Trong điều kiện như vậy Trung Quốc và Việt Nam cần phải tăng cường quan hệ hữu nghị. Xét từ góc độ chiến lược, quan hệ Trung-Việt là một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc. Chiến lược toàn cầu của Trung Quốc trước hết là chiến lược châu Á, chiến lược láng giềng xunh quanh. Môi trường an ninh ở xung quanh Trung Quốc có được ổn định hay không, vấn đề quan trọng ở chỗ Trung Quốc có được mục tiêu chiến lược châu Á và mục tiêu chiến lược toàn cầu rõ rệt hay không, những mục tiêu này có được dân chúng ở các nước châu Á và khu vực hiểu rõ và thừa nhận hay không.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, chế độ chính trị, quan niệm giá trị và ý thức hệ không còn là cơ sở của quan hệ quốc tế, Trung Quốc cũng chưa bao giờ coi ý thức hệ và chế độ chính trị là nguyên tắc giao lưu quốc tế, nhưng khi xác định chiến lược toàn cầu của một quốc gia, căn cứ xem xét về quan niệm giá trị lại là một nhân tố quan trọng không thể thiếu được.
Mỹ đã ra sức phổ biến ý thức hệ và quan niệm giá trị theo phiên bản của họ ra toàn thế giới, coi tự do dân chủ, nhân quyền và ý thức hệ kiểu Mỹ là cơ sở cho giá trị phổ quát và chiến lược toàn cầu, bảo vệ địa vị bá chủ thế giới và lợi ích quốc gia dưới danh nghĩa ý thức hệ. Nếu so sánh với Mỹ thì chiến lược lớn toàn cầu của Trung Quốc vẫn còn thiếu cơ sở quan niệm giá trị. Trong khi xử lý các vấn đề về địa chính trị và quan hệ láng giềng, Trung Quốc vẫn chưa tỏ rõ được mục tiêu chiến lược toàn diện và lâu dài.
Nói về quan hệ Việt-Trung, việc nhất trí về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội không chỉ là một nguyên nhân đặc biệt, mà còn là cơ sở chiến lược trong quan hệ giữa hai nước. Chiến lược toàn cầu của Trung Quốc cũng vậy, cần phải được tuyên bố ra toàn thế giới, Trung Quốc tán thành quan niệm giá trị xã hội chủ nghĩa và coi đó là cơ sở của chiến lược toàn cầu. Đây hoàn toàn không phải là lặp lại tình trạng đối đầu về ý thức hệ của thời đại Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc cũng không cần phải tự giương lên ngọn cờ gì để làm lãnh tụ thế giới, nhưng đối với việc định vị con đường phát triển của bản thân Trung Quốc, nếu nói về chiến lược lớn toàn cầu thì sự mơ hồ về quan niệm giá trị là không thể chấp nhận được.
***
(Đài BBC 20/01)Trước chuyến thăm Mỹ ngày 18/1 của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, các giới quan sát tại Mỹ đánh giá cả về sức mạnh quân sự giữa hai bên, lẫn vấn đề Biển Đông như một điểm nóng tạo ra căng thẳng trong quan hệ Mỹ-Trung.
BBC tiếng Việt đã phỏng vấn Tiến sĩ Richard Weitz từ Mỹ về bối cảnh cán cân quân sự của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và nhu cầu tìm kiếm đồng minh từ Mỹ. Trước hết, ông Weitz, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quân sự Hudson tại Oasinhton, nói về an ninh khu vực Đông Nam Á năm qua:
“Tôi cho rằng tình hình an ninh khu vực đã trở nên tồi tệ hơn trong năm qua, chủ yếu là do Trung Quốc thay đổi cách ứng xử của họ. Tình hình hơi bất ổn một chút, nào là diễn tập quân sự, Trung Quốc xích lại gần Bình Nhưỡng hơn. Còn ở Biển Đông thì hải quân Trung Quốc và các nhà ngoại giao Trung Quốc cũng trở nên hung hăng hơn trong việc xử lý một số vấn đề hàng hải.
Chuyện tương tự như xảy ra ở vùng biển Đông Á với Nhật Bản. Do đó, bên ngoài vùng biên hải Trung Quốc, nhiều vụ tranh chấp đã và đang trở nên gay gắt hơn, với cường độ cao hơn. Tôi cho rằng đó là do Trung Quốc đã thay đổi thái độ. Nhưng không hiểu vì lý do gì họ lại cho rằng mình đang đi bước lùi. Trong vài tháng qua, Trung Quốc dần đi chệch khỏi khuynh hướng chính sách truyền thống là kiềm chế, không giải quyết triệt để các vụ xung đột, đồng thời cũng không làm cho các vụ xung đột đó căng thẳng hơn. Nhưng dù sao đi nữa, họ cũng bắt đầu ra tuyên bố rằng Biển Đông nằm trong khu vực của họ và thuộc chủ quyền của họ. Họ cũng trở nên hung hăng hơn trong thái độ ứng xử với Nhật Bản trên một số hòn đảo. Họ cũng đã cho tàu hải quân tấn công thuyền đánh cá của Việt Nam. Nói tóm lại, chính sách ngoại giao của Bắc Kinh trên các vùng biển đang trở nên mạnh bạo hơn bình thường”.
- Lãnh đạo Việt Nam đang bàn thảo về cái gọi là Chiến lược 10 năm về Biển Đông. Trong bài viết của ông, ông cho rằng đây là chiến lược “xù lông nhím” để Trung Quốc không dám động vào. Ông có thể giải thích thêm ý này được không?
+ Đó là cách tôi giả định về việc Việt Nam hành xử với Trung Quốc trong quan hệ bất cân bằng và không theo thông lệ nào cả. Các lực lượng quân sự chính thống của Trung Quốc chắc chắn hùng mạnh hơn và được trang bị tốt hơn Việt Nam. Do đó Việt Nam rơi vào thế bất cân bằng trong tương quan với Trung Quốc.
Việt Nam dựa vào chiến tranh du kích và chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhằm tạo thế cho mình. Và tuy thế lực này bất tương xứng với Trung Quốc nhưng cũng đủ mạnh để ngăn ngừa ý chí xâm lược từ Trung Quốc. Bởi vì những lợi ích Trung Quốc đạt được sẽ bị đổi lại bằng nhiều mất mát từ sự chống trả của Việt Nam.
- Quân đội Nhân dân Việt Nam có nhiều năm kinh nghiệm chiến đấu và họ theo học thuyết Chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên, học thuyết này có thể không hiệu quả trên biển?
+ Biển là địa bàn chiến sự hoàn toàn khác, rồi còn cả vấn đề dùng phương tiện hải quân nào nữa. Đúng vậy, học thuyết này không hiệu quả trên biển. Họ có thể đã mất đảo Hoàng Sa rồi. Tình hình đang trở nên khó khăn. Đơn giản là Việt Nam không có đủ sức mạnh để tự mình chống trả sự chiếm đóng hay xâm lược lãnh thổ của Trung Quốc. Do đó Việt Nam cần tìm đối trọng quyền lực với Trung Quốc từ bên ngoài, mà tôi cho là Mỹ. Nhưng như ta biết, Việt Nam cũng không quá lộ liễu khi làm như vậy. Việt Nam sẽ cảm thấy rất bất ổn khi ký kết với Mỹ để kiềm chế Trung Quốc một cách lộ liễu. Thực tế là Việt Nam thích gắn bó quan hệ ngoại giao với Mỹ hơn. Nếu không, tôi chắc chắn là Việt Nam biết họ phải giải quyết việc này với cả Trung Quốc, Mỹ cùng các nước láng giềng một khi Việt Nam muốn khẳng định chủ quyền trên các khu vực họ muốn./.
TIN MỚI NHẤT: ÔNG NGUYỄN HUY QUÝ LÊN TIẾNG
Blog Phamvietdaonv: Tuần vừa qua dư luận cư dân mạng xôn xao về bài trả lời phỏng vấn mạng Hoàn Cầu Thời báo TQ của Giáo sư Nguyễn Huy Quý; Khi đọc bài trả lời phỏng vấn qua bản dịch được đăng trên Blog Nguyễn Xuân Diện, tôi dự kiến sẽ có một số ý kiến tranh luận lại với Giáo sư Nguyễn Huy Quý...Trước khi viết, tôi đang thu thập thông tin tìm hiểu về nhân thân, chủ yếu về phương diện học thuật của Giáo sư Nguyễn Huy Quý...Nếu đây là ý kiến của một học giả cùng trang lứa hoặc hơn kém dăm ba tuổi thì tôi có thể tranh luận vô tư; Tôi cân nhắc vì được biết Giáo sư đã ngoài 70 tuổi, một cái tuổi chưa thể bị coi là lẫn được ! Hơn nữa Giáo sư lại là người đã nghỉ hưu. Điều tôi dự định viết để tranh luận lại là nguyên nhân, động cơ nào để Giáo sư có thể phát biểu những câu rất "phạm húy " về mặt học thuật ngay ở cái chuyên ngành hẹp mà Giáo sư Nguyễn Huy Quý từng một thời là người đứng đầu một Viện nghiên cứu.
Hôm nay, đọc lại ý kiến có thể hiểu là cải chính của Giáo sư Nguyễn Huy Quý, Giáo sư đã phủ nhận, không chịu trách nhiệm về một số ý kiến rất quan trọng mà dư luận vẫn cho là ý kiến của ông trên Hoàn Cầu. Tôi thật sự thở phào, nếu Giáo sư Nguyễn Huy Quý khẳng định điều mình cải chính là có cơ sở và ông bị oan...
Để làm rõ trắng đen điều này, bởi nó thật sự liên quan tới danh dự và uy tín của ông nói riêng và giới học giả Việt Nam nói chung, tôi đề nghị Giáo sư Nguyển Huy Quý:
1/ Nhờ một tờ báo chính thống của Việt Nam đăng toàn bộ ý kiến này của ông; Giáo sư nên chính thức lên tiếng phản đối, yêu cầu Hoàn Cầu Thời báo phải cải chính và xin lỗi ông về cách làm báo theo kiểu " gắp lửa bỏ tay người " của các nhà báo Trung Quốc...
2/ Giáo sư Nguyễn Huy Quý nên làm đơn chính thức gửi Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, nhờ can thiệp để Hoàn Cầu Thời báo hành xử đúng theo nguyên tắc thu thập và công bố thông tin của một tờ báo chính thống: xin lỗi ông và cải chính các ý kiến đã đăng.
Cuối cùng, với các ý kiến nêu trên, chủ blog hoàn toàn tin cậy và dựa vào thông tin đã đưa trên Blog của Ts Nguyễn Xuân Diện; nếu có chỗ nào chưa chuẩn, mong Giáo sư Nguyễn Huy Quý và độc giả lượng thứ.
Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện:
Được biết, sáng nay Ông Nguyễn Huy Quý, Phó Giáo sư, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc (thuộc Viện KHXH Việt Nam) đã nghỉ hưu, được cho là người đã có bài trả lời phỏng vấn gây tranh cãi trên Hoàn Cầu Thời Báo (của Trung Quốc) đã có bài lên tiếng. Ông Quý đã gửi bài viết này cho một số đồng nghiệp và bạn bè. Do nhân duyên, Nguyễn Xuân Diện có được bài viết này vào chiều nay và đăng tải nguyên văn như dưới đây để rộng đường dư luận.
BÀI HỌC CẢNH GIÁC TỪ MỘT BÀI BÁO TRÊN MẠNG
“HOÀN CẦU THỜI BÁO”
“HOÀN CẦU THỜI BÁO”
Nguyễn Huy Quý
Vừa qua, tôi đột ngột nhận được tin dư luận trên mạng đang bàn tán về bài “trả lời phỏng vấn” trên mạng “Hoàn cầu thời báo”. Đọc lướt qua một lần, tôi thấy rất ngạc nhiên. Tôi bình tĩnh bỏ qua những ngôn từ khiếm nhã của những kẻ với động cơ chính trị nào đó, suy nghĩ xem việc gì đã xảy ra. Tôi xem lại bản dịch tiếng Việt lần nữa thì thấy phóng viên “Hoàn cầu thời báo” đã dùng quan điểm của họ để viết bài nói là “trả lời phỏng vấn”, có những chỗ cực kỳ sai trái. Sau khi xem bản gốc bài “trả lời phỏng vấn”, tôi cũng có phản cảm chẳng kém gì các vị độc giả khác. Do vậy, tôi có trách nhiệm phải nói rõ sự thật của câu chuyện.
Thực ra, đây không phải là bài “trả lời phỏng vấn”. Cách đây hơn 1 tháng, phóng viên Nhân dân nhật báo (Trung Quốc) thường trú tại Hà Nội Lưu Cương muốn gặp tôi. Việc tiếp một phóng viên Nhân dân nhật báo Trung Quốc là một việc bình thường, nên tôi đã nhận lời. Nhưng khi đến Viện Nghiên cứu Trung Quốc gặp tôi, anh bạn phóng viên Trung Quốc đưa cả bốn, năm bạn đồng nghiệp, nói là phóng viên của “Hoàn cầu thời báo” vừa đi du lịch ở Campuchia, qua thành phố Hồ Chí Minh, mới ra Hà Nội hôm qua. Vậy là tôi phải ngồi nói chuyện với mấy nhà báo trẻ. Các bạn không đặt vấn đề phỏng vấn chính thức, mà chỉ trao đổi để tìm hiểu Việt Nam thôi. Về phần tôi, từ nhiều năm qua đã biết mạng “Hoàn cầu thời báo” từng tung nhiều bài báo, bản tin không xác đáng về Việt Nam. Nhân cuộc gặp bất ngờ này với các phóng viên trẻ “Hoàn cầu thời báo”, tôi muốn tìm hiểu thêm tính chất “quan phương” của tờ báo đến đâu, và cũng hy vọng qua trao đổi họ hiểu về Việt Nam hơn. Buổi gặp gỡ diễn ra hữu nghị, sau đó, tôi cũng không để ý đến nữa, cho đến ngày nhận được tin về “bài phỏng vấn”. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi không thể đề cập tất cả các vấn đề cần nói rõ với “Hoàn cầu thời báo” và các độc giả Việt Nam. Chỉ xin đề cập ba vấn đề nhiều người cùng quan tâm: “Quan hệ văn hóa”’ “thế lực bên ngoài”; và quan trọng bậc nhất là vấn đề “thu hồi chủ quyền hay xâm lược”.
1. Giữa Việt Nam và Trung Quốc có những điểm tương đồng hoặc tương tự về văn hóa. Có lẽ đó không còn là vấn đề bàn cãi. Mỗi một quốc gia, dân tộc có một nền văn hóa riêng mang bản sắc của mình. Việt Nam có một nền văn hóa đầy sức sống, vượt qua được thử thách của nghìn năm Bắc thuộc, để dân tộc trường tồn. Nhưng văn hóa dân tộc bao giờ cũng phát triển qua giao lưu, tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại. Do bối cảnh địa lý và lịch sử, các nước Đông Á: Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc có những điểm tương đồng về văn hóa mang đặc trưng của văn hóa Đông Á (đương nhiên giữa các nước cũng có những điểm dị biệt về văn hóa). Vấn đề đó có lẽ không cần thiết trình bày dài dòng ở đây.
Vấn đề “Hoàn cầu thời báo” đưa vào một câu “Văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc đồng nguyên”. “Đồng nguyên” có nghĩa là chung một nguồn gốc. Từ đó có thể suy ra văn hóa Việt Nam là từ văn hóa Trung Quốc mà ra. Đó là một sự xuyên tạc lịch sử, và là một sự xúc phạm dân tộc. Tôi và các học giả Việt Nam không bao giờ dùng từ “đồng nguyên” trong quan hệ văn hóa Việt - Trung.
2. Bài của phóng viên “Hoàn cầu thời báo” áp đặt câu nói của họ thành câu nói của tôi “các thế lực bên ngoài không hề có liên quan đến vấn đề Nam Hải bắt đầu xâm nhập, tạo ra mâu thuẫn Việt - Trung…”. Điều đó phản ánh sự không bằng lòng của họ đối với các đối tác của Asean tham gia vào các nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực. Tranh chấp vùng biển và hải đảo ở Biển Đông là giữa một số nước Asean và Trung Quốc. Nhưng vấn đề hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực thì cần sự nỗ lực chung của Asean và các đối tác có liên quan. Chính vì thế mà diễn đàn khu vực Asean (ARF) gồm mười mấy nước vừa qua đã hình thành cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng Asean mở rộng (ADMM+) và Asean đã mời Hoa Kỳ và Liên bang Nga tham gia vào Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. “Mâu thuẫn Việt - Trung” không phải do họ tạo nên, mà phải tìm nguyên nhân từ trong quan hệ Trung - Việt, mặc dầu cũng có những thế lực muốn gây chia rẽ. Việt Nam chủ trương hợp tác hữu nghị với nhân dân với tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó với Trung Quốc và với Hoa Kỳ có một ý nghĩa quan trọng.
Tiện đây, cũng xin nói thêm, trong lời người dịch (của bản tiếng Việt) có nói tôi cho rằng: “Thái độ thiếu thân thiện gần đây của Việt Nam đối với Trung Quốc khiến cho quan hệ hai nước xấu đi”. Đó là câu bịa 100%, cũng không hề có trong bài của “Hoàn cầu thời báo”. Còn với người Việt sống ở nước ngoài thì tôi tin rằng, dù mỗi người một hoàn cảnh, chính kiến, nhưng đều mang trong mình một trái tim và dòng máu Việt Nam, mong cho đất nước thái bình, thịnh vượng, những kẻ không thiện chí chỉ là số rất ít.
3. Vấn đề thứ ba là quan trọng nhất. Bài báo của “Hoàn cầu thời báo” viết: “Tôi tin tưởng 100% rằng Trung Quốc hiện nay không, sau này mạnh lên cũng sẽ không xâm lược bất cứ nước nào mà Trung Quốc công nhận. Nhưng, đối với các nước có vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, thì lại là vấn đề khác. Các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nếu một ngày đó xảy ra xung đột với Trung Quốc, thì đó không phải là xâm lược, mà là hành động của Trung Quốc nhằm thu hồi chủ quyền”. Đọc câu trên thì sự phản cảm trong tôi chẳng kém gì phản cảm của các độc giả Việt Nam khác. Có người Việt Nam nào, dù là bất cứ ai, lại cho rằng giả thiết một ngày nào đó Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa là “lấy lại chủ quyền”, chứ không phải là xâm lược? Tác giả bài báo muốn dùng lời lẽ và quan điểm của mình áp đặt cho người tiếp chuyện mình. Nhưng nghĩ cho cùng thì đó là câu chuyện khôi hài: Đối với một quốc gia, coi hành động Trung Quốc đánh chiếm lãnh thổ mà mình tranh cấp “không phải là xâm lược, mà là… nhằm thu hồi chủ quyền” có nghĩa là ủng hộ hành động đó, vậy thì còn tranh chấp với Trung Quốc làm gì?
Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần cam kết Trung Quốc sẽ không bao giờ xâm lược nước khác để trấn an sự lo ngại của các nước đối với sự lớn mạnh của Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng, trong tương lai, Trung Quốc có thể sẽ không đánh chiếm để thôn tính các quốc gia mà Trung Quốc công nhận có chủ quyền. Nhưng đối với các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, thì lại là vấn đề khác. Trong trường hợp Trung Quốc đánh chiếm các vùng lãnh thổ tranh chấp, thì họ sẽ nói rằng: “Không phải là tôi xâm lược, mà là tôi thu hồi chủ quyền!”. Các nước đó tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc không nên quên điều đó để mất cảnh giác.
Còn nhiều điều nữa mà trong bài báo nói trên có thể cần được làm sáng tỏ. Nhưng tôi không muốn làm mất thêm thì giờ của độc giả. Tôi chỉ xin thêm một câu kết luận: Bài báo trên mạng “Hoàn cầu thời báo” vừa qua đã để lại cho tôi một bài học về sự cảnh giác.
-TOÀN VĂN BÀI TRẢ LỜI PV CỦA ÔNG NGUYỄN HUY QUÝChuyên gia Việt Nam: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam nên đặc biệt giống như Mỹ - Anh
Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện:
Dưới đây là bản dịch theo bản tiếng Trung lấy từ bài đăng trên mạng Hoàn Cầu Thời báo ngày 27/12/2010, do một bạn đọc nhiệt tình gửi tới để bổ sung cho bản dịch qua tiếng Anh. Xin trân trọng cám ơn bạn đọc chưa muốn cho chúng ta biết quý danh.
Bản gốc của bài viết trên Hoàn Cầu thời báo, tại đây.
Lời toà soạn: Hai láng giềng gần gũi Trung Quốc và Việt Nam từ những năm 70 và 80 cho đến năm 1991 của thế kỷ trước, khi quan hệ hai nuớc thực hiện bình thường hoá đã từng có đoạn hồi ức không tốt đẹp. Khi Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện KHXH Việt Nam vừa được thành lập năm 1993, thì Giáo sư Nguyễn Huy Quý - một chuyên gia nổi tiếng về vấn đề Trung Quốc đã được giao làm Viện trưởng cho đến khi về hưu tháng 8/2002. Vị chuyên gia Việt Nam “thông tỏ Trung Quốc” này từng du học tại Khoa lịch sử Đại học Bắc Kinh vào những năm 50 của thế kỷ trước, năm nay dù đã 74 tuổi, nhưng vẫn “nghỉ mà không hưu”, luôn quan tâm đến quan hệ qua lại của hai nước Việt Trung và sự phát triển của mỗi nước. Gần đây, giáo sư Nguyễn Huy Quý khi nhận lời phỏng vấn riêng của Hoàn cầu Thời báo, đã bày tỏ lạc quan về tương lai của quan hệ Việt, Trung. Ông đặc biệt nhắc nhở: các thế lực ngoại bang không liên quan đã bắt đầu dính líu vào vấn đề Biển Nam Hải (tức Biển Đông) hòng gây mâu thuẫn Việt Trung, đối với việc này Trung Quốc “không nên mắc bẫy”.
Quan hệ Trung-Việt là quan hệ “đồng văn, đồng chủng, đồng chí”
Hoàn Cầu Thời Báo(HCTB): Là một học giả Việt Nam nghiên cứu về vấn đề Trung Quốc, ông đánh giá như thế nào về quan hệ giữa hai quốc gia trong quá khứ?
Nguyễn Huy Quý(NHQ): Tôi thường nói, hai nước Trung Quốc và Việt Nam có “tam đồng”: cùng văn hoá, cùng chủng tộc và cùng là đồng chí . Quan hệ hai nước là quan hệ “tam đồng”. Không như những quốc gia ASEAN khác, Việt Nam và Trung Quốc có cùng nguồn gốc văn hoá. Trung Quốc có 56 dân tộc ít người, Việt Nam có 54, có tới 10- 20 dân tộc ít người cư trú ở cả hai bên đường biên. Nhà lãnh đạo Nông Đức Mạnh của Việt Nam là người Tày. Theo nghiên cứu, dân tộc thiểu số đông người nhất của Việt Nam này và dân tộc Choang của Trung Quốc cùng là một, sống ở hai bên biên giới. Hơn nữa, cả hai đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Những điều này rất quan trọng. Nó giống như mối quan hệ giữa Mỹ và Anh không giống như quan hệ giữa Mỹ với những quốc gia phương tây khác. Vì Mỹ và Anh không chỉ gần gũi về chính trị, mà dân tộc cũng tương đồng. Do đó, Việt Nam và Trung Quốc cũng cần có quan hệ đặc biệt. Có điều, do những nguyên nhân lịch sử, nên mới xuất hiện một số vấn đề.
Trong thời gian quan hệ Trung Việt không tốt, tôi rất đau buồn. Khi đó, có rất nhiều học giả Việt Nam chuyên nghiên cứu về vấn đề Trung Quốc bị buộc phải chuyển ngành, ví dụ người chuyên nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc và văn học Trung Quốc thì chuyển sang nghiên cứu lịch sử Liên Xô hoặc văn học Pháp; người nghiên cứu triết học cổ Trung Quốc chuyển sang nghiên cứu triết học Mác-Lê, nhưng tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu vấn đề Trung Quốc. Sau khi quan hệ hai nước bình thường hoá vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi vô cùng phấn khởi. Tôi cho rằng, quan hệ hai nuớc từ sau khi bình thường hoá tuy cũng có lúc căng thẳng, nhưng những điều đó không thể phản ánh quan hệ chân thực giữa hai nước. Những năm này, khi đến Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Macao, tôi đều tiến hành trao đổi học thuật. Cách đây ít lâu tôi sang An Huy tham gia một hội nghị học thuật, quả đúng là tôi phát hiện ra quan hệ hai nước đã trở nên yên ổn , không căng thẳng như trước nữa. Nhưng một số học giả Việt Nam vẫn có quan điểm bất đồng với một số bài viết về Việt Nam trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc.
HCTB: Một số học giả Trung Quốc cho rằng trong giới truyền thông Việt Nam có lúc xuất hiện tiếng nói không thân thiện với Trung Quốc. Vậy ông thấy giới truyền thông hai nước đã đưa tin về quan hệ Trung-Việt như thế nào?
NHQ: hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa hiện tồn tại ở Việt Nam đối với Trung Quốc mà nói cũng có chỗ rất tốt. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của chúng ta là nên xử lý quan hệ hai nước như thế nào. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ hai nước, trong đó có giới truyền thông vì đề cập đến nhiều vấn đề nhạy cảm. Có một số phóng viên Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ chính trị phương Tây, thậm chí có phóng viên không biết Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc. Đó là một vấn đề nghiêm trọng. Trên quốc tế, cũng có những tiếng nói cố tình gây chia rẽ, chủ yếu là những Việt kiều đã bỏ chạy ra nước ngoài chống chính phủ hiện hành ở Việt Nam. Họ lợi dụng tinh thần dân tộc Việt Nam để kích động, chia rẽ những bất hoà giữa Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ Việt Trung không tốtthì bọn họ càng phấn khởi. Giới truyền thông của hai nước cần hiểu rõ vấn đề này. Quan hệ hai nước có lúc tồn tại mâu thuẫn, nhưng giới truyền thông không được dẫn tới hiểu lầm. Tôi thường nói với những người của giới truyền thông Việt Nam: quan hệ hai nước Việt Trung rất quan trọng, hai nước, hai Đảng phải đoàn kết chặt chẽ, không đưa những tin, bài không chân thực, không được cực đoan, cần đưa nhiều ý kiến xây dựng.
HCTB: Là một học giả Việt Nam, ông nghĩ thế nào về bất đồng giữa hai nước trong vấn đề Nam Hải(Biển Đông)?
NHQ: Trước đây Trung Việt tồn tại ba tranh chấp chính về lãnh thổ: vấn đề đường biên giới trên bộ, phân chia Vịnh Bắc Bộ và Nam Hải(Biển Đông). Hiện nay chỉ còn lại vấn đề Nam Hải(Biển Đông). Quan hệ Trung Việt chịu ảnh hưỏng ở mức độ rất lớn vào vấn đề Nam Hải(Biển Đông), Đối với hai nước mà nói vấn đề Nam Hải (Biển Đông) đều rất quan trọng. Trên quan điểm của một học giả, tôi thấy cả hai bên đều có những thái độ và tuyên bố “quá mức” và “cứng rắn”, xa rời thực tế, rất khó thực hiện. Cả hai bên đều không thể bàn bạc vấn đề phức tạp này trong bối cảnh thiếu nghiên cứu và mang theo tình cảm dân tộc. Đó là một vấn đề không thể giải quyết được trong thời gian ngắn, nội bộ Trung Việt cần tạo dựng được một môi trường tốt đẹp.
HCTB: năm nay, Hoa Kỳ đã bày tỏ muốn dính líu vào vấn đề Nam Hải(Biển Đông). Ông nghĩ sao về việc này?
NHQ: các thế lực bên ngoài này không liên quan gì đến vấn đề Nam Hải(Biển Đông), nhưng họ đang gây mâu thuẫn giữa hai nước Việt Trung
HCTB: Hiện có một luận điểm cho rằng: để kiềm chế và cân bằng với Trung Quốc, Việt Nam đang tiếp cận Mỹ. Có phải như vậy khôngi?
NHQ: Người ta nói rằng, khi quan hệ Trung-Việt tốt đẹp, Việt Nam tránh xa Mỹ; nhưng khi Việt Nam cảm thấy áp lực của Trung Quốc đối với Vịệt Nam lớn lên, thì lại sẽ tiếp cận Mỹ. Thực ra đó không phải là bản chất của vấn đề, mà chỉ là đường lối ngoại giao của Việt Nam. Toàn bộ các quốc gia Đông Nam Á đều muốn cân bằng quan hệ đối ngoại của mình. Đó là hiện thực. Việt Nam có vấn đề, đó là Mỹ cũng gây sức ép đối với chế độ chính trị của Việt Nam. Về mặt ngoại giao, Việt Nam sẽ thực hiện cân bằng giữa Trung Quốc và các nước phương Tây cũng như trong các vấn đề quốc tế. Đồng thời Việt Nam cũng nâng cao cảnh giác với Mỹ.Các quan chức cao cấp của Việt Nam cũng nói tới "Diễn biến hoà bình", lo ngại cách làm của Mỹ đối với Việt Nam trong vấn đề tôn giáo, nhân quyền. Ở Mỹ hiện có hơn 1 triệu Việt kiều, phần lớn sang đó thời chính quyền nguỵ trước đây, trong đó có một số người vẫn muốn lật đổ chính quyền Việt Nam hiện nay, nên chúng tôi đặc biệt cảnh giác với bộ phận người này. “Lợi dụng Việt Nam bao vây Trung Quốc” là cách suy nghĩ của Mỹ. Cho nên, nếu Trung Quốc có ý kiến về việc “Việt Nam cải thiện quan hệ với Mỹ” là đã mắc bẫy ngưòi Mỹ rồi !
HCTB: Ở trong nước Việt Nam có sự phân biệt “thân Trung Quốc”, “thân Mỹ”, “thân Nga” không?
NHQ: Tôi cho rằng trong nội bộ Việt Nam không có sự phân biệt thân Trung Quốc và thân Mỹ. Nếu gặp sự kiện có liên quan thì tuỳ vấn đề cụ thể mà phân tích cụ thể.
Giữa Việt Nam và Trung Quốc có cạnh tranh là điều bình thường
HCTB: Trước đây Phương Tây thường nói đến “Thuyết Trung Quốc đe doạ”. Giờ đây họ lại nói đến “Thuyết Trung Quốc cứng rắn”. Ông nghĩ gì về những luận điệu này?
NHQ: Tôi tin tưởng 100% rằng, hiện nay Trung Quốc không và trong tương lai khi hùng mạnh, Trung Quốc cũng sẽ không xâm lược bất kỳ quốc gia nào mà họ đã công nhận. Tuy nhiên, đối với các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc thì lại là một vấn đề khác. Nếu những nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc xẩy ra xung đột giữa Trung Quốc với họ, thì đó không phải là xâm lược, mà chỉ là hành động Trung Quốc sử dụng để thu hồi chủ quyền. Ví dụ trong vấn đề đảo Điếu Ngư(Senkaku), Trung Quốc sẽ không công kích lên phần lãnh thổ của Nhật Bản, nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt, có khả năng sẽ xảy ra các cuộc xung đột vũ trang tại vùng phụ cận đảo Điếu Ngư(Senkaku).
Nếu anh hỏi người Việt Nam về vấn đề này, phần lớn họ sẽ trả lời như tôi. Dân chúng Việt Nam cũng có cảm giác có nguy cơ như vậy. Là một học giả, tôi thường nói với người dân Việt Nam, Trung Quốc nói “trỗi dậy hoà bình”, nên khả năng xảy ra xung đột là rất nhỏ. Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh chính sách ngoại giao hoà bình, sẽ không sử dụng vũ lực đối với Việt Nam. Tôi đã viết bài trên tạp chí của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nói việc hai nước xung đột trên Nam Hải(Biển Đông) chỉ là sự kiện “ngoài ý muốn”, cần thấy Việt Trung hữu hảo mới là dòng chảy chính (chủ lưu).
Có người đã nêu, “Trung Quốc là Trung Quốc của thế giới, thế giới là thế giới của Trung Quốc”, cho rằng Trung Quốc đang dùng thực lực kinh tế để tổ hợp lại (chỉnh hợp) Đông Nam Á, thậm chí tổ hợp lai cả thế giới. Họ muốn đề xuất để Trung Quốc lãnh đạo thế giới; còn người lãnh đạo Trung Quốc thì nói “Trung Quốc không tách khỏi thế giới, thế giới không tách khỏi Trung Quốc”. Điều này vô cùng hợp lý. Tôi cho rằng, sức mạnh cứng của Trung Quốc đã đầy đủ, bây giờ đã đến lúc họ nên tăng cường sức mạnh mềm thì trong tương lai mới có thể trở thành một siêu cường quốc . Trung Quốc cần kết hợp văn hoá đông phương với chủ nghĩa xã hội, như thế sẽ thoả đáng hơn.
Trong tâm lý người Việt Nam, đặc biệt là ở tầng cấp cao Việt Nam đều vô cùng mong muốn phát triển quan hệ tốt với Trung Quốc. Điều này không những thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam mà còn giữ được chế độ của mình. Vì thế, tôi rất lạc quan về mối quan hệ Trung-Việt.
HCTB: Ông đánh giá thế nào về sự hợp tác kinh tế Việt Trung?
NHQ: Đối với Trung Quốc mà nói,, Việt Nam là nhịp cầu để Trung Quốc tiến vào thị trường lớn ASEAN. Về mặt kinh tế, Việt Trung vừa có hợp tác vừa có cạnh tranh, cạnh tranh Việt Trung là bình thường, cũng giống như sự cạnh tranh giữa các tỉnh trong nội địa Trung Quốc, giữa các tỉnh trong nuớc của Việt Nam cũng có cạnh tranh.
HCTB: tháng 6 năm nay, Quốc hội Việt Nam đã phủ quyết dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam trị giá 56 tỉ đô la. Có dư luận cho rằng Việt Nam không muốn hợp tác với Trung Quốc trong việc xây dựng đường sắt cao tốc. Ông nghĩ sao về sự việc này?
NHQ: tôi cho rằng, không phải là Việt Nam không yên tâm với Trung Quốc. Mà đây là một kế hoạch xây dựng lớn có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam, sẽ làm rối loạn sự phát triển cân bằng giữa đô thị và nông thôn hiện có của Việt Nam. Phương Tây đã giúp Việt Nam làm Đường Hồ Chí Minh, nhưng hiện nay thấy tác dụng không lớn. Có lẽ phải mấy chục năm nữa Việt Nam mới tính đến một công trình lớn như đường sắt cao tốc Bắc Nam.
HCTB: Theo ông, trong quá trình phát triển của Việt Nam, có những mặt nào Trung Quốc có thể chú ý hoặc rút kinh nghiệm?
NHQ: Trung Quốc nói “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội,” còn Việt Nam nói “thời kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội”, đó chỉ là hai cách biểu đạt về một cách làm mà thôi. Tôi cho rằng, Việt Nam cần học hỏi Trung Quốc. Dư luận phương Tây cho rằng cải cách chế độ dân chủ của Việt Nam nhanh hơn Trung Quốc và dân chủ của Việt Nam nhiều hơn của Trung Quốc một ít, nhưng cách nói này không đúng. Tôi không thể nói cách làm của nước nào tốt hơn.
HCTB: Trong bảng xếp hạng quốc tế về “chỉ số hạnh phúc” do một cơ quan Anh công bố năm ngoái, Việt Nam đứng hàng thứ 5 trên thế giới. Vì sao người Việt Nam có cảm giác hạnh phúc cao như thế?
NHQ: Tính cách của người Việt là luôn lạc quan. Dù điều kiện sống của họ gian khổ, nhưng họ vẫn mỉm cười với cuộc sống. Lấy ví dụ, Một công ty ở Hà Nội vừa đóng cửa gần đây khiến 2.000 người bị thất nghiệp. Nhưng, chỉ 2 ngày sau, những người này đều đã yên ổn. Một số người đã về quê, có người đến làm việc ở những công ty khác. Có học giả Trung Quốc hỏi tôi, vì sao Việt Nam có thể giải quyết vấn đề khó khăn này một cách mau chóng? Tôi cho rằng, chủ yếu là do Việt Nam không lớn như Trung Quốc.
Hiện nay Trung Quốc đang tồn tại hai vấn đề lớn: một là, những vấn đề xuất hiện ở các thành phố lớn không dễ giải quyết; thứ hai, sự phát triển tại những vùng sâu vùng xa vẫn tương đối chậm.
(Cốc Lộc - Phóng viên bản báo)
http://nguyenxuandien.blogspot.com/2011/01/toan-van-bai-tra-loi-pv-cua-ong-nguyen.htm-Trí thức “Phò Sino”Lẩm Cẩm Lão Gia
Với người Việt Nam đương đại thì mọi người không lạ gì với cụm từ “Trí thức phò Chính thống”! Nhưng hôm nay, người Việt Nam có thể biết thêm một loại trí thức khác. Đó là “Trí thức Phò Sino”!
Đọc bài “Giáo sư Nguyễn Huy Quý có phải là nhà Trung Quốc học?” của tác giả Đinh Kim Phúc đăng trên mạng http://www.boxitvn.net/bai/15446 Lẩm Cẩm Lão Gia tôi bàng hoàng. Bàng hoàng bởi sự thiển cận và ấu trĩ của vị “học giả” Giáo sư Nguyễn Huy Quý này.
[….Unlike other ASEAN countries, Vietnam and China have the same cultural origins. China has 56 ethnic groups, Vietnam has 54. And there are 10 to 20 cross-nation ethnic groups along the borders. What is more, both countries are led by a Communist Party.
These commonalities are very important. It is like the special relationship the US has with the UK, different from other European countries. It is not just that the US and the UK are politically close, they share ethnic roots.
Likewise, Vietnam and China enjoy a special relationship. Historically, there has been some discord, but that does not invalidate the special relationship…]
Vâng, mọi người có thể chấp nhận (hoặc tạm chấp nhận) tất cả những gì vị “học giả” Huy Quý đưa ra trên đây là đúng. Nhưng có một điều khiến Lẩm Cẩm Lão Gia tôi ngạc nhiên là vị “học giả” Huy Quý này không nhắc đến một sự thật khác là Hải quân Mỹ chưa bao giờ bắn giết hay bắt tàu cá của ngư dân Anh. Chính phủ Mỹ cũng chưa bao giờ đề xuất “lợi ích cốt lõi” cùng bản đồ “đường lưỡi bò” để chiếm đảo, chiếm biển của người Anh.
Học giả của Mỹ cũng chưa bao giờ dám huênh hoang tuyên bố “Đối đầu chỉ có thiệt hại cho các anh…” như lời của Hán tham Vương Hàn Lĩnh. Đại sứ Mỹ cũng chưa bao giờ dám tuyên bố “Hợp tác thì thành công, đấu tranh sẽ thất bại.” như lời của Thái thú Tôn Quốc Tường…!
Một điều ngạc nhiên nữa là chuyện “học giả” Hữu Quý so sánh hai đảng cầm quyến tại Trung Quốc và Việt Nam đều là đảng Cộng sản. Điếu này không nói lên được điều gì. Lịch sử đã chứng tất cả các chế độ theo cộng sản đều không có cái nào anh em với cái nào. Tất cả đều là “cá lớn nuốt cá bé” theo hình thức “bá quyền”. Khi Liên Xô hùng mạnh các chế độ cộng sản Đông Âu chỉ là chư hầu cho Liên Xô. Do vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng không là ngoại lệ. Đánh cướp Hoàng Sa năm 1974, gây chiến tranh và xâm chiếm Việt Nam năm 1979, đánh chiếm một phần Trường Sa năm 1988 là những bằng chứng rõ ràng không thể chối cãi.
Là một người am tường Sử học mà “học giả” Huy Quý không nhớ những sự kiện lịch sử này thì quả là khó hiểu!
[… There are more than 1 million overseas Vietnamese in the US, most of whom went there during the puppet government era. Some of them still want to subvert the current Vietnamese government. We are especially vigilant with these people…]
Nếu Lẩm Cẩm Lão Gia tôi không nhầm thì Chính phủ Việt Nam hiện hành đang có chính sách để tạo điều kiện cho bà con Việt kiều trên khắp thế giới có thể chung tay xây dựng đất nước. Do đó, những lời trên đây của “học giả” Hữu Quý mang đầy tính thóa mạ, chia rẽ. Trái với những gì mà Chính phủ Việt Nam hiện hành rao giảng. Hơn nữa, cả triệu người Việt Nam rời Tổ quốc sau năm 1975 – hay sau đất nước thống nhất. Như vậy, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản từ năm 1975 -1980 là Chính phủ “bù nhìn” hay sao?
Ngoài ra, khẩu khí “We are especially vigilant with these people…” không hợp với một “học giả” Sử học. Những lời này hợp với những người làm bên ngành an ninh thay vì được nói ra từ miệng của một Giáo sư Sử học!
[…GT: The West used to talk about "the China threat." Now it talks about "the China hardline theory." What do you think of these arguments?
Nguyen: I am sure that even as it gets stronger, China will not invade any country it recognizes. Countries that have territorial disputes with China should understand that if conflict occurs, China will aim to resume sovereignty rather than invade.
For example, China will not attack Japan over the Diaoyu Islands issue. But in certain circumstances, armed conflicts could take place near the Diaoyu Islands…]
Khi đọc những lời trên đây thì Lẩm Cẩm Lão Gia tôi không biết vị “học giả” Hữu Quý muốn nói gì, ý gì?!!! Nói như vậy thì hiện nay Trung Quốc vẫn rêu rao bản đồ đường lưỡi bò là hợp pháp. Và Trung Quốc đã thành lập cơ quan hành chính Tam Sa mà trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Như vậy, khi có xảy ra tranh chấp thì đương nhiên Trung Quốc sẽ thực hiện chủ quyền –resume sovereignty – của Trung Quốc tại Tam Sa. Có nghĩa là Trung Quốc làm việc này là hợp lệ chứ không phải đã “XÂM LƯỢC” Việt Nam?!!! Hiểu biết và ngôn từ của “học giả” Huy Quý này quả cao thâm khó lường!
Kính phục thay cho bậc “Trí trức Phò Sino” học giả Huy Quý này!
Buồn thay.
L. C. L. G.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Bauxite Việt Nam xin mời bạn đọc tham khảo bài sau đây:
Ông Nguyễn Huy Quý. Ảnh: Internet
Sáng nay, 08h30, tôi (Nguyễn Xuân Diện) đã có cuộc gặp với Ông Nguyễn Huy Quý, PGS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc (thuộc Viện KHXH Việt Nam) tại sảnh lớn của Viện KHXH Việt Nam, số 1 Liễu Giai, Hà Nội. Cuộc gặp diễn ra trong 15 phút, từ 08h30 đến 08h45. Dưới đây là các câu hỏi và trả lời.
NXD: Thưa PGS Nguyễn Huy Quý, xin ông cho biết ông có trả lời trực tiếp cho tờ Hoàn cầu Thời báo bài phỏng vấn đang gây xôn xao dư luận không ?
NHQ: Đó không phải là cuộc phỏng vấn và không phải là cuộc gặp mà tôi nhận lời từ trước đối với Hoàn Cầu thời báo. Hôm đó, tôi tiếp một nhà báo của tờ Nhân Dân Nhật báo của Trung Quốc. Có phóng viên của Hoàn Cầu thời báo đi theo và nói là đang đi du lịch. Đây không phải là cuộc phỏng vấn và trả lời phỏng vấn chính thức. Tôi không trả lời trực tiếp Hoàn Cầu thời báo.
NXD: Thưa Giáo sư, họ có ghi âm không và trước khi đăng Ban biên tập có cho ông xem lại trước bài báo đó không? Và vì sao lại có bài trả lời phỏng vấn giáo sư trên Hoàn Cầu thời báo?
NHQ: Tôi hoàn toàn không biết họ có ghi âm hay không. Và trước khi đưa lên báo thì họ cũng không có liên hệ gì với tôi.
Hôm ấy tôi tiếp phóng viên của Nhân Dân Nhật báo hỏi chuyện về tình hình Việt Nam. Phóng viên của Hoàn Cầu thời báo đi theo.
Hoàn Cầu thời báo không phản ánh đúng ý kiến của tôi. Có những chi tiết quan trọng thì họ lại nói trái ngược lại, theo quan điểm của họ.
Ví dụ: tôi nói rằng văn hóa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng, nhưng khi đưa lên họ nói rằng tôi đã nói rằng văn hóa Việt Nam và Trung Quốc đồng nguyên (cùng nguồn). Các ý kiến khác đều bị viết ngược lại như vậy.
NXD: GS có dự kiến là sẽ viết bài tranh luận trên mạng, hoặc viết bài, gửi thư cho Hoàn Cầu thời báo?
Tôi không có ý định tranh luận với Hoàn Cầu thời báo, bởi vì tờ báo này thường xuyên phản ánh không đúng sự thật về Việt Nam. Hoàn Cầu thời báo có đến hàng trăm tin bài có liên quan đến các vấn đề xung quanh Việt Nam, với nhiều ý kiến không xác đáng. Tôi không có thời giờ và thấy không cần thiết phải tranh luận với họ. Tôi không phải là cư dân mạng.
Xin cảm ơn Ông đã vui lòng trả lời câu hỏi của chúng tôi!
Văn bản trên đã được Ông Nguyễn Huy Quý đọc trước khi đưa lên Nguyễn Xuân Diện-Blog.
Vào lúc 11h40, cô Nguyễn Thu Hiền (Viện Nghiên cứu Trung Quốc), con gái Ông Nguyễn Huy Quý gọi điện cho chúng tôi nói rằng gia đình cô đề nghị chúng tôi gỡ ảnh và bài phỏng vấn này khỏi Nguyễn Xuân Diện-blog. Cô nói việc này có báo chí chính thống và các cơ quan lo. Tôi nói rằng việc này không còn liên quan đến riêng ông Nguyễn Huy Quý mà đã liên quan đến giới trí thức, giới truyền thông và liên quan đến quốc gia, dân tộc. Chúng tôi chỉ có thể cất đi các hình ảnh và không thể gỡ bài.
Vì vậy, "Một số hình ảnh của cuộc gặp" không còn ở đây nữa.
Chúng tôi có ghi âm cuộc phỏng vấn PGS Nguyễn Huy Quý. Việc phỏng vấn, ghi âm, chụp ảnh đều được sự cho phép của PGS. Nguyễn Huy Quý.
Cuộc gặp kết thúc vào lúc 8h45, cả Ông Nguyễn Huy Quý và tôi đều dự một cuộc hội thảo khoa học về "Quan hệ hai bờ" (Đài Loan và Trung Quốc) được tổ chức tại phòng họp 3D, tầng 3, tòa nhà Viện KHXH Việt Nam, bắt đầu từ 09h.
Nguồn: Nguyenxuandien Blog
-Giáo sư Nguyễn Huy Quý có phải là nhà Trung Quốc học? bvnpost
Đinh Kim Phúc
Đọc bài trả lời của Giáo sư Nguyễn Huy Quý với tựa đề “Trung Quốc – Việt Nam: Hợp lực tốt hơn bất hoà” trên tờ Hoàn cầu Thời báo, tôi xin được thưa chuyện cùng Giáo sư.
Trước nhất, không phải “Hai láng giềng gần gũi Trung Quốc và Việt Nam từng có những quá khứ không tốt đẹp từ những năm cuối 1970s và đầu 1980s” như lời thiệu của tờ Hoàn cầu Thời báo đâu, thưa Giáo sư.
“Theo dõi việc đưa tin về Hội nghị Giơ-ne-vơ từ ngày đầu đến ngày cuối, Wilfred G. Burchett – và các nhà báo khác có quan hệ chặt chẽ với các đoàn xã hội chủ nghĩa – đã cho biết: “ không nghi ngờ gì về việc đoàn Trung Quốc không ủng hộ mạnh mẽ đoàn Việt Nam. Nhiều năm sau Hội nghị, các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn nói một cách trung thành: các kết quả đã đạt được qua thảo luận và thỏa thuận chung. Điều đó đúng sự thật theo nghĩa đen, nhưng không đúng sự thật thực sự, dù chỉ là một nửa”. (1)
“Chu Ân Lai nói rõ với người Pháp rằng Trung Quốc đến Giơ-ne-vơ trước hết là để bảo vệ lợi ích của chính mình chứ không phải lợi ích của các lực lượng cách mạng Đông Dương. Điều này trở nên sáng tỏ một cách tàn nhẫn trong một cuốn sách về Hội nghị Giơ-ne-vơ, dựa trên những tài liệu về Hội nghị chưa hề được công bố, của nhà viết sử và chuyên gia về Châu Á người Pháp Phrăng-xoa Gioay-ô – tác giả kể lại một cuộc họp giữa Chu Ân Lai và An-tô-ni I-đơn tại Giơ-ne-vơ một ngày trước khi Bộ Ngoại giao Anh công bố quan hệ ngoại giao giữa hai nước sẽ được nâng lên hàng đại sứ.
Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đã nói riêng với I-đơn là ông ta nghĩ rằng có thể ‘thuyết phục được Việt Minh rút khỏi Lào và Cam-pu-chia’. Qua đó, Trung Quốc đã đi một bước rất dài theo luận điểm của người Cam-pu-chia, người Lào, người Anh và người Pháp. Điều đó bao hàm việc thừa nhận rằng Việt Minh đúng là kẻ xâm lược ở hai nước đó, ngược lại với luận điểm lâu nay của Việt Minh – đó cũng là coi các vấn đề Lào và Cam-pu-chia không giống như vấn đề Việt Nam. Ngoài ra, Chu Ân Lai còn nói sẵn sàng công nhận tính chất hợp pháp của các Chính Phủ Vương quốc Lào và Cam-pu-chia ngay khi nào ông ta được bảo đảm rằng không một căn cứ quân sự nào của Mỹ được xây dựng ở hai nước này”.(2)
“Tối ngày 22 tháng 7, ông Phạm Văn Đồng và các thành viên khác của đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến dự một cuộc chiêu đãi của Chu Ân Lai để “chúc mừng thắng lợi của Hội nghị”. Họ chờ đợi một cuộc “chúc mừng giữa những người đồng chí”. Họ rất ngạc nhiên khi thấy đoàn đại biểu Liên Xô đã không được mời, trong khi các đoàn đại biểu của “Hoàng đế” Bảo Đại, Vương quốc Lào và Cam-pu-chia lại có mặt. Chu Ân Lai trước hết nâng cốc chúc mừng Hoàng đế Bảo Đại rồi đến Vua Lào và Vua Cam-pu-chia. Người phụ tá cao cấp của ông Phạm Văn Đồng nói với tôi:
Chúng tôi hầu như không thể tin ở mắt và tai mình nữa. Về sau, chúng tôi thấy vấn đề rõ hơn. Trung Quốc muốn các nước Đông Dương nằm trong túi mình, và hy vọng rằng ba Vương quốc ở đây sẽ được duy trì như những nước triều cống như kiểu Thiên hoàng trị vì đế quốc Trung Hoa với những quốc gia phiên thuộc! Trung Quốc không thể coi thường hơn nữa nội dung xã hội của các quốc gia ấy cũng như số phận của các lực lượng cách mạng ở đó – Nhìn lại những gì xảy ra sau này với Khơ-me đỏ ở Cam-pu-chia và việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam rõ ràng đã được khởi động bởi thái độ của Trung Quốc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ và đặc biệt là cuộc chiêu đãi cuối cùng này”.
“Chu Ân Lai đã bố trí để tại cuộc chiêu đãi các trưởng đoàn Cam-pu-chia và Lào, Tép Phan và Phủi Xa-na-ni-côn, ngồi cùng một bàn với vài phụ tá cao cấp của Chu Ân Lai. Tại bàn do Chu Ân Lai chủ trì, Ngô Đình Luyện (em Ngô Đình Diệm, người mới được CIA đưa lên cầm quyền ở Sài Gòn) được xếp ngồi giữa Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngô Đình Luyện và Tạ Quang Bửu đã từng cùng học tại Pháp và Chu Ân Lai tìm hết cách làm cho hai người gợi lại những kỷ niệm thời thanh niên. Có lúc, Chu gợi ý Ngô Đình Luyện sang thăm Bắc Kinh. Khi Luyện hỏi sang đó dưới danh nghĩa nào, Chu Ân Lai trả lời: “Tại sao các ngài không đặt một công sứ quán ở Bắc Kinh?”. Nhận thấy ông Phạm Văn Đồng giật nẩy người phản ứng, Chu Ân Lai lạnh lùng nói rằng việc ông Phạm Văn Đồng gần gũi với Trung Quốc hơn về tư tưởng không loại trừ việc Sài Gòn có đại diện ngoại giao tại Bắc Kinh. “Dù sao, hai ngài đều chẳng phải là người Việt Nam cả sao, và tất cả chúng ta đây chẳng phải là người Châu Á cả đó sao?”. Đây nữa lại là một viên thuốc đắng mà ông Phạm Văn Đồng phải nuốt tại Giơ-ne-vơ. Lý do khiến Chu Ân Lai ủng hộ việc đẩy lùi càng lâu càng tốt cuộc tổng tuyển cử để tái thống nhất đất nước đã trở nên quá rõ ràng. Trung Quốc quan tâm tới việc mở rộng ảnh hưởng của chính mình ở Sài Gòn hơn là giúp Việt Minh giành thắng lợi chính trị và tái thống nhất đất nước.” (3)
Giáo sư Nguyễn Huy Quý hãy nghe Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói:
“Chúng tôi lẽ ra đã có thể giành được hơn nhiều, nhiều lắm. Chúng tôi đã thỏa thuận trước với người Trung Quốc về mọi vấn đề – nhưng Chu Ân Lai đã họp kín với Măng-đét Phrăng, và tất cả đều bị thay đổi. Nếu lúc đó chúng tôi cứ tiếp tục chiến tranh, thì có lẽ chúng tôi đã thắng và được tất cả. Phải nói rằng người Trung Quốc đóng một vai trò cực kỳ nguy hiểm trong suốt cuộc thương lượng, và đã phản bội chúng tôi một cách đê tiện nhất”.
Chúng tôi đã học được một bài học lớn qua những mưu đồ của Trung Quốc – trong những cuộc thương lượng ngoại giao, điều quyết định là phải nắm chắc mọi việc trong tay mình. Đừng để cho người khác can thiệp vào! Chỉ thương lượng vì lợi ích của chính mình – Chính vì vậy mà tại Hội nghị Pa-ri chúng tôi đã giữ vững quyền kiểm soát – điều này làm cho người Trung Quốc hết sức bất bình. Chúng tôi đã tiến hành chiến tranh và có đủ khả năng lập lại hòa bình, hoặc ít ra là bảo đảm cho mình một thế thắng trong trường hợp phải cần đến một vòng nữa trên trường đấu.
Một điều mà Trung Quốc và Ních-xơn, Kít-xinh-giơ đã thỏa thuận trong các cuộc hội đàm ở Bắc Kinh đều nhằm áp đặt các điều kiện, để lợi dụng các chiến thắng của chúng tôi trên chiến trường. Nhân dân Trung Quốc là bạn của chúng tôi, và mãi mãi sẽ là bạn của chúng tôi. Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đã lợi dụng xương máu của chúng tôi vì lợi ích của chính họ; dùng hình hữu nghị Việt – Trung vào những mục đích bành trướng của chính họ.
Vì những sự phản bội ở Giơ-ne-vơ, cuộc đấu tranh của chúng tôi đã phải kéo dài thêm 20 năm; những kinh nghiệm của chúng tôi về quân sự, chính trị và ngoại giao đã chứng minh một điều: phải tuyệt đối độc lập. Đây là một thực tế sống đụng đến xương máu của chính mình”.(4)
“Trung Quốc và Việt Nam có nhiều yếu tố giống nhau: cùng một văn hoá, cùng nguồn gốc [?] và từng là đồng chí của nhau. Đây là nền tảng của mối quan hệ giữa hai nước.
Việt Nam và Trung Quốc cùng nguồn gốc? Thưa Giáo sư, ai nghiên cứu? Sách nào nói vậy? Ở điểm này tôi xin không tranh luận cùng ông, vì ông không đáng để tôi tranh luận.
“Một số người Việt lưu vong ở nước ngoài đang chống đối chính quyền hiện thời đã dùng tinh thần dân tộc Việt Nam để cố tình khiêu khích những bất hoà giữa Việt Nam và Trung Quốc. Những kẻ này vui mừng khi mối quan hệ song phương xấu đi. Ngành truyền thông của hai nước để tránh sự hiểu lầm bị tăng thêm trong những mâu thuẫn đôi khi xảy ra”.
Trong câu trả lời trên của Giáo sư, tôi xin hỏi ông: “những bất hoà giữa Việt Nam và Trung Quốc” là những bất hòa gì?
Thưa Giáo sư, lãnh thổ của ta, đảo của ta, biển của ta nhưng hàng trăm ngư dân Việt Việt Nam đang bị Trung Quốc cầm tù khi họ đang kiếm sống ngay chính trên quê hương của của họ thì xin ông ông hãy thử gọi tên nó là gì, thưa ông?
Giáo sư càng trả lời lại càng trịch thượng: “Trên quan điểm của một học giả, những thông báo và tuyên bố từ cả hai phía thì hơi “quá đáng” và “quá cứng rắn.” Cả hai phía không nên đối phó với vấn đề phức tạp này bằng cách khêu gợi tinh thần dân tộc và không nghiên cứu kỹ lưỡng”.
Tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên một phần vùng biển Đông như thế nào là “quá đáng” và “quá cứng rắn”. Ông đã nghiên cứu kỹ lưỡng như thế nào xin trình bày cho chúng tôi được biết?
Cũng trên mạng Hoàn cầu, họ chửi tôi, chửi Giáo sư, chửi hơn 3 triệu đảng viên cộng sản Việt Nam, chửi cả dân tộc Việt Nam là đồ chó, Giáo sư không thấy nhục sao?
Là một Giáo sư nhưng ông đã quá non kém trước một phóng viên báo chí, bẫy được giăng ra, người trả lời có học vị cao ngất lại dính bẫy. Xin thưa với ông rằng, những phát biểu gần đây của chính phủ Hoa Kỳ, ông chỉ ra xem phát biểu nào, văn kiện nào của chính phủ Hoa Kỳ nhằm “sẵn sàng can thiệp vào vấn đề Nam Hải”?
Sau cùng, tôi không biết có phải Giáo sư thay mặt chính phủ Việt Nam khẳng định chân lý này hay không: “Tôi chắc chắn rằng ngay cả khi trở nên mạnh hơn nữa, Trung Quốc cũng sẽ không đánh chiếm bất cứ quốc gia nào mà họ đã thừa nhận chủ quyền. Các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc cần hiểu rằng nếu xung đột xảy ra, Trung Quốc sẽ nhắm vào việc lấy lại chủ quyền hơn là xâm lược”.
Tôi hoàn toàn đồng ý với Giáo sư về câu trả lời trên. Với phương pháp luận của một giáo sư, tôi tin rằng: Tân Cương, Tây Tạng sẽ là một hình ảnh không xa đối với dân tộc Việt Nam.
Lời cuối cùng gửi đến Giáo sư Nguyễn Huy Quý
Đọc toàn bộ bài trả lời phỏng vấn của Giáo sư, tôi không thấy ở ông trình độ của một giáo sư Trung Quốc học, mà chỉ là những lý sự cùn của một thằng Việt gian.
Đ. K. P.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Chú thích:
(1) (2) (3) (4) Xem: Uyn-phết Bớc-sét, 1986. Tam giác Trung Quốc – Campuchia – Việt Nam. Hà Nội: Thông tin lý luận.
Bản gốc: Wilfred G. Burchett, 1982. China, Cambodia, Vietnam Triangle. Chicago: Vanguard Books.
Tham khảo:
China-Vietnam: synergy greater than discord
Source: Global Times
[08:29 December 28 2010]
Editor’s Note:
Close neighbors China and Vietnam have some unpleasant memories dating from the late 1970s and early 1980s. The two nations normalized relations in 1991. Professor Nguyen Huy Quy (Nguyen), former director of the Institute of China at the Vietnam Academy of Social Sciences, talked to Global Times (GT) reporter Gu Di in Hanoi recently. Nguyen is optimistic about the future relations between Vietnam and China. He disapproves of intervention by external forces in the South China Sea, arguing that China should not allow itself to be drawn into conflict.
GT: As a Vietnam-based scholar on China, what is your view of the exchanges between the two countries in the past?
Nguyen: China and Vietnam share many things in common: same culture, same origin and they used to be comrades. This is the basis of the relationship between the two countries.
Unlike other ASEAN countries, Vietnam and China have the same cultural origins. China has 56 ethnic groups, Vietnam has 54. And there are 10 to 20 cross-nation ethnic groups along the borders. What is more, both countries are led by a Communist Party.
These commonalities are very important. It is like the special relationship the US has with the UK, different from other European countries. It is not just that the US and the UK are politically close, they share ethnic roots.
Likewise, Vietnam and China enjoy a special relationship. Historically, there has been some discord, but that does not invalidate the special relationship.
GT: Some Chinese scholars claim that Vietnamese media have been unfriendly to China on occasion. What is your opinion of the two countries’ media reports on Sino-Vietnam relations?
Nguyen: The current socialist ideology in Vietnam is beneficial to China. Our first priority is to handle bilateral relations well. Many factors can affect bilateral relations, including media that report sensitive issues.
Some exiled overseas Vietnamese who are opposed to the current government use Vietnamese national sentiment to deliberately provoke difficulties between Vietnam and China. If the bilateral relationship worsens, these people celebrate. Media in the two countries should avoid fanning misunderstanding during occasional conflicts.
GT: As a Vietnamese scholar, what do you think of the conflict between the two countries on the South China Sea issue?
Nguyen: There were three major territorial disputes in the past: the land border, the North Bay division and the South China Sea issue. Now, only the South China Sea issue still remains, but it is affecting bilateral relations. The issue is important to both countries.
From a scholar’s viewpoint, statements and declarations made by both sides are a little "over the top" and "too tough." The two sides should not handle this complex issue by appealing to national sentiment and without doing sufficient research.
The issue cannot be solved in the short term, it requires a positive atmosphere in both countries.
GT: The United States expressed its willingness to get involved in the South China Sea issue this year. What do you think of this?
Nguyen: The South China Sea issue has nothing to do with external forces. Their intervention is likely to create more conflict between the two countries.
GT: People say that to counterbalance China, Vietnam is trying to get closer to the United States. Is that true?
Nguyen: People say that when the Sino-Vietnam relation is good, Vietnam alienates the United States; but when Vietnam feels greater pressure from China, it moves closer to the United States. The reality is that all Southeast Asian countries want to balance their foreign relations.
Vietnam’s problem is that the US is applying pressure about Vietnam’s political system. From a diplomatic perspective, Vietnam will seek a balance between China and Western countries on international issues. But Vietnam is vigilant in its attitude toward the US.
The US hopes "to encircle China with Vietnam." If China turns "the improvement of relations between Vietnam and the US" into a problem, the Americans will have gotten their way.
There are more than 1 million overseas Vietnamese in the US, most of whom went there during the puppet government era. Some of them still want to subvert the current Vietnamese government. We are especially vigilant with these people.
GT: The West used to talk about "the China threat." Now it talks about "the China hardline theory." What do you think of these arguments?
Nguyen: I am sure that even as it gets stronger, China will not invade any country it recognizes. Countries that have territorial disputes with China should understand that if conflict occurs, China will aim to resume sovereignty rather than invade.
For example, China will not attack Japan over the Diaoyu Islands issue. But in certain circumstances, armed conflicts could take place near the Diaoyu Islands.
I think that China’s hard power is already a reality. Now it has to further enhance its soft power so that it can become a real power in the future. Combining Oriental culture and socialism is a safe choice for China.
In the hearts of the Vietnamese, especially in official circles, people are eager to improve relations with China. Better relations will not only promote economic development in Vietnam but also help Vietnam to maintain its own system. Therefore, I am very optimistic about Sino-Vietnamese relations.
GT: In June 2010, the Vietnamese National Assembly overruled a north-south high-speed railway project which was worth $56 billion. Some media said that Vietnam did not want to cooperate with China on high-speed rail construction. How do you see this issue?
Nguyen: In my opinion, the project was not shelved because Vietnam does not trust China. This is a major construction project which has to mesh with Vietnam’s overall economic plan without disrupting the balance between urban and rural development in the country. Vietnam might need to consider a project like the north-south high-speed railway in several decades.
GT: In your opinion, what are the specific aspects in Vietnam’s development that China can pay attention to or learn from?
Nguyen: China talks about "the primary stage of socialism," and Vietnam talks about "the transition period of socialism," which are two ways of saying the same thing.
In my opinion, Vietnam should learn more from China. Western public opinion claims that democratic reform is moving faster in Vietnam than in China and that Vietnam enjoys more democracy than China. But this is debatable. I think there is no certain answer as to which country’s practice is better.
GT: In the international "happiness index" ranking proposed by a British institution last year, Vietnam ranked fifth. Why do Vietnamese feel so happy?
Nguyen: Vietnamese people are naturally optimistic. Their living conditions may be tough, but they still smile at life.
Take an example. A company in Hanoi closed down recently, putting 2,000 people out of work. Two days later, some of those people had gone home and others were already working in other shops.
Some Chinese scholars asked me how Vietnam could solve this problem so quickly. In my opinion, it is mainly because Vietnam is not as big as China.
There are still two major problems in China: First, it is not easy to solve problems in big cities; second, the development of remote areas is still relatively slow.
------------
Hoàn Cầu Thời Báo phỏng vấn GS Nguyễn Huy Quý: Trung Quốc - Việt Nam: Hợp lực tốt hơn bất hoà
Nguồn: Hoàn Cầu Thời Báo
Diên Vỹ, X-Cafe chuyển ngữ
28.12.2010
Lời người dịch: Dù biết rằng những ý kiến dưới đây của Giáo sư Nguyễn Huy Quý là những nhận xét cá nhân, nhưng nhận định rằng Việt Nam và Trung Quốc có chung một nguồn gốc và văn hoá; và rằng thái độ thiếu thân thiện gần đây của Việt Nam đối với Trung Quốc khiến cho quan hệ hai nước xấu đi là bởi những người Việt lưu vong hải ngoại cố tình khiêu khích là những nhận định tuỳ tiện, thiếu cơ sở - đặc biệt là từ một giáo sư từng nghiên cứu giảng dạy tại một học viện uy tín của Việt Nam.
Nguyễn Huy Quý
Lời toà soạn: Hai láng giềng gần gũi Trung Quốc và Việt Nam từng có những quá khứ không tốt đẹp từ những năm cuối 1970s và đầu 1980s. Hai quốc gia đã bình thường hoá quan hệ vào năm 1991. Giáo sư Nguyễn Huy Quý (Nguyễn), cựu giám đốc phân viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã trò chuyện với phóng viên Gu Di của tờ Hoàn cầu Thời báo (HCTB) tại Hà Nội. Ông không đồng ý với việc can thiệp của lực lượng ngoại bang trong vùng Biển Nam Hải, cho rằng Trung Quốc không nên để mình bị lôi kéo vào cuộc tranh chấp.
HCTB: Là một học giả về Trung Quốc ở Việt Nam, quan điểm của ông như thế nào về quan hệ giữa hai quốc gia trong quá khứ?
Nguyễn: Trung Quốc và Việt Nam có nhiều yếu tố giống nhau: cùng một văn hoá, cùng nguồn gốc và từng là đồng chí của nhau. Đây là nền tảng của mối quan hệ giữa hai nước.
Không như những quốc gia ASEAN khác, Việt Nam và Trung Quốc có cùng một nguồn gốc văn hoá. Trung Quốc có 56 nhóm dân tộc ít người, Việt Nam có 54 nhóm. Và có 10 đến 20 nhóm dân tộc ít người xuyên quốc gia dọc theo đường biên giới. Hơn nữa, cả hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Những yếu tố tương đồng này rất quan trọng. Nó giống như mối quan hệ đặc biệt giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc, khác biệt với những quốc gia châu Âu khác. Hoa Kỳ và Anh Quốc không chỉ gần gũi về chính trị, họ còn có chung nguồn gốc chủng tộc.
Tương tự, Việt Nam và Trung Quốc cũng có một mối quan hệ đặc biệt. Trong lịch sử, đã có những bất đồng, nhưng chúng không làm giảm đi giá trị của mối quan hệ đặc biệt này.
HCTB: Một số học giả Trung Quốc cho rằng giới truyền thông Việt Nam đôi lúc tỏ ra không thân thiện với Trung Quốc. Quan điểm của ông như thế nào về cách thức giới truyền thông của hai nước tường thuật về quan hệ Trung-Việt?
Nguyễn: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam thì có lợi cho Trung Quốc. Ưu tiên hàng đầu của chúng tôi là giữ vững mối quan hệ song phương, kể cả việc ngành truyền thông tường thuật những vấn đề nhạy cảm.
Một số người Việt lưu vong ở nước ngoài đang chống đối chính quyền hiện thời đã dùng tinh thần dân tộc Việt Nam để cố tình khiêu khích những bất hoà giữa Việt Nam và Trung Quốc. Những kẻ này vui mừng khi mối quan hệ song phương xấu đi. Ngành truyền thông của hai nước cần tránh sự hiểu lầm bị tăng thêm từ những mâu thuẫn đôi khi xảy ra.
HCTB: Là một học giả người Việt, ông nghĩ gì về mối tranh chấp giữa hai nước trong vấn đề biển Nam Hải?
Nguyễn: Có ba tranh chấp lãnh thổ quan trọng trong quá khứ: vấn đề đường biên giới trên đất liền, vấn đề phân chia ranh giới Vịnh Bắc Bộ và vấn đề biển Nam Hải. Hiện nay chỉ có vấn đề biển Nam Hải còn tồn đọng, nhưng nó đang ảnh hưởng đến quan hệ hai bên. Vấn đề này thì quan trọng đối với cả hai quốc gia.
Trên quan điểm của một học giả, những thông báo và tuyên bố từ cả hai phía thì hơi "quá đáng" và "quá cứng rắn." Cả hai phía không nên đối phó với vấn đề phức tạp này bằng cách khêu gợi tinh thần dân tộc và không nghiên cứu kỹ lưỡng.
Vấn đề này không thể giải quyết được trong thời gian ngắn, nó cần có một môi trường tích cực từ cả hai quốc gia.
HCTB: Trong năm nay, Hoa Kỳ đã bày tỏ ý định sẵn sàng can thiệp vào vấn đề Nam Hải. Ông nghĩ sao về việc này?
Nguyễn: Vấn đề Nam Hải không liên quan gì đến thế lực bên ngoài. Sự can thiệp của họ chắc chắn sẽ tạo ra thêm xung đột giữa hai nước.
HCTB: Người ta nói rằng để đối trọng với Trung Quốc, Việt Nam đang tìm cách gần gũi hơn với Hoa Kỳ. Điều này có đúng không?
Nguyễn: Người ta nói rằng khi quan hệ Trung-Việt đang tốt đẹp, Việt Nam tránh xa Hoa Kỳ; nhưng khi Việt Nam cảm thấy áp lực nhiều hơn từ Trung Quốc, họ lại hướng đến gần Hoa Kỳ hơn. Thực tế là tất cả các quốc gia ASEAN đều muốn cân bằng mối quan hệ đối ngoại của mình.
Vấn đề của Việt Nam là Hoa Kỳ đang gây áp lực vào hệ thống chính trị của Việt Nam. Trên quan điểm ngoại giao, Việt Nam sẽ tìm một thế cân bằng giữa Trung Quốc và các quốc gia phương Tây về các vấn đề quốc tế. Nhưng Việt Nam luôn cảnh giác trong thái độ của mình đối với Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ hi vọng "dùng Việt Nam để bao vây Trung Quốc." Nếu Trung Quốc biến "sự tiến triển trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ" thành một vấn đề nghiêm trọng thì người Mỹ đã đạt được ý đồ của họ.
Có hơn 1 triệu người Việt lưu vong tại Hoa Kỳ, đa số trong họ đến đấy trong thời kỳ chính quyền bù nhìn. Một số trong họ vẫn muốn lật đổ chính quyền Việt Nam hiện tại. Chúng tôi đặc biệt cảnh giác với những người này.
HCTB: Phương Tây thường nói đến "mối đe doạ Trung Quốc." Giờ đây họ lại nói đến "Chủ thuyết cứng rắn của Trung Quốc." Ông nghĩ gì về quan điểm này?
Nguyễn: Tôi chắc chắn rằng ngay cả khi trở nên mạnh hơn nữa, Trung Quốc cũng sẽ không đánh chiếm bất cứ quốc gia nào mà họ đã thừa nhận chủ quyền. Các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc cần hiểu rằng nếu xung đột xảy ra, Trung Quốc sẽ nhắm vào việc lấy lại chủ quyền hơn là xâm lược.
Ví dụ như Trung Quốc sẽ không tấn công Nhật vì vấn đề Quần đảo Điếu Ngư. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt, các đụng độ vũ trang sẽ xảy ra gần Quần đảo Điếu Ngư.
Tôi cho rằng quyền lực cứng của Trung Quốc đã thành hiện thực. Giờ đây họ nên tăng cường quyền lực mềm để có thể trở thành một cường quốc thực sự trong tương lai. Kết hợp nền văn hoá Đông phương và chủ nghĩa xã hội là một lựa chọn an toàn đối với Trung Quốc.
Trong trái tim người Việt, đặc biệt là cấp lãnh đạo, mọi người luôn mong muốn phát triển quan hệ với Trung Quốc. Quan hệ tốt đẹp hơn không những giúp đẩy mạnh việc phát triển kinh tế ở Việt Nam mà còn giúp Việt Nam giữ vững hệ thống của mình. Vì thế, tôi rất lạc quan về mối quan hệ Trung-Việt.
HCTB: Vào tháng Sáu 2010, Quốc Hội Việt Nam đã không chấp thuận dự án tàu cao tốc bắc nam trị giá 56 tỉ đô la. Một số báo chí nói rằng Việt Nam không muốn hợp tác với Trung Quốc trong việc xây dựng đường sắt cao tốc. Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Nguyễn: Trên quan điểm của tôi, dự án này bị bác bỏ không phải vì Việt Nam không tin Trung Quốc. Đây là một dự án xây dựng quan trọng cần phải phù hợp với kế hoạch kinh tế chung của Việt Nam mà không làm gián đoạn mối cân bằng giữa việc phát triển đô thị và nông thôn của quốc gia. Việt Nam có thể sẽ cân nhắc đến một dự án đường cao tốc bắc nam trong vài thập niên tới.
HCTB: Theo ông, khía cạnh cụ thể nào trong quá trình phát triển của Việt Nam mà Trung Quốc có thể lưu ý hoặc học hỏi?
Nguyễn: Trung Quốc nói về "thời kỳ khởi đầu của chủ nghĩa xã hội," và Việt Nam nói về "giai đoạn chuyển tiếp của chủ nghĩa xã hội," đó là hai cách để nói về một thứ.
Trong quan điểm của tôi, Việt Nam cần học hỏi thêm từ Trung Quốc. Dư luận phương Tây cho rằng cải cách dân chủ đang tiến triển nhanh hơn tại Việt Nam so với Trung Quốc và Việt Nam đang có nhiều dân chủ hơn Trung Quốc. Nhưng điều này có thể bàn cãi. Tôi nghĩ rằng không có câu trả lời rõ ràng về việc quốc gia nào đang làm việc này tốt hơn.
HCTB: Trong bảng xếp hạng quốc tế về "chỉ số hạnh phúc" do một học viện Anh Quốc thực hiện, Việt Nam đứng hàng thứ 5. Vì sao người Việt cảm thấy quá hạnh phúc như thế?
Nguyễn: Bản chất của người Việt là lạc quan. Điều kiện sống của họ có thể còn khó khăn, nhưng họ vẫn nở nụ cười với cuộc sống.
Lấy ví dụ. Một công ty ở Hà Nội vừa đóng cửa, khiến 2.000 người bị thất nghiệp. Hai ngày sau, một số những người này đã về nhà và những người khác đã có công việc ở những công ty khác.
Một số học giả Trung Quốc hỏi tôi tại sao Việt Nam có thể giải quyết khó khăn này một cách mau chóng. Trên quan điểm của tôi thì bởi vì Việt Nam không lớn như Trung Quốc.
Vẫn có hai vấn đề quan trọng tại Trung Quốc: Trước hết, không dễ để giải quyết các khó khăn tại những thành phố lớn; thứ hai, việc phát triển tại những vùng sâu vùng xa thì vẫn tương đối thấp.