Thứ Hai, 17 tháng 1, 2011

Linh mục, vai trò tôn giáo và chính trị

-Linh mục, vai trò tôn giáo và chính trị (I)
Nguyễn Văn Lục

Quyền lợi và nguyện vọng thiết tha có độc lập vượt lên trên những vị trí và vai trò lãnh đạo tôn giáo. Vai trò tôn giáo và chính trị của các giám mục tiên khởi Việt Nam

Hiện nay, hơn bao giờ hết giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam đang ở trong một tình thế cực đoan, bó buộc phải lựa chọn một con đường chính đạo ‒ đi đúng đường hay là chết.

Nghĩa là giáo dân có thể, một là trở nên khí phách, can trường và chấp nhận thử thách, đối đầu; hai là đi lạc hướng như ngày xưa dân Athènes đã đi hay đi vào ngõ cụt như dân Spartes. Hoặc trở thành nhu nhược, hèn yếu, cúi đầu như dân Do Thái trong thời kỳ nô lệ.

Chính ở trong những tình thế cực đoan như hôm nay mà khi nhìn lại gương của các vị tổ tiên, các vị cha ông những người theo thiên chúa giáo, các vị tử đạo ngày xưa, họ đã lựa chọn và đã dẫn dắt con cháu họ đi con đường của Chúa thay vì con đường của thế tục.

Và cha ông họ đã sống xứng đáng không phải hổ thẹn trong suốt lịch sử 500 năm người có đạo và lịch sử trăm năm dưới thời nhà Nguyễn và thực dân Pháp.

Biết bao đắng cay và tủi nhục với những lời nguyền rủa, oán trách lẫn thị phi vì những lựa chọn của họ. Những lựa chọn can đảm ấy là cớ sự cho biết bao hy sinh và chịu đựng.

Lịch sử những năm tháng ấy để lại một bài học duy nhất là giáo hội Thiên Chúa giáo không thể tương hợp (incompatible) với các thế lực như chế độ phong kiến, chế độ thực dân và nay với chủ nghĩa cộng sản từ những thập niên 1930.

Và nay ai còn đặt sự tin tưởng về sự hợp tác, về hòa giải nhất là việc đồng hành với dân tộc thì đó thật ra chỉ là một ảo tưởng tuyên truyền,

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, đã có lúc nào tôn giáo có thể thể đồng hành với chính quyền cộng sản?

Bởi vì không có cái gì quyết định là ngày mai chế độ cộng sản sẽ phải tốt hơn hôm nay ! Nên không có bất cứ bảo đảm nào cho phép ta «đồng hành» với họ, dù chỉ là giai đoạn.

Giáo Hội Thiên Chúa giáo sau hơn nửa thế kỷ dưới ách cộng sản cơ hồ đã mất tất cả: mất đất, mất tài sản, mất tất cả các cơ sở hoạt động xã hội, cơ sở giáo dục, quyền tự do tín ngưỡng bao gồm các đại chủng viện, tiểu chủng viện, quyền tuyển chọn phong chức, bổ nhiệm, v.v…

Với cung cách lãnh đạo của một số giám mục mất bản chất hiện nay có gì bảo đảm quyển kinh thánh còn lại là sẽ còn là vật sở hữu của người Thiên Chúa giáo?

Người cộng sản sẽ không cần thiết triệt tiêu cuốn kinh thánh ấy, nhưng chỉ cần xâm nhập, lũng đoạn từ bên trong đủ để đưa giáo hội biến chất, tiêu vong.

Khi tôi đang viết những dòng này, thì không biết rằng ngày mai, bài viết này có thể tới tay bạn đọc trong nước được không?

Bài viết này dựa trên những biến cố chính trị lớn trong thế kỷ 20, người viết nhìn lại giáo hội Việt Nam thông qua các vị lãnh đạo là các giám mục Việt Nam, đặc biệt 4 giám mục tiên khởi, các giám mục Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục và Lê Hữu Từ.

Tình hình chính trị thế giới

Sau thế chiến thứ nhất và nhất là sau thế chiến thứ hai đã khởi động “xu hướng giải thực”. Nhiều cuộc tranh đấu của các dân tộc bị áp bức đang nổ ra những phong trào giải phóng, dành độc lập diễn ra trên toàn thế giới.

Hơn ai hết, tòa thánh Vatican nhận thức rõ cái ngày tàn của chủ nghĩa thực dân đế quốc không còn xa.

Vì thế, đường lối của Vatican có thay đổi.

Vatican thường có một chính sách ngoại giao được gọi là Ostpolitik, nghĩa là vừa dựa trên những nguyên tắc về giá trị, về đạo đức và thẩm quyền tinh thần thiêng liêng của tôn giáo và vừa dựa trên thực tế thương lượng trong tinh thần tương nhượng.

Quan niệm Ostpolitik này cho phép Vatican xét đến tính chất phức tạp, đa chiều, nhiều mặt của quyền lợi địa phương, quyền lợi chính trị và những thẩm quyền tinh thần của giáo hội qua Vatican.

Cân bằng được quyền lợi từ nhiều phía và đặt trọng quyền lợi giáo hội địa phương là đường lối của Vatican qua hai tông thư sau đây.

Đó là đường lối mà Vatican đã áp dụng để đối đầu với các chế độ thực dân như Pháp trước đây và bây giờ là chế độ cộng cản.

Vì thế, cho đến hiện nay xem ra chính sách ngoại giao Ostpolitik vẫn còn đang được áp dụng ở VN.

Nếu trước đây Vatican phải tìm cách thương lượng với người Pháp cho quyền lợi giáo hội VN theo đối tác một đổi một thì nay phải thương lượng một đổi một với những chòng chéo, từng bước một, từng vấn đề một, từng trường hợp một.

Đó là cái khó tất yếu của hoàn cảnh giáo hội VN bây giờ.

Và trước đây, để giải quyết những dị biệt quyền lợi tôn giáo giữa Vatican với thực dân Pháp ở Việt Nam với giáo hội địa phương, giáo hoàng Benedict XV đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ và thay đổi tận gốc rễ giáo hội VN bản địa bằng hai tông thư. Tông thư thứ nhất Maximum Illud (nói về về việc truyền bá đức tin trên toàn thế giới, an Apostolic Letter of Pope Benedict XV issued on November 30, 1919 ,in the sixth year of his pontificate. It deals with the Catholic missions after World War I. Pope Benedict XV), Tông thư thứ hai nói về Rerum Ecclesiae (về sứ mệnh Thiên Chúa giáo, Given at Rome, at St. Peter's, the twenty-eighth of February, in the year 1926, the fifth of Our Pontificate. Pope PIUS XI).

Hai Tông thư này của Vatican chủ trương thay thế vai trò của các Hội truyền giáo của các chế độ thực dân, như Hội truyền giáo Ba Lê ở VN và trả lại vai trò lãnh đạo và điều hành cho giáo hội địa phương.

Có nghĩa là qua hai Tông thư này, Vatican muốn “bản địa hóa” giáo hội Việt Nam với việc truyền chức cho các giám mục VN trong vai trò lãnh đạo.

Thành phần các vị lãnh đạo VN này sẽ thay thế dần vai trò mà trước đây dành cho các vị thừa sai Pháp.

Phải nhìn nhận rằng, người ta thường có thói quen coi người Pháp là giỏi, là chủ nhân cũng như các vị linh mục thừa sai ngoại quốc thì giỏi hơn linh mục Việt Nam. Điều đó đã trở thành một nếp nghĩ quen thuộc in vào đầu óc của các thừa sai Pháp và ngay cả nơi giáo sĩ VN là: người ta thường cho rằng giáo sĩ VN chưa đủ tầm vóc, còn quá yếu kém về trình độ nhận thức cũng như ngay cả về mặt tu đức để có thể đảm nhận các chức vụ thừa tác chỉ huy như giám mục cai quản địa phận.

Nhưng Vatican đã không nhìn vấn đề như các thừa sai Pháp.

Việc đánh giá thấp khả năng của hàng tu sĩ Việt Nam thật sự chỉ là che đậy một sự lạm quyền.

Đó là muốn kéo dài một tình trạng bất công vốn không nên tồn tại.

Vì thế, bức Tông thư của Vatican đã tố cáo các nhà thờ Thiên Chúa giáo mang tính chất phân biệt chủng tộc. Tông Thư viết:

“Những người coi người bản địa là chủng tộc hạ đẳng hay người có trí tuệ thấp kém là đã phạm sai lầm nghiêm trọng » Giáo Hoàng Pius XI viết trong Rerum Ecclesiae như thế «Kinh nghiệm lâu dài chứng minh rằng người dân ở các khu vực phương Đông và phương Nam xa xôi thường không thấp kém hơn chúng ta, và có thể đứng ngang hàng với chúng ta ngay cả trong lĩnh vực trí tuệ nữa. Còn nếu ở ngay trung tâm những nước bán khai có những người không có khả năng hiểu biết thì điều chủ yếu là vì điều kiện sống của họ mà thôi.” (Trích lại bài của Charles Keith, “Annam vùng lên”, do Phạm Minh Ngọc dịch, trang 3, trong tạp chí talawas số mùa thu 2009.)

Giả thiết rằng hàng giáo sĩ bản xứ có yếu kém đi nữa lúc ban đầu thì cũng cần can đảm loại bỏ tình trạng “lệ thuộc” này.

Tình trạng lệ thuộc, dù có bề ngoài tốt đẹp, hòa hợp mấy đi nữa giữa giáo sĩ thừa sai ngoại quốc và hàng giáo xứ bản địa cũng gián tiếp thừa nhận tính không chính đáng (Illegitimacy) của các thừa sai Ba Lê.

Về mặt chính sách có thể có sự nghi kỵ là các thừa sai được gửi đến để cai trị không phải để giúp đỡ, họ đến không phải chỉ để truyền giáo mà gián tiếp còn hỗ trợ chế độ thực dân.

Vì thế, đã đến lúc phải chấm dứt chế độ lệ thuộc vào các thừa sai người Pháp, mặc dầu vẫn phải nhìn nhận phần đông các thừa sai có đạo đức và có lý tưởng.

Chẳng hạn giáo phận Hà Nội cho thấy đã có một thời dưới sự quản nhiệm rất tốt của các giám mục thừa sai như Lm Liêu (Retord), Lm Đông (Gendreau) và người cuối cùng là Lm Thịnh (Chaize) như lời trân trọng trong cuốn “Chứng từ của một giám mục” của Lm Phao lồ Lê Đắc Trọng đã ghi lại:

“Phần tôi Đức cha Thịnh với cách sống ẩn dật.. là người có công lớn lao nhất trong hàng giám mục địa phận nhà (...) Đức cha Thịnh chỉ dùng chiếc xe đầm (xe đạp dành cho phụ nữ). Cả những lúc có ô tô, ngài cũng cứ dùng xe đạp. Đời sống lúc nào cũng bình dị, cả cách ăn mặc. Gương đó tác động rất nhiều đến hàng giáo sĩ Hà Nội, dòng tu, v.v... Các vị đi đâu, ở đâu cũng ít tham tham lam của cải, sống bình dị hơn, nếp sống trở thành truyền thống (...) Thế mà trong thời kỳ tranh tối, tranh sáng, thân Pháp cũng chết mà thân Việt Minh cũng chết, Đức cha Thịnh vẫn giữ được thăng bằng giữa hai khuynh hướng. Tất cả đều quý mến ngài, vâng phục ngài.

Với sự ra đi của một Đức Giám Mục sống có vẻ âm thầm nhất, nhưng đã viết nên những trang sử đẹp đẽ nhất, vào thời kỳ lũng loạn nhất, sau thời kỳ bách hại của thế kỷ trước, một trang sử của địa phận Hà Nội đã tạm khép lại. Một trang mới đang mở ra, trong cảnh rối ren nhất của lịch sử Việt Nam”.

(Trích “Chứng từ của một giám mục”, Phao lồ Lê Đắc Trong, trang 464-465).

Như thế, bản thân các thừa sai Ba Lê cho thấy họ phần đông là những gương mục tử tốt lành. Nhưng chính sách thực dân vẫn là cái gai trong mắt người tín hữu cần phải nhổ.

Chính các vị thừa sai có thể cũng là nạn nhân. Họ bị coi như những người thừa hành đường lối, chính sách thực dân Pháp. Việc truyền giáo trở thành những âm mưu chính trị nằm trong chính sách cai trị của người Pháp.

Phần người Thiên Chúa giáo Việt Nam một cách gián tiếp nhận một số phận bạc bẽo nhất: một cổ hai tròng có thể bị coi là phản lại quyền lợi đất nước nếu trung thành với lý tưởng tôn giáo.

Việc bản địa hóa giáo hội Thiên Chúa giáo như Việt Nam còn là dịp đánh tan mọi suy đoán cho rằng Vatican cấu kết với chế độ thực dân để bành trướng Kitô giáo La Mã.

Chính sách của Vatican là “Không chỉ nhằm thoát khỏi những rắc rối của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thực dân mà còn chuẩn bị, cho tương lai hậu thuộc địa của nhà thờ nữa.”

(Trích John Pallard, Unknown Pope, Benedict XV ( 1914-1922) and the pursuit of peace, London, Geoffrey Chapman, 1999, trg 203. Trích lại trong bài viết Charles Keith).

Các Tông thư ấy mở ra môt chân trời mới với niềm hy vọng về sự trưởng thành của giáo hội bản xứ có thể dần tách ra khỏi quỹ đạo do sự bảo hộ của các thừa sai ngoại quốc.

Điều đó chứng tỏ Vatican khôn ngoan đúng mức đứng về phía các dân tộc bị trị, bị áp bức thay vì đứng về phía các đế quốc thực dân như người ta thường suy luận một cách hẹp hòi và thành kiến. Thường người ta liên kết chính sách của thực dân Pháp và thừa sai Pháp Pháp cấu kết với nhau để thục hiện chính sách đồng hóa.

Xem thêm “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam”, Cao Huy Thuần, chương “Đạo Thiên Chúa và chính sách đồng hóa”, trang 174

Để khởi đầu cho việc thay thế các thừa sai ngoại quốc ở VN, Vatican đã nghĩ tới việc gửi sang VN một vị khâm sứ đại diện Vatican thay vì vẫn phải qua trung gian các thừa sai.

Vị khâm sứ từ nay đại diện cho Vatican không qua trung gian các thừa sai Ba Lê nữa chấm dứt hàng thế kỷ vai trò chủ yếu của Hội truyền giáo (SMEP). Ngay khi thế chiến 1 vừa chấm dứt, Rome tiến hành ngay việc bản địa hóa hàng giáo phẩm địa phương bằng cách gửi giám mục Henri Lécroat sang khảo sát thực địa ở Việt Nam.

Bước khởi đầu là do sự vận động của ông Nguyễn Hữu Bài trong dịp ông ghé qua Rome năm 1922. (Ông Nguyễn Hữu Bài tham gia phái đoàn của vua Khải Định viễn du nước Pháp. Nhân chuyến công du này, ông có ghé Rome và đệ trình lời thỉnh cầu lên giáo hoàng cho thiết lập tòa khâm sứ ở Huế. Ông đã thuyết phục được tổ chức truyền giáo ở Vatican đặt tòa Khâm sứ ở Huế bằng cách hiến một khu đất dưới sự bảo trợ của của ông Lê Phát An, một người giàu có ở xứ Nam Kỳ).

Và ngày 20 tháng 5, 1925, một tòa khâm sứ đầu tiên đã được thiết lập ở Huế.

Dĩ nhiên, người Pháp có đủ lý do chính đáng để lo ngại trước những thay đổi này của Vatican và tìm mọi cách để ngăn cản và phản đối bằng đường ngoại giao. Quan chức Pháp đã tìm cách ngăn chặn việc thiết lập tòa khâm sứ ở Hà Nội. Nguyễn Hữu Bài đã khôn khéo đề nghị Vatican chọn Huế, xa hẳn hai trung tâm quyền lực của Pháp là Sài Gòn và Hà Nội.

Chọn Huế để thiết lập tòa khâm sứ là một đắc sách thắng lợi của Vatican. Vatican qua giám mục Constatino Aitui, vị khâm sứ đầu tiên, còn vận động để cho ra đới một tờ báo dành cho giới tăng lữ Việt Nam. Tờ Sacerdos Indonenensis, trụ sở tại Huế, xuất bản đều đặn từ 1927 đến 1944.

Những linh mục tác giả đầu tiên viết cho tờ báo này bằng ba thứ tiếng (quốc ngữ, La Tinh và Pháp) là các linh mục Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục mà sau này họ trở thành những giám mục tiên khởi của Việt Nam. (Sau này khi giám mục Aitui chết, vào năm 1928, một tác giả Việt Nam là ông Thế Hùng trong bài viết nhan đề “L’église catholique et la colonisation francaise”, Études Vietnamiens no 53(1978) cho rằng ông bị các thừa sai Pháp đầu độc chế. Tuy nhiên, ông Thế Hùng đã không dẫn chứng đủ bằng cớ nên bài viết ấy chỉ được coi là dư luận đồn thổi không có căn cứ.

(Trích sơ lược tác giả Charles Keith như trên.)

Việc ông Nguyễn Hữu Bài vốn là một quan chức làm việc thân cận cho chính quyền thực dân Pháp, nhưng lại có một cái nhìn viễn kiến về tương lai giáo hội bản địa là một điều không khỏi ngạc nhiên. Một nhận thức sớm sủa về sự tự chủ và độc lập cho giáo hội địa phương là điều quá mới mẻ và táo bạo. Chẳng những thế, ông còn chủ tâm cài đặt những người con của Ngô Đình Khả, đặc biệt Ngô Đình Khôi vào các chức vụ quan trọng trong triều chính. Nó cũng mở đường cho vai trò của Ngô Đình Thục và các người em như Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu tham gia chính trị sau này. Ông Ngô Đình Khả di huấn về Ngô Đình Diệm, “Diệm, Con có đủ các đức tính cần thiết để trở thành người lãnh đạo tốt. Con phải lãnh đạo.” Và với các con: “Các con phải cùng với nó (Diệm) tranh đấu dành lại cho được một nền độc lập hoàn toàn, thì mới thực hiện công cuộc cải tạo xã hội, xóa bỏ bất công được để lãnh đạo sau này. Và yêu cầu các em ông phải hỗ trợ cho Ngô Đình Diệm.”

Xem thêm “Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt”, Nguyễn Văn Minh, trang mở đầu.

Việc tấn phong giám mục Nguyễn Bá Tòng

Đa số các giám mục của SMEP và các nhà truyền giáo ngoại quốc đều phản đối việc tấn phong giám mục cho người Việt. Điển hình là giám mục Sài Gòn, giám mục Isidore Dumortier phản đối mạnh mẽ và cho rằng, “rõ ràng là việc đặt vấn đề về sứ mạng của người bản xứ ở Đông Dương sẽ chẳng mang lại lợi lộc cho việc vinh danh Thiên Chúa và sự an lạc của linh hồn.” Giám Mục Roy, địa phận Vinh cũng cho rằng các linh mục Việt học tập chưa đến nơi đến chốn.


Nguồn: trunghocnguyenbatong.com
Chỉ có hai giám mục chấp thuận việc tấn phong giám mục Việt Nam là giám mục Alexandre Marcou, giám mục Phát Diệm và giám mục Eugène Allys, giám mục Huế, một người có quan hệ thân tình với ông Nguyễn Hữu Bài.

Mặc dầu có sự phản đối của các thừa sai Pháp, việc tấn phong giám mục Việt Nam vẫn tiến hành.

Bước đi kế tiếp của Vatican được khẳng định thêm khi giáo hoàng Pius XI tấn phong Nguyễn Bá Tòng làm giám mục tiên khởi Việt Nam tại nhà thờ thánh Peter Basilica vào ngày 11 tháng 6 năm 1933.

Việc tấn phong này mở ra một kỷ nguyên mới cho giáo hội VN phù hợp với xu hướng bản địa hóa hàng giáo phẩm VN của Vatican.

Nó cũng đáp ứng và đi song hành với xu hướng giải thực trên toàn thế giới vào thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Trong một bài diễn văn đọc tại Hà Nội, giám mục Nguyễn Bá Tòng khẳng định, “Chúng ta hãy chúc mừng tương lai của nhà thờ Annam. Trong khi buổi lễ này là tưởng nhớ quá khứ. Nhưng nó chủ yếu nói về tương lai (...) Đối với vị tân giám mục, sự vĩ đại ở nhà thờ Việt Nam không phải chỉ là những hy sinh của nó trong quá khứ mà là đức tin mà ông đang chứng kiến ở chung quanh.”

Đây cũng là lần đầu tiên, một giám mục Việt Nam được diễn thuyết tại nhà thờ Lớn Hà Nội, một ngôi nhà thờ được xây dựng từ năm 1886 và nay 1933 có một giám mục Việt Nam giảng thuyết trong nhà thờ này.

(Trích lại bài diễn văn của S.E Monseigneur Tòng a prêché Dimanche 19 novembre 1933 à l’église cathédrale de Hanoi đăng trong l’Avenier du Tonkin, Novembre 20, 1933. Trích lại trong bài viết của Charles Keith, bản dịch của Phạm Ngọc Minh nhan đề: Annam vùng lên: Những vị giám mục đầu tiên của VN và sự hình thành giáo hội dân tộc, giai đọan 1919-1945. Tạp chí Talawas số mùa thu 2009.)

Nay đọc lại một số bài viết ca ngợi Nguyễn Bá Tòng được Charles Keith trích dẫn cho thấy con người và vai trò của giám mục Nguyễn Bá Tòng đối với tương lai giáo hội Việt Nam không phải là nhỏ. Hàng ngàn, hàng vạn người từ khắp nơi như chảy hội đi nghênh đón giám mục mỗi khi ông đến một nơi nào. Ông đã đi khắp nơi ở Việt Nam để nói chuyện. Các bài viết của linh mục Paul Vàng về vị giám mục tiên khởi được đăng đầy đủ trong tờ Nam Kỳ dịa phận và sau in thành sách. Trong bài chúc từ của các Lm Phát Diệm viết, “Đây là lần đầu tiên, mẹ Lạc nhìn thấy một trong những người con của mình được đội lên đầu vương miện bằng vàng từ Âu Châu đi qua khắp các lãnh thổ của người Việt.”

Đó là một vinh dự cho giáo hội bản địa đồng thời cũng là một vinh dự cho người bản xứ nói chung.

Việc tấn phong giám mục Hồ Ngọc Cẩn


Nhà thờ Chính toà Bùi Chu (xây từ 1884)
Nguồn: trunghocnguyenbatong.com
Tiếp theo đó là việc tấn phong giám mục Hồ Ngọc Cẩn cho địa phận Bùi Chu, ngày 29 tháng 6 năm 1935, một lần nữa tạo nên một niềm khích lệ lớn lao cho giáo hội Việt Nam.

Ông là một trong số hiếm hoi những người cầm bút viết và được xuất bản trong giai đoạn thuộc địa. Ông vừa là một nhà trí thức, vừa là nhà thần học sâu sắc. Ông đà dành 30 năm cho việc giảng dạy và trước tác trong các trường dòng.

Việc tấn phong giám mục cho ông đã tạo một tinh thần phấn chấn mà đa số các tu sinh đã đổ về Bùi Chu để theo học – đông đến nỗi một số tu sinh phải trở về vì trường không đủ chỗ chứa.

Cũng như việc tấn phong giám mục cho Nguyễn Bá Tòng, khó có thể nói hai việc tấn phong này hoàn toàn là hai sự kiện mang thuần tính tôn giáo.

Nhà cầm quyền Pháp lo sợ ảnh hưởng của các vị tân giám mục. Phần dân chúng Việt Nam thì hãnh diện, hân hoan đón chào.

Sự lo sợ ấy có lý do của nó. Giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu là một trong những cộng đồng Thiên Chúa giáo lâu đời nhất. Hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm với số người theo đạo Thiên Chúa bằng một nửa tổng số người theo đạo trong cả nước.

Tỉ lệ số người theo đạo Thiên Chúa cao như thế ở hai nơi này là một khu vực thận lợi nhất dành cho hai vị giám mục này Nhà thờ Phát Diệm được xây cất nửa theo Gothic, nữa theo kiểu chùa chiền cho thấy tính chất lai tạp và độc đáo riêng của giáo phận này. Với những cái cột bằng cả một thân cây và với một bàn thờ sơn đỏ trông gần giống một ngôi chùa hơn là các nhà thờ Thiên Chúa giáo.

Phải chăng việc xây cất ngôi thánh đường Phát Diệm là một chủ tâm bản địa hóa nhà thờ qua việc xây cất?

Công trình xây dựng này dành cho một linh mục nổi tiếng ở vùng này là Lm Trần Lục xây dựng nên.

Một ông chủ nhà in ở Hà Nôi, ông Ngô Tử Hạ, sau này là người theo ông Hồ Chí Minh đã bỏ tiền ra để lo các chuyến công du của hai vị giám mục này.

Tóm lại việc tấn phong hai giám mục VN cứ theo như lời tuyên bố của GM Nguyễn Bá Tòng thì về mặt tôn giáo, ông khẳng định rằng Thiên Chúa giáo ở Việt Nam đang ở giai đoạn hồi sinh. Ông nói, chúng ta hãy chúc mừng tương lai của nhà thờ Việt Nam. Đối với giáo dân Sài Gòn, vị Gm này trấn an rằng: Đây là một niềm tin tốt lành, “Cả bên trong lẫn bên ngoài quốc gia, chúng ta là một nhà thờ.”


Gm Giuse Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn
Nguồn: svbuichu.uni.cc
Nhưng về mặt chính trị, Gm tuyên bố, “Nam Bắc là một dân tộc thống nhất.” Ông cũng cho rằng nhà thờ Thiên Chúa giáo Việt Nam là một tổ chức dẫn đầu của giáo hội Thiên Chúa giáo Á Châu và khẳng định rằng việc tấn phong ông là tín hiệu cho thấy “tinh thần quốc gia” của cộng đồng Thiên Chúa giáo của Việt Nam, dù bị những sự kiện khó khăn của thế kỷ XIX kìm nén.

Những lời tuyên bố của vị giám mục này đương nhiên trở thành mối lo ngại cho người Pháp về sự vươn dậy của tinh thần quốc gia nơi những người Việt.

Nhưng về mặt chính trị, biến cố đáng quan tâm nhất là lá thư của bốn vị giám mục tiên khởi Việt Nam gửi cho Giáo Hoàng sau ngày tuyên bố độc lập do Hồ Chí Minh đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đình.

Vì thế khi có bản tuyên ngôn độc lập 1945 thì tất cả 4 giám mục Việt Nam lúc bấy giờ gồm giám mục Nguyễn Bá Tòng, Gm Hồ Ngọc Cẩn, Gm Ngô Đình Thục và Gm Lê Hữu Từ đã gửi một điện văn đến tòa thánh Vatican và hai nước Anh Mỹ lời yêu cầu:

“Notre cher pays est actuellement envahi et défend son indépendance, la cause de la justice et la liberté. Ses enfants animés du plus pur patriotisme, se font décimer sur les champs de batailles, alors que leurs bras seraient si utiles pour la reconstruction de leur patrie».

Nội dung nhằm ủng hộ một nền độc lập cho Việt Nam. Yêu cầu hai nước Anh Mỹ can thiệp hiệu quả để tránh cho VN khỏi rơi vào cảnh chiến tranh.

Nội dung điện văn gửi đi trích trong “Dieu et César”, Trần Tam Tỉnh, trang 58.

Nội dung bức điện văn chứng tỏ sử trưởng thành chính trị, sự độc lập của hàng giám mục Việt Nam của các giám mục VN bên cạnh một số không nhỏ còn lại khoảng 14 giám mục ngoại quốc.

Quyền lợi và nguyện vọng thiết tha có độc lập vượt lên trên những vị trí và vai trò lãnh đạo tôn giáo. Sự im lặng và thái độ của các thừa sai ngoại quốc dù không đồng thuận với nguyện vọng của 4 giám mục VN cũng hiểu được và chia xẻ sự tế nhị về sự ràng buộc với đất nước của họ.

(Còn tiếp)


© DCVOnline
 
Vai trò của bốn giám mục tiên khởi đánh dấu một giai đoạn khởi đầu đầy hứng khởi cho giáo hội Thiên Chúa giáo và lúc kết thúc một cách bi kịch vì những dính dáng chính trị đi ra ngoài khuôn khổ… Vai trò tôn giáo và chính trị của các giám mục tiên khởi Việt Nam


Việc tấn phong giám mục Ngô Đình Thục


Đến năm 1938, Vatican một lần nữa đã bổ nhiệm Ngô Đình Thục trở thành giám mục trẻ nhất, 42 tuổi cai quản địa phận Vĩnh Long, tại Nam Kỳ. Nơi được coi là lãnh thổ chính trị của chế độ thực dân đế quốc.

Dù muốn dù không muốn, đây là một “thách thức” chính phủ Nam Kỳ thuộc Pháp.

Vì thế, cũng phải nhìn nhận tính cách tôn giáo và chính trị trong việc bổ nhiệm này.

Phần giám mục Ngô Đình Thục khẳng định Rome chứ không phải người Pháp đưa ông đến địa vị này. Ông là vị giám mục đầu tiên được gửi đi du học tại Rome vào nămn 1919 và được phong linh mục năm 1929, sau đó sang Pháp để học thêm về giáo luật.

Trong bài diễn văn nhận chức, ông đã tỏ lời tri ân giáo hoàng và người đã dẫn dắt ông đến địa vị này là cha Fumasoni-Biondi và đức cha Antonin Drapier, khâm sứ tòa thánh tại Đông Dương.

Ông đã không một lời cám ơn người Pháp trong các bài diễn văn của ông.

Đồng thới ông bày tỏ lòng tri ân và trung thành tuyệt đối với tổ quốc Annam của mình.

Chính vì những lời tuyên bố của vị giám mục này mà chính quyền Pháp đã phản đối việc tấn phong và ngăn cản việc trở về Vĩnh Long của ông.

Theo một bá cáo của người Pháp, giám mục Thục “đã viết thư cho viên Cao Ủy Pháp xin được trở về Vĩnh Long. Nhưng Cao Ủy Argenlieu đã phản đối việc về Vĩnh Long của vị giám mục này vì thái độ thân Việt Minh một cách rõ rệt không còn nghi ngờ gì nữa. Và căn cứ trên tình hình chính trị rối ren lúc này ở Nam Kỳ, Cao Ủy cho rằng việc trở về Vĩnh Long xem ra quá sớm sủa.” (Trích Trần Thị Liên trong “Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’Indépendance 1945-1954”, trang 42

Trong bức thư mục vụ đầu tiên, giám mục Ngô Đình Thục đã gián tiếp theo tinh thần của Tông thư Maximum Illud và Rerum Ecclesiae ở trên khi khẳng định rằng “Các linh mục Việt Nam sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trong giáo phận mới vì sự thiêng liêng, trí tuệ và học vấn của họ không thua kém gì các nhà truyền giáo Âu Châu. Giáo phận mới chứng tỏ rằng được giáo hoàng thương yêu tôn trọng và tin tưởng nhân dân Việt Nam như tin tưởng hàng trăm ngàn linh hồn nằm trong tay vị giám mục Việt Nam và các linh mục Việt Nam với trách nhiệm đưa họ đến Thiên Đường.”

Tôi tự hỏi trong việc bổ nhiệm này, Vatican có phải “xin phép” và mặc dầu có sự chống đối chính thức của chính quyền Pháp cũng như của viên thống sứ Nam Kỳ? Nhưng cuối cùng thì Vatican có phải xin phép chính quyền thực dân Pháp giống như HĐGM Việt Nam phải xin phép đối với chính quyền cộng sản Hà Nội hiện nay hay không?

Việc tấn phong Ngô Đình Thục gián tiếp gợi nhớ đến những người như Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả. Việc tôn vinh một tân giám mục trí thức và xuất sắc cho thấy tính cách một đại gia đình quý tộc miền Trung đang nắm giữ một vị trí quan trong trong giáo hội Thiên Chúa giáo cũng như tiềm năng chính trị tương lai của những người em là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu.

Thượng thư Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài tháp tùng Vua Khải Định sang Pháp 1922 (TT Bài là cha bà Nguyễn Thị Giang, vợ ông Ngô Đình Khả)
Nguồn: nguyenphuoctoc.info
Trong buổi lễ tấn phong giám mục tại Huế, nhiều báo chí đã ghi lại những hình ảnh kỷ niệm về Nguyễn Hữu Bài đã có công gởi tu sinh đi du học nước ngoài, trong đó có cậu thanh niên Ngô Đình Thục. Những hình ảnh ghi lại khi Nguyễn Hữu Bài có dịp đến Rome đã có dịp gặp gỡ tu sinh Ngô Đình Thục đang học ở Rome như thế nào. Người ta còn trích dẫn một số bài thơ của Nguyễn Hữu Bài và được đọc lên trong buổi lễ tân phong giám mục.

Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Luyện nay có dịp chính thức tháp tùng vị tân giám mục trong các buổi lễ chính thức, chu du khắp mọi miền đất miền Nam cũng như đất Bắc. Từ đó giúp họ học hỏi quan sát và tiếp xúc dưới bóng của vị giám mục. Cũng nhờ đó giúp họ có cái nhìn toàn diện về con người, về hoàn cảnh chính trị của ba miền. (Trích tóm tắt Charles Keith trong Annam vùng lên như trên.)

Không lạ gì vai trò của ông Ngô Đình Thục sau này dính dáng nhiều trực tiếp cũng như gián tiếp đến sinh mệnh chính trị của các anh em của ông như ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Sự dính dáng xa gần, tạo ảnh hưởng hay khuyến cáo của GM đã có lúc đạo đời dẫm chân lên nhau. Lúc nào và trong tư cách gì, vai trò giám mục trở thành tiếng nói uy quyền và chỉ đạo trong những vấn đề thuộc chính trị? Có sự lẫn lộn đạo và đời, có sự tôn giáo xâm nhập vào lãnh vực chính trị mà nhiều người không dám nói thẳng ra.

Sự nể vì phải im lặng trở thành nỗi hậm hực của cả trong và ngoài giáo hội.

Sự lạm quyền cũng đã xảy ra nhân danh một giám mục là nguyên nhân của những ngòi thuốc nổ chậm làm khuynh đảo chế độ. Người ta ghét chế độ đồng thời ghét cả tôn giáo của người lãnh đạo. Cả đạo lẫn đời đều bị thiệt thòi.

Đó là những bước đi chệch lạc của vị giám mục này.

Phải nói rằng, ở những giai đoạn trước 1954, GM Ngô Đình Thục có một tinh thần dân tộc ôn hòa (modéré) cố giữ được sự trung lập cần thiết trong mối giao hảo với người Pháp. Mặc dầu vậy, ông vẫn nghiêng về phía các phong trào kháng chiến, trong đó có Việt Minh như trong hai lá thư viết cho Phạm Văn Bạch và tướng Nguyễn Bình.

Người ta cũng không quên được ông vốn là người mang nặng tình cảm gia đình, gắn bó ruột thịt với các người em của ông đang có những hoạt động chống Pháp vào những năm 1945. Hai người em, đặc biệt Ngô Đình Diệm đã bị nghi ngờ về xu hướng theo Nhật và đã bị Pháp bắt giữ. Vì thế, ông đã nóng lòng và không ngần ngại hy sinh tiếng tăm và “tạm thời bỏ quên quan điểm chính trị” của mình viết một lá thư năn nỉ, xin sỏ một cách yếu hèn gửi cho toàn quyền Đông Dương Jean Decoux vào ngày 21 tháng 8, 1944 để xin vị toàn quyền khoan hồng cho các em. Nội dung lá thư gửi cho Decoux có đoạn:
“S’il était prouvé que leur activíte a pu nuire aux intérêts de la France, je la désapprouve du fond du coeur, come évêque, comme annamite, et commme membre d’une famille dont le père a servi la France dès sa premìere venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions menées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandées par Phan Đình Phùng à Ngệ An et Hà Tĩnh.”

Nếu biết rằng các hoạt động của các em tôi chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một giám mục, tư cách của một người An Nam và với tư cách của một người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ cho nước Pháp ngay từ khi người Pháp đến Việt Nam và thân phụ tôi đã nhiều lần liều mình đưa mạng sống mình phục vụ cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu dưới quyền của Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nội loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tĩnh…”

Nếu chỉ căn cứ vào lá thư này thôi thì tự thân lá thư là điều đáng để kết án.

Nhưng nếu căn cứ đầy đủ các tài liệu phúc trình của Phòng Nhì Pháp nay còn lưu trũ ở văn khố Pháp thì người Pháp nghi ngờ và tìm mọi cách ngăn cản những hoạt động của Ngô Đình Thục trong vai trò giám mục. Ông bị theo dõi và ngăn chặn không được về Vĩnh Long và ông phải về Sài Gòn, đi xe về về Mỹ Tho, rồi nhờ người đưa dẫn về giáo phận. Hơn nữa nay có hai lá thư của giám mục Ngô Đình Thục gửi cho Phạm Văn Bạch và tuớng Nguyễn Bình bị phòng nhì Pháp bắt được chứng tỏ ông là một người quốc gia chống Pháp.

Cả hai lá thư trên đều nằm trong hồ sơ lưu trữ của Pháp chung với lá thư gửi cho toàn quyền Decoux. Một thư gửi cho Phạm Văn Bạch đề ngày 22 tháng 8, 1948, một gửi cho tướng Nguyễn Bình ngày 22 tháng 9, 1948.

Lá thư thứ nhất gửi cho Phạm Văn Bạch cám ơn sự giúp đỡ của Phạm Văn Bạch trong việc hộ tống GM Ngô Đình Thục về Phát Diệm dự lễ tấn phong cho tân giám mục Lê Hữu Từ. (Ông bị ngăn cản và phải ở lại Biên Hòa) ông Thục giải thích và cắt nghĩa lập trường của người công giáo cũng chống thực dân Pháp, nhưng lại e dè và nghi ngờ những người cộng sản trong vai trò lãnh đạo kháng chiến. Ông viết:

“Chúng tôi biết rằng le Nam Bộ tranh đấu cho một tổ quốc, chứ không phải cho một đảng phái nào. Nhưng khi đến ngày chiến thắng, cái ngày mà chúng ta sẽ không còn phảo lo toan đến câu chuyện bên ngoài, ai sẽ bảo đảm cho chúng tôi rằng tôn giáo của chúng tôi, đạo Thiên Chúa, sẽ được tự do hành đạo theo tín lý của mình? Nếu cứ nhìn trước mắt mình thì thấy kinh nghiệm của các quốc gia theo Thiên Chúa giáo như Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi và Ba Lan mà ở những nơi đó những đảng cầm quyền đã hà hiếp những người Thiên Chúa giáo từng đã góp phần vào công cuộc kháng chiến. Ông hiểu rõ vấn đề này hơn chúng tôi, một tu sĩ không có được rành rẽ về những biến cố chính trị.”

Trong lá thư viết cho tướng Nguyễn Bình có đoạn như sau:

“Chúng tôi nhận thấy rằng những người công giáo đã hết lòng với tổ quốc mình, nhưng tỏ ra nghi ngờ ban lãnh đạo kháng chiến là thuộc thành phần cộng sản giống như ở bên Âu Châu và bên Tàu, những người cộng sản đương quyền đã tự do khai trừ trước hết là những người công giáo. Họ mong đợi và hy vọng rằng những người lãnh đạo Việt Minh kháng chiến không lệ thuộc vào bất cứ đảng phái nào và nếu được như vậy thì người công giáo sẽ tham gia vào kháng chiến như mọi người.”

Phần những người kháng chiến Nam Bộ. Họ đã gửi một phúc trình vào tháng 9/1947 về GM Ngô Đình Thục như sau:

“GM Ngô Đình Thục quả thực là một người yêu nước trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc Việt Nam.

Ông đã từng giúp đỡ tài chánh và ủng hộ tinh thần cho kháng chiến… Do những tiếp xúc với những người đại diện của ông, những hiểu lầm đã không còn nữa.

Không có một mối liên lạc trực tiếp với ông, chúng tôi không thể đưa ra một ý kiến gì về tư tưởng của ông đối với chính quyền Việt Nam hiện thời.”

Phần người Pháp đã nhận xét về giám mục Ngô Đình Thục như sau:

“Hình như vị giám mục này đóng nhiều vai trò, mặc dầu đứng đằng sau các hoạt động của Ngô Đình Diệm, ông giám mục đã có những liên lạc riêng với ủy ban kháng chiến khu 8. ” Mặt khác, giám mục Thục đã gửi một đại diện của ông tới tòa thánh Vatican để yêu cầu ủng hộ cho nền độc lập cho Việt Nam. Nhận thấy điều đó, người Pháp lo ngại và cũng cho người tiếp xúc với Vatican.

(Xem trích dẫn những lá thư trong tài liệu văn khố của Pháp của Trần Thị Liên, “Les catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’Indépendance 1945-1954”, trang 207-209.)

Việc hành xử và thái độ chính trị của giám mục Thục trong giai đoạn người Pháp cai trị được coi là chính đáng. Tuy nhiên, sự can thiệp của giám mục Thục vào chính trị thời đệ nhất cộng hòa là một điều tệ hại, làm hại đến uy tín chính trị của tổng thống Ngô Đình Diệm hơn là có lợi cho ông Diệm. Ông Ngô Đình Thục nhiều khi dùng vị trí niên trưởng trong hội đồng giám mục đã có những việc làm không tốt đẹp và bất xứng với tư cách tổng giám mục công giáo.

Xin trích dẫn tóm lược hai lá thư của giám mục Ngô Đình Thục mà một bức thư (ngày 29-4-1957) được người viết đánh giá là giả mạo - không phải giám mục Thục viết - vì về kỹ thuật, lá thư không có tiêu đê tòa giám mục Vĩnh Long ở bên trái như thường lệ, không có chữ ký của giám mục cũng không có dấu triện đỏ cuối thư như thông thường. Nội dung lời lẽ trong lá thư thì tỏ ra bất xứng với vai trò một giám mục đối với các giám mục khác. Ngôn từ hằn học và xấc sược. Chẳng hạn như “Không có tổng thống thì đạo đâu còn? Di cư vào đâu? của ở đâu? Ai xin cho mà có nhà lầu xe hơi, bơ sữa? Và cha mẹ bà con thân quyến lấy chi mà sống với mực sống trung bình hơn giáo sĩ và dân Nam…”

Nội dung lá thư lên án một vài linh mục làm bậy như Lm Của lấy tiền địa phận mua mấy chục xe ăn trộm bị chính quyền xử phạt lại được Lm Vui (sau này nằm trong đám trí thức Caravelle chống chính phủ) cho là chế độ bắt đạo như thời ban sơ. Vụ thứ hai liên quan đến các tờ báo Đường Sống, đến một số trường tư thục thiên chúa giáo di cư như trường Nguyễn Bá Tòng, v.v... Đây là những cơ sở kinh tài dựa trên tiền viện trợ Mỹ. Đặc biệt có sự tài trợ của đức cha Harnett xin được và có thể có sai trái về quản lý, về bằng cấp của hiệu trưởng và các giáo sư. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã muốn hợp pháp hòa các trường Thiên Chúa giáo di cư theo luật lệ hiện hành. Nhưng về mặt thực tế, những trường do dân di cư thiết lập đã giải quyết một phần không nhỏ trong việc bình thường hóa việc học của con cái người dân di cư không phải là nhỏ.

Những tố cáo trong lá thư nhiều chỗ không có cơ sở. Vì thế vào ngày 12/8/1957, có một lá thư khác ký tên Bùi Trung Thuận đề Sàigòn ngày 8/8/1957 với tiêu đề: “Bác truyền đơn phỉ báng giáo hội”. Nội dung lá thư viết tiếp:
Thời gian gần đây, thiên hạ bàn tán sôi nổi về một bức thư, họ cho đó là một thư lăng mạ vì tư thù. Tôi nghĩ: nếu là tư thù thời là truyện tiểu nhân: không cần đếm xỉa tới. Nhưng nay thư đó đã bay rải rác, biến tthành truyền đơn, vào tới cả những tòa tỉnh trưởng. Và không may nó tới cả tay tôi: tôi nhận thấy nó là một bài phỉ báng Giáo Hội. Vì thế tôi buộc lòng phải lên tiếng.

Thư đó ký tên của GM Thục. Tôi ngẩn người: chắc đây là một vụ mạo ký. Một vị giáo phẩm có thể rêu rao bôi nhọ hàng giáo phẩm ư? Trừ phi vị ấy đã theo bè rối hoặc bỏ đạo.

Dư luận rằng: Người mạo thơ ấy là P.V. Trong bài này, người viết tạm dùng cái tên là VỤ.

Sau đó, kể cả giám mục Thục và các giám mục đã không một ai lên tiếng cải chính về nội dung lá thư giả mạo trên. Tuy nhiên, dù là thư giả mạo, nó cũng cho thấy có những dấu hiệu chia rẽ giữa hàng giáo sĩ trong Nam và giáo sĩ di cư như chứng minh sau này.

Đằng khác, đây là một bài học cảnh báo cho bất cứ giám mục, linh mục nào ở bất cứ thời điểm nào .. Giáo hội cũng thuộc trần thế nên đã có những mục tử có thể không ra gì. Ngày hôm xưa và ngày hôm nay cũng thế thôi!

Việc mừng lễ ngân khánh 25 năm giám mục do ông Trương Vĩnh lễ đứng ra tổ chức và thư mời kèm theo một đóng góp bắt buộc mỗi phần ăn là 5000 đồng cũng là những điều gây mất uy tín cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong hồi ký Bên giòng lịch sử của linh mục Cao Văn Luận cũng bày tỏ sự bất bình về buổi lễ tổ chức ngân khánh này và chính ông Ngô Đình Nhu cũng muốn nhờ linh mục can thiệp đề nghị dẹp bỏ buổi lễ.

Thật khó cho những người làm chính trị như ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu trong những trường hợp khó xử dính dáng tới những người ruột thịt trong trường hợp này.

Tuy nhiên, lá thư của giám mục Ngô Đình Thục gửi cho các cha sở ra lệnh đi biểu tình ủng hộ chính phủ 1963 là điều khó chấp nhận được.

“Lối 9 giờ, sẽ có biểu tình khổng lồ để tỏ sự biết ơn chính quyền đã chận đứng mưu mô tàn sát bổn đạo kịp thời. Để tỏ lòng tri ân của giáo dân thì ai nấy phải đi dự cuộc biểu tình để tỏ ra cho quốc tế biết dân ta hết thảy đứng sau lưng tổng thống. Cha Sở nên hướng dẫn bổn dạo mình di. Ta cho phép làm lễ buổi chiều cho tiện cho bổn đạo mắc đi biểu tình. Ta cũng xin Cha cho hay bổn đạo cha đi được bao nhiêu nam nữ, để ta biết bổn dạo biết vâng lời Bề Trên hay không?

Chúc lành cho Cha và bổn đạo Ta.

P.M. Ngô Đình Thục (ký tên)

Nội dung lá thư trên đi ra ngoài khuôn khổ tôn giáo.

Bài học này cũng là bài học cảnh báo gửi đến một số lãnh đạo đang “làm tay sai” cho chế độ cộng sản hiện hành ở một mức độ tệ hại hơn nữa, vì nó biến tôn giáo trở thành công cụ cho một chế độ bất nhân và phi nhân bản.

Bài học này cũng nhắc nhở dến lá thư của giám mục Cassaigne thời Pháp thuộc ở địa phận Sài Gòn đã tra vấn các linh mục VN trong vụ có 4 Lm đi theo kháng chiến. Các Lm giáo sư bị bắt buộc trả lời giám mục Cassaigne là các linh mục như Nguyễn Văn Bình (sau là tgm sàigòn, Lm Đậu, Lm Kính và Lm Thiên, sau là giám mục).

Chú thích: Tất cả các lá thư vừa trích dẫn ở trên là tài liệu riêng của gia đình của người viết. Đó là những tài liệu duy nhất có được và mọi trích dẫn nếu cần, xin nêu rõ xuất xứ.


Việc phong chức giám mục Lê Hữu Từ

Việc phong chức giám mục này trùng hợp với những biến động chính trị sôi động ở VN: Ngày 9 tháng 3, 1945, Nhật giải giới quân đội Pháp. Ngày 23 tháng 8, Bảo Đại từ chức. Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đình.

Riêng giám mục Lê Hữu Từ, một người quốc gia cực đoan, ông tìm kiếm một giải pháp chính trị tự chủ cho Phát Diệm giữa một bên là phía Quốc gia (có Pháp) và chủ nghĩa cộng sản. Để bảo đảm cho tính cách tự trị này, GM Lê Hữu Từ tổ chức một đội ngũ chừng vài ngàn dân quân, trong đó có những thiếu niên 12, 13 tuổi với hơn 1000 tay súng.

Trong giai đoạn đầu, 1945, GM Lê Hữu Từ xem ra chính thức đi với Việt Minh với chức cố vấn của Hồ Chí Minh giao phó. Chính vì sự liên minh này đã tạo ra một sự “an toàn” khu vực tạm thời mà người dân có thể di chuyển tư các vùng Bùi Chu, Phát Diệm vào đến Nho Quan Thanh Hóa. Một cách tự nhiên, vùng Phát Diệm trở thành vùng trái đệm an toàn cho tất cả những ai tránh nạn truy tầm của Việt Minh đồng thời là điểm giao liên buôn bán giữa “vùng địch tạm chiến” và vùng “tự do”.

Những người di cư từ các vùng Hà Nội, Nam Định, Phủ Lý kéo nhau về Phát Diệm như chỗ trú ẩn an toàn. Dân số Phát Diệm vì thế tăng lên 60.000 người. Và dân số toàn khu Phát Diệm là 120.000 người, chưa kể dân chúng ở các vùng chung quanh. Chính sách “vườn không, nhà trống” hay “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh càng làm cho Phát Diệm trở thành khu an toàn vì GM Lê Hữu Từ chống lại chính sách tiêu thổ kháng chiến.

Phần các thành phần đảng phái chạy trốn về Phát Diệm đã lợi dụng cơ hội này để thủ tiêu các thành phần thân Việt Minh. Con số cán bộ Việt Minh bị giết lên đến 200 người.

(Trích Sureté Fédérale du Tonkin, Hanoi le 8/11/1947. Situation de Phat Diem, signé Moret. Trích lại trong Trần Thị Liên, trong Les catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’Inđépendance, 1945-1954, trang 171-173.)

Gia đình gián điệp Vũ Ngọc Nhạ - đoàn viên “Tổng bộ tự vệ Phát Diệm” (do giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo) - lên đuờng “di cư”.
Nguồn: avsnonline.net
Ngày 10/02/1947, Hồ Chí Minh và GM Lê Hữu Từ gặp nhau tại Nho Quan để giải quyết những bất đồng và những xung đột địa phương và GM Lê Hữu Từ đã đạt được những bảo đảm về sự an toàn của Phát Diệm qua lời hứa của Hồ Chí Minh. Ngày 2/3/1947, GM Lê Hữu Từ lại nhận được thư của Hồ Chí Minh nhấn mạnh về sự hợp tác để chống lại người Pháp.

Và cứ theo lời kể lại của vị giám mục này thì ngoài sự bảo đảm trên, ông còn nhân được một cái “hôn” từ “Bác Hồ”, kèm theo những giọt nước mắt.

Nhưng sự liên minh này không tồn tại lâu dài vì có những xung đột ở các địa phương giữa bộ đội và dân quân công giáo. Và đến năm 1949 chấm dứt giấc mộng tự chủ và Phát Diệm ngả dần về giải pháp Bảo Đại và phía người Pháp.

Xu hướng nghiêng về sự hợp tác với Pháp và giải pháp Bảo Đại phần lớn là do những quyết định từ những người cộng sự thân tín của GM Lê Hữu Từ như Lm Hàm, Lm Đệ, Lm Quỳnh. Họ có đều có những liên hệ tiếp xúc và cộng tác với Pháp về nhiều mặt như: xin được cung cấp võ khí, xin được giúp đỡ tài chánh qua trung gian Bảo Đại. Và để đổi lại, họ cung cấp các dân quân đi lính cho Pháp hoặc cung cấp các tin tức tình báo, tin tức về các cuộc hành quân của bộ đội Việt Minh.

Đặc biệt là trường hợp Lm Hàm đã viết thư cho tổng tuyên úy quân đội Pháp và sẵn sàng bá cáo cho quân đội Pháp các cuộc hành quân của bộ đội Việt Minh trong vùng. Việc làm của Lm Hàm xem ra đi trái ngược với đường lối của GM Từ, nhưng lại tỏ ra thích đáng và “đi trước” thời cuộc trong mưu cầu tìm kiếm đồng minh để ngăn chặn sự xâm nhập của Việt Minh mỗi ngày một lớn mạnh..

Thật vậy, càng ngày sự chia rẽ giữa công giáo và Việt Minh càng rõ rệt và giảI pháp tự trị của giám mục Lê Hữu Từ càng không có khả năng để thực hiện trên thực tế giữa cuộc tranh chấp Việt Minh và Pháp ..

Sau cái chết của con dại tướng De Lattre De Tassigny, (ngày 30/ 5/ 1951, tại Ninh Bình). Trước nỗi đau đớn về cái chết của con trai, đại tướng De Lattre đã quy trách nhiệm cho địa phận Bùi Chu, Phát Diệm vì đã không thông báo về các cuộc hành quân của Việt Minh.

Đại tướng De Lattre đã ủy cho đại tá Gambiez đi gặp các giám mục để gửi những lời trách móc đồng thời một tối hậu thư gửi đến hai giám mục, mong muốn các GM có một lập trường rõ rệt hơn đối với người Pháp.

Trong trường hợp ngược lại thì De Lattre sẽ dùng biện pháo là phong tỏa hai giáo phận để có thể duy trì được sự ổn định trong vùng.

Vào buổi chiều ngày 2/6/1951, sau khi tiếp xúc với đại tướng De Linares, đại diện tướng De Lattre, GM Lê Hữu Từ đứng trước sân nhà thờ Phát Diệm, vào lúc 18 giờ, trước một đám đông dân chúng đông nghẹt, Giám mục Lê Hữu Từ đã tuyên bố yêu cầu một nền độc lập cho Việt Nam trong danh dự dưới sự bảo trợ của người Pháp chống lại những người cộng sản. Ông tuyên bố tiếp cái chết của con vị đại tướng chẳng những chết cho Liên Hiệp Pháp mà còn cho chính Việt Nam. Và kể từ nay, bất cứ ai cộng tác với người Pháp thì không được coi như là những thành phần phản bội nữa. Sau đó, ông kêu gọi, trước tình thế mỗi ngày một nghiêm trọng, tôi ra lệnh động viên tất cả những người từ 18 đến 45 tuổi. Tất cả những người đàn ông phải được trang bị vũ khí để bảo vệ Phát Diệm.

Mối quan hệ nhiều năm với Việt Minh kể như chấm dứt và dưới mắt Việt Minh, giám mục không phải là nhân vật persona grata trong các vùng “tự do” nữa! Người ta nhặt được nhiều truyền đơn nhằm bôi nhọ uy tín của giám mục Lê Hữu Từ và coi ông như kẻ phản quốc và tìm cách hạ ngay cả uy tín tinh thần của giám mục trong giáo hội Thiên Chúa giáo.

Lập trường của các vị lãnh đạo Thiên Chúa giáo từng cộng tác với Việt Minh nay có thay đổi vì họ nhận ra càng ngày Việt Minh càng lộ diện là cộng sản. Đó cũng là quan điểm, thái độ của GM Ngô Đình Thục trong hai lá thư viết cho Phạm Văn Bạch và tướng Nguyễn Bình trước đây.

Chung quanh Phát Diệm, nay có ít nhất 10 đảng phái chính trị ít nhiều có quan hệ với giám mục Lê Hữu Tư như Xã Hội Công giáo, Dân Chúng Liên Hiệp, Duy Dân, Trung Vinh, Đại Việt, Phật giáo đoàn, Việt Nam Quốc dân đảng, Phụng sự quốc gia đoàn và Dân tộc giải phóng, v.v…

(Trích tóm lược Trần Thị Liên, như trên trang 398-402)

Phần GM Phạm Ngọc Chi, giám mục Bùi Chu còn đi xa hơn một bước trước tình trạng nguy kịch bị Việt Minh lấn chiếm và đe dọa. Các tu sĩ hoảng sợ Bùi Chu và Phát Diệm sẽ rơi vào tay Việt Minh. Khắp nơi đều có du kích đe dọa. Đầu năm 1952, qua trung gian một linh mục gốc Bỉ, Lm Willichs đã kể lại trong một bữa cơm với ông thủ tướng Trần Văn Hữu, có đại diện của Hoa Kỳ. GM Phạm Ngọc Chi đã cho thấy tình trạng tuyệt vọng có thể bị Việt Minh xâm chiếm. Ông đã yêu cầu Hoa Kỳ gửi quân đội sang giúp VN… Vị đại diện Hoa Kỳ đã trả lời là điều đó không thể thực hiện được.

Tình trạng nguy kịch ấy cũng được lãnh sự Hoa Kỳ bá cáo như sau vào năm 1953, “Các tỉnh như Bùi Chu nằm trong chương trình bình định và chuyển giao cho địa phương có nguy cơ bị xâm chiếm bởi Việt Minh.”

(Trích Trần Thị Liên, như trên trang 527)

Về phía người Mỹ, họ tránh né một cách tế nhị để khỏi đụng độ với quyền lợi người Pháp ở đây và không có một chương trình giúp đỡ trực tiếp nào theo lời yêu cầu của các giám mục.

Phần giáo hội Thiên Chúa giáo, họ sắp phải đương đầu với một sự chiến thắng cuối cùng của Việt Minh trong thời gian hai năm nữa! Dấu hiệu của sự thất bại quân sự của người Pháp trước Việt Minh tại nơi này đã có thể thấy trước được rồi.

Vai trò của bốn giám mục tiên khởi đánh dấu một giai đoạn khởi đầu đầy hứng khởi cho giáo hội Thiên Chúa giáo và lúc kết thúc một cách bi kịch vì những dính dáng chính trị đi ra ngoài khuôn khổ làm tổn hại không ít đến thực thể giáo hội không ít.

Dù sao đây cũng là bài học cho hậu thế soi chung!


© DCVOnline

Tổng số lượt xem trang