CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI MẠNH HAY YẾU?
Chế độ hiện nay ở Việt Nam là một chế độ toàn trị và chà đạp nhân quyền tàn bạo nhất, từ năm 1954 ở miền Bắc và toàn Việt Nam từ 1975. Chế độ toàn trị là một chế độ yếu nhất trong lịch sử cận đại. Việc họ phải sử dụng bộ máy công an trong các ngành thay vì đặt sự tín nhiệm vào người dân đã minh chứng sự lo sợ và thiếu tự tin của họ. Chế độ này chỉ trụ được chừng nào nó bịt mắt, bịt tai và bịt miệng được người dân và chỉ chừng nào nó quản chế được dạ dầy, sự đi lại của người dân. Một khi bức tường ngăn cách tư tưởng và liên hệ kinh tế, thương mại và chính trị với bên ngoài bị phá vỡ thì kể từ thời điểm đó chế độ này không còn tương lai, bất kể những tuyên truyền theo cách tô hồng của họ, bất kể cả bộ máy công an lực lưỡng. Khi người dân tự tạo được cuộc sống ổn định, ấm no bằng chính sức lực và tài trí của mình, không còn lệ thuộc vào chế độ tem phiếu, hộ khẩu thì khi đó cũng là lúc uy quyền của chế độ bắt đầu lung lay.Sự tan rã của các chế độ độc tài phong kiến ngày xưa đã như thế và sự tan rã của các chế độ độc tài toàn trị ngày nay cũng sẽ kinh qua con đường này. Chế độ độc tài toàn trị có thể đổ nhanh không? Xin thưa: Nó có thể còn nằm ỳ ra rất lâu, nhưng cũng có thể đổ rất nhanh, nhanh hơn ngoài cả sự tưởng tượng của nhiều người, một khi tìm ra được phương pháp chống nó hữu hiệu.
Thí dụ, các chế độ độc tài toàn trị ở Liên xô và các nước Đông Âu đã bị sụp đổ từ đầu thập niên 90 chỉ sau chưa đầy hai thập niên thực hiện sách lược “hợp tác để biến đổi” do các nước dân chủ phương Tây chủ trương. Trái lại, ở đâu sách lược tẩy chay được thi hành thì ở đó chế độ toàn trị còn được củng cố. Điển hình như trường hợp Cuba, nằm sát Hoa kì và bị Mĩ phong tỏa kinh tế, quân sự…suốt gần nửa thế kỉ, nhưng cho tới nay nó vẫn nằm ì ra, nay Washington phải thay đổi sách lược. Chế độ độc tài toàn trị ở Trung hoa (TH), mới sau hơn hai thập niên bị miễn cưỡng phải cải cách và mở cửa, đang đứng trước nguy cơ tự giải thể hay bị giải thể. Việc gia nhập WTO từ cuối năm 2001 cho thấy Bắc kinh đã chính thức nhìn nhận những qui luật của kinh tế thị trường và phải hội nhập vào thế giới, trong đó các nước dân chủ và tư bản đang nắm phần chủ động. Giang Trạch dân, nguyên Chủ tịch ĐCSTH và cựu Chủ tịch nước CHNDTH, tại lễ kỉ niệm 80 năm thành lập ĐCSTH đã công khai tuyên bố về thuyết “Ba đại diện”. Theo đó, ĐCSTH cần phải mời các thành phần tư sản gia nhập đảng này, bên cạnh hai thành phần hiện có là công-nông. Như vậy giới lãnh đạo CSH đã công khai phủ nhận học thuyết Marx-Lenin về vai trò độc tôn của giai cấp lao động trong việc thủ tiêu giai cấp tư sản của chế độ tư bản.
Sự sụp đổ của Liên xô và các nước CS Đông Âu bắt nguồn từ đâu? Ngoài những lí do nội tại của các xã hội này -đã áp dụng một mô hình XHCN không phù hợp với nhu cầu của con người- còn có các nguyên nhân tác động từ bên ngoài. Từ cuối thập niên 60 nhiều chính khách ở Tây Âu đã thấy rằng chính sách “tẩy chay” và “ngăn đe”, không những không ngăn chặn được chế độ toàn trị, ngược lại còn giúp nó có những cớ để tăng cường các biện pháp hà khắc đàn áp đối với người dân ở trong nước và thái độ hiếu chiến đối với bên ngoài.
Nhiều chính khách Âu châu đã nhận ra được những điểm rất yếu của chế độ này, nó chỉ tồn tại vì người dân ở đó không được dịp biết được đời sống của người dân bình thường trong các xã hội dân chủ. Vì thế sách lược “Biến đổi qua tham gia” (Wandel durch Annäherung), trong đó nổi rõ nhất là chính sách “Ost-Politik” của Willy Brandt, cố Thủ tướng Đức và nguyên Chủ tịch đảng Dân chủ xã hội Đức (SPD) chủ trương từ cuối thập kỉ 60. Cốt lõi của chủ thuyết này là, trong kỉ nguyên võ khí hạt nhân, thay đổi chế độ độc tài toàn trị không thể bằng chiến tranh và tẩy chay, phong tỏa, mà chỉ có thể qua việc gia tăng các liên hệ thương mại, kinh tế, khoa học, kĩ thuật và cả những lãnh vực khác như chính trị, ngoại giao, thông tin và du lịch.
Cuộc vận động đạt đến cao điểm là Hội nghị thượng đỉnh Helsinki 1975 (thủ đô Phần lan) về An ninh và Hợp tác châu Âu, trong đó TT Mĩ Ford và Chủ tịch ĐCSLX và Chủ tịch nước LX Breshenew cùng với các nguyên thủ của 33 nước khác của Âu châu và Gia nã đại đã tham dự. Hội nghị đã đạt được những cơ sở đồng thuận lớn trong nhiều lãnh vực về tài binh, thay chủ trương đối đầu bằng hòa bình, công nhận biên giới sau Thế chiến hai giữa các nước Âu châu, hợp tác trong kinh tế, thương mại và khoa học kĩ thuật. Đáng kể nữa là Hội nghị cũng thông qua quyết định nhìn nhận các hoạt động nhân quyền theo các Công ước của LHQ là các quyền chính đáng của các công dân và chính quyền các nước tham dự hội nghị phải tôn trọng. Bên cạnh đó còn có việc thỏa thuận gia tăng trao đổi thông tin, du lịch giữa người dân và các đoàn thể thuộc hai khối Đông -Tây lúc ấy.
Nói chung, đối với phương Tây, đây là chủ trương muốn bắt cọp thì không thể đứng ngoài mà phải vào hang của nó. Phải hiểu được những căng thẳng về an ninh và chính trị ở Âu châu, và nhất là ở Đức sau Thế chiến thứ hai, mới thấy rõ được tầm mức quan trọng về kết quả của hội nghị Helsinki. Cần lưu ý, trong một số năm Washington rất nghi kị chủ trương này, coi đây có thể là kế hoạch li tán của Mạc tư khoa nhằm tách Tây Âu khỏi liên minh với Mĩ hoặc ít ra Tây Âu sẽ đứng trung lập giữa Nga và Mĩ.
Sau Hội nghị Helsinki, không khí căng thẳng của chiến tranh lạnh ở Âu châu đã từng bước được thay thế bằng sự hợp tác đa diện cùng có lợi và tín cậy giữa hai bên. Chính nhờ đó mà các phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Liên xô và nhiều nước Đơng Âu đã trỗi dậy rất nhanh và rất mạnh. Đáng kể như nhà hoạt động nhân quyền Sacharow ở Liên xô (cũ), Nghiệp đoàn Solidarnosc và Giáo hội Công giáo ở Ba lan và nhóm Hiến chương 77 của nhà văn Havel ở Tiệp khắc…
Vài năm sau đó một số các phong trào này đã đi tiền phong thay đổi bộ mặt chính trị ở Liên xô, Ba lan và Tiệp và mở đường cho cuộc cách mạng nhung hầu như không đổ máu để chuyển biến các chế độ dộc tài toàn trị sang dân chủ đa nguyên, có lợi cho nhân dân các nước và ngay cả các đảng CS. Vì hầu như tất cả các đảng CS trong các nước này vẫn được tự do hoạt động, ở một vài nước qua những cuộc bầu cử dân chủ họ trở lại nắm chính quyền một cách hợp pháp.
Vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 khi những biến động dồn dập diễn ra ở Đông Âu và Liên xô, từ các TT Reagan (Mĩ), Mitterand (Pháp) tới thủ tướng Kohl (Đức) không ai tiên liệu được có thể diễn ra nhanh chóng với mức độ lớn lao như vậy và lại không đổ máu. Ngay cả cựu thủ tướng Đức và là tác giả của “Ost Politik”, cố TT Willy Brandt cũng không lường được!
XÃ HỘI KÍN VÀ XÃ HỘI MỞ – ĐIỀU KIỆN CHO MỘT XÃ HỘI TÒAN TRỊ TỒN TẠI
Ngoài việc nắm vững bối cảnh quốc tế, trong việc hoạch định chiến lược đấu tranh nhân quyền chúng ta cũng cần phải hiểu rõ những đặc thù của xã hội VN hiện nay, nắm vững những mặt mạnh cũng như mặt yếu của chế độ độc tài.Xã hội độc tài là một xã hội kín, trong đó tầng lớp cầm quyền tự cho mình cái quyền biết hơn, biết hết và thông minh hơn mọi người. Từ đó họ cũng tự cho mình cái quyền được hưởng quyền và lợi ưu tiên và tối đa. Họ mong muốn người dân trong các xã hội chỉ làm công việc ngoan ngoãn nghe theo lời của lãnh đạo. Nhưng lãnh đạo cũng thừa biết đây không phải việc dễ, nên đã suy nghĩ ra trăm phương ngàn kế để nhắm tới mục tiêu làm cho mọi người trong xã hội phải phục tùng tuyệt đối người có quyền hành (người thông minh nhất!).
Phương thức tổ chức của xã hội kín (toàn trị) có năm (5) đặc điểm chính:
1. Chỉ có một ý thức hệ duy nhất được coi là đỉnh cao của trí tuệ và khoa học nhất.
2. Chỉ có một đảng duy nhất được coi là thành phần ý thức nhất đại diện chân chính cho toàn dân, là tổ chức có kỉ luật nhất và có sức mạnh vạn năng.
3. Tất cả các hoạt động trong xã hội từ chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, tôn giáo… đều đặt dưới sự toàn trị duy nhất của một đảng.
4. Các sinh hoạt của người dân ở trong nước từ đi lại, sinh sống, suy tư, tín ngưỡng, giáo dục đều được chế độ tổ chức theo những khuôn khổ và mức độ đã định trước.
5. Các liên hệ với thế giới bên ngồi, ngay cả với những nước đồng minh, đều phải theo những qui định của đảng cầm quyền. Vì thế những cuộc tiếp xúc giữa người dân với người ngoại quốc ở ngay trên đất nước mình hầu như không có, những chuyến đi ra nước ngoài cho các công dân lại càng hi hữu hơn, ngoại trừ những phái đoàn đi tuyên truyền.
Đây là năm (5) đặc điểm căn bản trong cách tổ chức của một xã hội độc tài toàn trị từ Tây sang Đông. Muốn thay đổi chế độ toàn trị thì phải loại bỏ được năm yếu tố này. Loại bỏ nó như thế nào sẽ được trình bày ở phần sau.
Để thực hiện được một xã hội kín, cách vận hành ở trong nước là đảng độc tài phải tìm mọi cách làm cho người dân lệ thuộc hoàn toàn vào nhà nước, kiểm soát dạ dầy qua chế độ tem phiếu, hạn chế đi lại qua chính sách hộ khẩu và kiểm soát tư tưởng qua biện pháp chỉ được đọc sách báo của đảng… Ngoài ra, họ còn lập lên những bức tường hữu hình và vô hình để ngăn cấm mọi thông tin từ bên ngoài vào trong nước và cũng cản trở mọi tin tức từ trong nước ra bên ngoài. Trong một xã hội kín, người công dân không có cá tính, không có bộ mặt khác nhau, không có ngôn ngữ và suy tư khác nhau, tất cả giống nhau như một cái máy. Trung ương mở một cái thì tất cả các máy đều chạy, khi trung ương tắt thì mọi máy đều ngưng!
Như vậy xã hội kín hoàn toàn đối lập với xã hội công dân, xã hội dân sự, mà chúng ta, những người đấu tranh nhân quyền, đang nhắm tới. Xã hội công dân hay xã hội dân sự là một xã hội mở và có những đặc tính:
Mỗi người bình đẳng trong các sinh hoạt của xã hội, được tự do hành động nhưng cũng tự ý thức trách nhiệm về những hành động tự do của mình.
Trong một xã hội công dân, mỗi người là một nhân cách độc lập, cho nên họ tự tổ chức riêng cuộc sống hàng ngày, tự quyết định về đời sống.
Họ có quyền tự do đi lại, tự do phát biểu trước những vấn đề chung của cộng đồng và tự do kết hợp với những người khác.
Xã hội công dân là một xã hội đa nguyên về tổ chức. Các tổ chức được tự do thành lập. Quyền đối lập được thừa nhận. Đảng cầm quyền cũng bị ràng buộc chặt chẽ bởi hiến pháp và các luật pháp, ngoài ra còn bị kiểm soát của các cơ quan lập pháp, tư pháp và báo chí.
Xã hội công dân là một xã hội đa nguyên về ý thức hệ. Không có một ý hệ nào được độc quyền, mọi tư tưởng được tự do phổ biến theo hiến pháp và luật pháp.
Như vậy, xã hội công dân là một xã hội mở, các chính đảng, các tổ chức nghề nghiệp và quyền lợi được tự do thành lập và hoạt động, các công dân được tự do quyết định về cuộc sống riêng của mình và tự do tham gia vào đời sống cộng đồng.
XÃ HỘI VIỆT NAM ĐANG BIẾN ĐỔI VÀ TRỞ THÀNH MỘT XÃ HỘI BÁN MỞ
Trước đây gần 20 năm, dưới những điều kiện vô cùng bất lợi và bức bách, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã phải ban bố một số đổi mới để cứu chế độ trước nguy cơ sụp đổ. Họ thực hiện một đường lối đổi mới nửa chừng, trong đó chỉ thực hiện một số cải cách kinh tế, nhưng trong chính trị và tổ chức xã hội họ vẫn cố duy trì chế độ độc đảng. Trong đối ngoại, vì đa nghi và không tư tin, nên họ cũng chỉ cho mở hé cửa mà thôi. Nghĩa là chỉ muốn cho Dollar chẩy vào, nhưng lại tìm mọi cách ngăn cản những luồng tư tưởng dân chủ tự do, mà họ gọi đó là những ruồi muỗi và khí độc. Họ đã đặt cho chính sách đổi mới của họ là “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là chủ trương rất có tính toán của họ: Làm sao dưới những hoàn cảnh quốc tế mới vô cùng bất lợi, chỉ thay đổi rất giới hạn và theo một tốc độ trong vòng kiểm soát để giữ mục tiêu trước sau là phải duy trì chế độ độc đảng. Đó là phương châm: “Bất biến, vạn biến”Nhưng sau 17 năm “đổi mới”, trong xã hội VN hiện nay người ta thấy rất rõ sự mâu thuẫn giữa dân và đảng, cụ thể hơn là giữa đại đa số nhân dân bị đàn áp và bóc lột với một thiểu số rất nhỏ là thành phần cai trị bất tài và tham nhũng. Trong khi nhân dân mong muốn và đòi hỏi phải đổi mới nhanh và đổi mới toàn bộ xã hội thì giới cầm quyền nhất định chống lại, họ mới chỉ nhượng bộ một phần rất nhỏ. Tuy nhiên trong 17 năm qua, mặc dầu chính sách “đổi mới” của chế độ còn rất hạn chế, nhưng nhân dân Việt Nam cũng đã biết nắm được những cơ hội mới và đang làm xã hội thay da đổi thịt. Nhiều khu công nghệ mới ra đời, những lưới điện đã được truyền tải cả về các nông thơn, nhiều hạ tầng cơ sở như đường xá, những cao ốc và nhiều trung tâm du lịch mới ra đời. Những dịch vụ điện tử thông tin tân kì như điện thoại, Internet… cũng đang bắt dễ rất nhanh ở VN trong vài năm gần đây. Quan trọng hơn nữa là đã có những thành công rất lớn và rất nhanh trong nông nghiệp và tư doanh. Nhờ đó VN đã từ một nước phải nhập cảng gạo hàng năm lên tới 1-2 triệu tấn trong thập niên 80, nay đã trở thành một nước xuất cảng gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới, mức xuất cảng hiện nay lên tới khoảng 4 triệu tấn. Chỉ mới ba năm gần đây, khi Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời, thì các xí nghiệp và cửa hàng của tư nhân đang mọc lên rất nhanh, làm ăn hiệu quả và cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước chỉ làm ăn thua lỗ.
Những thành công này là sáng kiến, sức lao động và công lao tranh đấu của nhân dân VN chứ không phải là tài cán gì của chế độ. Bởi vì chính chế độ trong nhiều thập niên đã chống lại những đòi hỏi này của nhân dân, đã khăng khăng thực hiện mô hình XHCN sơ cứng làm thui chột mọi sáng kiến, tài năng và sức lực của nhân dân và đất nước, đã làm cho hàng triệu người phải rơi vào nạn đói và đất nước tụt hậu, trở thành một trong những nước nghèo nhất trên thế giới vào cuối thế kỉ 20.
Những thành công trong nông nghiệp, kinh doanh và một số những công trình mới đã chứng tỏ tinh thần sáng tạo cao, lòng kiên nhẫn và đức tính chăm chỉ của nông dân, doanh gia, chuyên viên và công nhân VN. Đúng ra những tăng trưởng và thành công chắc chắn sẽ cao hơn và lớn hơn nếu sự đổi mới được thực hiện đồng bộ và toàn diện. Mặt khác, những thành quả to lớn bước đầu cũng đã chứng minh rằng, chính mô hình CNXH trước đây đã phá hủy mọi sáng kiến và nhiệt tâm của người dân và đã đưa VN vào nghèo đói, lạc hậu. Vì nếu không như thế thì chắc chắn VN ngày nay cũng ở mức phát triển ít nhất là ngang ngửa với một số nước trong khu vực như Thái lan, Nam Hàn hay Đài loan!
Những thành quả trong kinh tế đã cải thiện một phần đời sống vật chất của người dân, cũng từ đó tạo cho người dân tự tin hơn ở mình, ít lệ thuộc hơn vào đảng và trong một số lãnh vực đã dành được tự chủ hơn trong cuộc sống, trong tư duy. Thật vậy, thái độ và tâm lí của người dân VN đối với chế độ và nhóm cầm quyền đã thay đổi rất nhiều kể từ sau 1975. Từ tâm lí nể sợ phe chiến thắng, coi những người lãnh đạo chế độ như những bậc thánh toàn năng, đã mau chóng chuyển sang thái độ khinh thường cán bộ và thờ ơ với chế độ, vì sự tham nhũng của những cán bộ có quyền lực và sự vô tài và bất lực của lãnh đạo trong việc giải quyết những nhu cầu thực tế của nhân dân và những vấn nạn của đất nước.
Hiện nay thái độ tự chủ và chán ghét của người dân đối với chế độ, đối với lãnh đạo còn đi xa hơn: Tự chủ hơn trong cuộc sống, độc lập hơn trong suy nghĩ và hành động. Mở nghe các đài ngoại quốc phát thanh tiếng Việt như BBC, RFA, RFI, VOA…một cách công khai không còn phải là một chuyện hạn hữu mà đang phổ biến trong nhiều gia đình từ thành phố tới nông thôn. Trong những quán cà phê, tiệm phở… Người ta đã dám trao đổi với nhau về những chuyện thời sự trong nước hay địa phương. Đã có những cuộc biểu tình ở một số địa phương và ngay ở thủ đô Hà nội. Thậm chí còn có cả những cuộc biểu tình với hàng ngàn người đi chiếm các trụ sở đảng và chính quyền ở Thái bình của nông dân, ở Tây nguyên của đồng bào sắc tộc và cả những cuộc đi hành hương hay buổi lễ tôn giáo với hàng chục ngàn tín đồ tham dự.
Tín hiệu rất đáng mừng nữa là sự đứng lên của các giới chuyên viên, trí thức, nhân sĩ và văn nghệ sĩ. Trong đó chứa đựng nhiều dẫn chứng độc đáo:
1. Một số nhân vật công khai lên tiếng đòi dân chủ và chống độc tài lại chính là những cán bộ cấp cao và trung cấp đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong đảng, chính quyền hay các tổ chức quần chúng của chế độ như cố trung tướng Trần Độ, cựu Viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính, GS Nguyễn Thanh Giang, Đại tá Phạm Quế Dương, đảng viên lão thành Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn (đã mất).
2. Nhiều người là những trí thức, văn nghệ sĩ tên tuổi như thi sĩ Bùi Minh Quốc, nữ văn sĩ Dương Thu Hương, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu, GS Trần Khuê…
3. Nhiều người xuất thân từ miền Nam: GS Nguyễn Đình Huy, BS Nguyễn Đan Quế, GS Nguyễn Ngọc Lan, các HT Thích Huyền Quang, Quảng Độ, các LM Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, Chân Tín, Lê Quang Liêm (Hòa Hảo)…
4. Từ những hoạt động đối kháng có tính cách cá nhân, riêng rẽ và rời rạc nay đang chuyển thành những hoạt động mang tính cách ít nhiều có kết hợp. Như cuộc vận động chống chế độ đã nhượng đất cho Trung hoa với sự tham gia của nhiều người từ Nam ra Bắc, hay việc lập Hội chống tham nhũng, Nhóm Dân chủ…
5. Đáng lưu ý nữa là, gần đây một số trí thức trẻ cũng đã nhập cuộc trong phong trào đấu tranh nhân quyền và dân chủ, nổi tiếng như LS Lê Chí Quang, BS Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình…
Nói tóm lại, tuy những “đổi mới” còn rất hạn chế và què quặt, nhưng chỉ sau 17 năm đang từ một xã hội kín, VN đã trở thành một xã hội bán mở. Do đó nhiệm vụ của những người hoạt động Nhân quyền và những người Dân chủ phải là làm sao thúc đẩy tiến trình xã hội mở ra nhanh hơn nữa, để cuối cùng VN sẽ tiến tới một xã hội mở thực sự và toàn diện.
SÁCH LƯỢC DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
Trong việc chuyển đất nước từ độc tài sang dân chủ, chúng ta có một cơ may rất hiếm là cùng một lúc đã diễn ra ba sự kiện rất quan trọng trên thế giới. Đó là sự tan rã của thế giới CS, kỉ nguyên Internet và trào lưu toàn cầu hó-a trên nhiều bình diện. Các diễn biến chính trị, kinh tế và kĩ thuật với tầm vóc toàn cầu đang đưa lại cho VN những cơ hội rất thuận tiện để chúng ta, những người dân chủ, nếu có một sách lược đấu tranh khôn khéo thì có thể chuyển hóa đất nước từ độc tài sang dân chủ mau hơn và gọn gàng hơn. Một số điều kiện vô cùng thuận tiện trong thời đại hiện nay là:1. Chủ nghĩa Marx-Lenin đã mất sức thuyết phục, chẳng còn ai tin nữa.
2. Từ đó những mô hình xây dựng xã hội theo một chế độ độc tài toàn trị dưới sự chuyên chế của một đảng, kinh tế tập trung bao cấp đã trở thành những lực cản trong xã hội.
3. Tiến trình toàn cầu hóa về tài chánh, kinh tế, khoa học kĩ thuật và thông tin điện tử tạo ra những điều kiện mới, gây nên những sức ép rất mạnh và có hiệu lực cao, buộc một số chế độ độc tài cón sót lại phải đi đến chọn lựa, hoặc nhập cuộc cùng chơi tức là tự giải thể, hoặc bị giải thể.
Những người hoạt động nhân quyền cần nắm vững những đặc điểm tình hình ở trong nước và những diễn biến trên thế giới để biết khai thác các thuận lợi, hãy tích cực và chủ động tìm ra một sách lược đấu tranh thích hợp để từng bước đưa xã hội bán mở ở VN thành một xã hội mở.
Như đã trình bày ở trên, tình hình đặc trưng của xã hội VN vào đầu thế kỉ 21 là đang có mâu thuẫn rất gắt gao giữa thế lực cầm quyền vẫn muốn tìm mọi cách kéo dài chế độ độc tài để hưởng đặc quyền đặc lợi, và đằng khác là đại đa số nhân dân đang mong muốn và quyết đấu tranh loại bỏ nạn độc tài, tham nhũng để xây dựng một nước Việt Nam mới dân chủ, tự do và phú cường để mau chóng sánh vai cùng với những dân tộc văn minh khác! Ngoài ra, trong những điều kiện quốc tế đang vô cùng bất lợi, nên khả năng chống đỡ của các thế lực độc tài ngày càng bị thu hẹp và các bộ máy cùng biện pháp đàn áp của họ đang bị mất hiệu năng.
Nhiệm vụ cơ bản của chúng ta là tìm những bước đi vững chắc và những hình thức tranh đấu thích hợp để thúc đẩy tiến trình hình thành một xã hội công dân ngày một vững chắc và mở rộng. Như phần trên đã trình bày, xã hội độc tài toàn trị ở VN có năm (5) đặc điểm, trong đó có hai điểm đầu tiên là hai điểm mấu chốt, đó là 1. Chỉ có một ý thức hệ duy nhất được coi là đỉnh cao của trí tuệ và khoa học nhất. Ở đây là chủ nghĩa Marx-Lenin. 2. Chỉ có một đảng duy nhất được coi là thành phần ý thức nhất đại diện chân chính cho toàn dân, là tổ chức có kỉ luật nhất và có sức mạnh vạn năng. Đó là ĐCSVN. Cho tới cuối thập kỉ 80 (thế kỉ trước) các chế độ độc tài toàn trị từ Tây sang Đông đã đứng vững trên hai cái chân này!
Nhưng cả thế giới đã chứng kiến vào đầu thập niên 90, Liên xô, cái nôi của thành trì XHCN, đã tự sụp đổ và kéo theo sự tan vỡ của các nước CS Đông Âu. Vì thế chủ nghĩa Marx và cách tổ chức xã hội theo mô hình Lenin-Stalin đã chứng minh là một sự không tưởng và đã là một sự phí phạm nhân mạng và tài sản rất to lớn cho nhiều dân tộc. Do đó điều kiện đầu tiên cho sự tồn tại của chế độ độc tài tòan trị đã bị thực tế phủ nhận. Tức là một vài chế độ độc tài toàn trị còn sót lại, trong đó có chế độ CSVN, chỉ đứng khập khiễng một chân! Đó là vai trò độc tôn của Đảng Cộng sản.
Những người lạc quan tếu, những tổ chức có hành động mông lung phiêu lưu sẽ cổ xúy hay xúi bậy là bây giờ chỉ cần tập trung sức mạnh vào tập đoàn độc tài đánh một cái rụp là xong. Trong thực tế, khi các phe nhóm độc tài còn nắm trong tay chính quyền, quân đội và công an thì đĩ chỉ là những chủ trương thiêu thân không đi đến đâu. Chẳng những thế, nó còn đưa tới những hậu quả vơ cùng khốc hại cho nhân dân và đất nước, một cuộc nội chiến sẽ lại tiếp diễn với hàng triệu sinh mạng lại phải hi sinh, các công trình xây dựng sẽ bị tàn phá. Hậu quả dẫn tới là hận thù, nghèo đói và tụt hậu. Đó là kết quả thảm khốc của các cuộc chiến ở VN từ hạ bán thế kỉ 20 mà toàn dân tộc VN, trong đó có chúng ta vừa là nạn nhân và nhân chứng. Ngoài ra, trong thời đại toàn cầu hóa giải pháp chiến tranh không có sức thuyết phục các nước dân chủ.
Một sách lược khôn ngoan và khả thi phải làm sao từng bước vô hiệu hóa những móng vuốt và làm tê liệt sức mạnh của độc tài (quân đội, công an, mật vụ, tòa án…), từ đó tạo những điều kiện cần thiết để nhân dân tự tin, tự hàng ngũ hóa để cuối cùng cô lập được các phe nhóm độc tài cực đoan còn sót lại. Trong hoàn cảnh của VN và chiều hướng toàn cầu hóa đang phát triển như hiện nay thì đây là sách lược rất khả thi. Có nghĩa là, trong thực tế chúng ta sẽ không chủ trương đánh ngay vào trung tâm của chế độ, nhưng tìm cách bao vây và cơ lập để vô hiệu hóa những bộ máy và sức mạnh của nó. Cuối cùng chế độ độc tài sẽ rơi vào tình trạng như một chiếc xe hơi không còn xăng nhớt, khi ấy nhóm lãnh đạo độc tài bảo thủ cuối cùng ương ngạnh nhất dù muốn cho máy nổ cũng sẽ bị bất lực. Nhân dân và các lực lượng dân chủ sẽ thu lại cái xe một cách nguyên vẹn và toàn bộ, chỉ cần đổ xăng và dầu là xe sẽ chạy bình thường!
Để thực hiện sách lược giải thể chế độ toàn trị, chúng ta cần phải đi theo một tiến trình ngược lại so với việc xây dựng chế độ độc tài toàn trị. Nghĩa là chúng ta phải thúc đẩy những tiến trình:
Làm cho người dân trong nước được tự chủ và độc lập hơn đối với chế độ trong cuộc sống hàng ngày.
Làm cho những liên hệ của VN với thế giới bên ngoài, nhất là với Mĩ và EU, càng mở rộng và sâu hơn.
Tiến tới giai đoạn để nhân dân tự hàng ngũ hóa trong các hoạt động kinh tế, giáo dục, xã hội, tôn giáo và cuối cùng cả trong chinh trị nữa.
Khi ba lãnh vực này đã đạt được những thành quả nhất định (không nhất thiết phải hoàn toàn hay tòan thể) thì bộ máy đàn áp của chế độ sẽ bị bất lực và trở nên vô hiệu. Khi ấy, nhóm bảo thủ cực đoan sẽ phải chọn lựa hoặc là tự giải thể hoặc là bị giải thể. Tựu chung lại, sách lược này đi từ hạ tầng lên thượng tầng, trong đó phát triển sức xây của nhân dân cũng đồng thời là phát triển sức chống của nhân dân đối với chế độ.
MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP: PHƯƠNG PHÁP PHẢI PHÙ HỢP MỤC TIÊU
Mục tiêu là hướng nhắm tới, điều ước mong. Nhưng liệu nó có đạt được hay không tùy thuộc vào phương pháp áp dụng. Có những mục tiêu đã được đề ra cả 10 năm, 50 năm, thậm chí có khi cả thế kỉ mà vẫn không đạt được, nếu các phương pháp đấu tranh không phù hợp. Phù hợp ở đây bao hàm một nghĩa rộng: phù hợp với những điều kiện đặc thù (lịch sử, tâm lí, chính trị và kinh tế,) nội tại của xã hội ấy; đồng thời cũng phải phù hợp với môi trường bên ngoài, tức là hoàn cảnh quốc tế, trong đó có những tương quan lực lượng trên thế giới và trào lưu của thời đại.Sự tương quan giữa mục tiêu và phương pháp vô cùng quan trọng, nó cho biết nhận thức và tầm nhìn của những người đấu tranh. Nếu một tổ chức nhân quyền đề ra mục tiêu thực hiện một xã hội tôn trọng nhân quyền với dân chủ, tự do, nhưng lại chủ trương hợp tác với các tổ chức bạo lực sẵn sàng đàn áp đối thủ bằng tù đày, tra tấn, kế cả thủ tiêu thì phương pháp này đi ngược hoàn toàn với mục tiêu. “Mục tiêu biện minh cho phương tiện” chỉ là một cách ngụy biện và lừa đảo nguy hiểm. Xã hội VN ngày nay là hậu quả của việc này và hầu hết chúng ta đều là nạn nhân của nó. Nhìn lại chúng ta có thể thẩm định được công và sức bỏ ra cho mục tiêu có bõ không, hay là quá cao, hoặc quá thấp, có đạt được không? Nói cách khác, nếu hiểu được tương quan giữa mục tiêu và phương pháp thì có thể thấy trước hiệu năng và kết quả của công việc. Nếu không ước định thận trọng và cân nhắc, rất có thể công bỏ ra quá lớn mà mục tiêu vẫn ở ngoài tầm tay! Thí dụ rất rõ ràng như cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ suốt gần thế kỉ vừa qua của nhân dân ta cho „độc lập, tự do và hạnh phúc”, nhưng cuối cùng vẫn tay trắng!
Trở lại với trọng tâm của bài này là sách lược đấu tranh nhân quyền như thế nào thích hợp cho VN và khả thi trong điều kiện quốc tế hiện nay để đạt mục tiêu thay đổi chế độ chính trị ở VN từ độc tài sang dân chủ vào thời điểm đầu thế kỉ 21?
Là những người đấu tranh cho nhân quyền, đứng trước cảnh đói nghèo của người dân, tụt hậu của đất nước, bị đàn áp của những tu sĩ và nhân sĩ dân chủ, sự tham nhũng trắng trợn và bóc lột công khai của những người có quyền lực- không ai trong chúng ta có thể làm ngơ được. Chúng ta càng không thể tưởng tượng được, chính những người lãnh đạo chế độ đang nhân danh nhân dân, nhân danh tổ quốc, nhân danh tự do và hạnh phúc của con người lại có thể vô trách nhiệm đến như thế, lại có thể tham lam và tàn ác với nhân dân đến như vậy! Cho nên, nếu có ý thức về nhân quyền thì việc đứng lên đấu tranh -bất cứ ở cương vị nào, từ người dân bình thường tới chuyên viên, trí thức, tu sĩ, từ các đoàn thể chính trị tới các tôn giáo, văn hóa, xã hội và nhân quyền- là chuyện tự nhiên phải làm, rất hợp tình hợp lí.
Nhưng làm như thế nào để từng bước đẩy lùi được thế lực độc tài và cuối cùng loại nó ra khỏi đời sống chính trị để thay thế vào đó một chế độ dân chủ? Đó mới là câu hỏi trung tâm của những đấu tranh có tinh thần trách nhiệm. Không phải mục tiêu đúng (chống độc tài) thì phương pháp nào cũng hợp lí, cũng dùng được. Như đã nói ở trên, cách giải thích mục tiêu biện minh phương tiện đã bị lạm dụng quá nhiều ở VN và đã chứng tỏ những sai lầm vô cùng nguy hại cho đất nước.
Hiện nay vẫn có một số người và vài tổ chức chủ trương và đòi hỏi tẩy chay chính trị và ngoại giao, kêu gọi Mĩ và Âu châu không thiết lập ngoại giao với chế độ CSVN. Nhưng kết quả như thế nào thì ai cũng biết, hầu hết các nước trên thế giới đều có quan hệ ngoại giao với VN. Tuy nhiên, qua đó không nên hiểu một cách đơn giản hay thất vọng (và càng không nên nghe tuyên truyền của chế độ) rằng, các nước dân chủ đã nhìn nhận chế độ độc tài. Công nhận ngoại giao ở đây phải hiểu về mặt quốc tế công pháp, nhìn nhận một chủ thể chính trị trong bang giao quốc tế mà thôi.
Trong thời gian gần đây, vẫn còn một số người kêu gọi tẩy chay không về thăm nhà, không gởi tiền về cho thân nhân ở VN, không đầu tư ở trong nước, không mua hàng VN… Ngoài ra, họ còn yêu cầu các nước Mĩ và Liên minh Âu châu không buôn bán với VN. Họ đưa ra lập luận coi đấy là sách lược hữu hiệu nhất để phong tỏa túi tiền của chế độ độc tài, và làm như thế thì chế độ này sẽ mau sụp đổ!
Nhưng thực tế lại đang diễn ra hoàn toàn khác. Số kiều bào về thăm nhà năm sau đông hơn năm trước.Trong dịp Tết vào các năm gần đây có hàng trăm ngàn người về thăm gia đình, bạn bè hay nơi quê cha đất tổ, những nơi thân thương ngày trước. Số tiền của kiều bào gởi về để giúp đỡ thân nhân, đầu tư kinh tế, ủng hộ các cơ quan giáo dục, y tế và xã hội.. cũng gia tăng từ năm này sang năm khác, Chỉ riêng tiền gởi về cho thân nhân ở trong nước hiện đã lên tới trên hai tỉ Mĩ kim hàng năm. Một số tiền rất lớn, khoảng 8% tổng sản lượng quốc gia của VN hiện nay. Ngoài ra, tất cả các nước dân chủ phương Tây đều có mậu dịch với VN. Hoa kì cũng đã kí Hiệp định Thương mại với VN, hợp thức hóa những hoạt động thương mại giữa hai nước. Kim ngạch ngoại thương giữa Mĩ và VN đã gia tăng rất lớn trong hai năm gần đây.
Những sự giúp đỡ và ủng hộ của kiều bào cho thân nhân, hay những hoạt động đầu đầu tư, thương mại của các nước ngoài tại VN không nên và không thể giải thích một cách quá giản lược tùy tiện là một sự tiếp tay cho chế độ độc tài. Ngược lại, phải nhìn những hoạt động này một cách đa diện và các hiệu quả của nó về trung hạn và trường kì. Phải nhìn rõ những mặt mạnh và mặt yếu của mỗi giải pháp.
Về mặt tình cảm và nhân đạo, việc giúp đỡ các người thân, ủng hộ các tôn giáo, học sinh, các cơ quan xã hội… là một tình cảm tự nhiên của con người cần được khuyến khích trong bất cứ thời đại nào và chế độ nào. Ngăn cản nó cũng vô ích. Đây không chỉ riêng ở VN hiện nay mà đang diễn ra ở Cuba, Trung hoa và tại nhiều nước cựu CS ở Đông Âu và Liên xô. Trước đây hàng triệu người Tây Đức, Ba lan, Hung… (sống ở Hoa kì) cũng đã gởi tiền giúp đỡ người thân và bạn hữu ở Đông Đức, Ba lan…Đài loan là một trong những nước đầu tư lớn nhất ở lục địa Trung hoa. Hàng triệu Hoa kiều ở Mĩ và nhiều nước Á châu hàng năm gởi hàng tỉ Mĩ kim về giúp các thân nhân, hoặc đầu tư ở Trung hoa. Hẳn chính quyền Đài loan, một chế độ chống Cộng rất cực đoan, không ngu dại để cho các công ti và tư nhân Đài loan làm như vậy. Hàng triệu Hoa kiều ở nước ngoài cũng không phải là khờ dại. Họ có những nhu cầu chính đáng và nhiều người, đoàn thể có những sách lược lâu dài.
Một nghịch lí khác là, một số người kêu gọi tẩy chay giao thương với VN và cho đó là cách ủng hộ hiệu quả và tích cực cho các phong trào dân chủ ở trong nước. Nhưng họ đã không lưu ý, chính những người đang đứng lên phát động đòi dân chủ ở trong nước lại hoan nghênh việc kí kết Hiệp định thương mại Việt-Mĩ mạnh mẽ nhất.Từ các nhân sĩ dân chủ Bắc hà nổi tiếng như cố tướng Trần Độ, GS Hoàng Minh Chính, TS Nguyễn Thanh Giang, nữ văn sĩ Dương Thu Hương, tới các nhà đấu tranh cho nhân quyền ở miền Nam như BS Nguyễn Đan Quế, GS Nguyễn Đình Huy, GS Nguyễn Ngọc Lan và cả những nhà lãnh đạo Phật giáo như các HT Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, TT Tuệ Sĩ, các linh mục có uy tín trong giáo hội Công giáo như Chân Tín, Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi… cũng đã lên tiếng ủng hộ có điều kiện cho Hiệp định thương mại Việt -Mĩ nói riêng và mở rộng sự hội nhập quốc tế của VN nói chung.
Chính các vị này đang sống ở trong nước, hiểu rõ những hoàn cảnh khó khăn và thấy được những cơ hội tốt, biết rõ được những chỗ yếu của chế độ… Họ nhận thấy rằng, tiến trình dân chủ hóa ở VN trong điều kiện nghặt nghèo dưới chế độ độc tài hà khắc nhất thế giới, chỉ có thể tiệm tiến, mức độ đạt được mau hay chậm tùy thuộc rất nhiều vào mức độ hội nhập của VN vào định chế quốc tế trong tất cả các lãnh vực. Mở cửa càng lớn, hội nhập càng nhanh thì tiến trình dân chủ của VN cũng sẽ thành công chắc chắn và nhanh hơn.
Sự mở rộng giao thương và hội nhập quốc tế sẽ cải thiện cuộc sống vật chất và tinh thần cho người dân VN ở trong nước. Đây là những điều kiện cơ bản để thoát khỏi sự lệ thuộc vào chế độ và thiết lập một sự tự chủ cho mình từ cuộc sống hàng ngày tới những suy tư của mỗi người. Đây là những điều kiện căn bản để hình thành một xã hội công dân, như đã nói ở trên. Mặt khác, một khi chấp nhận mở cửa và hội nhập quốc tế thì chế độ CSVN, dù muốn dù không, không sớm thì muộn phải chấp nhận luật chơi dân chủ, qui luật cạnh tranh quốc tế tiến lên hay tụt hậu. Vì thế, tiến trình dân chủ hóa VN đồng thuận với tiến trình toàn cầu hóa!
Nếu quan sát xã hội VN từ cuối thập kỉ 80 trờ về đây, thì không ai phủ nhận được rằng, cuộc “đổi mới” bắt đắc dĩ và rất què quặt của chế độ, nhưng nó cũng đang mở cho đất nước ta những cơ hội mới, cuộc sống của nhân dân dễ thở hơn, các cuộc vận động dân chủ, nhân quyền và những người tham gia ngày càng đông, với những khí thế mới, từ đó chế độ mỗi ngày trở nên bị động hơn và nội bộ phân hóa mạnh hơn!
Từ khi phải đổi mới miễn cưỡng, nên chế độ này đang rút vào thế thủ, bỏ trống nhiều địa bàn hoạt động mà trước đây họ vẫn độc quyền thao túng. Nhiều người dân chủ ở trong và ngoài nước đã nhận rõ được thời cơ và đang từng bước nhẩy vào các địa bàn này đấu tranh trực diện và đã dành được một số những thắng lợi ban đầu. Nhiệm vụ chung của chúng ta lúc này không nên hô hào tẩy chay, ngược lại cần phải tiếp tay và giúp đỡ tích cực cho những người dân chủ và các tôn giáo ở trong nước đang mạnh bạo và can đảm đấu tranh bằng những phương thức và phương tiện phù hợp với từng địa phương và môi trường! Giữ thái độ tích cực và chọn thế đấu tranh chủ động sẽ đẩy lùi được bóng tối độc tài và mở rộng ánh sáng dân chủ tới VN!
Cùng với các dân tộc khác, đất nước chúng ta đang chuyển vào thế kỉ 21 và đang ở giai đoạn đầu của kỉ nguyên toàn cầu hóa về thông tin, kinh tế, khoa học và kĩ thuật. Tiến trình này sẽ không dừng lại mà sẽ mở ra mạnh hơn cả về tốc độ và không gian, không chỉ giới hạn trong các nước kĩ nghệ và tân kĩ nghệ mà đang tràn tới các nước đang phát triển. Nó cũng không giới hạn trong các nước dân chủ mà đang vươn tới cả những xã hội độc tài. Nó sẽ không dừng trong thông tin điện tử, tài chánh, thương mại, khoa học và kĩ thuật mà sẽ mở rộng sang các lãnh vực nhân quyền, chính trị. Trong kỉ nguyên toàn cầu hóa sự liên đới giữa các nước càng mật thiết và đa dạng hơn.
Trong tiến trình này, một số xã hội độc tài, trong đó có VN, dù muốn dù không cũng phải hội nhập chứ không thể sống trong hoang đảo hay ốc đảo ở sa mạc! Cần thấy rõ tất cả mặt mạnh và mặt yếu của tiến trình này để chuyển biến đất nước từ độc tài sang dân chủ và hội nhập thế nào có lợi ích tối đa cho đất nước.
Những người đấu tranh nhân quyền cần phải lưu ý, tòan cầu hóa tự nó không thay đổi được chế độ chính trị ở một nước, mà nó chỉ tạo ra môi trường và các điều kiện thuận tiện cho việc thay đổi đời sống chính trị. Có thay đổi hay không và thay đổi nhanh hay chậm, điều này nằm hệ tại ở ngay các nước liên hệ. Liệu các lực lượng dân chủ ở các nước này có biết hàng ngũ hóa và biết đứng lên viết lên trang sử dân chủ hay không. Mĩ, Nhật, hay EU sẽ không làm thay chúng ta, vì đấy không phải là nhu cầu trực tiếp đối với họ, không phải là quyền lợi sống còn của họ.
Xét về nhiều phương diện trong bối cảnh toàn cầu, việc nhẩy vào trực tiếp của các nước này chưa chắc đã đưa đến thành công, mà rất có thể sẽ tạo ra những khủng hoảng lớn về an ninh và kinh tế không riêng trong khu vực mà cả thế giới. (Thí dụ như trường hợp ở Irak hiện nay!). Vì thế, đây là công việc và nhiệm vụ của chính người dân các nước đang sống trong các chế độ độc tài. Họ phải tự đứng lên, phải tự hàng ngũ hóa đấu tranh cho các quyền chính đáng của cá nhân mình và dân tộc mình. Nếu tự chứng tỏ mình có thực lực và khả năng thì các tổ chức dân chủ tư nhân và chính quyền của các nước dân chủ sẽ giúp đỡ và tiếp sức! Kinh nghiệm ở Ba lan, Tiệp khắc, Liên xô và Đông Đức trước đây đã chứng minh việc này!
Một phản biện nữa đưa ra chống lại các quan hệ thương mại, kinh tế… với chế độ Hà nội, là các nước Tây phương chỉ lo lợi nhuận chứ không để ý gì đến nhân quyền, dân chủ… Đây chỉ là suy nghĩ theo cảm tính, phủ nhận những thực tế. Ai chịu khó đọc bản Hiệp định Thương mại Việt Mĩ thì sẽ thấy, tuy không có điều khoản nào nói trực tiếp về nhân quyền, nhưng có nhiều điều ràng buộc đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải để cho các doanh nghiệp tư nhân ở trong nước được hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp quốc doanh, tức là khuyến khích vai trò của tư nhân, một điều kiện căn bản để hình thành một xã hội dân sự thay thế một xã hội toàn trị. Nhưng phải nhớ, dân chủ cho VN, dân chủ cho đồng bào ta là chuyện trước tiên và cuối cùng phải là việc của chính người Việt Nam, của từng công dân có ý thức, của từng tổ chức hiểu biết trách nhiệm. Người Mĩ và Âu châu ở cách xa VN hàng chục ngàn dặm không cảm thấy nhu cầu bực bội trực tiếp như hàng triệu dân VN.
Trong thời đại toàn cầu hóa, tẩy chay là phương pháp tranh đấu thụ động, nó như người đánh đàn lạc điệu, không có ai nghe, vì không được nhân dân trong nước hưởng ứng và không được quốc tế ủng hộ, cho nên không đóng góp thực tiễn vào việc chuyển hóa đất nước. Nếu không muốn ngồi chơi một mình thì hãy nên có thái độ tích cực, sách lược chủ động giúp đỡ những người thân, các người đối kháng dân chủ và các phong trào đòi dân chủ ở trong nước để sớm hình hành một xã hội công dân ngay chính trong lòng chế độ độc tài. Hãy khai triển thật khôn ngoan những lợi điểm của tiến trình hoàn cầu hóa và những thế bí của chế độ trong việc hội nhập quốc tế để đưa tiềm năng và sức mạnh tự chủ trong đời sống và suy tư của người dân ngày một nâng cao. Từ đó sẽ dấy lên một phong trào dân chủ, nhân quyền rộng rãi và vũ bão áp đảo được các thế lực độc tài!
VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA “MẠNG LƯỚI NHÂN QUYỀN” HÔM NAY VÀ NGÀY MAI
Mới ra đời đựơc sáu năm, thời gian tương đối còn ngắn, nhưng Mạng Lưới Nhân quyền Việt Nam đã làm được nhiều việc rất hữu ích trong việc chống lại các hành động chà nạp nhân quyền của chế độ toàn trị ở VN. Những người theo dõi sự hoạt động của MLNQ phải ghi nhận những cố gắng và thành công sau đây:Đã qui tụ được nhiều người biết cách hoạt động nhân quyền. Cụ thể như trong thời gian đầu chỉ lên tiếng ủng hộ những người và các tổ chức dân chủ trong nước ở miền Nam. Nhưng nay MLNQ đã ủng hộ tích cực cả những ngừơi dân chủ ở miền Bắc, trong đó có cả những người từng là đảng viên CS. Chính nhận thức mới này đang tạo thêm uy tín và sức mạnh cho MLNQ.
Ngay từ bước đầu đã biết kết hợp với các tổ chức quốc tế khác cũng hoạt động về nhân quyền để hợp tác bảo vệ nhân quyền ở VN. Đáng kể là với Tổ chức Theo dõi Nhân quyền của Mĩ (Human Rights Watch) có trụ sở ở New York, Tổ chức Ân xá Quốc tế có trụ sở ở London, Hội Kí Giả Không Biên giới và Ủy ban Nhân quyền LHQ.
Trong thời gian gần đây một số thành viên của MLNQ đang hoạt động một cách âm thầm, nhưng rất hiệu quả, trong một số tổ chức trên để yểm trợ lại những hoạt động của các Tổ chức này. Nhờ sự liên đới hai chiều này đã tạo thêm sức mạnh và uy tín cho MLNQ trong môi trường quốc tế, nhất là ở Mĩ.
Trong thời gian gần đây, một số người có trách nhiệm của MLNQ cũng đã tìm cách phối hợp với một số tổ chức và chuyên viên trong các Cộng đồng VN ở Hoa kì, Âu châu và Úc châu để phân công và hợp tác trong các hoạt động nhân quyền và dân chủ. Điều này tiết kiệm được nhân lực, tài lực cho nhau, không những thế còn tránh được sự dẫm chân lên nhau. Mặt khác, những sự hợp tác này làm gia tăng tình thân hữu và tín nhiệm lẫn nhau giữa những tổ chức của ngừơi Việt dân chủ.
Những sự thành công ban đầu rất tích cực này là nhờ MLNQ qui tụ được các thế hệ khác nhau, từ các vị cao niên nhiều kinh nghiệm và uy tín tới những người trung niên nhiều nhiệt huyết, kết hợp được cả một số phụ nữ tích cực và có uy tín trong cộng đồng. Điều đáng chú ý nhất và cũng là điểm son của MLNQ là có sự tập hợp của nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng trong khi làm việc đều giữ tinh thần làm việc dân chủ và có hiệu năng.
Cách hoạt động của MLNQ trong những năm qua đang đem lại những lợi ích rất cụ thể trong việc tranh đấu cho nhân quyền ở VN. Từ việc tố cáo trước dư luận quốc tế về những hành động chà đạp nhân quyền của CSVN cũng như việc vận động chính giới Mĩ và các Cộng đồng người Việt trong việc trả tự do cho các tu sĩ và những ngừơi Dân chủ bị giam giữ ở trong nước.
Như chúng ta thấy, các hoạt động nhân quyền không chỉ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, mà nó còn giữ một vai trị quan trọng và rất thiết thực trong giai đoạn chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ ở trong nước. Vì hiện nay và trong một tương lai gần VN còn vắng bóng một vài chính đảng dân chủ có uy tín và đủ bản lĩnh, cho nên trong giai đoạn giao thời, các tôn giáo, các tổ chức chuyên viên, trí thức và các tổ chức hoạt động nhân quyền sẽ có thể đóng vai trị vừa hổ trợ và trung gian để hình thành một xã hội dân chủ ở VN. Rất mong MLNQ sẽ tiếp tục vươn lên để đảm nhận những vai trị quan trọng trong thời gian trước mắt! ¡
(Thuyết trình tại Đại hội kì 6 của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam và đăng trong Tuyển Tập Dân Chủ Việt Nam tập I)
——————————————————————————
Âu Dương Thệ: Tiến sĩ ngành chính trị học, Đại học Tây Bá linh, 1978. Hiện giảng dạy và nghiên cứu tại các đại học Đức về các đề tài Việt nam và bang giao quốc tế.
- Chủ tịch Hiệp hội Dân chủ và Phát triển Việt Nam
- Chủ bút tạp chí Dân chủ & Phát triển.
Sách đã in:
- Chính sách Việt nam của Hoa kì từ học thuyết Johnson tới chủ thuyết Nixon-Kissinger Hay sự thay đổi chính sách ngoại giao của Mĩ (Luận án Tiến sĩ, tiếng Đức, 1978)
- Tình hình chính trị tồn Việt Nam từ 1975-1982: Ước vọng và thực tế! (tiếng Đức, 1975)