Thứ Hai, 11 tháng 4, 2011

Một quan điểm độc hại của học giả Mỹ về Đông Thái Bình Dương

Quan hệ Mỹ- Trung luôn là mối quan tâm của thế giới, nhất là VN
-Một quan điểm độc hại của học giả Mỹ về Đông Thái Bình Dương
Trong lúc Hoa Kỳ đang thay đổi các ưu tiên ngoại giao và quốc phòng để đối phó với nhiều thử thách dồn dập tại Trung Đông, Trung Á, Đông và Nam Á thì xuất hiện một lập trường kêu gọi Mỹ triệt thoái một phần khỏi khu vực Đông Thái Bình Dương – và dù không nói ra nhưng mục tiêu nhằm chuyển sự chú ý của Hoa Kỳ vào một khu vực nào khác mà chúng ta có thể đoán sau.

Tạp chí có ảnh hưởng hàng đầu trong ngành ngoại giao là tờ Foreign Affairs số tháng 3/4 năm 2011 đăng trên trang bìa bài viết mang tựa đề “China‘s Rise lead to War?” (Liệu sự trỗi dậy của Trung Quốc có sẽ dẫn đến Chiến Tranh) của Giáo Sư ngành Chính Trị Học Charles Glaser thuộc trường Đại Học George Washington. Nội dung chính gồm các điểm:
1. Mỹ-Trung có nhiều khả năng chạm trán nhất là tại Nhật, Nam Hàn và Đài Loan
2. Hoa Kỳ cần duy trì hiện diện tại Nhật và Nam Hàn. Trung Quốc sẽ không phản đối vì nhờ có Mỹ nên Nhật và Nam Hàn không ồ ạt tăng cường quốc phòng.
3. Trái lại Hoa Kỳ nên rút khỏi Đài Loan vì Hoa Lục ngày càng mạnh. Cố bảo vệ quốc đảo này có thể dẫn đến chiến tranh hạch nhân Mỹ-Trung.
4. Bắc Kinh không có dấu hiệu về tham vọng lãnh thổ nên sẽ không lợi dụng hoàn cảnh mới để bành trướng sang các khu vực khác.
5.  Dù Hoa Lục có yêu sách về đường lưỡi bò với các nước Đông Nam Á nhưng Mỹ có thể ngăn chận bằng các hợp tác và liên minh quân sự trong khu vực
6. Hoa Kỳ không cần giữ ưu thế quân sự ở Thái Bình Dương vì nguy cơ Trung Quốc tấn công qua đại dương không hề có.
Các điểm 3, 4, 5 và 6 trong bài viết mù mờ và mâu thuẫn. Tính chuyện rút khỏi Đài Loan ngay trong lúc đối phương còn chưa đủ mạnh là kế sách bị hù doạ đã chạy. Nhật, Nam Hàn và các nước Đông Nam Á không khỏi nghi ngờ về quyết tâm của Mỹ và có thể phải chọn lựa ngả theo Bắc Kinh. Nhắc đến đường lưỡi bò rồi lại cho rằng Hoa Lục không có tham vọng lãnh thổ là bất nhất. Cuối cùng, một mặt cho rằng Mỹ không cần giữ ưu thế quân sự, mặt khác lại viết Mỹ chỉ cần vài hợp tác và liên minh quân sự cũng đủ ngăn chận Hoa Lục ở biển Đông hoàn toàn thiếu căn cứ. Điều đáng nói là tác giả dùng cách trình bày hoa mỹ của một giáo sư đại học nhằm đánh hoả mù che đậy những lý luận ấu trĩ.
Chúng ta có thể đặt nghi vấn rằng mục tiêu chính của bài viết không phải về các tranh chấp Mỹ-Hoa, mà chỉ để kêu gọi Hoa Kỳ giảm hiện diện tại Thái Bình Dương đồng thời chuyển khả năng nhân vật lực sang một khu vực nào khác[1]
Chúng ta cần hiểu rằng một bài được chọn đăng trên tập san Foreign Affairs dù không thể hiện quan điểm nhà nước, nhưng vẫn đại diện cho một thế lực nào đó muốn thay đổi chính sách của Hoa Kỳ. Ngành ngoại giao của Mỹ là kết quả của những vận động hay tranh chấp giữa nhiều khuynh hướng đối choại – chẳng hạn như Hoa Kỳ nên chọn lựa ưu tiên và bỏ tiền của hổ trợ cho Do Thái hay A-Phú-Hản hay Đài Loan hoặc Đông Nam Á, nhất là trong hoàn cảnh các phương tiện của Mỹ đang eo hẹp và không thể gánh nặng mọi đầu.
Riêng để vận động hành lang (lobby) người Mỹ gốc Do Thái đi theo tiến trình nhiều bước[2]:
* Trước hết tại các viện nghiên cứu (think tank) hay các trường đại học danh tiếng đưa những quan điểm chiến lược toàn cầu – kết quả thường được trình bày trong các buổi hội thảo lớn (conferences), những bài phân tích trên các tập san chuyên môn như Foreign Affairs, cùng các sách có giá trị biên khảo.
* Kế đến là các vận động trong chính quyền và Quốc Hội để các “quan điểm” thân Do Thái chính thức trở thành “chính sách” của Hoa Kỳ.
* Đồng thời dùng các phương tiện truyền thông đại chúng như đài truyền hình CNN, CBS, … và những tờ báo lớn Washington Post, New York Times, … để ảnh hưỡng quần chúng cùng các viên chức hành pháp và lập pháp
* Cuối cùng, gây quỹ hỗ trợ cho các ứng cử viên Tổng Thống và Quốc Hội. Đề nghị những nhân vật thân thiện với Do Thái nắm giữ các chức vụ quan trọng như Bộ Trưởng, Cố Vấn An Ninh. Áp lực hay ngay cả đe doạ các khuynh hướng đối nghịch.
Nếu so sánh giữa người Mỹ gốc Do Thái và gốc Việt cùng khoảng con số 2-3 triệu người, nhưng bù lại chúng ta hoàn toàn không có tiếng nói ở cấp bậc Liên Bang, trong các viện nghiên cứu chiến lược (think tank), các trường Đại Học danh tiếng, các cơ quan truyền thông quốc tế và cũng không tạo được một hệ thống chọn lọc và hổ trợ các ứng cử viên thân hữu.
Nếu xét về thứ hạng có lẽ tầm ảnh hưởng chính trị của người gốc Việt  kém các sắc dân gốc Do Thái, Cuba, Mễ Tây Cơ, Ái Nhĩ Lan, Ý, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật, Đài Loan nhưng ngang hàng với người gốc Armenia và Kurdistan.
***
Báo chí và các trang mạng tại Hoa Lục đang ồ ạt phổ biến và tán thưởng bài viết nói trên của giáo sư Charles Glaser. Trái lại nhật báo Taipei Times của Đài Loan đã đăng một bài phản bác vào ngày 7 tháng 4[3]. Người viết hy vọng sẽ có những học giả gốc Việt đưa lên báo chí quốc tế nhiều lập luận sắc bén bằng tiếng Anh – Pháp để bác bỏ luận điểm độc hại này ngay từ trong trứng nước.
© Đoàn Hưng Quốc
© Đàn Chim Việt
Ghi chú:
[1] Hoa Kỳ giữa hai chọn lựa: Trung Đông hay Đông Nam Á? Tác giả Đoàn Hưng Quốc (02/2011)
[2] The Israel Lobby and U.S. Foreign Policy. Tác giả John J. Mearsheimer and Stephen M. Walt (Sep 2, 2008)
[3] The US cannot appease the Chinese. Tác giả Li Thian-hok, Taipei Times (April 7, 2011)
---------

Sự nổi lên của TQ không làm suy chuyển quyền lực Mỹ  Tác giả: Charles Glaser
Dù sự nổi lên của Trung Quốc tạo ra một số nguy hiểm, nhưng sự phân bố quyền lực đang thay đổi không làm cho các lợi ích của Mỹ và Trung Quốc trở nên không tương thích.
>> Phần 1: Sự nổi lên của Trung Quốc có dẫn tới chiến tranh?
Còn các liên minh?
Tất nhiên các phân tích trên đây còn bỏ sót một đặc điểm quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ - các liên minh quân sự quan trọng mà Mỹ đang duy trì với Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như các thỏa thuận về an ninh giữa Mỹ với Đông Bắc Á. Nhưng dù thêm các quan hệ đồng minh này làm cho bức tranh toàn cảnh thêm phức tạp, chúng cũng không làm người ta mất lạc quan khi nói về sự nổi lên của Trung Quốc. Vậy các liên minh khu vực này quan trọng đến mức nào đối với an ninh của Mỹ.


Đúng là các thỏa thuận liên minh của Mỹ vẫn ổn định từ thời kỳ đầu chiến tranh Lạnh, nhưng sự nổi lên của Trung Quốc đang làm dấy lên các cuộc tranh luận về cái giá phải trả và những lợi ích có thể đạt được của chúng. Lập luận tương tự như trên - rằng Mỹ có thể đơn giản được an toàn khi có lợi thế về sức mạnh, địa lý và kho vũ khí hạt nhân - những người theo chủ nghĩa biệt lập kiểu mới này kết luận rằng Mỹ nên chấm dứt các quan hệ đồng minh ở châu Âu và châu Á vì không cần thiết và khá rủi ro.
Theo họ, nếu Mỹ có thể ngăn chặn các cuộc tấn công nhằm vào nước mình, thì tại sao phải dựa vào các liên minh sẽ đẩy Mỹ vào các cuộc chiến lớn hơn ở những lục địa xa xôi? Việc bảo vệ các đồng minh của Mỹ ở châu Á có thể buộc Mỹ lao vào các cuộc xung đột chính trị và cạnh tranh về quân sự có thể làm căng thẳng những quan hệ chính trị giữa họ với Trung Quốc. Nói tóm lại, theo những người biệt lập kiểu mới này, sự nổi lên của Trung Quốc sẽ không gây nguy hiểm cho an ninh của Mỹ, mà chính việc duy trì các quan hệ đồng minh hiện nay của Mỹ mới gây ra nguy cơ này.
Ngược lại, những người ủng hộ can dự có chọn lọc - cách tiếp cận giống với chính sách của Mỹ hiện nay - cho rằng chiến lược mà họ chọn cũng giống với những nét chính chủ nghĩa hiện thực cấu trúc. Trong khi những người theo chủ nghĩa biệt lập kiểu mới muốn Mỹ rút khỏi vị trí tiền đạo nhằm tránh bị đẩy vào một cuộc xung đột khu vực, những người ủng hộ can dự có chọn lọc cho rằng duy trì các cam kết đồng minh của Mỹ tại châu Âu và châu Á là cách tốt nhất để tránh bùng phát một cuộc xung đột ngay từ khi còn trong trứng nước.
Nguồn ảnh: Reuters
Vì vậy, nghiên cứu cách các cam kết đồng minh của Mỹ tương tác với sự nổi lên của Trung Quốc là một vấn đề quan trọng, cả về chính sách khu vực lẫn chiến lược lớn hơn của Mỹ nói chung. Nếu Mỹ duy trì các cam kết đồng minh quan trọng trong khu vực, Mỹ sẽ cần tăng cường khả năng răn đe của mình tại Nhật Bản và Hàn Quốc nhằm đối phó với các lực lượng quân sự thông thường đang ngày càng lớn mạnh và đa năng của Trung Quốc. Nói theo cách nào cũng vậy, thách thức này sẽ giống như thách thức mà Mỹ từng phải đối mặt khi tăng cường tính răn đe ở Tây Âu trong thời chiến tranh Lạnh. Hai siêu cường đều sở hữu những khả năng trả đũa hạt nhân hùng mạnh, nhưng Liên Xô được cho là có các lực lượng thông thường ưu việt có khả năng xâm lược toàn châu Âu.
Trở lại câu chuyện xưa, giới chuyên gia tranh luận liệu các khả năng của Mỹ có đủ để ngăn chặn một cuộc tấn công thông thường của Liên Xô chống lại châu Âu hay không. Họ bất đồng trước câu hỏi liệu học thuyết đáp trả mềm của NATO - theo đó kết hợp các lực lượng thông thường quy mô lớn với một lực lượng hạt nhân - có thể giúp Mỹ tạo ra sự răn đe hạt nhân đủ để ngăn chặn một cuộc tấn công thông thường của Liên Xô hay không. Nghi ngờ về việc Mỹ sự sẵn lòng chạy đua phản ánh mối nguy hiểm rõ ràng là sẽ gặp phải cuộc trả đũa hạt nhân của Liên Xô. Tuy nhiên, lập luận thuyết phục hơn trong cuộc tranh luận này là chiến lược của Mỹ đã ngăn chặn được một cuộc tấn công thông thường của Liên Xô vì ngay cả một khả năng nhỏ Mỹ leo thang hạt nhân cũng tạo ra những nguy cơ lớn đối với Nga. Cùng logic này có thể áp dụng được với một siêu cường Trung Quốc trong tương lai. Sự kết hợp của các cam kết đồng minh rõ ràng, hướng tới các lực lượng thông thường được huy động, và các lực lượng hạt nhân có thể giúp Mỹ ngăn chặn một cuộc tấn công của Trung Quốc tại Nhật Bản hay Hàn Quốc.
Niềm tin vào khả năng răn đe của Mỹ sẽ được củng cố bởi các quan hệ tương đối tốt giữa Mỹ và Trung Quốc. Những ai từng lo ngại Mỹ có thể không tăng cường khả năng răn đe ở Tây Âu đã nghi rằng Liên Xô là một nước theo chủ nghĩa xét lại hướng tới sự lật độ nguyên trạng và muốn gây nguy hiểm lớn. Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc có những mục tiêu tham vọng đến vậy, vì thế tăng cường khả năng răn đe của Mỹ giờ sẽ trở nên dễ dàng hơn trong thời chiến tranh Lạnh. Và ngay cả khi sự kiện ít khả năng xảy ra đó trở thành hiện thực, tức là Trung Quốc trở thành một nước nguy hiểm như vậy, thì sự răn đe cũng vẫn có tác dụng dù sẽ khó khăn hơn.
Một số người theo chủ nghĩa hiện thực bi quan cho rằng nhằm được đảm bảo an ninh cao hơn, Trung Quốc sẽ thấy bị buộc phải theo đuổi mục tiêu bá chủ khu vực, gây ra xung đột trên con đường này. Tuy nhiên, quy mô, sức mạnh và vị trí cũng như kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc sẽ khiến họ rất khó tiến hành một cuộc tấn công thành công. Trung Quốc sẽ không cần đẩy Mỹ ra khỏi khu vực của mình để được đảm bảo an ninh, vì sự hiện diện của Mỹ sẽ không hủy hoại các khả năng răn đe lớn của Trung Quốc. Hơn nữa, việc Mỹ rút đi sẽ không tự động tạo ra thế bá chủ khu vực cho Trung Quốc, vì khi đó Nhật Bản và Hàn Quốc có thể tăng cường các khả năng quân sự thông thường cũng như khả năng hạt nhân của mình, từ đó làm giảm đáng kể khả năng răn đe của Trung Quốc. Việc Trung Quốc tìm cách bá chủ khu vực, vì vậy, sẽ không cần thiết và không khả thi.
Đúng là sự hiện diện quân sự của Mỹ đang củng cố các khả năng quân sự của nước này, đe dọa khả năng Trung Quốc bảo vệ các vùng hải đảo cũng như đảo Đài Loan của mình. Nhưng liên minh Mỹ với Nhật cũng có lợi đối với Trung Quốc vì khiến Nhật chi tiêu ít hơn cho quốc phòng. Dù sức mạnh của Mỹ vượt xa của Nhật Bản, nhưng Trung Quốc vẫn coi liên minh này góp phần cho sự ổn định của khu vực, vì họ sợ Nhật Bản hơn Mỹ. Khi Trung Quốc lớn mạnh hơn, nước này có thể ngày càng khó chịu với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Đông Bắc Á. Nhưng nếu không có nó, quan hệ Mỹ - Trung sẽ trở nên cực kỳ căng thẳng, vì vậy Trung Quốc sẽ chấp nhận Mỹ tiếp tục hiện diện trong khu vực.
Điều chỉnh trong vấn đề Đài Loan?
Có thể tránh được cạnh tranh về quân sự và chiến tranh, nhưng sự gia tăng sức mạnh Trung Quốc có thể đòi hỏi một số thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ mà Washingon sẽ không hề thấy dễ chịu, đặc biệt trong vấn đề Đài Loan. Trung Quốc đã tỏ rõ rằng họ sẽ sử dụng vũ lực nếu Đài Loan tuyên bố độc lập, và đa phần hoạt động gia tăng sức mạnh quân sự thông thường của Trung Quốc là nhằm tăng khả năng đối phó với Đài Loan và giảm khả năng can thiệp của Mỹ vào hòn đảo này. Vì Trung Quốc đặt vị trí ưu tiên đối với Đài Loan, và vì Mỹ và Trung Quốc có những quan điểm khác nhau trong tính hợp pháp của sự nguyên trạng, vấn đề này đặt ra nhiều mối nguy hiểm đặc biệt và thách thức đối với quan hệ Mỹ - Trung, khiến quan hệ này khác với Nhật Bản và Hàn Quốc.
Một cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan hoàn toàn có thể nhanh chóng leo thang thành chiến tranh hạt nhân. Chính sách hiện nay của Mỹ nhằm giảm khả năng Đài Loan tuyên bố độc lập và tỏ rõ rằng Mỹ sẽ không ủng hộ Đài Loan làm như vậy. Tuy nhiên, Mỹ cũng chịu sức ép phải bảo vệ hòn đảo này trước mọi nguy cơ bị tấn công dù xuất phát từ đâu. Nhìn vào các lợi ích và cách nhận thức hoàn toàn khác nhau của các bên và sự kiểm soát bị hạn chế của Washington đối với hành động của Đài Bắc, một cuộc khủng hoảng có thể nảy sinh, trong đó Mỹ bị lôi kéo vào các sự kiện hơn là gây ra chúng.
Những mối nguy hiểm ấy đã tồn tại nhiều thập kỷ qua, nhưng việc Trung Quốc tăng cường các khả năng quân sự có thể khiến Bắc Kinh sẵn sàng hơn trong việc gây ra một cuộc khủng hoảng Đài Loan. Bên cạnh việc cải thiện các khả năng thông thường, Trung Quốc cũng đang hiện đại hóa các lực lượng hạt nhân nhằm gia tăng khả năng tự vệ và trả đũa sau một cuộc tấn công quy mô lớn của Mỹ. Lý thuyết răn đe thông thường cho rằng khả năng Washington phá hủy hầu hết hoặc tất cả sức mạnh hạt nhân của Trung Quốc sẽ càng củng cố vị thế của họ trong thương lượng. Sự hiện đại hóa hạt nhân của Trung Quốc có thể khiến nước này không bị cản trở trong hành động, khiến họ hành xử liều lĩnh hơn trong các cuộc khủng hoảng tương lai so với trước. Trong khi đó việc Mỹ có ý định duy trì khả năng bảo vệ Đài Loan sẽ đổ thêm dầu vào ngọn lửa chạy đua vũ trang hạt nhân và thông thường. Việc Mỹ tăng cường các khả năng tấn công mục tiêu và phòng thủ bằng tên lửa đạn đạo chiến lược có thể được Trung Quốc hiểu như một dấu hiệu cho thấy các động cơ xấu của Mỹ, khiến Trung Quốc càng tăng cường quân sự và từ đó hủy hoại quan hệ Mỹ - Trung.
Trước những nguy cơ trên, Mỹ sẽ cân nhắc xem lại cam kết của mình tại Đài Loan. Điều này sẽ loại bỏ một điểm nóng bất đồng giữa Mỹ và Trung Quốc, đồng thời mở đường cho các quan hệ tốt hơn giữa hai nước này trong những thập kỷ tới. Nhưng những người chỉ trích động thái này lập luận rằng điều đó sẽ đặt ra không chỉ những cái giá trực tiếp đối với Mỹ và Đài Loan mà cả những cái giá gián tiếp: Bắc Kinh sẽ không hài lòng với sự nhượng bộ đó, họ sẽ đòi hỏi nhiều hơn - điều này càng được thúc đẩy bởi sự mất uy tín của Washington trong vai trò một người bảo vệ các đồng minh. Tuy nhiên, những chỉ trích như vậy là sai vì các nhượng bộ lãnh thổ không phải lúc nào cũng là yếu thế. Không phải mọi đối thủ đều là Hitler, và khi họ không phải là như vậy, thì việc điều chỉnh có thể là một công cụ chính sách hiệu quả. Khi một đối thủ có các mục tiêu lãnh thổ giới hạn, việc trao chúng cho họ có thể sẽ không dẫn tới những đòi hỏi xa hơn mà sẽ là sự hài lòng với nguyên trạng mới và giảm căng thẳng.
Khi đó, vấn đề cốt yếu là liệu Trung Quốc có các mục đích giới hạn hay không giới hạn. Đúng là Trung Quốc có bất đồng với một số nước láng giềng, nhưng có ít lý do để tin rằng họ đã hoặc sẽ phát triển các tham vọng lãnh thổ lớn trong khu vực của mình hoặc vượt ra xa hơn. Những nhượng bộ về Đài Loan sẽ có nguy cơ thúc đẩy Trung Quốc theo đuổi các chính sách đòi hỏi nhiều hơn trong những vấn đề mà sự nguyên trạng của nó đang gây tranh cãi, trong đó có quy chế các hải đảo và đường ranh giới biển trên biển Hoa Đông và biển Đông. Nhưng nguy cơ uy tín của Mỹ bị suy giảm trong việc bảo vệ đồng minh khi nguyên trạng này trở nên rõ ràng - như trường hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc - sẽ là rất nhỏ, đặc biệt nếu bất cứ thay đổi nào trong chính sách với Đài Loan đi kèm với các biện pháp bù trừ (như một tuyên bố mới về cam kết đồng minh khác của Mỹ, tăng cường quân đội Mỹ ở nước ngoài, và gia tăng các cuộc tập trận chung cũng như tăng cường hợp tác công nghệ với các đồng minh của Mỹ).
Mỹ có giảm các cam kết của mình với Đài Loan hay không và sẽ giảm thế nào là một vấn đề phức tạp. Nếu Mỹ quyết định thay đổi chính sách này, thì tốt nhất là nên nới lỏng dần dần các cam kết, thay vì ngừng đột ngột và công khai. Và vì các mối quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan đang được cải thiện trong những năm gần đây, nên Washington sẽ có thể vừa có thời gian và có lý do để đánh giá lại và điều chỉnh chính sách này trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới thay đổi.
Hơn nữa, dù sự nổi lên của Trung Quốc tạo ra một số nguy hiểm, nhưng sự phân bố quyền lực đang thay đổi không làm cho các lợi ích của Mỹ và Trung Quốc trở nên không tương thích. Các nguy cơ tiềm ẩn không góp phần gây ra xung đột lợi ích kéo theo một cuộc chiến tranh giữa các cường quốc. Đúng hơn là, những khó khăn ngày càng nhiều trong việc bảo vệ một số lợi ích thứ yếu, dù không phải là tầm thường, của Mỹ đòi hỏi nước này phải đánh giá lại các cam kết chính sách đối ngoại của mình.
  • Quốc Thái dịch theo Foreign Affairs

-Sự nổi lên của Trung Quốc có dẫn tới chiến tranh? (TVN) 
 -Các nhà lý luận về quan hệ quốc tế theo chủ nghĩa hiện thực thông thường sẽ cho rằng những sức ép cơ bản của hệ thống quốc tế sẽ đẩy Mỹ và Trung Quốc vào xung đột. Những nói đúng hơn, chủ nghĩa hiện thực cũng có thể lạc quan trong trường hợp này, nếu Washington có thể tránh cường điệu hóa nguy cơ đặt ra bởi sức mạnh đang ngày càng gia tăng của Trung Quốc.
Sự nổi lên của Trung Quốc sẽ có thể là câu chuyện lớn nhất về quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI, nhưng vẫn chưa rõ liệu câu chuyện này có một kết cục có hậu hay không. Liệu sự nổi lên của Trung Quốc có làm gia tăng khả năng xảy ra chiến tranh giữa các cường quốc? Liệu một kỷ nguyên căng thẳng quan hệ Mỹ - Trung có nguy hiểm như chiến tranh Lạnh? Hay sẽ tệ hơn, vì Trung Quốc không giống như Liên Xô, sẽ chứng tỏ là một đối thủ cạnh tranh thực sự về kinh tế cũng như về địa chính trị?


Các vấn đề này đã được một loạt các chuyên gia đề cập đến, từ những nhà sử học đến nhà kinh tế học và khu vực học. Nhưng những đặc điểm của riêng Trung Quốc, cách hành xử trước đây cũng như hành trình kinh tế của họ sau này có thể sẽ dẫn tới những sự kiện tương lai không nghiêm trọng như người ta tưởng, vì việc một quốc gia sẽ hành xử như thế nào trong vai trò là một siêu cường và liệu các hành động của họ và những người khác sẽ kết thúc trong chiến tranh hay không được quyết định bởi các mô hình chung của chính trị quốc tế chứ không chỉ bởi các nhân tố thuộc đặc tính riêng. Những câu hỏi lớn hơn về các điều kiện trong đó việc chuyển đổi quyền lực dẫn tới xung đột chính là cái mà các nhà lý luận về quan hệ quốc tế đang nghiên cứu.
Cuộc tranh luận về Trung Quốc chia các nhà lý luận về quan hệ quốc tế thành hai phe: tự do lạc quan và hiện thực bi quan. Những người lạc quan cho rằng vì trật tự thế giới hiện nay được quyết định bởi sự cởi mở về kinh tế và chính trị, nên nó phù hợp với sự nổi lên hòa bình của Trung Quốc. Theo đó, Mỹ và các nước lớn khác có thể và sẽ tỏ rõ rằng Trung Quốc được hoan nghênh gia nhập trật tự hiện nay và cùng thịnh vượng, và Trung Quốc nhiều khả năng cũng sẽ làm điều tương tự thay vì phát động một cuộc chiến nguy hiểm và tốn kém để lật đổ hệ thống này và xây dựng một trật tự mới đúng với ý mình hơn.

Ảnh minh họa: mekongnet.ru
Ngược lại, quan điểm hiện thực thông thường dự báo sẽ có cuộc cạnh tranh gay gắt. Hầu hết những người theo trường phái này đều cho rằng sức mạnh ngày càng lớn của Trung Quốc sẽ khiến nước này theo đuổi những lợi ích của mình một cách quyết đoán hơn, từ đó sẽ khiến Mỹ và các nước khác cân nhắc biện pháp nhằm tạo thế cân bằng. Cái vòng luẩn quẩn này sẽ ít nhất sẽ phát triển thành một cái tương tự như sự không cởi mở trong thời chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, và thậm chí có thể trở thành một cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ. Thái độ cứng rắn gần đây của Trung Quốc khi đòi chủ quyền trên biển Hoa Đông và biển Đông, và quan hệ xích lại gần nhau hơn giữa Mỹ và Ấn Độ là những dấu hiệu cho thấy cái vòng luẩn quẩn ấy và các biện pháp tạo đối trọng đã bắt đầu.
Tuy nhiên trên thực tế, có một cách nghĩ khác cũng hiện thực nhưng vẫn lạc quan. Sự nổi lên của Trung Quốc không nhất thiết dẫn tới cạnh tranh và nguy hiểm như các lập luận hiện thực thông thường, vì các lực lượng cấu trúc đẩy các cường quốc chính vào xung đột tương đối yếu. Hơn nữa, những nguy cơ không được báo trước trong các học thuyết về hệ thống quốc tế nói chung, mà xuất phát từ các cuộc tranh cãi quy mô nhỏ, đặc biệt ở Đông Bắc Á. Và bối cảnh an ninh trong hệ thống quốc tế rộng hơn sẽ khiến các cuộc tranh cãi này trở nên dễ giải quyết hơn với Mỹ và Trung Quốc. Bởi vậy cuối cùng, kết quả của sự nổi lên của Trung Quốc sẽ ít phụ thuộc vào các sức ép của hệ thống quốc tế, mà phụ thuộc vào việc các lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc xử lý tình hình như thế nào. Các cuộc xung đột không được quyết định từ trước, và nếu Mỹ có thể thay đổi cho phù hợp với các điều kiện quốc tế mới, đưa ra một số nhượng bộ dù không thoải mái, và không thổi phồng các nguy cơ, thì hoàn toàn có thể tránh được một cuộc xung đột lớn.
Thế "tiến thoái lưỡng nan" có lợi về an ninh
Chủ nghĩa hiện thực cấu trúc giải thích các hành động của quốc gia dưới dạng sức ép và cơ hội tạo ra bởi hệ thống quốc tế. Theo quan điểm này, không cần nhìn vào các nhân tố bên trong để giải thích các cuộc xung đột quốc tế vì các hành động hàng ngày của từng quốc gia độc lập, nhằm nỗ lực đảm bảo an ninh của mình trong một thế giới hỗn loạn, có thể dẫn tới chiến tranh. Tất nhiên điều này không phải lúc nào cũng xảy ra và tại sao các nước tìm cách đảm bảo an ninh cho mình lại tự dấn thân vào chiến tranh thực sự là một câu hỏi khó, vì họ hoàn toàn có thể chọn cách hợp tác và các lợi ích của hòa bình thay vì chiến tranh. Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở khái niệm thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh - một tình huống trong đó các nỗ lực của một quốc gia nhằm tăng cường an ninh cho mình sẽ làm giảm an ninh của các nước khác.
Một mặt, cường độ của thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh phụ thuộc vào mức độ dễ dàng tấn công và gây sức ép. Khi tấn công là điều dễ dàng thực hiện, thậm chí những gia tăng nhỏ về sức mạnh quân sự của một quốc gia cũng sẽ làm suy giảm đáng kể an ninh của các nước khác, càng gây thêm nỗi sợ hãi và dẫn tới tăng cường vũ trang. Ngược lại, khi việc phòng ngự và răn đe dễ dàng hơn thì các thay đổi về sức mạnh quân đội của một nước sẽ không hẳn là mối đe dọa với nước khác, và khả năng duy trì các quan hệ chính trị tốt giữa những người chơi trong hệ thống này sẽ được tăng cường.
Mặt khác, cường độ của thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh cũng phụ thuộc vào niềm tin của các nước vào các động cơ và mục đích của một nước. Ví dụ nếu một quốc gia tin rằng đối thủ của họ chỉ muốn đảm bảo an ninh - chứ không phải là ham vọng chế ngự cả hệ thống - thì khi đó họ sẽ thấy việc gia tăng sức mạnh quân sự của đối thủ không đáng lo lắng và không cảm thấy cần phải đáp trả, do đó tránh lao vào vòng luẩn quẩn leo thang quân sự và chính trị.
Khi thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh trở nên nghiêm trọng, chạy đua sẽ gia tăng và nhiều khả năng dẫn tới chiến tranh. Nhưng khi thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh dịu bớt, một người theo thuyết hiện thực cấu trúc sẽ thấy rằng hệ thống quốc tế tạo cơ hội cho kiềm chế và hòa bình. Hơn nữa nếu hiểu đúng, thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh cho thấy một quốc gia sẽ được an toàn hơn khi đối thủ của họ được đảm bảo an ninh hơn - vì tâm trạng bất an có thể buộc một đối thủ có các chính sách cạnh tranh và đe dọa. Động lực này khuyến khích kiềm chế và hợp tác. Nếu một đối thủ có thể thuyết phục được rằng tất cả những gì họ muốn là an ninh (chứ không phải bá chủ), thì đối thủ có thể được giải tỏa.
Tất cả những phân tích trên cho thấy điều gì trong sự nổi lên của Trung Quốc? Xét ở góc độ rộng nhất, đây là một tin tốt lành. Các điều kiện quốc tế hiện nay sẽ thúc đẩy cả Mỹ và Trung Quốc bảo vệ các lợi ích sống còn của mình mà không đặt ra mối đe dọa lớn cho nước kia. Vũ khí hạt nhân khiến các cường quốc có thể duy trì sức mạnh răn đe ở mức cao. Ngay cả khi sức mạnh của Trung Quốc vượt qua Mỹ, Mỹ vẫn hoàn toàn có thể duy trì sức mạnh hạt nhân để có thể chiến thắng mọi cuộc tấn công của Trung Quốc và đe dọa gây thiệt hại lớn trong một cuộc tấn công trả đũa. Trong khi đó, các cuộc tấn công thông thường quy mô lớn của Trung Quốc nhằm vào nước Mỹ thường là không thể vì Mỹ và Trung Quốc cách nhau cả một đại dương rộng lớn là Thái Bình Dương. Sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc sẽ không đủ vượt qua lợi thế kép trong phòng thủ của Mỹ. Và chính đây cũng là lợi thế của Trung Quốc. Dù hiện yếu hơn Mỹ về quân sự, nhưng Trung Quốc sẽ sớm xây dựng một sức mạnh hạt nhân đủ để răn đe. Và Trung Quốc sẽ không thấy các sức mạnh thông thường của Mỹ là mối đe dọa đặc biệt, vì phần lớn các lực lượng, hậu cần và hỗ trợ của Mỹ đều nằm bên kia bờ Thái Bình Dương.
Tác động toàn diện của các điều kiện này là sẽ làm trung hòa thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh. Cả Mỹ và Trung Quốc sẽ có thể duy trì mức độ an ninh cao hiện nay và dù Trung Quốc có khả năng nổi lên thành một siêu cường. Điều này sẽ giúp Washington và Bắc Kinh tránh những quan hệ địa chính trị căng thẳng, đồng thời giúp đảm bảo thế tiến thoái lưỡng nan này duy trì ở mức tiết chế, từ đó tạo điều kiện cho hợp tác.
Ví dụ, Mỹ sẽ lựa chọn cách không đáp trả việc Trung Quốc hiện đại hóa sức mạnh hạt nhân của mình. Sự kiềm chế này sẽ giúp trấn an Trung Quốc rằng Mỹ không muốn đe dọa đến an ninh của Trung Quốc, từ đó giúp cắt đứt một vòng xoáy chính trị có thể dẫn tới chạy đua hạt nhân.
Còn tiếp...

  • Quốc Thái dịch theo Foreign Affairs
Trung Quốc cư xử không xứng tầm với vị thế cường quốc —  (RFI).

-Quyền lực mềm Trung Quốc anhbasam


Diplomat
Quyền lực mềm Trung Quốc anhbasam

Ngày 25-3-2011

Diplomat phỏng vấn Joshua Kurlantzick, tác giả cuốn “Cuộc tấn công mềm mại:    Quyền lực mềm Trung Quốc đang chuyển hóa thế giới như thế nào, nói về ngoại giao quyền lực mềm của nước này.
Loại hình ảnh quốc gia nào Trung Quốc đã tìm kiếm để thu hút thế giới thông qua ngoại giao văn hóa so với các quốc gia Châu Á?
Tôi không chắc rằng Trung Quốc đang cố gắng khắc họa chân dung của mình khác với các quốc gia Châu Á khác nhưng tôi nghĩ rằng Trung Quốc đã sử dụng quyền lực mềm để nâng hình ảnh của mình nhằm so sánh với chính mình trong quá khứ trong những năm 1970,1980 và những năm đầu 1990 khi họ vừa không quan tâm đến các vấn đề trong khu vực hoặc đã khó khăn và định kiến để giải quyết. Tương tự, tôi nghĩ rằng Trung Quốc đã sử dụng quyền lực mềm và ngoại giao văn hóa nhằm cố gắng kiến tạo ý tưởng, ít nhất là tầm khu vực, nhằm minh chứng rằng TQ là hàng xóm tốt, chia sẻ các giá trị và di sản với các quốc gia láng giềng, điều mà nước Mỹ đối lập không làm.
Những hạn chế của giữa các kế hoạch sức mạnh mềm của Trung Quốc?
Tôi nghĩ rằng các hạn chế trong sức mềm của TQ là chúng đang vận hành đối ngược với các tham vọng quyền lực cứng của chính TQ. TQ đang sử dụng ngoại văn hóa để dành ảnh hưởng đối với Việt Nam hoặc  Philippines, nhưng nếu Bắc Kinh theo đó độc chiếm toàn bộ Biển Nam Trung Hoa, thì tất cả quyền lực mềm trên thế giới sẽ không hỗ trợ-hoặc khi sáng kiến quyền lực mềm vận hành chống lại các giới hạn của nó. Ví dụ, khả năng  truyền bá văn hóa và truyền thông của TQ bị hạn chế bởi những giam hãm tự do ngôn luận tại chính nước này.
Đầu tư “hào phóng” của TQ tại Phi Châu đang thay đổi phương thức mà các quốc gia khác cung cấp viện trợ cho lục địa này như thế nào?
Tôi nghĩ rằng mọi lúc chiến lược viện trợ hướng Phi Châu của TQ hay các quốc gia khác như Căm Bốt, đã thúc đẩy các nhà tài trợ khác hạ bớt tiêu chuẩn trong quản lý. Căm Bốt là ví dụ điển hình cho điều này. Thực tế  cho thấy, TQ cũng đã làm việc với các nhà tài trợ khác và cộng đồng quốc tế trên quy mô rộng lớn hơn.
Tính chính thống của quyền lực mềm TQ sẽ bị ngăn cản bởi các chính sách dành cho Sudan, Zimbabwe, Tây Tạng, Bắc Hàn và Đài Loan?
Tôi nghĩ tính chính thống của quyền lực mềm TQ bị ngăn cản nhiều  hơn bởi các thành công và thất bại trong nước về cả kinh tế và chính trị hơn là các mối quan hệ với các quốc gia khác. Vậy nên, các chính sách của họ đối với Tây Tạng có thế xem làm thật bại tại sân nhà, điều này sẽ nảy sinh các vấn đề.
Mô thức quan hệ nào mà TQ và Nhật Bản có thể xây dựng thông qua các cơ chế quyền lực mềm?
Rõ ràng rằng, mối quan hệ Trung-Nhật rất phức tạp và nhạy cảm với tất cả các loại căng thẳng bao gồm kinh tế, chính trị và lịch sử. Ngoại giao văn hóa, ngoại giao cá nhân, quyền lực mềm, tất cả những yếu tố này có thể giúp giải quyết quan hệ Trung-Nhật khi xảy những căng thẳng. Điều này nói lên rằng ngoại giao văn hóa trên thực tế đã nhiều lần đẩy căng thẳng lên cao trong quan hệ Trung-Nhật bởi vì cả hai bên rất nhất cảm về các vấn đề liên quan đến ngoại giao văn hóa bao gồm các vấn đề liên quan đến lịch sử.
Joshua Kurlantzick là  tác giả cuốn“Cuộc tấn công mềm mại:Quyền lực mềm Trung Quốc đang chuyển hóa thế giới như thế nào, nói về ngoại giao quyền lực mềm của nước này. Tác phẩm của ông được công bố trên các báo The New Republic, Time, The Atlantic và The New York Times. Cuộc phỏng vấn này được Sally Herd thực hiện


Người dịch: Nguyễn Quang Thạch

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011


--Trung Quốc - Joe Nye: China’s repression undoes its charm offensive (WP 25-3-11)-Nhật Bản bất bình với Trung Quốc (Kichbu).

Tổng số lượt xem trang