Thứ Tư, 20 tháng 4, 2011

"Mạng quan hệ quốc tế" thời toàn cầu hóa

 -"Mạng quan hệ quốc tế" thời toàn cầu hóa
Bài viết của Nguyên Đại sứ tại Mỹ Nguyễn Tâm Chiến[1], Cố vấn cao cấp Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao bàn về cách tiếp rất mới mẻ trong quan hệ quốc tế: Mô hình mạng. Trong quá trình phân tích, đánh giá, Đại sứ cũng lấy những dẫn chứng cụ thể: Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ… để mình họa cho những phân tích của mình. 
Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ đối ngoại trở thành xu hướng chính sách được nhiều nước theo đuổi. Hầu hết các nước đều cố gắng tìm cách cải thiện quan hệ quốc tế của mình nhằm tạo ra các điều kiện và vị thế quốc tế tốt nhất để tồn tại và phát triển. Có nhiều yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của xu hướng này. Trước hết, “Chiến tranh lạnh” giữa hai phe, hai siêu cường đã chấm dứt, trào lưu hòa bình, hợp tác phát triển trở thành xu thế chủ đạo. Thứ hai, quá trình toàn cầu hóa sâu rộng làm gia tăng hơn bao giờ hết không gian và lĩnh vực quan hệ đối ngoại của các nước, làm cho sự tùy thuộc nhau giữa các quốc gia về an ninh và phát triển tăng lên rõ rệt. Và sau cùng, nhưng không phải tất cả, là sự xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề toàn cầu đòi hỏi các nước phải tăng cường hợp tác cùng tham gia xử lý.
Tuy nhiên, tình hình thế giới luôn biến đổi khó lường. Do đó, mỗi quốc gia khi mở rộng các hoạt động quốc tế thời toàn cầu hóa càng phải nâng cao khả năng “chơi cờ tổng hợp”, phải linh hoạt tối đa, phải nhìn xa trông rộng, căn cứ vào vị trí và lợi ích của mình mà tìm ra các giải pháp tối ưu nhất về chính sách đối ngoại. Hay nói cách khác là phải xử lý tổng hòa  tốt nhất  các mối quan hệ quốc  tế  (QHQT)  trong một  thế giới ngày càng đa dạng, phức tạp và biến đổi nhanh chóng.

Toàn cầu hóa và các yếu tố “nền” của quan hệ quốc tế          

Các mối QHQT đều diễn ra  trong môi  trường quốc  tế “nền” được kiến  tạo bởi các  thành  tố chính sau: Thứ nhất  là các xu  thế khách quan của phát triển toàn cầu. Thứ hai là các chiều hướng chính trong quan hệ giữa các nước lớn và trung tâm, có tác động chi phối nhiều nhất đến cục diện chung. Thứ ba  là  trạng  thái vốn có của các mối quan hệ đối ngoại của nước đó.               


Mỗi thành tố biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống từ kinh tế,  chính  trị, quân  sự, văn hóa. Trong ba  thành  tố  trên  thì  thành  tố  thứ nhất và  thứ hai mang  tính chất  “nền” và khách quan  (riêng đối với  các nước nhỏ và vừa), còn thành tố thứ ba là kết quả của những nỗ lực tương tác  chủ  quan  của  các  quốc  gia, mang  tính  nhân  -  quả ở một  thời  điểm nhất định và đây chính  là yếu  tố góp phần  tạo  tiền đề cho sự phát  triển tiếp theo của các quan hệ đối ngoại. 

Về thành tố thứ nhất, có thể nói xu hướng bao trùm hiện nay là toàn cầu hóa, vì thực chất đây  là tiến trình phát triển khách quan của sức sản xuất  thế giới  - căn cứ quan trọng để xem xét QHQT. Không phải ngẫu nhiên người ta đang nói về “cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba” với sự phát  triển mạnh mẽ  lực  lượng  sản xuất  toàn cầu. Sự phát  triển vượt bậc của khoa học công nghệ  (KHCN) và việc hàng  loạt nước như Nga, Đông Âu gia nhập kinh  tế  thị  trường, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác  thực hiện chính  sách mở cửa… đã  làm  cho  toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập nhiều mặt của các nước vào đời sống quốc tế càng sâu rộng. Toàn cầu hóa như con tàu tốc hành mà bất cứ nước nào muốn phát triển  cũng  phải  cố  “lên  tàu”,  mặc  dù  không  ít  hiểm  nguy.  Hệ  thống QHQT và các hoạt động đối ngoại của bất cứ quốc gia nào cũng đều vận hành trong môi trường tốc hành chi phối đó.

Về thành tố thứ hai, các nước lớn và một số trung tâm sức mạnh tất nhiên do yếu tố “lớn” mà có lợi thế và chủ động hơn. Trong quá khứ, thế giới đã từng trải qua những giai đoạn một đế chế “mặt  trời không  lặn”, hoặc “hai cực”, hai phe đối đầu nhau, và cũng đã từng có cục diện “đa cực”. Trong gần hai thập niên “hậu Chiến tranh lạnh” và “hậu Liên Xô” vừa qua, Mỹ  là siêu cường  duy  nhất muốn  thiết  lập  thế  giới một  cực nhưng đã thất bại. Có thể khẳng định rằng trong thời gian nhìn thấy được, không có nước nào đủ sức mạnh áp đảo để làm việc đó. Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng cục diện thế giới đa cực đang hình thành ngày càng rõ nét hơn. Tuy nhiên, Mỹ vẫn  là cực  lớn nhất còn các nước  lớn và  trung  tâm khác, nhất là Trung Quốc đang trên đà phát triển nhanh thành các cực lớn khác. Căng thẳng và hòa dịu giữa các cực lớn luôn phức tạp và tác động mạnh tới các nước vừa và nhỏ.           

Thành tố thứ ba  là các mối QHQT mà các nước đã  thiết  lập được nhằm khai thác tối đa các nguồn  lực bên ngoài vì an ninh và phát  triển của mình. Đây là “sản phẩm cuối cùng”, là thước đo hiệu quả của chính sách đối ngoại. Từ trước đến nay, trong nghiên cứu quan hệ quốc  tế, người  ta  sử dụng nhiều cách tiếp cận. Về mô hình, đó là “đa cực” hay “hai cực”, hay “một siêu đa cường”, và theo đó dựng các tam giác, tứ giác chiến lược hay hình dung các “trục”. Về các yếu tố, đó là địa-chính trị hay địa-kinh tế. Về “cách chơi cờ” là theo chủ nghĩa đa phương hay đơn phương. Như đã đề cập, hiện nay đa số các nhà nghiên cứu nhận định cục diện “đa cực” đang là xu hướng phát triển thực tế của thế giới. Tuy vậy, có người đề xuất nên hình dung thế giới “đa dạng” thay vì nhìn nó “đa cực”[2], có người lại đề cao ảnh hưởng của các nước lớn và hình dung cục diện thế giới  là “hình bóng” của các nước  lớn che phủ...[3], hay người  ta dùng mô hình của “trục và vành” với “các nan hoa xe đạp” để phân  tích  sự  thay đổi các quan hệ  thương mại do việc  thiết  lập vô số các khu mậu dịch tự do đan xen nhau[4].

“Mô hình mạng” - Một cách tiếp cận mới   
Khi  thế  giới đã  trở nên  phức  tạp hơn,  trong xu  thế  toàn  cầu hóa, việc  tìm ra cách  tiếp cận QHQT cũng phải đổi mới. Để xây dựng chính sách đối ngoại, các chuyên gia thường  lấy đất nước mình  làm  tâm điểm và dựng mô hình các hình tròn đồng tâm để chỉ ra thứ tự các đối tác theo ưu  tiên và sự  liên đới về  lợi  ích. Người Niu Di-lân dùng bản đồ mà đất nước nhỏ bé của họ đặt ở  trung  tâm, còn các nước  lớn như Mỹ, Trung Quốc v.v… chỉ được hiện hình không  toàn phần ở các góc của bản đồ. Khi đánh giá chính sách đối ngoại, người ta chú trọng xem xét các yếu tố “địa-chính  trị”, “địa-kinh  tế” nhưng  thời nay,  theo  tác giả của “Thế giới phẳng”[5], thì sự phát  triển của các chuỗi giá  trị về sản xuất hàng hóa và dịch  vụ  toàn  cầu  có  vai  trò  còn  lớn  hơn  các  yếu  tố  địa-chính  trị  trong QHQT. Gần  đây  có  người  còn  hình  dung  thế  giới  kinh  tế  không  phải phẳng mà thậm chí “còn nghiêng hơn rất nhiều” do sự phát triển sâu của phân công lao động trải rộng trên toàn cầu[6]. Khi đề cập đến các nhân tố quyết định chiều hướng của QHQT thì đại đa số các học giả đề cao trước hết lợi ích dân tộc - quốc gia. Những lợi ích này là “thước đo phẳng” đối với tất cả các mối QHQT từ khi các nhà nước-dân tộc hình thành. Nhận thức từ lâu về “không có kẻ thù hay bạn vĩnh viễn, mà chỉ có lợi ích là vĩnh viễn” nay dường như lại được xem là “tư duy mới” về QHQT.

Thế giới thay đổi rất sâu rộng, Việt Nam cũng có vị thế là một nước có quan hệ đối ngoại rộng khắp và “bình thường nhất” chưa  từng có. Đây là thời cơ to lớn, là “các yếu tố nền” để Việt Nam phát triển đối ngoại vì hưng  thịnh của đất nước. Do đó, để kịp  thời  thay đổi mạnh mẽ hơn về tư duy và cách tiếp cận thế giới, Việt Nam cần trả lời các câu hỏi sau: “Trong khi đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam có nên chọn một số nước làm “đối tác chiến lược”?; “Những nước nào mới phù hợp cho lựa chọn đó?” và “Đâu  là những  lĩnh vực  cần ưu  tiên phát  triển để đạt hiệu quả nhất?”… 


Để trả lời những câu hỏi  trên,  theo  tác  giả,  nên  dùng  mô  hình “mạng” để xem xét hệ thống QHQT hiện nay cho cả ba trường hợp: Mạng của một nước, mạng của một khu vực hay mạng toàn cầu.    



Trong mô hình “mạng”, mỗi quốc gia được biểu thị bằng một “nút” mạng và các quan hệ đối ngoại của nước đó được biểu thị bằng những “dây chằng” to nhỏ khác nhau (về mặt hình học, mạng ở đây được hiểu là sự mô phỏng theo không gian ba chiều). Với mô hình mạng này, ta có thể hình dung sự phát triển các mối quan hệ quốc tế đa dạng, đa phương đến đâu và quan trọng là có thể xem xét độ cân bằng của mạng ở từng quốc gia, từng khu vực và thậm chí toàn cầu, từ đó có thể nêu các phương án chọn lựa mạng. Điều này là quan trọng cho  tiến  trình  xây  dựng  chính sách đối ngoại. Quá trình phát triển của QHQT là đi từ một trạng thái cân bằng này đến một  trạng  thái cân bằng khác. Khi xảy  ra chiến  tranh  lớn hoặc xung đột cục bộ, mạng có thể sẽ bị vỡ, nhưng rồi lại có sự cân bằng mới, và vị trí của các mắt mạng thay đổi tương ứng theo sắp xếp mới. Đối với một nước trong điều kiện ổn định, hòa bình, việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại thực chất là tìm ra các đối tác và lĩnh vực ưu tiên để mở rộng quan hệ nhằm củng cố sự cân bằng của mạng QHQT của nước đó vì an ninh và phát triển.  

Theo cách  tiếp cận  trên,  ta có  thể hình dung mạng các QHQT của Việt Nam hiện nay như sau (với số lượng nước, tổ chức đặc trưng):



Theo mô hình mạng trên ta có các dây chằng song phương trực tiếp giữa Việt Nam và các nước  (ví dụ Việt Nam  - Trung Quốc) và các dây chằng  gián  tiếp  chỉ  các  quan  hệ  giữa  các  nước  thứ  ba  với  nhau  (ví  dụ Trung Quốc - Mỹ). 

Độ cân bằng của mạng là hệ quả tổng hợp của sức kéo - đẩy (hay là sức chằng) trực tiếp và gián tiếp liên hệ với nhau theo phương trình:
Độ cân bằng của mạng = F (sức kéo-đẩy trực tiếp, sức kéo-đẩy gián tiếp).
Sức kéo-đẩy  trực  tiếp được  tạo  ra  do những quan hệ  (dây chằng lợi ích) song phương trực tiếp giữa một quốc gia với bên ngoài.  Các mối quan hệ giữa các nước thứ ba tác động gián tiếp mạnh hay yếu đến độ cân bằng mạng của nước ta không những tùy thuộc vào sức kéo-đẩy song phương mà còn  tùy  thuộc vào  sức kéo-đẩy giữa họ với nhau. Để đạt được độ cân bằng tối đa, có nhiều kịch bản và phương án theo điều kiện cụ thể của từng nước và phụ thuộc vào các yếu tố nền của QHQT. Trong môi trường chung của các xu hướng phát  triển khách quan, một nước có quan hệ với nhiều nước lớn và lấy đó làm “mạng khung” quan trọng nhất, nhưng cũng có nước dựa vào “mạng khu vực”  là chính  để tạo dựng cân bằng khi các nước lớn không có ảnh hưởng đáng kể ở khu vực đó. Các nước  lớn  thì  thường chú  trọng đến “mạng nước  lớn”, còn các nước vừa và nhỏ dù có ý chí và nội lực dân tộc cao  đến đâu cũng phải tính đến sức kéo-đẩy của các nước  lớn. Và  trong các  trường hợp đó, thay vì dùng khái niệm “độ cân bằng”,  ta nên dùng khái niệm “độ thăng bằng” để phản ánh vị  thế “bị  tác động” nhiều hơn của các nước vừa và nhỏ. Cũng vì thế, hợp lý nhất là không nên dùng lẫn lộn giữa các mô hình “tam, tứ giác chiến lược”  với  các  “nút mạng”  -  gồm  cả  các nước lớn và các nước vừa và nhỏ - mà mô hình “mạng” là một công cụ hữu hiệu giúp tránh được điều này.

Sức kéo - đẩy  trên đây được tạo ra thông qua các quan hệ cụ thể trong nhiều lĩnh vực của QHQT. Theo đó, những dây chằng biểu thị các quan hệ về an ninh - quân sự có thể là quan trọng nhất, sau đó là quan hệ kinh tế. Sức chằng của hai loại quan hệ này là lớn hơn so với các quan hệ chính trị, văn hóa hay các lĩnh vực quan hệ khác. Trong bốn nhóm quan hệ này, quan hệ quân sự là không phổ biến, tùy theo nước nghiên cứu có hay không các quan hệ an ninh tay đôi hay tham gia các liên minh quân sự. Trong khi đó quan hệ kinh tế hầu như là phổ biến, là cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp  tác  trong các  lĩnh vực  khác  thậm  chí  có nhiều  trường hợp “dây chằng” kinh  tế không bị đứt dù có xung đột vũ  trang. Vì vậy, khi nói đến độ cân bằng của mạng thì trước hết cần xem xét các quan hệ về quân sự và kinh tế của nước đó với bên ngoài. Đây là những lợi ích chiến lược của một quốc gia, có sức giằng kéo mạnh nhất, còn quan hệ chính trị thực ra rất dễ  thay đổi,  thậm chí  là đứt đoạn chỉ vì một  lý do hay sự cố nào đó, và giao  lưu về  văn hóa  (với nghĩa hẹp  của  từ này) nhìn chung mang ý nghĩa bổ trợ cho QHQT. 

Hiện nay các học giả và chính trị gia bàn nhiều đến khái niệm “sức mạnh mềm” trong bối cảnh Mỹ suy giảm về vị thế và ảnh hưởng quốc tế.Theo đó, “mạng” được hình dung bằng các dây chằng “cứng” là các quan hệ quân sự, an ninh, kinh tế và các dây chằng “mềm” là các thành tố văn hoá - truyền thống dân tộc và sức “hấp dẫn” của quốc gia. Vai trò của các dây quan hệ “cứng” hay “mềm” cũng tùy điều kiện và trường hợp cụ thể. Thời kỳ “Chiến tranh lạnh”, do sự đồng nhất về chính trị và hệ tư tưởng mà  các  dây  chằng  này  có  tác  động mạnh  đến QHQT. Tuy nhiên,  thực chất các cuộc chiến tranh, khủng hoảng “mạng” xuất phát từ lợi ích, tham vọng  dân  tộc  hoặc  ý  chí  của  giới  cầm  quyền  là chính. Do  vậy,  yếu  tố đồng  nhất  trên  đã không ngăn  ngừa  được  xung  đột  vũ  trang  giữa  các nước. Từ cuối những năm 80 của  thế kỷ 20, khi  toàn cầu hóa bước vào giai đoạn phát triển mạnh, có ý kiến cho rằng sự tuỳ thuộc về kinh tế tăng lên sẽ hạn chế khả năng xung đột quân sự giữa các quốc gia. Song ý kiến này cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối vì như đã đề cập, có nhiều trường hợp chiến tranh nổ ra là do yếu tố “ý chí chính trị” là chính.

Độ cân bằng và sự ổn định
Vấn đề tiếp theo là độ cân bằng của mạng QHQT và độ ổn định về môi trường quốc tế không phải là một, mà cái sau tùy thuộc ở cái trước. Ở một thời điểm xác định, độ ổn định còn tùy thuộc vào việc xử lý nguy cơ khủng hoảng. Mối liên hệ qua lại này có thể được biểu thị bằng công thức:
                                                      Độ cân bằng của mạng

Độ ổn định của môi trường = ---------------------------------------                
                                                      Nguy cơ khủng hoảng
Theo công thức này, độ ổn định của môi trường quốc tế tỷ lệ thuận với độ cân bằng của mạng QHQT và tỉ lệ nghịch với các nguy cơ khủng hoảng. Đến lượt nó, nguy cơ khủng hoảng tùy thuộc nhiều vào xu hướng phát triển của tình hình, bối cảnh (thành tố thứ nhất và thứ hai trên đây). Muốn có độ cân bằng tốt cần nỗ lực tăng cường bốn lĩnh vực: a) Không ngừng phát triển bản thân nhằm tăng sức mạnh - hay là gia tăng sức kéo của nút mạng; b) Nỗ lực phát triển các quan hệ quốc tế đa phương và đa dạng để tạo sức chằng tổng thể ngày càng lớn với độ cân bằng  cao; c) Xây dựng mô hình cân bằng mạng phù hợp vị trí của quốc gia mình, và phấn đấu thông qua các hoạt động đối ngoại, luôn đi đúng xu thế chung, đạt được tới mức có thể với mô phỏng lý thuyết đó; và cuối cùng là d) Xây dựng các kịch bản khủng hoảng, các phương án phòng ngừa và ứng xử tương ứng. Thế cân bằng tốt là giữ được cho “nút mạng” không bị dao động quá một biên độ nguy hiểm, trong cả những trường hợp mạng bị vỡ lớn hoặc vỡ cục bộ. Các cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, 2008-2009 đều cho thấy mức tác động rõ rệt đến độ cân bằng mạng của từng nước. Năng lực tránh được các khủng hoảng là sự thể hiện mức độ cân bằng cao và tầm ứng xử chiến lược đối ngoại của một nước. Trong trường hợp các nước lớn, do có sức kéo - đẩy lớn hơn các nước vừa và nhỏ nên họ chủ động và có ưu  thế hơn  trong việc kiến  tạo mạng có độ cân bằng. Mặt khác, khi các “nút”  lớn bị chao đảo  thì cả mạng QHQT khu vực và toàn cầu cũng bị xáo động theo. Trước sự suy yếu của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, những chiến  lược gia đối ngoại của Mỹ  như  Kissinger, Brezinski  -  là  những  người  theo  thuyết  cân  bằng quyền lực giữa các nước lớn với Mỹ là trung tâm - và các chuyên gia của chính quyền Obama đã đưa ra các khuyến nghị “chơi cờ nước lớn” ra sao để mong tiếp tục duy trì được vị trí lãnh đạo của Mỹ[7]. Những điều chỉnh chính  sách của các nước  lớn như Mỹ, Trung Quốc và một  số nước  lớn khác - một thành tố nền trên đây - sẽ tác động lớn và phức tạp đến độ cân bằng và tính ổn định của mạng QHQT.

Mô hình mạng qua thực tế
Việc  áp  dụng mô  hình mạng  trên  đây  để  nghiên  cứu QHQT  đặc biệt là đánh giá mức độ cân bằng của chúng không đơn giản. Khó nhất là có  nhiều  yếu  tố  tính  toán  rất  khó  lượng  hóa  hoặc  chưa  thể  lượng  hóa được ở thời điểm hiện tại. Bước đầu để minh họa cách tiếp cận mạng, ta có thể xem xét một vài thực tiễn sau đây. Đối  với Việt Nam,  nhìn vào mạng  quan  hệ  thương mại  của Việt Nam hiện nay,  ta thấy “nút mạng” đã được “chằng” với bên ngoài bằng các dây mạng đa phương nhiều chiều, và nhờ đó mạng đã có độ cân bằng tương đối khá tốt. Độ cân bằng được định lượng bằng tỉ lệ xuất siêu (+) và nhập siêu (-) của tổng kim ngạch và trong quan hệ buôn bán với từng đối tác. Tuy còn trong tình trạng nhập siêu nói chung (bị sức đẩy lớn hơn sức kéo), và tổng kim ngạch còn khiêm tốn (dây chằng còn nhỏ), nhưng trạng thái đa dạng, đa phương của mạng quan hệ thương mại  hiện  có (phân bố tương đối đều với các đối tác chính như với Mỹ 15 tỷ USD, với Nhật 7 tỷ USD, với EU 8 tỷ USD, với ASEAN hơn 10  tỷ USD…)[8] đã góp phần quan trọng vào thiết lập môi trường quốc tế thuận lợi, bước đầu tạo ra những dư địa cho sự linh hoạt về kinh tế đối ngoại, tăng khả năng ứng phó khi có khủng hoảng mạng[9]. Tình thế hiện có khác xa thời “nhất biên đảo”, hay những năm bị bao vây cấm vận trước đây. Sức chằng nhờ các dây mạng quan hệ kinh  tế chính  là yếu  tố hàng đầu để gia  tăng  tính tùy thuộc nhau về  lợi  ích[10]. Sức chằng nhờ các dây quan hệ kinh  tế giữa Việt Nam và các nước là yếu tố quan trọng để Việt Nam và các quốc gia liên quan phải tính toán hơn khi  lựa chọn phương án ứng xử trong quan hệ với nhau.
“Mạng” của Nhật Bản là một trường hợp khác. Từ sau “Chiến tranh lạnh”, trước những thay đổi lớn trên thế giới, Nhật Bản đã nỗ lực đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế của mình. Mạng QHQT của Nhật Bản đã mở rộng đáng kể mặc dù Nhật chưa  có  điều  kiện  để  tiến hành chính sách đối ngoại độc lập và chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa như một số nước khác do sự ràng buộc về Hiến pháp và Hiệp ước an ninh với Mỹ. Trong mạng quan hệ đã thiết lập, “nút mạng - nước Nhật” có các dây chằng quan hệ phát  triển với các nước và  trung  tâm chủ yếu như: Mỹ, Trung Quốc, Tây Âu, ASEAN, Nga, Ô-xtrây-li-a  trong đó có quan hệ toàn diện với Mỹ và Tây Âu (riêng quân sự với Tây Âu thì hạn chế). Còn với “mắt mạng” là Trung Quốc chẳng hạn, thì quan hệ kinh tế - thương mại  giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã phát  triển,  thậm  chí kim ngạch thương mại Nhật - Trung hiện đã vượt kim ngạch Nhật - Mỹ, và độ tùy thuộc đã đạt đến mức “nếu Trung Quốc không mua bất cứ sản phẩm nào của Nhật chỉ trong một ngày thì 1.000 xí nghiệp của Nhật sẽ phá sản. Nếu việc đó kéo dài  trong 6  tháng  thì 50% số người  làm công ăn  lương của Nhật  sẽ  thất  nghiệp,  và  nếu  kéo  dài  tình  trạng Trung Quốc  không mua hàng Nhật một năm thì nền kinh tế Nhật sẽ bị giết chết!”[11]. Về quân sự, Nhật chỉ có quan hệ liên minh với Mỹ mà không có quan hệ gì đáng kể với Trung Quốc. Quan hệ chính  trị Nhật  - Trung nói chung chưa ổn  định,  đang  trong  quá  trình  xây  dựng  lòng  tin  và  khuôn  khổ  thích  hợp, giao lưu văn hóa chưa nhiều. Về sức mạnh quốc gia, tuy Nhật Bản là một cường quốc về kinh tế nhưng sức mạnh mềm chỉ ở mức trung bình. Các mối quan hệ gián tiếp như Mỹ - Trung, Mỹ - Hàn, Trung - Hàn có giá trị đáng kể đối với cân bằng mạng QHQT của Nhật Bản  tại Đông Á. Nhìn tổng thể, độ cân bằng đó còn rất nhạy cảm với các thay đổi trong quan hệ giữa các nước lớn, nhất là trong quan hệ Mỹ - Trung. Mới đây nhất là sự căng  thẳng đầu năm 2010 giữa Mỹ và Trung Quốc và giữa Trung Quốc với Nhật Bản đã buộc Nhật phải điều chỉnh chính sách theo hướng củng cố hơn nữa quan hệ với Mỹ theo Hiệp ước đồng minh, mặc dù trước đó Nhật đã có nhiều nỗ lực nồng ấm với Trung Quốc. Hay ngay trong ngày Trung  Quốc  ký  Hiệp  định  Thương  mại  tự  do  với  Đài Loan (ngày 29/3/2010), Nhật đã phải  triệu tập nội các để đánh giá và bàn biện pháp ứng  xử  kịp  thời. Như  vậy  là, khi  đứng  trước  nguy  cơ,  các  yếu  tố  như quan  hệ  toàn  diện  về  quân  sự  và  kinh  tế  với Mỹ  và  quan  hệ  kinh  tế  - thương mại  với  Trung Quốc  là  có  ý  nghĩa  nhất  để Nhật  tính  toán  các phương án về đối ngoại. Do độ cân bằng còn rất nhạy cảm nên có thể cho rằng Nhật  tiếp  tục có nhu cầu cao về phát  triển mạng QHQT của mình theo hướng đa phương hóa  trong những năm  tới để gia  tăng độ ổn định của mạng.
Trong ASEAN có trường hợp Ma-lai-xi-a khá điển hình. Dưới thời Thủ tướng Mahathir, nước này tiến hành chính sách đối ngoại độc  lập. Về quân sự, Ma-lai-xi-a mua  vũ  khí  cả  của Mỹ, Liên Xô  (và Nga  sau này). Về kinh tế, ngoài quan hệ với Mỹ và phương Tây thì Ma-lai-xi-a rất coi trọng mối quan hệ với thế giới Hồi giáo (có thể cũng nhờ đó mà Ma-lai-xi-a đã huy động được những nguồn vốn quan  trọng giúp nước này vượt qua cuộc khủng hoảng năm 1997 dễ dàng hơn các nước ASEAN khác). Tuy nhiên, chính sách phát triển kinh tế dựa quá nhiều vào “thay thế nhập khẩu” lại là một thất bại đối với nước này. Dù sao, nhìn tổng thể thì Ma-lai-xi-a đã  có được một mạng quan hệ quốc  tế đạt  sự  cân bằng tương đối tốt nhờ nỗ lực phát triển nội lực và xây dựng một mạng quan hệ quốc tế đa dạng, qua đó củng cố sự độc lập về đối ngoại.

Thay lời kết
Bài viết này mới chỉ là những suy nghĩ ban đầu về cách tiếp  cận quan hệ quốc tế bằng mô hình mạng trong điều kiện bình thường của môi trường quốc tế, trên cơ sở xem xét đến đại đa số các nước đã tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Theo đó, như đã nói ở trên, “sức chằng” của các “dây mạng” về quân sự và kinh tế là mạnh hơn so với các quan hệ khác. Đối với những nước đang đứng ngoài quá trình của toàn cầu hóa hoặc đang ở trạng thái “bất thường” như bị bao vây cấm vận toàn bộ hay từng phần thì cách tiếp cận cần linh hoạt hơn. Quan niệm theo mô hình mạng đưa QHQT gần lại với  trực quan cũng chỉ là một cách tiếp cận trong nhiều cách tiếp cận QHQT. Đối tượng nghiên cứu của nó là hệ thống QHQT nên định lượng các yếu tố theo các công thức trong bài viết chỉ là một thử nghiệm, cần nhiều công sức nghiên cứu hơn. Trong thế giới toàn cầu hóa, sự phát triển QHQT đa phương, đa dạng  làm cho độ phức  tạp của mạng quan hệ xã hội đặc  thù này ngày càng cao. Nỗ lực gia tăng mức độ hay là thế cân bằng của quốc gia  trong  thế  giới  đương  đại  có  những mặt  thuận  nhất  định  song  nhìn chung khó khăn hơn nhiều vì nó thực sự giống như chơi cờ tổng hợp. Dù sao cách  tiếp cận mạng có  thể giúp các nhà nghiên cứu có một phương thức hình dung mạng đối ngoại tối ưu có thể cho quốc gia, xác định được tầm quan  trọng của  từng mối QHQT  trong  tổng mạng, góp phần chỉ  ra được các đối tác và quan hệ ưu tiên để thúc đẩy chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa có hiệu quả nhất. Các quốc gia không thể chọn “đối tác chiến lược” hay “làm bạn” với bất cứ ai một cách thiếu cơ sở dù việc xác định đối tác, bạn bè… nói cho cùng cũng chỉ là phương tiện cho việc đạt mục tiêu đối ngoại../.


Nguyên Đại sứ Nguyễn Tâm Chiến
Văn Cường (gt)



[1] Đại sứ, Cố vấn cao cấp, Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao. Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Vũ Tùng và TS. Phạm Quốc Trụ đã đóng góp ý kiến để hoàn thiện bài viết này.
[2]  Hồ Vũ, “Thử bàn về cục diện quốc tế hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc  tế,  số 2 (73), tháng 6/2008.
[3] Cuộc gặp gỡ của các nhà nghiên cứu Việt Nam với GS. TS., cựu Đại diện Thương mại Mỹ S. Schwab  (xem www.vietnamnet.vn ngày 30/11/2009) và GS. TS. J. Nye,  tác giả “Sức mạnh mềm” (xem www.tuanvietnam.net ngày 13/1/2010).
[4]  Xem Phạm Quốc Trụ, “APEC và ý tưởng thành lập Khu vực Mậu dịch tự do châu Á - Thái Bình Dương”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 2 (81), tháng 6/2010, trang 27 - 28.
[5]  Thomas Friedman, Thế giới phẳng, Nxb. FSG, New York, 2005.
[6]  Edward Steinfeld, Chấp nhận cuộc chơi của chúng ta, MIT, 2009.
[7] Xem phát biểu nhậm chức của Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton ngày 22/1/2009; Các phát biểu của Kissinger, Brezinski nhân dịp kỷ niệm 30 năm quan hệ Mỹ - Trung (2009) v.v…
[8] Số liệu năm 2009 làm tròn theo các nguồn của Tổng Cục Thống kê Việt Nam.
[9] Có tính toán cho rằng nếu nhập khẩu một mặt hàng nào đó từ trên 8% tổng nhu cầu là bắt đầu có  sự phụ  thuộc với bên ngoài. Tỷ  trọng  thị  trường Mỹ  trong tổng kim ngạch của Việt Nam năm 2009 là khoảng 10% và thị trường Trung Quốc là 13%.
[10] Có tính toán cho rằng nếu nhập khẩu một mặt hàng nào đó từ trên 8% tổng nhu cầu là có thể bắt đầu có sự phụ thuộc về mặt hàng đó từ bên ngoài. 
[11]  “Về sự tùy thuộc Nhật - Trung”, VOA, ngày 19/4/2002.

Tổng số lượt xem trang